You are on page 1of 44

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

BỘ MÔN: VIỆT NAM HỌC

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ CỦA THỤY SĨ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN: ĐỊA LÝ THẾ GIỚI

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà My

Mã sinh viên : A36514

Lớp : XV32g1

Giảng viên : TS. Hoàng Thị Thu Hương

HÀ NỘI - 2022
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu: ............................................................................................. 2
1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ .......................................................................................................... 2
1.1. Tổng quan về Thụy Sĩ .......................................................................................... 2
1.2. Thuận lợi .............................................................................................................. 3
1.3. Khó khăn .............................................................................................................. 3
2. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN THIÊN VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN .................... 4
2.1. Đất đai .................................................................................................................. 4
2.2. Khí hậu ................................................................................................................. 5
2.3. Nước ..................................................................................................................... 7
2.4. Sinh vật ................................................................................................................. 8
2.5. Khoáng sản ........................................................................................................... 9
2.6. Tài nguyên du lịch tự nhiên ................................................................................11
3. ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ – XÃ HỘI..............................................................................12
3.1. Thể chế chính trị .................................................................................................12
3.2. Dân số, lao động ..................................................................................................14
3.3. Văn hóa, xã hội ....................................................................................................16
3.4. Tài nguyên du lịch văn hóa .................................................................................18
4. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ ..............................................................................................20
4.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế .................................................................................21
4.2. Cơ cấu ngành kinh tế ..........................................................................................22
4.2.1. Nông – lâm – ngư nghiệp .................................................................................. 22
4.2.2. Công nghiệp – xây dựng ................................................................................... 23
4.2.3. Dịch vụ ............................................................................................................. 23
4.3. Cơ cấu lãnh thổ: Phân vùng kinh tế của quốc gia .............................................23
5. MỐI QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM............................................................................24
5.1. Quan hệ kinh tế ...................................................................................................24
5.1.1. Về thương mại .................................................................................................. 24
5.1.2. Về đầu tư .......................................................................................................... 25
5.2. Quan hệ giáo dục – đào tạo, văn hóa – du lịch, khoa học – kỹ thuật ................26
5.3. Quan hệ ngoại giao .............................................................................................26
6. KẾT LUẬN ...............................................................................................................27
7. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................28
PHỤ LỤC ......................................................................................................................28
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thụy Sĩ có thể nói điểm đến trong mơ của rất nhiều người yêu thích du lịch bởi mỗi vùng ở
đất nước này đều là một bức tranh phong cảnh mê hoặc lòng người và cũng là “ngôi nhà” mà
rất nhiều người dân nhập cư hướng đến. Thụy Sĩ là một quốc gia có diện tích khá khiêm tốn
nhưng lại sở hữu những thắng cảnh đẹp nhất thế giới, từ những thị trấn phủ đầy tuyết trắng
đẹp như giấc mơ cổ tích Zermatt, hồ mắt ngọc Blausee đến ngôi làng xinh đẹp tựa tiên cảnh
Bettmeralp, …
Bên cạnh những cảnh đẹp hùng vĩ hay nền văn hóa đặc sắc, con người Thụy Sĩ cũng là một
trong những yếu tố “gây thương nhớ” tại đất nước này.
Đúng chuẩ n về thời gian là mô ̣t trong những tính cách đặc trưng của người Thu ̣y Sĩ. Đúng
giờ và tôn tro ̣ng thời gian là cách ho ̣ thể hiê ̣n sự tôn tro ̣ng người khác.
Đó cũng là lý do mà ho ̣ làm nên những chiế c đồ ng hồ Thu ̣y Sĩ tinh xảo đế n đô ̣ chính xác gầ n
như tuyê ̣t đố i đươc̣ săn lùng trên toàn thế giới như Swatch, Rolex, Longines, Omega, Oris, ...
Thụy Sĩ là nơi duy nhất trên thế giới có 4 ngôn ngữ chính là ngôn ngữ của 4 quốc gia. Ở mỗi
vùng miền khác nhau ở Thụy Sĩ, người dân lại sử dụng những ngôn ngữ khác nhau. Nếu
muốn nói tiếng Đức, hãy đến Bern. Sau đó đi về phía Nam, đến Lugano học tiếng Ý và cuối
cùng là đi về phía Tây, đến Lausanne để chào "Bonjour". Ở một số vùng, người dân lại sử
dụng tiếng Romansh.
Thụy Sĩ là cỗ máy sản sinh giải Nobel. Đất nước này còn là một “tuyển thủ” toàn cầu trong
lĩnh vực học thuật. Quốc gia châu Âu này có 28 người đoạt giải Nobel trong tổng dân số
khoảng 8 triệu người
Nơi đây cũng là quê hương của công thức nổi tiếng nhất của Einstein: E=MC2. Dù được
sinh ra ở Đức nhưng nhà khoa học thiên tài này đã phát triển Lý thuyết Tương đối nổi tiếng
của ông khi đang học tập và sinh sống tại thành phố Bern.
Vậy rốt cuộc Thụy Sĩ có gì thú vị? Diện tích, dân số, văn hóa, thiên nhiên, con người ở nơi
đâu như thế nào để có thể khiến quốc gia này trở thành quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới
cùng vô số biệt danh tươi đẹp như: “Công viên của thế giới”, “Thiên đường nhân gian”, …
Đề tài “Phân tích đặc điểm địa lý của Thụy Sĩ” sẽ trả lời những câu hỏi trên.
Em xin chân thành cảm ơn cô Hoàng Thị Thu Hương đã phân công cho em tìm hiểu về quốc
gia xinh đẹp – Thụy Sĩ làm đề tài kết thúc học phần môn Nhập Môn du lịch.
Bài tiểu luận ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm 5 phần nội dung chính.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu về Thụy Sĩ như: đặc điểm địa lý, đặc điểm tự nhiên thiên nhiên và tài nguyên thiên
nhiên, đặc điểm dân cư – xã hội, đặc điểm kinh tế và mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Phân tích thuận lợi, khó khăn từ vị trí địa lý đem lại cho Thụy Sĩ.

- Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên, một số điểm đến du lịch
tự nhiên của Thụy Sĩ.

- Tìm hiểu đặc điểm dân cư – xã hội và một số tài nguyên du lịch văn hóa nổi bật của Thụy
Sĩ.

- Tìm hiểu số liệu cụ thể về nền kinh tế của Thụy Sĩ.

- Tìm hiểu mối quan hệ ngoại giao Việt Nam – Thụy Sĩ

1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

1.1. Tổng quan về Thụy Sĩ

Thụy Sĩ là một nước cộng hòa liên bang tại châu Âu. Quốc gia này gồm có 26 bang, và
thành phố Bern là nơi đặt trụ sở nhà đương cục liên bang. Quốc gia này nằm tại Tây – Trung
Âu, là một quốc gia không có biển, có biên giới với Ý về phía nam, với Pháp về phía tây,
với Đức về phía bắc, và với Áo cùng Liechtenstein về phía đông. Tọa độ chính xác: 47 độ vĩ
Bắc, 8 độ kinh Đông.

Tên chính thức: Liên bang Thụy Sĩ


Thủ đô: Thành phố Bern
Ngày Quốc khánh: Ngày 01 tháng 8
Diện tích: 41,285 km2
Dân số: 8,637 triệu người (năm 2020)

2
Ngôn ngữ: Tiếng Pháp, Đức, Ý và Romansh
Đơn vị tiền tệ: Franc Thụy Sĩ (CHF) ~ 1.07 USD (8/4/2022)
Các thành phố lớn: Bern, Zurich, Lucerne, Geneva.
Quốc kỳ: Nền đỏ chữ thập trắng với ý nghĩa tượng trưng cho một đất nước hòa
bình, trung lập, yên bình và tránh xa tất cả các cuộc chiến tranh.

1.2. Thuận lợi

Thụy Sĩ nằm ở giữa Pháp, Đức (hai cường quốc tài chính của Châu Âu), Ý và Áo.
Nó nằm trên dãy Alps và chứa các liên kết giao thông chính giữa Bắc và Nam Âu. Đây cũng
là vai trò định mệnh về mặt địa lý của quốc gia này là người bảo vệ các tuyến đường xuyên
Alpine tự nhiên của châu Âu vừa là lý do vừa là nguyên lý cơ bản cho sự tồn tại của quốc
gia — một vai trò thể hiện trong tính trung lập truyền thống của quốc gia này trong thời kỳ
chiến tranh. Ở khu vực trung tâm Alpine, có tuyến đường Saint Gotthard, con đường bắc-
nam đầu tiên và ngắn nhất xuyên qua các dãy núi và là tuyến liên kết quan trọng của châu
Âu; nó được khai trương vào đầu thế kỷ 13 với việc xây dựng một cây cầu ở Hẻm núi
Schöllenen, đi qua dãy phía bắc, trong khi dãy phía nam được vượt qua bởi Đèo St. Gotthard
ở độ cao 6.916 feet (2.108 mét). Đường hầm đường sắt Saint Gotthard dài 9 dặm (14 km)
xuyên qua đèo được mở vào năm 1882; một đường hầm đôi dài 10,5 dặm (17 km) được mở
vào năm 1980
Do đó, với dân số chỉ hơn 8 triệu người, Thụy Sĩ tự hào có 2 Thành phố Toàn cầu và là một
trong những quốc gia phát triển nhất trên thế giới, xếp hạng bằng hoặc gần hàng đầu giá trị
GDP danh nghĩa; GDP bình quân đầu người; chất lượng cuộc sống; và sự phát triển của con
người.
Địa hình của Thụy Sĩ rất đa dạng đối với một quốc gia tương đối nhỏ, nó có nhiều cảnh quan
và thời tiết địa phương khác nhau, từ băng giá đến gần Địa Trung Hải, và nó có du lịch
quanh năm
1.3. Khó khăn
Địa hình nhiều núi cũng là một trong những nguyên nhân gây nên khó khăn cho Thụy Sĩ.
Cảnh quan của Thụy Sĩ là một trong những cảnh quan bất thường nhất trên thế giới và nước
này từ lâu đã phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường đe dọa tính toàn vẹn của nó. Sự phát
triển kinh tế và mật độ dân số cao đã gây ra căng thẳng nghiêm trọng về môi trường, dẫn đến
ô nhiễm và các cuộc tranh luận về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Bên cạnh đó, Thụy Sĩ là một nước nhỏ được bao quanh bởi các nước lớn hơn nhiều có thể đe
dọa họ. Nếu họ về phe một nước thì có khả năng sẽ bị nước khác xâm lược. Thêm nữa, các
ngôn ngữ cụ thể được nói bởi mỗi bang đại diện cho cả ranh giới địa lý và văn hóa của Thụy
Sĩ. Nó có ảnh hưởng của các quốc gia gần nhất đối với họ. Hướng về phía nam và ngang qua
dãy Alps, tiếng Ý được nói; về phía tây, tiếng Pháp; trong khi tiếng Đức được nói ở phần
trung tâm và phía đông của Thụy Sĩ. Romansh chủ yếu được nói ở phía tây nam, ở Canton of
Graubünden, nơi tiếng Ý và tiếng Đức cũng là ngôn ngữ chính thức. Các bang Valais,

