You are on page 1of 11

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa của nghiên cứu thuần tập
2. Mô tả được các bước thiết kế nghiên cứu thuần tập
3. Trình bày được cách phân tích và giải thích kết quả của nghiên cứu thuần tập
4. Mô tả được các ưu, nhược điểm của phương pháp nghiên cứu thuần tập.

NỘI DUNG

1. Định nghĩa
Nghiên cứu thuần tập (cohort studies) hay còn gọi là nghiên cứu theo dõi (follow up
studies) là loại nghiên cứu quan sát trong đó một hay nhiều nhóm cá thể được chọn trên
cơ sở là có phơi nhiễm hay không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ. Tại thời điểm nghiên
cứu tình trạng phơi nhiễm được xác định, tất cả các đối tượng nghiên cứu chưa mắc bệnh
mà ta nghiên cứu và được theo dõi trong một thời gian để đánh gía sự xuất hiện bệnh đó.
2. Các loại nghiên cứu thuần tập
2.1 Nghiên cứu thuần tập hồi cứu (restrospective cohort studies)
Trong nghiên cứu này, tất cả sự kiện cần nghiên cứu, tình trạng phơi nhiễm và bệnh đã
xảy ra tại thời đIểm bắt đầu nghiên cứu.
Ví dụ: Năm 1965 Enterline đã tiến hành một nghiên cứu thuần tập hồi cứu về phơi nhiễm
với amiăng và tử vong do ung thư phổi. Trước hết người ta xác định những công nhân
làm việc ở những nhà máy tiếp xúc với amiăng từ 1948 đến 1951. Sau đó thu thập số liệu
về tình hình tử vong của 2 nhóm đối tượng từ năm 1948 đến 1963. So sánh tỷ lệ tử vong
của công nhân amiăng với tỷ lệ tử vong ở nhóm chứng là công nhân dệt sợi bông và của
những người đàn ông cùng lứa tuổi trong quần thể toàn bộ. Kết quả cho thấy có sự tăng
cao tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở công nhân amiăng.
2.2.Nghiên cứu thuần tập tương lai ( prospective cohort studides)
Trong nghiên cứu thuần tập tương lai, tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu các cá thể nghiên
cứu đã có phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ nhưng chưa xuất hiện bệnh và được theo dõi
một thời gian dài trong tương lai.
Ví dụ: Tiếp theo nghiên cứu trên, năm 1967 người ta cũng tiến hành một nghiên cứu
thuần tập tương lai về phơi nhiễm amiăng và tử vong do ung thư phổi trên 17 800 công
nhân hiệp hội Amiăng ở Mỹ và Canada, nhóm chứng là những người đàn ông cùng lứa
tuổi trong quần thể tổng quát. Các đối tượng được theo dõi từ năm 1967 -1975 để xác
định tỷ lệ tử vong do ung thư phổi và so sánh tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở hai nhóm.
Kết quả đã chứng minh giả thiết về sự kết hợp giữa phơi nhiễm với amiăng và tỷ lệ tử
vong do ung thư phổi ở nghiên cứu thuần tập hồi cứu trên.
2.3. Nghiên cứu thuần tập vừa hồi cứu vừa tương lai
Trong nghiên cứu này các thông tin được thu thập vừa hồi cứu vừa tương lai trên cùng
một quần thể. Loại nghiên cứu này rất có ích đối với các phơi nhiễm vừa có ảnh hưởng
ngắn vừa có ảnh hưởng dài.
Ví dụ: Một hoá chất có thể làm tăng nguy cơ dị dạng bẩm sinh trong một vài năm sau khi
phơi nhiễm hoặc nguy cơ ung thư sau hàng chục năm. Một nghiên cứu thuần tập về ảnh
hưởng có hại của chất độc màu da cam trên những phi công Mỹ tham gia chiến tranh ở
Việt Nam đã chứng minh điều này. Nhóm phơi nhiễm gồm 1264 phi công Mỹ có liên
quan đến việc rải chất độc này ở Việt Nam trong thời gian 1962-1967. Nhóm không phơi
nhiễm gồm 1264 phi công làm nhiệm vụ vận chuyển hàng đến vùng Đông Nam á cùng
thơì gian này. Những số liệu được phân tích hồi cứu so sánh ở hai nhóm về hậu quả phơi
nhiễm sau một thời gian ngắn như: các bệnh ngoài da, quái thai, thay đổi chức năng gan,
rối loạn tâm thần.Các nhóm này cũng được theo dõi tương lai trong một thời gian dài hậu
quả phát triển các bệnh ác tính.
