You are on page 1of 17

Bài chuyên đề viết cho Đề tài cấp nhà nước KX.02.

10
“Các vấn đề xã hội của quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam :
Một xã hội học về biến đổi xã hội và văn hóa”
(chủ nhiệm : PGS-TS Bùi Thế Cường)

Bài chuyên đề

Quá trình hình thành


xã hội Sài Gòn trong lịch sử

Trần Hữu Quang

Thành phố Hồ Chí Minh


Tháng 4-2004
Mục lục

Trang
Mục lục .......................................................................................................... 1
Những đặc điểm chung của xã hội Sài Gòn .................................................... 2
Dân số và dân cư ............................................................................................ 5
Cơ cấu xã hội ................................................................................................. 6
Các định chế xã hội ........................................................................................ 8
Con người và tính cách................................................................................. 11
Những thay đổi về văn hóa và hệ thống giá trị.............................................. 12
Các tư tưởng dân chủ, bình đẳng .............................................................. 12
Đầu óc kinh doanh, làm ăn ....................................................................... 13
Những tư tưởng cách tân xã hội................................................................ 14
Tài liệu tham khảo........................................................................................ 15

1
Quá trình hình thành
xã hội Sài Gòn trong lịch sử

Trần Hữu Quang

Nhằm mục tiêu góp phần soi sáng thêm những đặc trưng của xã hội Sài
Gòn-TP Hồ Chí Minh hiện nay đang ở trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện
đại hóa, bài viết này thử trở lại với quá trình hình thành của xã hội Sài Gòn trong
lịch sử, với hy vọng qua đó có thể nhận diện ra những mầm mống tiền đề cũng
như những cơ sở kinh tế-xã hội và xã hội-lịch sử dẫn đến những đặc trưng và sắc
thái của Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh đương đại. Do hạn chế về điều kiện, bài viết
sẽ chỉ giới hạn vào những dữ liệu trong thời kỳ Pháp thuộc, và hy vọng sau này
sẽ có những công trình khác bổ khuyết cho giai đoạn sau thời kỳ Pháp thuộc.
Trong bài này, chúng tôi sẽ lần lượt đề cập tới những nội dung sau đây :
những đặc điểm chung, dân số và dân cư, những thay đổi trong cơ cấu xã hội,
trong các định chế xã hội, con người và tính cách, và những thay đổi về văn hóa
và hệ thống giá trị trong xã hội Sài Gòn.

Những đặc điểm chung của xã hội Sài Gòn


Nói đến lịch sử hình thành và phát triển của xã hội Sài Gòn, không thể
không nói đến ba đặc điểm quan trọng sau đây : thành thị, trung tâm và thương
mại (nghĩa là đã sớm phát triển kinh tế thị trường).
Dĩ nhiên, lúc khởi thủy, khi người Việt bắt đầu di dân vào vùng đất này để
khẩn hoang lập ấp từ khoảng thế kỷ XVI, Sài Gòn chưa phải là một thành phố,
mà mới chỉ là một tập hợp của một số làng xã nằm tương đối gần nhau, mà cho
đến nay người ta có thể tìm lại một số di tích qua một vài ngôi đình còn sót lại
nằm rải rác ở quận 1, quận 5 và một số quận huyện khác. Năm 1623, do quá trình
tích tụ dân cư và làm ăn buôn bán, lần đầu tiên ra đời một “đồn thu thuế”, và đến
năm 1679 thì lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh-Nguyễn Trãi ở
quận 1 ngày nay).
Sau khi Nguyễn Hữu Cảnh chính thức thiết lập vùng đất này là một đơn vị
hành chính vào năm 1698, Sài Gòn nhanh chóng phát triển theo hướng thành thị
hóa (theo nghĩa là có cả thành lẫn thị), nhất là kể từ khi hoạt động ngoại thương
của cảng Hội An, cảng quan trọng bậc nhất của Đàng Trong thời bấy giờ, suy
thoái nhanh chóng vào giữa thế kỷ XVIII do những cồn cát bắt đầu nổi lên ở cửa

2
sông Thu Bồn.1 Kể từ đó trở đi, Sài Gòn dần dần chiếm lĩnh vai trò đầu mối
ngoại thương của cả miền Nam. Lũy Bán Bích được xây dựng vào năm 1772, và
Sài Gòn được nâng lên hàng kinh đô khi xây dựng thành Bát Quái (thành Quy)
và thiết lập Gia Định kinh vào năm 1790.2 “Sài Gòn đã là một trung tâm chính
trị, một địa điểm chiến lược có thành lũy tự vệ. Song từ khi lúa gạo thành hàng
hóa thì Sài Gòn có thêm nhiều chợ (thị để buôn bán), nhiều phố để giao dịch
chứa hàng, nhiều bến cảng để thuyền bè xuất nhập. Do đấy Sài Gòn đã trở nên
thành phố hay thành thị rất sớm…”3 Tuy chỉ là kinh đô của Đàng Trong vỏn vẹn
trong vòng 10 năm (từ 1790 đến 1801 thì kinh đô dời về Huế), nhưng kể từ đó trở
đi, Sài Gòn luôn luôn là một thủ phủ kinh tế và có vai trò chính trị chiến lược
trọng yếu trong cả miền Nam trong suốt lịch sử của mình.
Diện mạo Sài Gòn vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đã mang dáng
dấp phố xá, như lời mô tả sau đây :
“Ngói liền liền đuôi lân,
Phố thương khách tòa ngang tòa dọc.
Hiên sè cánh én,
Nhà quan dân hàng vắn hàng dài.”4
Lúa gạo lúc ấy đã trở thành hàng hóa. Nhiều chợ và bến cảng đã ra đời ở
Sài Gòn để giao dịch buôn bán và có chỗ cho thuyền bè chở hàng ra vào. “Biến
cố gạo trở thành hàng hóa ở Gia Định đã có hậu quả quan trọng, nếu không nói
là hậu quả quyết định là làm cho địa phương Sài Gòn trở nên thành phố, với đầy
đủ ý nghĩa của nó.”5 Trịnh Hoài Đức viết trong Gia Định thành thông chí như
sau : “Gia Định là chỗ đô hội thương thuyền của các nước, cho nên trăm món
hàng hóa phải tụ hội ở đây.”6 Các yếu tố “thành” (có thành lũy để bảo vệ) và
“thị” lúc này đã được hội tụ đầy đủ và rõ nét để tạo nên hình hài của một thành
thị Việt Nam thời xưa. Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, tức là khá lâu
trước khi Pháp vào chiếm Nam kỳ, Sài Gòn đã trở thành nơi “đô hội” lớn nhất
của nước ta.7
Đặc điểm thứ hai cũng hết sức quan trọng mà người ta không bao giờ
được quên, đó là tính chất trung tâm của Sài Gòn. Tính chất này không phải chỉ
do vị trí chiến lược về mặt địa lý và giao thông đường thủy cũng như đường bộ,
mà chủ yếu còn do tiến trình lịch sử chính trị-xã hội và đặc biệt là quá trình phát
triển kinh tế của cả vùng nói chung. Sài Gòn luôn luôn đóng vai trò là một thủ

1
Li Tana, Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, TPHCM, Nxb Trẻ,
1999, trang 217.
2
Xem Nguyễn Đình Đầu, “Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh”, trong Địa chí văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh (tập I, Lịch sử), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, trang 185.
3
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 158.
4
Câu trích trong bài “Cổ Gia Định phong cảnh vịnh” do Trương Vĩnh Ký chép ra chữ quốc ngữ
năm 1882. In lại trong cuốn Gia Định phong cảnh vịnh, Trương Vĩnh Ký ghi chép, Nguyễn
Đình Đầu giới thiệu, TPHCM, Nxb Trẻ, 1997, trang 18.
5
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 161.
6
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 187.
7
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 194.