3
Fribourg và Bern cũng chính thức song ngữ, nói cả tiếng Pháp và tiếng Đức. Bởi vậy sẽ có
phần khó khăn khi du khách quốc tế đến thăm sẽ gặp phải rào cản ngôn ngữ và văn hóa.

2. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN THIÊN VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN


2.1. Đất đai
Thụy Sĩ có các yếu tố địa hình đa dạng khác thường, có thể chia thành ba vùng riêng biệt:
Dãy núi Jura ở phía tây bắc, dãy Alps ở phía nam và phía đông, và Mittelland, hay cao
nguyên trung tâm, giữa hai dãy núi. Jura (tiếng Celtic: “Rừng”), một dãy núi trập trùng ở
phía tây bắc, chiếm khoảng 1/8 diện tích đất nước. Khu vực này được hình thành dưới tác
động mở rộng của quá trình uốn nếp Alpine nói chung, tạo ra Jura uốn nếp tiếp giáp với
Mittelland và Jura cao nguyên dạng bảng tạo thành rìa phía bắc của dãy. Đá vôi và đá marl
của kỷ Jura với hàm lượng hóa thạch phong phú là những loại đá đặc trưng nằm dưới
Mittelland và xuất hiện trở lại ở tiền Alps. Đá vôi đã bị xói mòn theo kiểu karst điển hình,
với các hố sụt, hang động và hệ thống thoát nước ngầm phổ biến. Các rặng núi, được bao
phủ bởi đồng cỏ và chỉ có rừng thưa thớt, nhận được lượng mưa nhiều hơn so với các thung
lũng, các sườn dốc có nhiều cây cối. Nằm giữa Thung lũng Saint-Imier (Vallon St. Imier) và
sông Doubs, một con sông tạo thành một phần của biên giới với Pháp, Jura đã bị xói mòn
giảm đi để tạo thành một cao nguyên nhấp nhô kéo dài đến Pháp. Được biết đến với cái tên
Fraches Montagnes (tiếng Pháp: “Dãy núi tự do”), một cái tên được đặt vào năm 1384 khi
giám mục Basel giải phóng cư dân khỏi thuế để khuyến khích định cư ở khu vực hẻo lánh,
vùng đất này có đặc điểm là nông nghiệp hỗn hợp và chăn nuôi bò sữa. Điểm cao nhất trong
Jura, Monte Tendre, khoảng 5.500 feet (1.700 mét), nằm dưới dãy Alps; thực sự, Jura không
phải là một rào cản đáng kể đối với sự di chuyển trên bề mặt ngay cả trước khi các tuyến
đường sắt và đường cao tốc hiện đại được xây dựng. Các thung lũng ngang bị xâm thực
được gọi là các cụm đã bị xói mòn trên các rặng núi Jura, cung cấp các tuyến đường giao
thông tương đối dễ dàng.
Dãy núi Alps được xây dựng từ các phức hợp lớn của các khối đá đổ khối lớn gồm các loại
đá trầm tích, biến chất và mácma vô cùng đa dạng được tạo hình bởi quá trình băng hà. Bang
Valais có nhiều đỉnh núi Alpine nổi bật, bao gồm Dufourspitze trên khối núi Monte Rosa, ở
độ cao 15.203 feet (4.634 mét), điểm cao nhất ở Thụy Sĩ; Weisshorn (14.780 feet [4.405
mét]), nhìn ra thung lũng được gọi là Mattertal; Dom (14,912 feet [4,545 mét]), phía trên
làng Saas Fee; và Matterhorn được điêu khắc bằng băng (14,691 feet [4,478 mét]), từ lâu đã
trở thành biểu tượng của Thụy Sĩ. Dãy Alps phía bắc và phía nam của Thụy Sĩ được ngăn
cách bởi rãnh hình thành bởi thung lũng Rhône và thượng lưu sông Rhine, phần hẹp nhất là
thung lũng Urseren, nằm giữa hai khối núi trung tâm kết tinh là Gotthard và Aare.
Giữa dãy Jura và dãy Alpine chính là đồi Mittelland, chiếm gần 1/4 diện tích đất nước và
được bao bọc bởi hai dãy núi và hai hồ lớn nhất, Hồ Geneva (Lac Léman) ở phía tây và Hồ
Constance (Bodensee) ở phía đông. Vùng đất màu mỡ của Mittelland là trung tâm nông
nghiệp của đất nước và là nơi tập trung phần lớn các khu định cư, dân số và công nghiệp của
Thụy Sĩ. Hơn nữa, các tuyến đường sắt và đường cao tốc Đông-Tây quan trọng kết nối các
khu vực đô thị. Do đó, Mittelland được đô thị hóa cao, với nhiều khu đất rộng lớn được khử
trùng bởi các trung tâm mua sắm, khu nhà ở, đường ô tô, bể chứa dầu, kho chứa container,