• Phạm vi áp dụng:
Nghiên cứu thuần tập hồi cứu được thực hiện nhanh và ít tốn kém hơn vì các sự kiện đã
xảy ra tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Có lợi khi nghiên cứu các bệnh có thời gian ủ
bệnh dài.
Nghiên cứu thuần tập hồi cứu thường là đánh giá phơi nhễm xảy ra nhiều năm trước đó
nên thu thập thiếu thông tin hoặc thông tin không so sánh được. Một số thông tin về các
yếu tố gây nhiễu như chế độ ăn, hút thuốc lối sống thường không ghi trong hồ sơ.
Nghiên cứu thuần tập tương lai có thể thu thập thông tin trực tiếp về yếu tố phơi nhiễm và
yếu tố nhiễu. Với cỡ mẫu lớn và theo dõi được toàn bộ nghiên cứu thuần tập tương lai
được coi đáng tin cậy và cung cấp nhiều thông tin.
2.4. Nghiên cứu thuần tập lồng nghiên cứu bệnh chứng
Trong các nghiên cứu dịch tễ học người ta thường thực hiện việc lồng ghép nghiên cứu
bệnh-chứng vào một nghiên cứu thuần tập hồi cứu hoặc tương lai.
Ví dụ: Nghiên cứu để đánh giá xem liệu yếu tố vi dưỡng trong máu có liên quan đến
nguy cơ ung thư sau này hay không? Người ta tiến hành thu thập mẫu máu của các đối
tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu thuần tập kinh điển, quần thể này được theo dõi 10-
20 năm sau để so sánh tỷ lệ mắc ung thư ở những người có nồng độ các yếu tố vi dưỡng
khác nhau trong máu.
Trong nghiên cứu thuần tập lồng ghép nghiên cứu bệnh chứng các mẫu máu được làm
đông khô và bảo quản và các cá thể được theo dõi phát triển ung thư. Khi thu thập được
số bệnh nhân ung thư đủ lớn những mẫu máu của bệnh nhân đó được phân tích so sánh
với nhóm không ung thư như trong nghiên cứu bệnh chứng. Thiết kế nghiên cứu này
đặc biệt thích hợp với các nghiên cứu được thực hiện trên hàng chục nghìn người đòi hỏi
chi phí tốn kém.
3. Thiết kế nghiên cứu thuần tập
1.1. Lựa chọn quần thể có phơi nhiễm
Sự lựa chọn phơi nhiễm phụ thuộc vào việc cân nhắc tính toán khoa học và khả năng thực
hiện, bao gồm tần số phơi nhiễm, nhu cầu đạt được các thông tin theo dõi về phơi nhiễm
chính xác và đầy đủ từ tất cả các đối tượng nghiên cứu.
• Đối với các phơi nhiễm tương đối phổ biến: hút thuốc lá, uống cà phê có thể xác định
dễ dàng một số lượng lớn phơi nhiễm từ quần thể.
• Đối với các phơi nhiễm hiếm: như yếu tố phơi nhiễm nghề nghiệp thì chọn đối tượng
phơi nhiễm từ quần thể đặc biệt:
- Nhóm nghề nghiệp đặc biệt như công nhân cao su, công nhân mỏ uranium, công
nhân đóng tàu.
- Nhóm người nhận một liệu pháp điều trị đặc biệt như điều trị bằng tia X viêm cột
sống dính khớp hay soi huỳnh quang nhắc lại đối với bệnh nhân lao.
- Nhóm người sống gần môi trường nghi ngờ độc hại như vùng có thử nghiệm hạt
nhân hay vùng đổ rác độc.