3
phủ, và “ai chiếm được Sài Gòn thì làm chủ hết miền Nam.”8 Không thể hình
dung quá trình phát triển kinh tế của Sài Gòn tách rời khỏi quá trình phát triển
của Nam bộ và sau này kể cả của miền Trung và Tây nguyên. Do đó, quá trình
đô thị hóa của Sài Gòn cũng phải được xem xét và nhận thức trong bối cảnh lịch
sử chính trị-xã hội từ thời Đàng Trong cho tới thời Pháp thuộc và thời chiến tranh
chống Mỹ của cả miền Nam.
Có hiểu như vậy, chúng ta mới có thể thấy lịch sử hình thành và vận động
của xã hội Sài Gòn là cả một tổng hợp phức tạp, được cấu thành bởi các quá trình
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thành phố này là trung tâm không phải chỉ do
địa thế, cũng chẳng phải do tự người dân hay kể cả chính quyền ở đây muốn mà
xác lập được, nhưng là do kết quả tụ hội từ lịch sử phát triển của cả vùng Nam bộ
nói riêng lẫn cả miền Nam cũng như cả nước nói chung hun đúc nên trong vòng
mấy thế kỷ.
Đặc trưng của dân cư Sài Gòn là chủ yếu bao gồm “dân tứ xứ” đến đây
làm ăn, sinh sống. Hàng hóa buôn bán giao dịch ở đây cũng chủ yếu là sản phẩm
từ các nơi khác đến. Hình ảnh đầu tiên mà người ta thường nghĩ tới khi nói về Sài
Gòn chính là chợ búa, là hoạt động buôn bán. Vì thế, chẳng phải ngẫu nhiên mà
đã từng có thời gian dài hình ảnh chợ Bến Thành, hay “chợ Sài Gòn” như người
dân thường gọi, được mọi người nghiễm nhiên coi là biểu tượng của thành phố
này – mặc dù chợ “Bến Thành” thực ra lúc đầu nằm ở vị trí trên đường Nguyễn
Huệ ngày nay, sau do bị cháy nên mới được dời đến địa điểm bây giờ.
Đặc trưng nổi bật của Sài Gòn mà hầu như ai lần đầu tiên đến đây cũng
nhận xét, đó chính là tính chất sầm uất, huyên náo và tất bật của phố thị, của nhịp
sống làm ăn, buôn bán. Đây không chỉ là nơi buôn bán giao dịch với các địa
phương và các vùng khác trong cả nước, mà còn là đầu mối giao thương quốc tế.
Sài Gòn đã từng bắt đầu xuất cảng lúa gạo từ rất sớm trước khi Pháp chiếm Nam
kỳ lục tỉnh. Khi nghiên cứu về lịch sử quan hệ thương mại giữa Singapore và Sài
Gòn, Li Tana viết : “Trái ngược với quan niệm phổ biến cho rằng vào thế kỷ
XIX, Việt Nam là một quốc gia cô lập..., chúng tôi cho rằng nửa đầu thế kỷ XIX
chứng kiến một sự phát triển nhanh chóng của những nhà ngoại thương Việt
Nam, những hải cảng Đông Nam Á mà họ thường xuyên qua lại và những hàng
hóa họ phát triển trong thế kỷ này.”9
Khoảng cuối thế kỷ XVIII, mặc dù cảnh quan phố thị Sài Gòn vẫn còn là :
“Trước phường phố bày hàng bày hóa,
Sau nhà quê trồng bắp trồng khoai,”10
nhưng tàu bè từ các tỉnh và các nước đã đổ về đây với hàng hóa tràn ngập :
“Người phương đông qua lại bán buôn,
Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa chất ngất trời.”11

8
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 154.
9
Tana Li (Đại học Wollongong, Singapore), “Ngoại thương Việt Nam thế kỷ 19 : mối quan hệ
với Singapore”, trong tập tóm tắt báo cáo khoa học Hội thảo quốc tế về Việt Nam học (Hà Nội,
từ ngày 15 tới 17-7-1998), trang 102.
10
“Cổ Gia Định phong cảnh vịnh”, trong Gia Định phong cảnh vịnh, sách đã dẫn, trang 25.
11
Như trên, trang 26.

4
Khoảng 100 năm sau, sau khi Pháp chiếm Nam kỳ, cảnh sầm uất của bến
cảng, đường sá và tiếng huyên náo của phố phường và máy móc càng gia tăng,
như được mô tả trong đoạn văn sau đây (ghi lại vào năm 1882) :
“Dưới sông tàu lửa đậu liền,
Từ đồn Giao Khẩu sấp lên Bà Nghè.
Thông lưu các nước bộn bề,
Có tàu Đông Việt, có ghe Bắc kỳ.
Bán buôn vật nọ hàng kia,
Lao xao thương khách xiết gì là đông.
Chiếc qua chiếc lại đầy sông,
Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu. ”12
Khác với nhiều thành phố khác, điển hình như Huế chẳng hạn vốn là một
kinh thành chủ yếu mang tính chất chính trị và hành chánh, phố thị Sài Gòn ngay
từ đầu mang đặc điểm nổi bật là phát triển gắn liền với thị trường. Trong suốt
lịch sử của thành phố này, người dân sinh sống ở đây dường như hoàn toàn xa lạ
với nền kinh tế tự cấp tự túc vốn là đặc trưng phổ biến lâu đời ở phần lớn các
vùng nông thôn Việt Nam. Cũng chính vì thế mà vào thời kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, thành phố này đã buộc phải mày mò tìm ra những giải pháp “phá
rào” để “tự cứu lấy mình”, và từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết cho công cuộc
đổi mới trên qui mô cả nước sau này. So với cả nước, kinh tế thị trường phát triển
mạnh nhất ở đây, và thành phố này cũng đã từ lâu trở thành một thứ đầu tầu
mang chức năng lôi kéo và thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa của các vùng khác phát
triển theo.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của Sài Gòn là kết quả của nền kinh tế
hàng hóa của cả khu vực và của cả nước. Nói đến vai trò trung tâm của Sài Gòn,
tuy tính chất kinh tế, thương mại và tài chánh rõ ràng là nổi trội nhất, nhưng
người ta vẫn không thể không nói tới vai trò trung tâm văn hóa, trung tâm giáo
dục, trung tâm báo chí, lẫn trung tâm kỹ thuật của thành phố này – bởi lẽ chỉ có
trên cơ sở đảm đương được những chức năng ấy đối với các tỉnh khác và vùng
khác mà Sài Gòn mới đóng được vai trò trung tâm về mặt kinh tế.