4
nhà kho, trung tâm phân phối ô tô và các khu liên hợp công nghiệp. Điều kiện thổ nhưỡng và
nông nghiệp phản ánh sự đa dạng của khí hậu và cấu trúc địa chất của Thụy Sĩ. Các nhóm
đất chính bao gồm đất podzolic nâu xám và đất rừng nâu, hoàng thổ, trôi băng, và phù sa ở
Mittelland; đất rừng nâu, đá rendzinas, và đất sét băng giá nặng hơn ở các thung lũng Jura;
và đất lithosol và podzol hóa của dãy Alps cao.
Phân bố đất đai:
- Đất canh tác được: 10%
- Đất canh tác quanh năm: 2%
- Đất chăn thả quanh năm: 28%
- Rừng: 32%
- Mục đích khác: 28% (ước tính năm 1993)
- Đất được tưới tiêu: 250 km² (ước tính năm 1993)
2.2. Khí hậu
Khí hậu Thụy Sĩ về tổng thể là ôn đới, song có thể khác biệt lớn giữa các địa phương, từ tình
trạng băng giá trên các đỉnh núi, đến thường êm dịu tương tự khí hậu Địa Trung Hải tại mũi
phía nam của Thụy Sĩ. Có một số khu vực thung lũng nằm tại phần phía nam của Thụy Sĩ,
tại đó có một số cây cọ chịu lạnh. Mùa hè có xu hướng ấm và ẩm cùng các cơn mưa định kỳ,
thích hợp cho đồng cỏ và gia súc. Mùa đông trên các dãy núi có ít ẩm hơn, có thể ổn định
trong một thời gian dài nhiều tuần, trong khi tại các vùng thấp có xu hướng nghịch ôn trong
các giai đoạn này, do đó không có Mặt trời trong nhiều tuần.
Một hiện tượng thời tiết gọi là phơn có thể xảy ra tại bất kỳ lúc nào trong năm và mang đặc
điểm là gió ấm bất ngờ, khiến không khí có độ ẩm tương đối rất thấp tại phía bắc của Alpes
trong các giai đoạn mưa tại sườn nam của Alpes. Hiện tượng này xảy ra theo cả hai hướng
qua Dãy Alpes, song phổ biến hơn là gió thổi từ miền nam. Tình trạng khô hạn nhất tồn tại
trong toàn bộ các thung lũng núi cao nội địa, chúng nhận được mưa ít hơn do các đám mây
mất đi phần lớn lượng ẩm khi vượt qua các dãy núi trước khi tiếp cận đến chúng. Các khu
vực núi cao lớn như Graubünden vẫn khô hạn hơn các khu vực trước núi cao và như tại
thung lũng chính của Valais các loại nho được trồng để làm rượu vang.
Tình trạng ẩm nhất tồn tại trên vùng núi Alpes cao và tại bang Ticino, tại đó có nhiều ánh
nắng gây các cơn mưa lớn. Giáng thủy có xu hướng trải vừa phải quanh năm với đỉnh điểm
vào mùa hè. Mùa thu là mùa khô hạn nhất, mùa đông có ít giáng thủy hơn mùa hè, song mô
hình thời tiết tại Thụy Sĩ không phải là một hệ thống ổn định và có thể biến thiên từ năm này
sang năm khác.
Các điều kiện thời tiết áp suất cao ổn định phổ biến ở Trung Âu và dãy Alps trong suốt mùa
thu và mùa đông tạo ra các khối không khí lạnh dẫn đến sương mù ở vùng đất thấp, một hiện
tượng khí hậu với hậu quả rất khác nhau. Các miệng của các thung lũng phía bắc Alpine, các
lưu vực của Dãy núi Jura, các làng mạc và thành phố ở các vùng thấp của Mittelland được
bao phủ trong nhiều ngày và thường là trong nhiều tuần liên tục, trong khi các thị trấn nằm ở
độ cao hơn được hưởng ấm áp, rực rỡ, cao - điều kiện áp suất và tầm nhìn ra biển sương mù
lấp lánh bên dưới. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các vị trí núi và thung lũng ở gần nhau có thể
khá rõ rệt, với độ cao cao hơn sẽ có chỉ số nhiệt độ cao hơn. Sự nghịch đảo nhiệt độ thường
5
xuyên đã làm cho các khu nghỉ dưỡng trên cao của Thụy Sĩ trở thành những nơi tốt cho sức
khỏe ngay cả trong mùa đông và đã giúp mùa đông Alpine trở nên phổ biến ở châu Âu đối
với các môn thể thao; Thêm vào đó, do sự nghịch đảo này, không khí ô nhiễm ít phổ biến
hơn ở những vùng có độ cao so với vùng đất thấp. Trên thực tế, sự nghịch đảo nhiệt độ ảnh
hưởng đến Mittelland có xu hướng giữ không khí ô nhiễm trong nhiều tuần khi hoạt động
xoáy thuận đình trệ.
Với sự gia tăng của du lịch mùa đông, nghiên cứu về tuyết lở đã phát triển như một nhánh
của khí hậu Alpine, và vào mùa đông, trạm nghiên cứu gần Davos phát hành các bản tin về
tuyết lở hàng ngày như một lời cảnh báo cho dân làng và khách du lịch. Các bang Alpine có
khoảng 10.000 trận tuyết lở hàng năm, với khoảng 4/5 trong số đó xảy ra vào tháng Hai,
tháng Ba và tháng Tư. Trong nhiều thế kỷ, các xã thôn đã dựa vào rừng trên các sườn núi để
bảo vệ khỏi những trận trượt này, bởi vì một khu rừng 20 đến 30 năm tuổi có thể ngăn chặn
hoặc ngăn chặn những trận lở tuyết nhỏ. Các ngôi làng, đường cao tốc và đường đi trên dãy
Alpine cũng được bảo vệ bởi các cấu trúc nhân tạo đắt tiền như rào chắn kim loại, tường đất,
nêm và vỏ bê tông. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 20, mưa axit đã gây ra bệnh tật và chết chóc
cho nhiều cây cối ở các vùng núi của Thụy Sĩ và đe dọa nghiêm trọng đến khả năng hoạt
động như rào cản của chúng đối với tuyết lở. Trong rừng núi, khoảng hai phần năm số cây
được xếp vào loại hư hại, ốm yếu hoặc chết. Luật kiểm soát ô nhiễm trên khắp châu Âu đã
giúp giảm thiểu tác hại của mưa axit ở Thụy Sĩ, và một nỗ lực phối hợp đã được thực hiện
bởi các nhà quản lý đất của Thụy Sĩ để đưa những cây khỏe mạnh vào đồng cỏ Alpine chưa
sử dụng và tăng mật độ rừng Alpine hiện có. Vào đầu thế kỷ 21, các khu rừng kiểm soát
tuyết lở đã trở nên khỏe mạnh và dày đặc hơn, đặc biệt là ở độ cao cao hơn và ở địa hình dốc
hơn.