- Nhóm người có chế độ ăn hay lối sống bất thường
- Nhóm người hiện đang phơi nhiễm với chất độc như vùng bị ném bom nguyên tử
Hiroshima, vùng có tai nạn công nghiệp lớn.
• Ưu điểm chọn quần thể có phơi nhiễm tử những nhóm đặc biệt:
- Cho phép tích luỹ người phơi nhiễm đủ lớn trong một khoảng thời gian hợp lý
- Cung cấp bằng chứng đầu tiên về phơi nhiễm và bệnh.
- Giảm cỡ mẫu và có khả năng xác định phơi nhiễm một cách chính xác và cho
phép theo dõi đối tượng phơi nhiễm.
- Cho phép đánh giá các bệnh hiếm.
Ví dụ: Tỷ lệ mới mắc hàng năm bệnh u trung biểu mô (mesothelioma) ở nam giới trong
quần thể tổng quát của Mỹ là 8,24. 10-6. Trong khi bệnh này tương đối phổ biến ở công
nhân có phơi nhiễm với amiăng nên một nghiên cứu thuần tập trên 20000 công nhân này
có thể thu thập được một số lượng bệnh nhân đủ lớn.
• Yêu cầu khi chọn nhóm phơi nhiễm:
- Tính giá trị: phải thu thập thông tin chính xác và đầy đủ ở tất cả các đối tượng về
phơi nhiễm và bệnh. Những nhóm đặc biệt đáp ứng được tính giá trị cao.
- Sử dụng nhóm đặc biệt cho nghiên cứu kiểm tra gỉa thiết.
- Sử dụng nhóm thuần tập tổng quát để điều tra các nguy cơ phổ biến đối với các
bệnh mạn tính phổ biến, cho phép đánh giá ảnh hưởng của nhiều yếu tố nguy cơ
đối với nhiều bệnh.
3.2. Lựa chọn nhóm so sánh:
• Nguyên tắc chủ yếu của việc lựa chọn nhóm so sánh:
- Việc lựa chọn nhóm so sánh phải giống nhóm có phơi nhiễm ở tất cả các yếu tố khác
có thể liên quan đến bệnh trừ yếu tố phơi nhiễm nghiên cứu.
- Thông tin thu thập được ở nhóm so sánh đáng tin cậy và có thể so sánh được với nhóm
phơi nhiễm
• Nhóm so sánh bên trong
- Các cá thể của nhóm phơi nhiễm được chia thành các mức độ phơi nhiễm khác nhau.
- Xác lập kết hợp phơi nhiễm và bệnh và độ mạnh của kết hợp theo mức độ phơi nhiễm.
Ví dụ: Nghiên cứu thuần tập của Doll và Hill năm 1950 đã so sánh tỷ lệ tử vong do ung
thư phổi ở nhóm người không hút thuốc và người hút thuốc với các mức độ khác nhau.
Nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ chết do ung thư phổi ở người hút thuốc lá tăng cao hơn so
với người không hút thuốc lá và tỷ lệ tử vong do ung thư phổi tăng cao theo mức độ tăng
hút thuốc lá.
• Nhóm so sánh bên ngoài
Khi sử dụng nhóm có phơi nhiễm đặc biệt. Nhóm so sánh bên ngoài là quần thể tổng quát
ở vùng mà nhóm phơi nhiễm sống
Nhược điểm của nhóm so sánh từ quần thể:
- Các cá thể từ quần thể này không được so sánh trực tiếp với các cá thể ở nhóm thuần
tập chủ cứu (người đi làm thường khoẻ hơn so với người ở nhà) dẫn đến ước lượng non
nguy cơ.
Ví dụ: Nghiên cứu nguy cơ bệnh nghề nghiệp ở công nhân cao su ở Mỹ: nghiên cứu tỷ lệ
tử vong của công nhân và tỷ lệ tử vong của dân chúng Mỹ cùng tuổi và cùng giới. cho
thấy tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân ở công nhân cao su chỉ bằng 82% tỷ lệ tử
vong của quần thể tổng quát
- Không kiểm soát được yếu tố nhiễu từ quần thể tổng quát.