Dân số và dân cư
Năm 1698, địa bàn Sài Gòn cũ (với diện tích chỉ 50 km2) có khoảng
10.000 dân13. Hơn 160 năm sau, vào năm 1863, tức là sau khi Pháp chiếm ba tỉnh
miền Đông, cả Sài Gòn-Chợ Lớn cũng mới chỉ có khoảng hai mươi ngàn dân, kể
cả người Tàu, Tây, Ấn Độ… Năm 1905 lên tới gần 55 ngàn dân,14 hơn 300 ngàn
dân vào năm 1929, rồi 2,54 triệu năm 1958, và lên tới khoảng 4 triệu vào năm
1975. Cụ thể một số mốc như sau :
1698 : khoảng 10.000 người
1863 : khoảng 20.000 người

12
Như trên, trang 65-66.
13
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 157.
14
Theo Annuaire général de l’Indochine 1910.

5
1898 : 33.404 người
1905 : 54.745 người
1929 : khoảng 300.000 người
1958 : 2,54 triệu người
1970 : 3,33 triệu người
1975 : khoảng 4 triệu người.
Quá trình di dân và cấu tạo dân số đã diễn ra một cách đại thể như sau.
Cuối thế kỷ XVIII, tức là sau khi xây lũy Bán Bích bảo vệ địa phương Sài Gòn,
thì “sự phân biệt dân ‘thành thị’ với dân nông thôn bắt đầu rõ nét. Dân thành thị
gốm phần lớn là quan lại, binh lính, thương nhân, dân phu chuyên chở và một số
thợ thủ công phục dịch nông nghiệp hay chế biến lúa gạo, v.v… Đa số là người
Việt, một số đáng kể là người xã Minh Hương (tức người Hoa lai Việt hoặc nhập
Việt tịch và theo phong hóa Việt), một số ít người Khơme, người Chăm sống
thường trú và rất ít người Tây dương tới giảng đạo hay mở thương điếm. Có lẽ
một thứ ‘văn hóa thành phố Sài Gòn’ đã manh nha hình thành, tuy vẫn giữ cốt
cách Việt Nam nhưng văn hóa đó đã mang thêm tính cách ‘kẻ chợ’ và quốc tế, từ
ngôn ngữ đến văn học, từ phong cách đến tập quán.” 15 Về người Hoa, ngoài
nhóm Minh Hương đã hội nhập từ trước, thì những nhóm người Thanh hay Hoa
kiều đến sau chia ra thành nhiều bang khác nhau.16
Xét về mặt cơ cấu nhân khẩu học, Sài Gòn từ rất sớm đã là một xã hội đa
dân tộc và đa tôn giáo. Đây cũng là nơi có nhiều người biết nhiều thứ ngôn ngữ
khác nhau, như lời tường thuật của Trịnh Hoài Đức, “nhiều người thông tiếng nói
Phước Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Tây Dương, Xiêm La.”17
Quá trình đô thị hóa và tiếp xúc với văn hóa phương Tây vào đầu thế kỷ
XX cũng sớm ảnh hưởng tới nếp sống và phong tục tập quán, kể cả cách ăn
mặc của người dân ở thành phố này, như đoạn mô tả sau đây trên tờ Lục tỉnh tân
văn vào năm 1907 : “Xưa vẽ mình, ở dã, ở bãi, nhờ ba con cá nuôi lỗ miệng, đầu
trọc, mình đóng khố. Sau, lần lần bắt chước lân bang, sắm áo quần ngày càng tao
nhã thanh lịch. Nay lại muốn bỏ đồ xưa, đổi áo thay xiêm, đổi dài thay vắn, cúp
tóc cho gọn. Xưa đi giày hàm ếch lượt bượt, nay đi giày đinh gót gọn gàng. Xưa
bịt khăn, nay đội nón…”18

Cơ cấu xã hội
Từ rất sớm, cơ cấu xã hội Sài Gòn đã là một cơ cấu bao gồm đủ mọi tầng

15
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 168-169.
16
Xem Nguyễn Đình Đầu, bài đã dẫn, trang 203.
17
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, tập hạ, trang 19, dẫn lại theo Nguyễn Đình Đầu,
bài đã dẫn, trang 193.
18
Trong bài “Thương hải tang điền” của Tố Hộ, trong tờ Lục tỉnh tân văn, số 2, ra ngày 21-11-
1907. Trích lại theo Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y, “Văn học chữ quốc ngữ ở
Sài Gòn-Gia Định cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng,
Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập II, Văn học),
TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, trang 227.

6
lớp và đủ loại nghề nghiệp. Trong một bài vịnh mô tả Sài Gòn-Gia Định vào cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX mà học giả Trương Vĩnh Ký ghi chép lại, chúng ta
đọc thấy câu như sau :
« Lạc thổ nhóm bốn dân,
Sĩ nông công thương, ngư tiều canh độc. ”19
Và cũng ngay từ thời xa xưa đó, bên cạnh những cảnh trên bến dưới
thuyền và buôn bán sầm uất, thì chúng ta cũng đã có thể chứng kiến xu hướng
phân hóa giàu nghèo một cách rõ rệt qua câu sau đây :
« Nhiều nhà giàu một lạ một lùng,
Giàu có kẻ đến vàng đến vẹo.
Mấy ai khó cho bần cho tiện,
Khó sạch trơn và đất và dùi. ”20
Tuy nhiên, kể từ thời Pháp thuộc trở đi, quá trình công nghiệp hóa từ hậu
bán thế kỷ XIX và trong suốt thế kỷ XX đã dần dà làm thay đổi hẳn bộ mặt cơ
cấu xã hội Sài Gòn từ một xã hội mang tính chất cổ truyền lúc ban đầu trở thành
một xã hội đô thị.
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã mô tả quá trình này trong thời Pháp
thuộc như sau : “Sài Gòn là nơi trước tiên của nước ta tiếp xúc với xã hội công
nghiệp… là nơi ra đời trước tiên ở nước ta người thợ Việt Nam theo khái niệm
thời đại cơ khí…”21 Do đặc điểm lịch sử, ở Sài Gòn, giai cấp tư sản Việt Nam ra
đời trong những năm 1920, chậm hơn so với giai cấp công nhân, với những tên
tuổi như Trương Văn Bền (hãng xà bông), Nguyễn Văn Kiệu (chủ tàu), Trí Độ
(hãng đúc), Nguyễn Văn Dụng, Cân Văn…
Sài Gòn cũng là “một trong những nơi sản sinh trí thức tân học đầu tiên
của nước ta”, và “chữ quốc ngữ la-tinh-hóa chính thức phổ biến ở đây, và ở đây,
trước cả nước, có báo chí.” Do nền chính trị tư sản mà Pháp thiết lập ở Nam kỳ
thuộc địa, nên không ít trí thức được đào tạo tại chỗ hoặc đi học ở Pháp về đã
“tiêm nhiễm nền tự do tư sản qua văn hóa Pháp”22, và những hoạt động của
những nhà trí thức tân học như Nguyễn An Ninh, Sương Nguyệt Anh, Trần
Chánh Chiếu… đã tạo nên một trong những cơ sở xã hội tích cực và tiến bộ làm
tiền đề cho các phong trào cách mạng về sau của thành phố này. Học giả Trần
Bạch Đằng cho rằng Đàng Trong nói chung và Nam bộ nói riêng có được hai ưu
đãi, một là điều kiện thiên nhiên thuận lợi, và hai là thực trạng xã hội không có
điều kiện để bị áp đặt bởi một chế độ lề luật kềm tỏa khắc nghiệt của truyền
thống Khổng Mạnh giống như ở miền Bắc.23