6
2.3. Nước

(Hình 2.1. Nguồn nước của châu Âu)


Thụy Sĩ là một quốc gia giàu nước. Các hồ và sông chiếm khoảng 4% diện tích bề mặt của
nó. Nó có khoảng 61.000 km sông suối và khoảng 1.500 hồ. Thụy Sĩ cũng có 6% trữ lượng
nước ngọt của châu Âu, và các sông Rhone, Rhine và Inn đều có đầu nguồn ở đây. Vào mùa
hè, dòng chảy từ dãy Alps chảy vào đồng bằng sông Rhine, Rhone, Po và sông Danube.
Thụy Sĩ có vô số sông và khoảng 1.500 hồ, trong đó lớn nhất là Hồ Geneva và Hồ
Constance. Đất nước này là một hồ chứa khổng lồ nằm ngay trong lòng lục địa. Đây là lý do
tại sao nó còn được gọi là "tháp nước của châu Âu".
Những nguồn dự trữ này được cung cấp bởi nước mưa dư thừa, nước suối và dòng chảy từ
tuyết và sông băng tan chảy. Các hồ và sông ở Thụy Sĩ có nhiều hình dạng và kích cỡ và
chất lượng nước của chúng tốt đến mức hầu như tất cả đều đủ sạch để bơi vào.
Hồ Thụy Sĩ
Các hồ lớn nhất của đất nước - Hồ Geneva, Hồ Neuchâtel và Hồ Bienne - nằm ở chân núi
của Jura. Hồ Geneva, được chia sẻ bởi Pháp và Thụy Sĩ, là hồ nước ngọt lớn nhất ở trung
tâm châu Âu. Với độ cao 218km2, hồ Neuchâtel là hồ lớn nhất nằm trên lãnh thổ Thụy
Sĩ. Hồ Constance và Hồ Zurich nằm trong Cao nguyên Trung tâm, trong khi Hồ Thun, Hồ
Brienz, Hồ Zug và Hồ Lucerne nằm ở Pre-Alps và phần phía bắc của Alps. Hồ Lugano và
Hồ Maggiore nằm ở phía nam của dãy núi Alps của Thụy Sĩ. Ngoài ra còn có hàng trăm hồ
và hồ chứa nhỏ tự nhiên, hầu hết trong số đó là ở dãy núi Alps.