Khắc phục nhược điểm : nhóm so sánh từ quần thể tổng quát có các đặc trưng tương tự
nhóm chủ cứu. ví du: tỷ lệ mắc bệnh của công nhân gián tiếp hành chính của một nhà
máy có thể được so sánh với tỷ lệ mắc bệnh của những công nhân có phơi nhiễm.
• Đối với nhiều nghiên cứu thuần tập có sử dụng những nhóm có phơi nhiễm đặc biệt
Ví dụ: Trong một nghiên cứu ảnh hưởng của amiăng đến ung thư phổi: một nhóm công
nhân có phơi nhiễm với amiăng làm việc tại nhà máy dệt sơi amiăng được so sánh với
một nhóm công nhân làm việc tai các nhà maý dệt sợi bông. Việc lựa chọn nhóm thuần
tập so sánh có ưu điểm là nhóm này dễ so sánh với nhóm có phơi nhiễm hơn so với nhóm
so sánh là quần thể tổng quát.
Việc sử dụng nhóm so sánh từ quần thể tổng quát là nhóm thuần tập tương tự nhóm chủ
cứu về đặc trưng nhân khẩu học nhưng không có phơi nhiễm có thể thu thập trực tiếp về
yếu tố gây nhiễu.
• Nhiều nhóm so sánh
Thực tế là không có nhóm so sánh nào là tối ưu, đặc biệt không có một nhóm so sánh nào
có đủ những đặc trưng giống nhau so với nhóm có phơi nhiễm thì việc sử dụng nhiều
nhóm so sánh rất có ích.
Ví dụ: Trong nghiên cứu về ảnh hưởng amiăng và ung thư phổi, ngoài nhóm so sánh là
nhóm công nhân dệt sợi bông, người ta chọn thêm một nhóm so sánh nữa là những người
đàn ông chọn từ quần thể tổng quát. Tỷ lệ tử vong ở công nhân phơi nhiễm amiăng do
mọi nguyên nhân ( ung thư phổi, các bệnh hô hấp , các bệnh tim mạch do tăng huyết áp)
cao hơn so với cả hai nhóm so sánh.
3.3. Nguồn thông tin
Nguồn thông tin phơi nhiễm
• Hồ sơ có từ trước: trong nhiều nghiên cứu thuần tập, các hồ sơ có từ trước hay từ các
bệnh viện hay từ các xí nghiệp… có thể cung cấp thông tin về phơi nhiễm cũng như các
thông tin về nhân khẩu và các thông tin cần thiết khác; cung cấp thông tin về mức độ tiếp
xúc.
Ưu điểm:
- Thông tin có sẵn và không tốn kém khi thu thập
- Thông tin được ghi chép trươc khi nghiên cứu nên thông tin đáng tin cậy, khách quan
không gặp phải sai số hệ thống về tình trạng phơi nhiễm.
Ví dụ: Để nghiên cứu đánh gía sự kết hợp giữa chiếu tia và sự phát triển bệnh bạch cầu,
người ta tiến hành một nghiên cứu thuần tập trên 23.352 bệnh nhân viêm cột sống dính
khớp được điều trị bằng tia X. Những bệnh nhân này biết rõ họ có chiếu tia hay không,
nhưng họ không thể biết được liều tia mà họ nhận được. Thông tin này chỉ có trong hồ sơ
sức khoẻ.
• Hỏi đối tượng nghiên cứu: những thông tin thu được qua hỏi các đối tượng nghiên cứu
trực tiếp hay gián tiếp qua những bộ câu hỏi đã lập sẵn. Người nghiên cứu gặp phải sai số
có hệ thống và thông tin thu được không khách quan giống như dựa vào hồ sơ có trước.
Những cá thể thích hợp hay biết về sự kết hợp mà ta nghiên cứu có thể sẽ có xu hướng trả
lời theo đúng như các nhà nghiên cứu mong muốn. Tương tự , những dấu hiệu bêu xấu có
liên quan với một phơi nhiễm nào đó như uống rượu hay tiêm chích ma tuý sẽ làm ảnh
hưởng xấu đến sự trả lời của người được hỏi
• Khám sức khoẻ hay làm xét nghiệm: một số phơi nhiễm hay đặc trưng mà ta nghiên
cứu như huyết áp hay nồng độ cholesterol máu có thể sẽ không có trong hồ sơ có từ
trước. Do đó cần thiết phải khám sức khoẻ trực tiếp hay đo huyết áp. Thông tin này sẽ
cho phép ta phân loại các đối nghiên cứu theo tình trạng phơi nhiễm một cách khách quan
và không sai lệch.