19
“Cổ Gia Định phong cảnh vịnh”, trong Gia Định phong cảnh vịnh, sách đã dẫn, trang 17.
20
“Cổ Gia Định phong cảnh vịnh”, trong Gia Định phong cảnh vịnh, sách đã dẫn, trang 27.
Trương Vĩnh Ký chú giải mấy câu này như sau : “Kẻ giàu thì giàu hung, người nghèo thì
nghèo quá, đã không có đất cắm dùi, mà lại dùi cũng không có nữa.”
21
Trần Bạch Đằng, “Tổng luận”, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập I, Lịch sử),
TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, trang 438.
22
Trần Bạch Đằng, bài đã dẫn, trang 438-439, 444-445.
23
Xem Trần Bạch Đằng, bài đã dẫn, trang 429.

7
Các định chế xã hội
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa trong giai đoạn công nghiệp hóa là
không ngừng thúc đẩy quá trình phân công lao động trong xã hội, quá trình
chuyên môn hóa, và trên cơ sở đó, dẫn đến quá trình phát triển các định chế xã
hội.
Sự thay đổi của định chế gia đình cũng như của nhiều định chế xã hội
khác cũng đã dẫn đến một sự thay đổi hết sức quan trọng, đó là vị thế của người
phụ nữ trong quan hệ nam nữ nói riêng, cũng như trong quan hệ xã hội nói
chung. Vào đầu thế kỷ XX ở Sài Gòn, người ta đã thấy nổi lên tư tưởng cách tân
đề cao vai trò người phụ nữ trong xã hội, nhằm thoát ra khỏi quan niệm "tam
tòng, tứ đức" cũ, đặc biệt là kể từ khi xuất hiện tờ Nữ giới chung (1918) với
nhiều bài phê phán những điều ràng buộc quá đáng đối với phụ nữ, chống mê tín,
và lần đầu tiên ở Việt Nam đặt vấn đề nam nữ bình đẳng, và sau đó ít lâu là tờ
Phụ nữ Tân văn (1929-39).
Sự phát triển của định chế trường học từ rất sớm cũng là một nét đặc
trưng của xã hội Sài Gòn.
Từ thời nhà Nguyễn, Sài Gòn đã được coi là một trung tâm giáo dục của
cả vùng đất phía Nam, sau kinh đô Huế. Trường thi Gia Định được mở năm 1813
và tồn tại cho tới năm 1858, tổng cộng mở được 18 khoa thi hương, dành cho thí
sinh từ Bình Thuận trở vào cho tới Hà Tiên. Văn miếu tỉnh Gia Định được lập
năm 1824. Tuy nhiên, Nhà nước triều Nguyễn không chú trọng tới việc dạy học,
mà chủ yếu chỉ tổ chức các khoa thi hương.24 Tuy vậy, vào cuối thế kỷ XVIII, đất
Gia Định đã có một vài trường tư nổi tiếng như trường của Võ Trường Toản ở
Hòa Hưng (nay thuộc quận 10), trường của Đặng Đức Thuật, hay trường của
Nguyễn Đình Chiểu mà người ta thường gọi là trường Đồ Chiểu, mở vào năm
1850,25 nhưng đấy là những trường hợp hiếm hoi.
Có thể nói định chế trường học theo như mô hình mà chúng ta hiểu ngày
nay chỉ thực sự ra đời kể từ khi Pháp chủ trương xây dựng một chế độ thuộc địa
lâu dài ở Việt Nam mà thoạt tiên là phát triển đô thị ở Sài Gòn. Đến khoảng năm
1900, mỗi quận của Sài Gòn (lúc đó có 5 quận) đã có hai trường dạy cấp I (3
năm) theo chương trình Pháp-Việt, một dành cho nam sinh và một cho nữ sinh.26
Và không lâu sau đó ra đời một số trường kỹ thuật chuyên nghiệp và dạy nghề
như trường Bá nghệ Thực hành (1897), trường Cơ khí Á châu (1906), tiền thân
của trường kỹ thuật Cao Thắng sau này, trường Mỹ thuật Gia Định (1913),

24
Xem Bùi Đức Tịnh, “Giáo dục tại thành phố từ trước đến sau ngày hoàn toàn giải phóng”,
trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh (tập II, Văn học), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, trang 423-
427.
25
Xem Trần Văn Giàu, “Lược sử thành phố Hồ Chí Minh”, trong Địa chí văn hóa Thành phố
Hồ Chí Minh, tập I, Nxb TPHCM, 1987, trang 245-247.
26
Xem Bùi Đức Tịnh, bài đã dẫn, trang 428.