7
Khối núi Gotthard - lưu vực châu Âu
Thụy Sĩ có khoảng 61.000 km sông và suối. Thị phần lớn nhất là ở bang Graubünden; tổng
chiều dài các tuyến đường thủy của nó lên đến khoảng 11.000 km. Đầu nguồn của Rhone,
Rhine, Reuss và Ticino nằm trong khối núi Gotthard. Nguồn của River Inn là ở Graubünden
Alps; Sông Aare bắt nguồn từ Bernese Alps. Đèo Gotthard tạo thành đường phân thủy giữa
Địa Trung Hải và Biển Bắc. Sông Reuss chảy vào sông Aare, hợp lưu với sông Rhine tại
Koblenz ở phía tây bắc của Thụy Sĩ. Sông Ticino đổ vào sông Po ở Ý. Các con sông lớn của
châu Âu cũng chạy qua Thụy Sĩ: sông Rhine dài 375 km, sông Rhone hơn 264 km và sông
Inn 90 km. Sông Rhine chảy vào Biển Bắc, sông Rhone vào Địa Trung Hải, và Inn vào Biển
Đen, qua sông Danube.
Nước uống
Con người, động vật và thực vật không thể tồn tại nếu không có nước. Thụy Sĩ nổi tiếng về
chất lượng nước ngầm. Chất lượng nước uống tốt đến mức 40% không cần xử lý trước khi
đến tay người tiêu dùng. Các hộ gia đình Thụy Sĩ tiêu thụ trung bình 162 lít nước mỗi ngày,
mỗi người. Nước ở hầu hết các đài phun nước công cộng của Thụy Sĩ đều an toàn để uống.
Thủy điện - nguồn năng lượng tái tạo
Khoảng 56% sản lượng điện được tạo ra ở Thụy Sĩ là từ thủy điện. Hai phần ba được sản
xuất ở các bang miền núi Uri, Graubünden, Ticino và Valais. Nhờ địa hình và lượng mưa
hàng năm cao, Thụy Sĩ là nơi lý tưởng để sản xuất thủy điện. Thủy điện vẫn là nguồn năng
lượng tái tạo trong nước chính của đất nước.
2.4. Sinh vật
Thảm thực vật ở Thụy Sĩ có nguồn gốc từ bốn khu vực khí hậu châu Âu hội tụ trong nước và
chịu ảnh hưởng của sự khắc nghiệt khác nhau. Nó bao gồm những con đỉa và cây sồi của
vùng biển phía tây; cây sừng và cây thông rụng lá ở phía đông lục địa hơn, chủ yếu ở
Engadin và Valais khô; những khu rừng vân sam rộng lớn ở vùng cận núi phía bắc; và rừng
dẻ ở phía nam. Sự khác biệt về thảm thực vật thể hiện rõ ở các thung lũng Alpine do tiếp xúc
với ánh nắng mặt trời. Ranh giới thảm thực vật ở phía nam của đất nước cao hơn vài trăm
feet - ví dụ như ở Valais - so với phía bắc do tiếp xúc với phía nam. Thảm thực vật trên núi,
tương tự như của lãnh nguyên Bắc Cực, chiếm ưu thế trên hàng cây. Nó rất dễ bị xói mòn do
tác động của trượt tuyết và do các đường mòn hoặc đường mòn dành cho xe bốn bánh cắt
vào các sườn núi.
Đời sống động vật của Thụy Sĩ chủ yếu là Alpine, nhưng cũng có một hỗn hợp các loài quen
thuộc với miền Nam và Bắc Trung Âu. Cuộc sống của động vật được bảo vệ, ngoại trừ trong
một mùa săn ngắn hàng năm. Khách du lịch Alpine có thể quan sát những con bọ ngựa sống
trên đồng cỏ cao và sơn dương. Các đàn lớn của ibex tròn, đã chết ở dãy núi Alps của Thụy
Sĩ và kể từ đó đã được giới thiệu trở lại, sinh sống ở một số khu vực, đặc biệt là ở vùng
Bernina của Graubünden (bang) và ở Saastal của Valais. Trong các khu rừng có hươu, nai,
thỏ, cáo, lửng, sóc, và nhiều loại chim, kể cả đại bàng, trong khi cá hồi ở hồ và sông có thể
được tìm thấy nhưng không còn nhiều như xưa. Rắn và thằn lằn tập trung ở phía nam, nhưng
côn trùng, rất đa dạng, được phân tán khắp cả nước.