• Điều tra môi trường nước và không khí: điều tra trực tiếp, xét nghiệm nước và không
khí. Tuy nhiên, sự đo lường trực tiếp này chỉ đánh giá mức độ phơi nhiễm trước khi bắt
đầu nghiên cứu.
Để có được thông tin thích hợp về phơi nhiễm trong nghiên cứu thuần tập người ta
thường có phải sử dụng phối hợp nhiều thông tin. Trong quá trình theo dõi, các cá thể
nghiên cứu sẽ thay đổi mức độ phơi nhiễm của họ như ngừng hút thuốc lá thay đổi công
việc, ăn chế độ ăn ít mỡ hơn. Việc cải tiến điều kiện và phương tiện làm việc cũng sẽ làm
thay đổi mức độ. Những thay đổi nay sẽ dẫn đến ước lượng non sự kết hợp thực sự giữa
phơi nhiễm và bệnh. Do đó trong nhiều nghiên cứu thuần tập, người ta đã tiến hành hỏi
từng cá thể nghiên cứu để kiểm tra xem xét việc phân loại phơi nhiễm. Những vấn đề cần
phaỉ phân tích là thời gian phơi nhiễm tổng cộng, sự thay đổi tình trạng phơi nhiễm và
các lý do thay đổi chúng.
Nguồn thông tin về bệnh
- Giấy chứng nhận tử vong
- Hồ sơ bệnh án hay sổ khám bệnh
- Hỏi trực tiếp đối tượng nghiên cứu bằng các bộ câu hỏi
- Khám sức khoẻ định kỳ
- Phương pháp thu thập thông tin phải giống nhau ở các nhóm có phơi nhiễm và không
phơi nhiễm
Theo dõi các đối tượng nghiên cứu
Thời gian theo dõi hay khoảng thời gian từ khi xác định tình trạng phơi nhiễm đến khi
xuất hiện bệnh liên quan đến thời kỳ ủ bệnh.
Nhìn chung thời gian theo dõi này càng dài, càng khó theo dõi đầy đủ được vì các đối
tượng nghiên cứu sẽ di chuyển chỗ ở, thay đổi nơi làm việc. Để theo dõi tốt còn phảI phối
hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau như thống kê dân số, thống kê tử vong, họ hàng và
người thân của đối tượng nghiên cứu, danh sách bầu cử…
4. Phân tích kết quả nghiên cứu
4.1.Trình bày số liệu:
Bảng1: Trình bày số liệu của nghiên cứu thuần tập bằng bảng tiếp liên 2x2
Có bệnh Không có bệnh Tổng
Có phơi nhiễm a b a+b
Không phơi nhiễm c d c+d
Tổng a+c b+ d a+b+c+d
Đối với nghiên cứu thuần tập mà thời gian theo dõi thay đổi, người ta trình bày số liệu
theo một bảng khác vì lúc này kết quả thu đựơc theo đơn vị thời gian-người các cá thể có
phơi nhiễm và không phơi nhiễm chứ không phaỉ là tổng số cá thể ở mỗi nhóm nghiên
cứu. Ngoài ra, trong trường hợp này, không cần thiết phải tính toán tỷ lệ mắc bệnh ở
nhóm có phơi nhiễm và nhóm không phơi nhiễm.