8
trường Nữ hộ sinh (1901), trường Nữ điều dưỡng (1909).27
Kể từ đó trở đi, Sài Gòn luôn luôn đóng vai trò là một trung tâm giáo dục
quan trọng nhất của cả miền Nam, nhất là từ khi lần lượt ra đời các trường đại
học và cao đẳng chuyên đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn cho các nơi khác. Chỉ tính riêng số lượng sinh viên đại học trước năm 1975,
vào thời điểm thấp nhất thì tổng số sinh viên của Sài Gòn cũng chiếm đến 85,5 %
tổng số sinh viên toàn miền Nam.28
Xét về mặt xã hội học thì chính sự phát triển của định chế trường học là
một trong những nhân tố hết sức quan trọng quyết định tốc độ của quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của thành phố này.
Ngoài ra, còn phải nói tới một định chế mới mẻ chưa từng có trong xã hội
Việt Nam, đó là định chế truyền thông đại chúng. Báo chí Sài Gòn ra đời sớm
nhất trong cả nước, với tờ Gia Định báo vào năm 1865. Báo chí đã đảm đương
những chức năng hết sức quan trọng trong xã hội Sài Gòn cũng như đối với lịch
sử của cả nước : (1) phổ cập chữ quốc ngữ và thúc đẩy văn học chữ quốc ngữ ;
(2) phương tiện đấu tranh và diễn đàn đấu tranh của các lực lượng yêu nước và
cách mạng ; (3) thông tin kinh tế, thời sự xã hội ; (4) truyền bá những tư tưởng
cách tân xã hội.29
Trong lĩnh vực kinh tế, Sài Gòn cũng là nơi đầu tiên phát triển từ hồi đầu
thời Pháp thuộc những định chế kinh tế mới, như công ty, xí nghiệp hay ngân
hàng theo dạng hiện đại, kèm theo đó là hình thành một tầng lớp doanh nhân và
thương nhân. Đây là những điều hết sức mới mẻ trong đời sống kinh tế và xã hội
của Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, cùng với nhịp độ phát triển của cảng Sài Gòn (năm 1867
xuất khẩu 193 ngàn tấn lúa gạo, đến năm 1886 xuất hơn nửa triệu tấn), cũng như
đường bộ, đường xe lửa, cầu cống…, các nhà máy và xí nghiệp cũng lần lượt
xuất hiện nhanh chóng. Nếu năm 1877 mới có nhà máy xay lúa đầu tiên, thì đến
năm 1895 đã có cả trăm nhà máy này. Khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
“nhà máy xay, nhà máy cưa, nhà máy nước đá, nhà máy đèn, nhà máy bia, nhà
máy xà bông, nhiều xưởng in quan trọng, nhà máy làm đường, xưởng sửa tàu
đóng thuyền, xưởng thuộc da, lò gạch ngói, lò nhuộm, xưởng mộc, xưởng dệt,
v.v… đua nhau mọc lên và phát triển, quy mô chưa phải to lớn lắm nhưng dùng
máy móc đã khá nhiều.”30 Ngân hàng đầu tiên là Ngân hàng Đông Dương, ra đời
ở Sài Gòn vào năm 1875, sau đó mới mở rộng dần chi nhánh ra toàn cõi Đông
Dương.
Lúc đầu, chủ các hãng và nhà máy phần lớn là người Pháp và người Hoa,

27
Như trên, trang 434.
28
Như trên, trang 450.
29
Xem Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gòn thời Pháp
thuộc”, tạp chí Xã hội học, số 3&4, 1999, trang 32-38. Xem thêm Ngô Hà, “Lược sử báo chí
thành phố (1865-1945)”, trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM,
1988.
30
Trần Văn Giàu, “Lược sử thành phố Hồ Chí Minh”, bài đã dẫn, trang 261.

9
nhưng về sau, cùng với tác động của các tư tưởng “duy tân” và “minh tân”, giới
công thương người Việt ngày càng bành trướng kinh doanh nhiều hơn, nhất là kể
từ sau Thế chiến thứ hai. Trong một bản báo cáo gởi về Pháp năm 1919, viên
Toàn quyền Đông Dương có viết : “Phong trào tẩy chay [Hoa thương] xảy ra ở
Sài Gòn tuy quá trớn thật, nhưng nó cũng có ý nghĩa rằng tư tưởng đã thay đổi.
Mới đây ít năm, người Nam kỳ chẳng những không thích mà lại sợ cái việc
thương mãi. Còn bây giờ thì họ thấy rằng thương mãi là quan trọng cho họ, thấy
rằng họ cần phải cố gắng trên hướng này.”31
Chính định chế công ty đã tạo điều kiện xuất hiện tầng lớp doanh nhân và
tầng lớp những người đi làm thuê, sau này dần dần lớn mạnh để trở thành giai
cấp công nhân. Những định chế kinh tế mới mẻ này là sản phẩm, mà đồng thời
cũng là những điều kiện và những tác nhân thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa
sau này diễn ra hầu như trong suốt thế kỷ XX.
Trong đời sống chính trị, do chính sách trực trị của Pháp ở Nam kỳ, nên
Sài Gòn còn là nơi đầu tiên trong cả nước chứng kiến sự ra đời tương đối sớm
sủa của những định chế chính trị hiện đại.
Hình thức chính đảng và đoàn thể xuất hiện kể từ giữa thập niên 1920 trở
đi, trong đó có cả những tổ chức của các lực lượng yêu nước và chống Pháp.32
Công hội đầu tiên do Tôn Đức Thắng tổ chức thành lập từ năm 1921. Năm 1926-
27 có mặt Thanh niên cách mạng đồng chí hội, và Tân Việt cách mạng đảng ;
năm 1929-30, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng ra
đời ở Sài Gòn.33
Sau đó, hình thức đấu tranh chính trị ở nghị trường cũng đã được các lực
lượng yêu nước vận dụng một cách thành công : năm 1933 và 1935, liên danh
“sổ lao động” mà người đứng đầu là Nguyễn Văn Tạo đã ra tranh cử và trúng cử
vào hội đồng thành phố Sài Gòn, vốn trước đó chỉ gồm có thực dân và tay sai.34
Những hình thức phản kháng như bãi công lần đầu tiên xuất hiện từ 1911
ở xưởng đóng tầu Ba Son35, cuộc bãi khóa đầu tiên của học sinh xảy ra tại trường
Chasseloup Laubat (nay là trường PTTH Lê Quí Đôn) vào tháng 3-1920, sau
cuộc bãi công lớn của thủy thủ ở bến cảng Sài Gòn đòi phụ cấp đắt đỏ.36
Cũng vào giữa thập niên 1920 ấy, đặc biệt còn có những hình thức đấu
tranh chính trị mới mẻ chưa hề có trong xã hội Việt Nam cổ truyền : “Từ Pháp,
Nguyễn An Ninh đem về hai hình thức cổ động mới đối với Sài Gòn, với cả
Đông Dương nữa : làm báo đối lập với chính phủ thực dân và diễn thuyết trước

31
Trích lại theo Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 275.
32
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 288.
33
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 281-282, 296, 298.
34
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 302-304, và Ngô Hà, “Lược sử báo chí thành phố
(1865-1945)”, bài đã dẫn, trang 366-367.
35
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 262.
36
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 279-280.

10
đông đảo công chúng.”37 Và lần đầu tiên xuất hiện hình thức mít-tinh năm 1926
với mấy ngàn người tập hợp ở một ngôi vườn Xóm Lách đường Lanzarotte (nay
là đường Kỳ Đồng) để nghe Nguyễn An Ninh diễn thuyết. Hình thức biểu tình
cũng bắt đầu xuất hiện khi khoảng 100.000 người đi đưa đám tang cụ Phan Châu
Trinh vào năm 1926.38 Khi nông dân ở Cao Lãnh biểu tình kéo đến dinh quận để
xin hoãn thuế vào năm 1930, thì kể từ đó, chữ “biểu tình” bắt đầu xuất hiện trên
báo chí Sài Gòn.39
Xét về mặt định chế chính trị, phải nói tới một trong những định chế chính
trị quan trọng của xã hội hiện đại, đó là hệ thống pháp luật. Dĩ nhiên, hệ thống
này trong suốt thời kỳ Pháp thuộc là do Nhà nước thuộc địa xây dựng. Nhưng
đáng chú ý là Sài Gòn là nơi hình thành tương đối sớm nhất một hệ thống pháp
luật điều chỉnh đời sống xã hội đô thị, và một hệ thống pháp luật kinh tế-thương
mại tương đối phát triển.
Chính vì sớm hình thành nhiều định chế kinh tế, văn hóa, truyền thông và
chính trị mới mẻ như đã nêu trên đây, mà Sài Gòn cũng là nơi sớm phát triển một
xã hội dân sự theo nghĩa hiện đại.