8
Đa dạng sinh học
Thụy Sĩ tự hào có cảnh quan vô cùng đa dạng, cung cấp môi trường sống cho vô số loài,
ngay tại trung tâm châu Âu. Thụy Sĩ có hơn 230 môi trường sống tự nhiên, bao gồm đồng
cỏ, bờ sông, đồng hoang, rừng và thậm chí cả ở các khu vực đô thị. Đây cũng là nơi sinh
sống của khoảng 64.000 loài sinh vật. Trong số này, 45.890 được ghi nhận. Sự đa dạng của
các loài đặc biệt cao ở các vùng núi và các khu rừng. Sông, suối cũng là môi trường sống
không thể thay thế của nhiều loài sinh vật quý hiếm.
Thụy Sĩ là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới theo dõi sự đa dạng sinh học. Các
chuyên gia thường xuyên tổng hợp các bản kiểm kê về các loài động vật và thực vật được
tìm thấy trên mọi miền đất nước. Đa dạng sinh học đã biến động đáng kể trong nhiều thế
kỷ. Người ta cho rằng đa dạng sinh học của Thụy Sĩ đạt đỉnh vào cuối những năm 1800. Sự
đa dạng sinh học ở Thụy Sĩ đã suy giảm kể từ năm 1900 bất chấp những nỗ lực bảo tồn. Có
tổn thất ở cả ba cấp độ: đa dạng hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng di truyền. Ngày nay,
một nửa số môi trường sống tự nhiên và một phần ba số loài ở Thụy Sĩ đang bị đe dọa. Các
nguyên nhân chính của sự suy giảm đa dạng sinh học là sự mở rộng đô thị, sự lây lan của các
loài ngoại lai xâm hại và các loại thuốc trừ sâu và nitơ đầu vào từ đất nông nghiệp.
2.5. Khoáng sản
Đất nước này hầu như không có nhiều tài nguyên khoáng sản.
Đá và đất
Đá và đất thuộc về tài nguyên thiên nhiên phi kim loại, chúng có giá trị trong ngành xây
dựng và vật liệu. Phần lớn đất & đá cần thiết được khai thác và xử lý bên trong Thụy Sĩ.

(Hình 2.2. Bản đồ thể hiện các mỏ đá và đất ở miền Trung Thụy Sĩ được sử dụng vào năm
1995: đá sa thạch (màu cam), đá vôi (màu xanh), đá marlstone và đá sét (màu xám)
- Atlas der Schweiz 2013)
9
Khoáng sản công nghiệp:
Các khoáng sản công nghiệp nổi tiếng được khai thác và sử dụng công nghiệp trên quy mô
lớn ở Thụy Sĩ ngày nay là:
- Muối mỏ
- Thạch cao
- Đất sét đặc biệt
Ở Thụy Sĩ, đá muối gắn liền với chân trời bay hơi được tạo ra vào thời kỳ Trias khoảng 230-
240 triệu năm trước. Ngày nay, các mỏ muối được khai thác tại Bex (bang Vaud) cũng như
Schweizerhalle (bang Basel) và Riburg (bang Aargau). Khoảng 30% lượng muối chiết xuất
được dùng trong công nghiệp và thương mại, 25% để khử băng đường và khoảng 15% dùng
làm muối ăn.

(Hình 2.3. Khai thác và sản xuất muối ở Thụy Sĩ)


Các trầm tích thạch cao được tìm thấy chủ yếu ở các trầm tích Trias của dãy núi Jura và dãy
Alps. Thạch cao hiện đang được khai thác ở Bex / VD, Granges / VS, Leissigen / BE và
Kerns / OW. Thạch cao chủ yếu được sử dụng trong xây dựng, nhưng cũng được sử dụng
trong các ngành công nghiệp gốm sứ và thủ công.
Các khoáng sản công nghiệp khác, trước đây có tầm quan trọng và được khai thác ở Thụy
Sĩ, trong số những loại khác:
- Amiăng
- Talc
- Fenspat
- Barite
10
- Fluorit
- Thạch anh
- Mica
- Olivine
Mỏ
Sự khởi đầu của quá trình khai thác lịch sử ở Thụy Sĩ cách đây 3500 năm. Các địa điểm khai
thác từ thế kỷ 14 và 15 được biết đến ở Graubünden và Wallis. Sự phát triển kỹ thuật của các
kỷ nguyên khác nhau đã ảnh hưởng đến khai thác mỏ: Thế kỷ 16 và 17 thể hiện ở nhiều nơi,
một đỉnh cao trong sự phát triển của ngành khai khoáng, giống như nửa đầu thế kỷ 19. Việc
khai thác đã bị giảm sút nghiêm trọng trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới. Hai mỏ quặng
sắt cuối cùng đã bị đóng cửa vào những năm 1960; Năm 1967 chắc chắn là năm kết thúc
khai thác ở Thụy Sĩ.
2.6. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Thụy Sĩ là quốc gia đồi núi, có trên 40 dãy núi cao trên 4.000m so với mặt nước biển với dãy
Alps nổi tiếng thế giới. Phong cảnh thiên nhiên của Thụy Sĩ tuyệt đẹp với những đỉnh núi
cao trên dãy Alps, những dòng sông băng và nhiều hồ nước đẹp. Thụy Sĩ có 1 vườn quốc
gia, 9 khu bảo tồn thiên nhiên và có 6 di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận.
Các di sản này đều là những địa danh có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. 80% khách du lịch
cho rằng, thiên nhiên là lý do chính để đi du lịch đến Thụy Sĩ. Chính phủ Thụy Sĩ ước tính
thiên nhiên và cảnh quan mang lại 2,5 tỷ franc Thụy Sĩ dịch vụ công mỗi năm.
Vườn quốc gia Thụy Sĩ nằm ở Engadin và là khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất của Thụy Sĩ.
Đây là công viên quốc gia đầu tiên ở dãy Alps và Trung Âu, được biết đến với sự phong phú
của các loài động vật và thực vật Alpine trong một cảnh quan nguyên sơ hầu như không thay
đổi. Du khách có thể chiêm ngưỡng những dòng sông trong xanh quanh co, những đỉnh núi
tuyệt đẹp và những khu rừng rậm trên núi cao xinh đẹp. Vườn quốc gia Thụy Sĩ là nơi dành
cho những ai yêu thích thiên nhiên, yêu thích phong cảnh núi non tuyệt đẹp ở Thụy Sĩ. Với
hầu hết diện tích còn khá hoang sơ, vùng đất này là nơi mà các loại động vật, thực vật được
phát triển tốt nhất trong môi trường bản địa của chúng.
Di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận:
- Khu bảo tồn Jungfrau-Aletsch (tên chính thức là Alpes Thụy Sĩ Jungfrau-Aletsch) là một
khu vực bảo vệ nằm ở tây nam Thụy Sĩ giữa các bang Bern và Valais. Đây là khu vực miền
núi ở cực đông của dãy núi Alpes Bernese chứa các vách núi phía bắc của
đỉnh Jungfrau và Eiger và khu vực băng hà lớn nhất phía tây lục địa Á-Âu, bao gồm sông
băng Aletsch. Khu bảo tồn này là Di sản thiên nhiên thế giới đầu tiên của UNESCO trên khu
vực dãy núi Alpes khi nó được công nhận vào năm 2001.
- Kiến tạo Arena Sardona: Kiến tạo Arena Sardona của Thụy Sĩ ở phía đông bắc của đất
nước bao gồm một khu vực miền núi có bảy đỉnh cao trên 3.000 m (9.800 ft). Khu vực này
hiển thị một ví dụ đặc biệt về việc kiến tạo núi bởi sự va chạm lục địa và hiển thị một ví dụ
rõ ràng về kiến tạo đẩy, tức là quá trình theo đó những tảng đá già hơn, sâu hơn được chuyển