Bảng 2: Trình bày số liệu nghiên cứu thuần tập theo thời gian – người
Có bệnh Không có bệnh Tổng
Có phơi nhiễm a PY1
Không phơi nhiễm c PYo
Tổng a+c PY1+PYo
• Nguy cơ tương đối (RR)
RR= CIe/CIo=a/(a+b): c/(c+d)
Trong đó CIe: số mới mắc tích luỹ ở nhóm có phơi nhiễm
CIo: số mới mắc tích luỹ ở nhóm không phơi nhiễm
Đối với nghiên cứu thuần tập với đơn vị thời gian –người
a
I e IDe PY1
RR = = =
I o IDo c
PYo
Trong đó: IDe: tỷ lệ mật độ mới mắc ở nhóm có phơi nhiễm
IDo: tỷ lệ mật độ mới mắc ở nhóm không phơi nhiễm

- Nếu RR=1: Tỷ lệ mới mắc bệnh của cả hai nhóm phơi nhiễm và không phơi nhiễm
như nhau và do đó không có sự kết hợp giữa phơi nhiễm và bệnh.
- Nếu RR>1: Có sự kết hợp dương tính hay nguy cơ cao mắc bệnh ở nhóm có phơi
nhiễm với yếu tố nguy cơ.
- Nếu RR<1: Có một sự kết hợp ngược lại hay làm giảm nguy cơ mắc bệnh ở nhóm có
phơi nhiễm.
Bảng 3: Số liệu của một nghiên cứu thuần tập về thuốc uống tránh thai và
nhiễm khuẩn tiết niệu ở phụ nữ 16-49 tuổi
Có bệnh Không có Tổng
bệnh
Uống thuốc tránh thai 27 455 482
Không uống thuôc tránh thai 77 1831 1908
Tổng 104 2286 2390
Dựa vào bảng trên tính nguy cơ tương đối
a 27
RR = a + b = 482 = 1,4
c 77
c+d 1908
Nhận xét : Phụ nữ uống thuốc tránh thai, nguy cơ nhiễm khuẩn tiết niệu cao gấp 1,4 lần
so với những phụ nữ không uống thuốc tránh thai.
• Nguy cơ quy thuộc AR
Nguy cơ qui thuộc được tính như là chênh lệch về tỷ lệ mới mắc tích luỹ hay tỷ lệ mật độ
mới mắc tuỳ thiết kế.
AR= Ie- Io=CIe- CIo= CDe- CDo
Ví dụ: Trong một nghiên cứu về uống thuốc tránh thai và nhiễm khuẩn tiết niệu (bảng 3)
AR= CIe-CIo= a/(a+b)-c/(c+d)= 27/482-77/1908= 0,01566
Như vậy nguy cơ tăng cao nhiễm khuẩn niệu ở những phụ nữ uống thuốc tránh thai là
1566 phần 100000
• Nguy cơ quy thuộc phần trăm (AR%)
AR%= AR/Ie x 100= (Ie-Io)/Ie x 100
Ví dụ : Trong một nghiên cứu về uống thuốc tránh thai và nhiễm khuẩn tiết niệu (bảng 3)
AR%= 1566/105: 27/482 x 100 =27,96%
Như vậy uống thuốc tránh thai gây nhiễm khuẩn niệu, khoảng 28% nhiễm khuẩn niệu ở
những phụ nữ tránh thai có thể qui cho là do uống thuốc tránh thai và có thể hạn chế được
nhiễm khuẩn niệu nếu không dùng thuốc tránh thai.
• Nguy cơ quy thuộc quần thể (PAR)
PAR= IT – Io hay PAR= (AR) (Pe)
Trong đó IT: tỷ lệ bệnh của quần thể
Io: tỷ lệ mắc bệnh của nhóm không phơi nhiễm
Pe: tỷ lệ những cá thể có phơi nhiễm trong quần thể
Ví dụ: Trong một nghiên cứu về uống thuốc tránh thai và nhiễm khuẩn tiết niệu (bảng 3).
PAR= IT – Io= 104/2390-77/1908= 316/105/năm
Như vậy nếu ngừng uống thuốc tránh thai, ta có thể loại trừ sự tăng tỷ lệ mới mắc hàng
năm nhiễm khuẩn niệu ở phụ nữ là 316 phần 100000.
Để tính toán nguy cơ qui thuộc quần thể ở một nhóm lớn hơn so với nhóm mà ta nghiên
cứu, ta phải giả thuyết rẳng tỷ lệ phơi nhiễm mà ta quan sát được ở nhóm nghiên cứu
phản ánh đúng tỷ lệ phơi nhiễm ở quần thể, hoặc ta ước lượng được tỷ lệ này từ một
nguồn khác.