Con người và tính cách


Trịnh Hoài Đức đã mô tả tính cách của con người vùng đất Gia Định nói
chung như sau : “Gia Định ở Nam Việt đất rộng, vật thực nhiều, không lo sự đói
rét, nên nhân dân ít tích lũy, tập tục xa hoa, sĩ khí hiên ngang... Gần mặt trời,
thiên khí phấn phát, trung chánh văn minh. Nên con người hay chuộng tiết
nghĩa...”40 Ở đoạn khác, ông viết : “Gia Định ở về địa vị Dương Minh, nhiều
người trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dầu là hàng phụ nữ cũng thế.”41
Riêng thành phố Sài Gòn, vì là đầu mối giao dịch buôn bán lớn và do sớm
tiếp xúc với chủ nghĩa tư bản thế giới, sớm công nghiệp hóa, nên đây là nơi đầu
tiên trong cả nước tiếp thu nhiều kỹ thuật Tây phương. Nhờ đó, người Sài Gòn có
đặc tính mau chóng tiếp thu cái mới, kỹ thuật mới.
Trong thế kỷ XVIII, thành Bát Quái đã được đắp theo kiểu Vauban. Trần
Văn Học, có thể được coi là nhà qui hoạch đô thị đầu tiên của Việt Nam, đã
“phác họa đường sá và phân khu phố phường” cho thành phố này. Vốn đã là
thương cảng từ thời chúa Nguyễn, cảng Sài Gòn được mở rộng và phát triển ngay
từ năm 1860, sau khi Pháp chiếm được Sài Gòn. Kể từ đó, Sài Gòn là nơi du
nhập những kỹ thuật phương Tây tương đối sớm như điện, “nước máy”, hệ thống
cống rãnh, đường sá đô thị, hệ thống đèn đường, vệ sinh đô thị, các phương tiện

37
Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 293.
38
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 285, 287.
39
Xem Ngô Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch
Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập II, Văn
học), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, trang 364-365.
40
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, tập hạ, trang 4, dẫn lại theo Nguyễn Đình Đầu,
bài đã dẫn, trang 191-192.
41
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, dẫn lại theo Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 247.

11
giao thông công cộng như xe lửa, xe điện…
Năm 1872 bắt đầu có tầu chạy bằng hơi nước, và ngay sau đó thiết lập
tuyến tầu vận tải Sài Gòn-Hải Phòng. Đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam là
đường từ Sài Gòn đi Mỹ Tho được làm xong năm 1886. Xe kéo xuất hiện ở Sài
Gòn năm 1886, còn xe đạp thì được người Pháp nhập vào Sài Gòn năm 1894.42
Năm 1903 chiếc xe hơi đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn, với tốc độ 12 km/giờ. Năm
1913 bắt đầu có xe đò, với tuyến đầu tiên là Sài Gòn-Tây Ninh.43 Sân bay Tân
Sơn Nhứt, bên cạnh các đường bay nội địa, từ thập niên 1940-1950 đã là một sân
bay quốc tế, nối Sài Gòn với Hồng Kông, Tokyo, Noumea, Calcutta, Paris và
Thượng Hải. Tần số máy bay lên xuống ở sân bay Tân Sơn Nhứt vào đầu thập
niên 1950 đã có thể sánh với sân bay Paris thời bấy giờ.44
Người Sài Gòn thường giao dịch tiếp xúc nhiều và rộng, đi lại nhiều, tiêu
xài nhiều, ăn hàng ăn tiệm cũng nhiều. Ngoài ra lúc nào cũng có đông khách thập
phương và các thương nhân, thương lái đến đây mua bán, giao dịch làm ăn, nên
phố xá lúc nào cũng tấp nập và xô bồ hơn các thành phố khác. Ở đây người ta
hoàn toàn không còn thấy dấu vết gì nữa của tính chất cô lập, khép kín vốn là đặc
trưng của làng xã Việt Nam, và chính do cơ sở kinh tế-xã hội đô thị đó mà người
ta hầu như khó lòng bắt gặp tâm lý cục bộ địa phương nơi những cư dân đã chọn
nơi này để định cư sinh sống.
Nếu người Đàng Trong, do đặc điểm của một lịch sử mấy trăm năm di dân
và khai phá các vùng đất mới ở phương Nam kể từ thế kỷ XVI trở đi, mang đậm
đầu óc thực tiễn và năng động hơn so với người Đàng Ngoài, như nhiều học giả
đã nhận xét, thì người dân Sài Gòn đã đặc biệt phát triển lối tư duy thực tiễn và
phong cách năng động này theo hướng hiện đại hóa trong các hoạt động kinh tế
và thương mại của một thành thị lớn.

Những thay đổi về văn hóa và hệ thống giá trị


Kể từ đầu thế kỷ XX trở đi, cùng với các quá trình đô thị hóa và công
nghiệp hóa, xã hội Sài Gòn bước sang một giai đoạn mới là giai đoạn hiện đại
hóa về mặt xã hội. Bên cạnh những thay đổi về mặt cơ cấu xã hội và định chế xã
hội như đã nói ở những mục trên, đặc biệt đáng chú ý trong thời kỳ này là những
thay đổi trong lĩnh vực tư tưởng và hệ thống giá trị theo hướng hiện đại hóa.
Người ta có thể ghi nhận những sự thay đổi qua sách vở cũng như báo chí thời kỳ
ấy.
Các tư tưởng dân chủ, bình đẳng
Chúng ta biết là mãi cho đến cuối thế kỷ XIX, trong tiếng Việt vẫn chưa

42
Xem Lê Trung Hoa, bài trên Sài Gòn Giải phóng thứ bảy, 28-12-2002, tr. 12.
43
Xem Lê Trung Hoa, bài đã dẫn.
44
Năm 1951, có tổng cộng 59.940 chiếc máy bay lên và xuống và 126.750 hành khách. Trong
khi thời đó, hàng năm sân bay Paris đạt con số 65.000 chiếc máy bay lên và xuống. Xem
Annuaire des Etats-Associés, Cambodge, Laos, Vietnam 1953, Paris, Ed. Diloutremer et
Havas, 1953, trang 77.