• Nguy cơ quy thuộc quần thể phần trăm (PAR%)
PAR%= PAR/IT x100
Ví dụ: Trong một nghiên cứu về uống thuốc tránh thai và nhiễm khuẩn tiết niệu (bảng 3)
PAR%= PAR/IT x100 = 316/105/104/2309 x 100 = 7,3%
Như vâỵ nếu uống thuốc tránh thai gây nhiễm khuẩn niệu khoảng 7,3% các trường hợp
nhiễm khuẩn niệu trong quần thể nghiên cứu (và 28% nhiễm khuẩn niệu ở những phụ nữ
dùng thuốc tránh thai) có thể phòng được nếu ngừng uống thuốc tránh thai.
2. Phiên giải kết quả nghiên cứu
Sai số hệ thống
• Sai chệch lựa chọn
• Sai chệch phân loại
Sai chệch phân loại ngẫu nhiên: sai lệch phân loại không chính xác các đối tượng nghiên
cứu giống nhau ở cả hai nhóm về phơi nhiễm và bệnh.
Sai chệch phân loại không ngẫu nhiên: sai số về phân loại phơi nhiễm hay bệnh không
như nhau ở cả hai nhóm nghiên cứu.
• Ảnh hưởng của việc mất các đối tượng nghiên cứu trong quá trình theo dõi: Nếu tỷ lệ
mất đối tượng lớn 30 - 40% sẽ dẫn đến nghi ngờ kết quả nghiên cứu.
• Ảnh hưởng của sự không tham gia nghiên cứu
Trong thực tế ở mỗi một nghiên cứu thuần tập chỉ có một phần những người đủ tiêu
chuẩn đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Ví dụ: Trong nghiên cứu về sức khoẻ của các nữ y tá ở Mỹ, trong số 172000 nữ y tá đã
lập gia đình được mời tham gia nghiên cứu có khoảng 122000 người hay 71% mong
muốn và có đủ tiêu chuẩn tham gian nghiên cứu. Những người đồng ý tham gia nghiên
cứu sẽ khác với người không đồng ý tham gia nghiên cứu về nhiều khía cạnh quan trọng
bao gồm động cơ và thái độ đối với sức khoẻ cũng như tình trạng phơi nhiễm với yếu tố
nguy cơ.
6. Những ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu thuần tập
• Ưu điểm
- Nghiên cứu thuần tập rất có giá trị trong và tối ưu khi nghiên ảnh hưởng của các phơi
nhiễm hiếm gặp
- Xác định cỡ mẫu thích hợp vì các cá thể được chọn nghiên cứu dựa trên tình trạng
phơi nhiễm
- Có thể kiểm định ảnh hưởng nhiều mặt của một phơi nhiễm đến sự phát triển nhiều
bệnh
- Có thể xác định khoảng thời gian phơi nhiễm và bệnh
- Hạn chế được sai số hệ thống với nghiên cứu thuần tập tương lai
- Tính toán trực tiếp tỷ lệ mới mắc ở hai nhóm
• Nhược điểm
- Không có hiệu quả với nghiên cứu các bệnh hiếm gặp
- Tốn kém về kinh tế và thời gian đặc biệt với nghiên cứu thuần tập tương lai
- Đồi hỏi phải có hồ sơ về phơi nhiễm và về bệnh đầy đủ với nghiên cứu thuần tập hồi
cứu
- Giá trị của kết quả nghiên cứu bị ảnh hưởng nghiêm trọng do mất các đối tượng
nghiên cứu

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Dịch tễ học Y học. Phương pháp nghiên cứu thuần tập. Bộ môn Dịch tễ học. Trường
Đại học Y Hà Nội. NXB Y học1993, tr: 159-176
2. Thực hành dịch tễ học. Phương pháp nghiên cứu thuần tập. Bộ môn Dịch tễ học,
Trường Đại học Y Hà Nội, NXB Y học 1995, tr: 118-123.
3. Nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng. Phương pháp nghiên cứu thuần tập. Trường đại học
y Hà nội. 2003. tr: 54-66

You might also like