12
xuất hiện rất nhiều từ ngữ và khái niệm chính trị và xã hội mà bây giờ chúng ta
đã quen thuộc. Trên tờ Gia Định báo lúc bấy giờ, khái niệm “cộng hoà” chẳng
hạn còn được gọi là “việc chánh chung”, “thuộc địa” là “quản hạt”, những khái
niệm “tự do, bình đẳng, bác ái” được dịch là “phép thong thả, luật đồng bằng,
nghĩa anh em”.45 Chính nhờ sự phát triển của chữ quốc ngữ cũng như của sách
báo mà nhiều tư tưởng dân chủ và bình đẳng được du nhập và lan rộng. Phong
trào “duy tân” và “minh tân” (lúc đầu chỉ có nghĩa là mở mang công thương, học
tập văn hóa và khoa học Tây phương, chống thủ cựu, bỏ hủ tục...) được khởi phát
từ những tờ báo như tờ Nông cổ mín đàm (ra đời năm 1901) và tờ Lục tỉnh tân
văn (ra đời năm 1907). Cũng trong thời gian này, nhiều cuốn sách Hán, Nôm lần
lượt được dịch ra chữ quốc ngữ, người ta bắt đầu viết tiểu thuyết, sưu tầm ca dao,
tục ngữ, truyện cười, viết sách tự điển Việt Nam (Huỳnh Tịnh Của), và sách phổ
biến khoa học Tây phương (Huỳnh Tịnh Của).46 Những tư tưởng dân chủ, tự do
và bình đẳng về sau ngày càng được xác lập rõ rệt hơn và lan rộng thông qua
nhiều tờ báo khác nữa, với những nhà trí thức tân học như Nguyễn An Ninh,
Phan Văn Trường...
Đầu óc kinh doanh, làm ăn
Tờ Nông cổ mín đàm là tờ báo kinh tế đầu tiên của Việt Nam, ngay từ lúc
được chuyển sang cho hai ông Lương Khắc Ninh và Trần Chánh Chiếu (Gilbert
Chiếu) điều hành đã có nhiều bài cổ vũ cho phong trào Minh Tân, trong đó đặc
biệt có những bài kêu gọi tham gia kinh doanh và học nghề. Vào tháng 12-1904,
tờ báo này đăng loạt bài “Thương cổ thiệt luân” cổ động cho việc “hùn hiệp bán
buôn” lúa gạo, khuyến khích “đua chen” với người Hoa và giành lấy quyền lợi
thương mãi cho “người bổn quốc”.47 Trần Chánh Chiếu cũng là một trong những
người lãnh đạo phong trào Minh Tân ; ông cho rằng cần khuyến khích “người An
Nam lo việc thương mãi, học nghề nghiệp mà tranh đua quyền lợi cùng với Chệt,
với Chà” để phát triển công nghiệp và thương mại, thoát ra khỏi tư tưởng “nhất
sĩ, nhì nông” cổ truyền.48
Còn tờ Lục tỉnh tân văn ngay từ đầu đã có nhiều bài cổ súy việc làm ăn
buôn bán và cổ động cho các tư tưởng Minh Tân, như lời lẽ sau đây của Nguyễn
Tử Thức trong bài “Cập báo lợi quyền” : “Rày cúi xin đồng bào mau tỉnh lại, vỗ
tay một lượt mà bước tới cuộc văn minh, đặng day cán lợi của quê hương cho
người quê hương ta cầm. Vậy mới gọi khuông thời, vậy mới rằng tế thế.”49 Hay
là trong bài “Thương hải tang điền” của Tố Hộ : “...Muôn việc đều bắt chước các
nước, còn việc cơ xảo, việc thông minh bày vẽ cho cận tiện thì mình thua sút xa
thăm thẳm… Nghĩ lại sự bắt chước cũng không mau được, ban đầu thì xài quần

45
Xem Bùi Khánh Thế, “Từ tiếng Sài Gòn đến tiếng nói thành phố Hồ Chí Minh”, trong Trần
Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa thành phố Hồ
Chí Minh (tập II, Văn học), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, trang 177.
46
Xem Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 263-265.
47
Do Bùi Đức Tịnh trích, xem Ngô Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, bài đã dẫn,
trang 331.
48
Trích lại theo Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 263-264.
49
Xem Ngô Hà, bài đã dẫn, trang 334.

13
tây, đến sau cúp tóc đội nón, bây giờ muốn đổi áo. Mấy ông tưởng vậy là đã tri
thời thức thế sao ? Tôi tưởng chưa, là vì việc hủ lậu còn đầy, sự nghi nan còn
nặng. Việc đọc sách, đọc nhựt trình còn sơ, việc cơ xảo công nghệ còn hẹp…
Phải ráng mà bương chải với đời, lo cho con nhà nước Nam khôn nghề buôn, giỏi
nghiệp nghệ, tiện tặn chắt lót, thủ quyền lợi…”50
Trước đó, chủ các hãng và nhà máy phần lớn đều là người Pháp và người
Hoa, nhưng về sau, nhờ sự thúc đẩy của các tư tưởng “duy tân” và “minh tân”,
giới công thương người Việt ngày càng đông hơn, nhất là kể từ sau Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, như lời của viên Toàn quyền Đông Dương trong một bản
báo cáo gởi về Pháp năm 1919 : “Phong trào tẩy chay [Hoa thương] xảy ra ở Sài
Gòn tuy quá trớn thật, nhưng nó cũng có ý nghĩa rằng tư tưởng đã thay đổi. Mới
đây ít năm, người Nam kỳ chẳng những không thích mà lại sợ cái việc thương
mãi. Còn bây giờ thì họ thấy rằng thương mãi là quan trọng cho họ, thấy rằng họ
cần phải cố gắng trên hướng này.”51
Những tư tưởng cách tân xã hội
Trong phong trào Minh tân ở Sài Gòn, tương ứng với những phong trào
Đông kinh nghĩa thục và Duy tân ở miền Trung và miền Bắc, đáng chú ý còn có
những tư tưởng chống dị đoan, tư tưởng tự do luyến ái và nam nữ bình quyền.
Chống dị đoan : Chẳng hạn trên một mẩu quảng cáo cuốn truyện Hoàng
Tố Oanh hàm oan mới xuất bản đăng trên tờ Nông cổ mín đàm ngày 3-5-1910,
người ta đọc được xu hướng bài bác những tư tưởng mê tín dị đoan vốn đang
thịnh hành thời bấy giờ qua các truyện Tàu : “Từ xưa nhẫn nay, truyện nào sách
nào cũng chỉ có một việc khuyên lành lánh dữ mà thôi. Song người trước thường
ưa những việc dị đoan, cho nên phải lập dị đoan mà răn thiên hạ, chớ như đương
lúc ni là lúc văn minh đã tràn ra khắp hoàn cầu, vậy ta cũng nên bỏ mất cái nẽo dị
đoan lần lần, đặng có gội nhuần gió Mỹ mưa Âu, hầu mở mặt cùng chư
quốc…”52
Tư tưởng tự do luyến ái như trong tác phẩm truyện thơ U tình lục của Hồ
Biểu Chánh viết năm 1909 và in năm 1913, trong đó tác giả đã “để cho hai nhân
vật chính sống vào cuối thế kỷ XIX được tự do luyến ái và có những hành động
táo bạo vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo.”53 Mặc dù Hồ Biểu Chánh không phải
là một nhà cải cách, nhưng hầu hết các cuốn tiểu thuyết mà ông viết đều phản
ánh những xung đột giữa cái cũ và cái mới trong cuộc sống gia đình, trong quan
hệ hôn nhân, quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Tư tưởng nam nữ bình quyền. Bước ngoặt trong nhận thức mới mẻ này
được đánh dấu khi ra mắt tờ Nữ giới chung (có nghĩa là tiếng chuông của giới
phụ nữ) vào tháng 2-1918, tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam, với chủ bút là

50
Trong bài “Thương hải tang điền” của Tố Hộ, trong tờ Lục tỉnh tân văn, số 2, ra ngày 21-11-
1907. Trích lại theo Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y, bài đã dẫn, trang 227.
51
Trích lại theo Trần Văn Giàu, bài đã dẫn, trang 275.
52
Trích lại theo Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y, bài đã dẫn, trang 236.
53
Nguyễn Khuê, luận văn “Hồ Biểu Chánh 1885-1958”. Trích lại theo Tầm Vu, Nguyễn Văn
Trung, Nguyễn Văn Y, bài đã dẫn, trang 239.

14
bà Sương Nguyệt Anh, con của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài việc dạy nữ
hạnh, nữ công, tờ báo đã có nhiều bài phê phán những điều ràng buộc đối với
phụ nữ, cổ võ cho công thương, và có lẽ đây cũng là tờ báo đầu tiên đưa vấn đề
nữ quyền lên thành vấn đề nam nữ bình đẳng. Bà Sương Nguyệt Anh viết như
sau trên tờ Nữ giới chung số 8 : “…Trông người mà ngẫm đến ta [...]. Kìa ta mở
cặp mắt ngó ra hoàng hải, người Âu Mỹ làm thầy giáo cũng đàn bà, mà thầy kiện
cũng đàn bà, trong tay sẵn có một nghề, không phải nương nhờ người nam tử. Ấy
cái học người ta như thế, há phải như người mình không bịnh mà rên ! Chị em ơi
! Cái nết đánh chết cái hay, dẫu văn như ả Tạ nàng Ban, cũng chẳng qua một cái
trò chơi. Muốn có cái địa vị ngang hàng với nam tử thì (chẳng những) việc tề gia
nội trợ phải thuộc lòng (mà) tình trong thế ngoài (cũng) phải ráng nên ghé mắt,
tuy chưa được như người Âu Mỹ song cũng đừng phụ tiếng Lạc Hồng.”54
Ít năm sau, ra đời tờ báo phụ nữ thứ hai của Sài Gòn, cũng là một tờ có
nhiều ảnh hưởng quan trọng về xã hội và văn chương trong cả nước, đó là tờ Phụ
nữ tân văn (1929-39). Tờ báo này cổ động cho phụ nữ đi học, đi làm việc, tham
gia hoạt động xã hội, bênh vực cuộc khởi nghĩa Yên Bái, tổ chức “đấu xảo nữ
công”, “hội chợ phụ nữ”, khuyến khích “thể thao phụ nữ”, tổ chức những “bữa
cơm bình dân” và “hội dục anh” để giúp đỡ những người nghèo... Năm 1932,
nhân cuộc “đấu xảo nữ công” do tờ Phụ nữ tân văn tổ chức, nhiều phụ nữ như
Nguyễn Thị Kiêm… đăng đàn diễn thuyết – có lẽ đây là lần đầu tiên có nhiều
phụ nữ diễn thuyết công khai về những vấn đề của phụ nữ cũng như vấn đề xã
hội.55 Kể từ tờ Phụ nữ tân văn trở đi, nhiều tờ báo khác cũng lần lượt mở trang
phụ nữ, và đề cập tới những vấn đề của nữ giới.56 Nếu cho rằng ý thức về vai trò
của người phụ nữ trong xã hội là một trong những cột mốc quan trọng trong quá
trình chuyển biến của tư duy về dân chủ xã hội, bình đẳng xã hội và tự do cá
nhân, thì có thể khẳng định rằng những tờ như Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn
đã góp phần xác lập được cột mốc mở đầu cho quá trình đó.
Có thể nói quá trình hiện đại hóa về mặt xã hội ở Sài Gòn kể từ đầu thế kỷ
XX (với những thay đổi sâu sắc trong các lĩnh vực cơ cấu xã hội, định chế xã hội,
và nhận thức, quan niệm) đã dần dà tạo ra những tiền đề xã hội và tư tưởng quan
trọng cho các chuyển biến lịch sử lớn lao sau này, kể cả trong lĩnh vực chính trị
lẫn kinh tế và văn hóa.
TPHCM, ngày 28-4-2004
T.H.Q.

Tài liệu tham khảo

Annuaire des Etats-Associés, Cambodge, Laos, Vietnam 1953, Paris, Ed.


Diloutremer et Havas, 1953.
Annuaire général de l’Indochine 1910, Hà Nội, Nxb IDEO.

54
Dẫn lại theo Ngô Hà, bài đã dẫn, trang 344.
55
Xem Ngô Hà, bài đã dẫn, trang 345.
56
Xem Ngô Hà, bài đã dẫn, tr. 345-349.

15
Bùi Đức Tịnh, “Giáo dục tại thành phố từ trước đến sau ngày hoàn toàn giải
phóng”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ
biên), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập II, Văn học), TP.HCM,
Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 421-456.
Bùi Khánh Thế, “Từ tiếng Sài Gòn đến tiếng nói thành phố Hồ Chí Minh”, trong
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn
hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập II, Văn học), TP.HCM, Nxb TP. Hồ Chí
Minh, 1988, tr. 155-196.
Ngô Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, trong Trần Văn Giàu, Trần
Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh (tập II, Văn học), TP.HCM Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 319-
385.
Nguyễn Đình Đầu, “Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh”, trong Trần Văn
Giàu (chủ biên), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập I, Lịch sử),
TP.HCM, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1987, tr. 125-232.
Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y, “Văn học chữ quốc ngữ ở Sài
Gòn-Gia Định cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, trong Trần Văn Giàu, Trần
Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh (tập II, Văn học), TP.HCM, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 197-
250.
Tana, Li, “Ngoại thương Việt Nam thế kỷ 19 : mối quan hệ với Singapore”, trong
tập tóm tắt báo cáo khoa học Hội thảo quốc tế về Việt Nam học, Hà Nội, từ
ngày 15 tới ngày 17-7-1998.
Tana, li, Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18,
TP.HCM, Nxb Trẻ, 1999.
Trần Bạch Đằng, “Tổng luận”, trong Trần Văn Giàu (chủ biên), Địa chí văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh (tập I, Lịch sử), TP.HCM, Nxb TP. Hồ Chí Minh,
1987, tr. 421-447.
Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gòn
thời Pháp thuộc”, Tạp chí Xã hội học, số 3&4 (67&68), 1999, tr. 32-38.
Trần Văn Giàu, “Lược sử thành phố Hồ Chí Minh”, trong Trần Văn Giàu (chủ
biên), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập I, Lịch sử), TP.HCM,
Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1987, tr. 233-420.
Trương Vĩnh Ký ghi chép, Gia Định phong cảnh vịnh, Nguyễn Đình Đầu giới
thiệu, TP.HCM, Nxb Trẻ, 1997.

16

You might also like