11
sang đá trẻ hơn, nông hơn. Nơi này đã là một địa điểm quan trọng của khoa học địa chất từ
thế kỷ 18
- Monte San Giorgio: Ngọn núi có nhiều cây cối, hình kim tự tháp của Monte San Giorgio
bên cạnh Hồ Lugano được coi là bản ghi hóa thạch tốt nhất của sinh vật biển từ Kỷ
Trias (245–230 triệu năm trước). Nó ghi lại cuộc sống trong môi trường đầm phá nhiệt đới,
được che chở và ngăn cách một phần với biển bởi một rạn san hô. Đa dạng sinh vật biển
phát triển mạnh mẽ trong đầm phá này, bao gồm các loài bò sát, cá, hai mảnh, da thú, da gai
và giáp xác. Bởi vì đầm phá gần đất liền, những di tích còn lại bao gồm các hóa thạch trên
đất liền của các loài bò sát, côn trùng và thực vật, tạo thành nguồn hóa thạch vô cùng phong
phú.

3. ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ – XÃ HỘI


3.1. Thể chế chính trị
Thụy Sĩ là một nhà nước liên bang. Điều này có nghĩa là các quyền lực nhà nước được phân
chia giữa liên bang, các bang và các quận. Các bang và các quận có nhiều quyền hạn và có
nguồn thu nhập riêng.
Cơ cấu hành chính: 26 bang (Aargau, Appenzell Ausser-Rhoden, Appenzell InnerRhoden,
Basel-Landschaft, Basel-Stadt, Bern, Fribourg, Geneve, Glarus, Graubunden, Jura, Luzern,
Neuchatel, Nidwalden, Obwalden, Sankt Gallen, Schaffhausen, Schwyz, Solothurn,
Thurgau, Ticino, Uri, Valais, Vaud, Zug, Zurich)
Lãnh đạo chủ chốt hiện nay:
- Nguyên thủ quốc gia:
+ Chủ tịch Liên bang Thụy Sĩ Ignazio Cassis (kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2022;
+ Phó Tổng thống Alain Berset (kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2022);
Lưu ý - Hội đồng liên bang, bao gồm 7 ủy viên hội đồng liên bang, tạo thành chính phủ liên
bang của Thụy Sĩ; hội đồng các thành viên luân phiên nhiệm kỳ 1 năm của tổng thống liên
bang (quốc trưởng và người đứng đầu chính phủ)
- Người đứng đầu chính phủ:
+ Chủ tịch Liên bang Thụy Sĩ Ignazio Cassis.
+ Phó Tổng thống Alain Berset.
Nội các: Hội đồng Liên bang hoặc Thượng viện (bằng tiếng Đức), Conseil Federal (bằng
tiếng Pháp), Consiglio Federale (bằng tiếng Ý) được bầu gián tiếp bởi Quốc hội liên bang
với nhiệm kỳ 4 năm.
Bầu cử / bổ nhiệm: tổng thống và phó tổng thống do Hội đồng Liên bang bầu ra trong số
các thành viên của Hội đồng Liên bang với nhiệm kỳ 1 năm, không liên tục.
Lập pháp: lưỡng viện Liên bang hoặc Bundesversammlung (bằng tiếng Đức), Assemblée
Fédérale (bằng tiếng Pháp), Assemblea Federale (bằng tiếng Ý) bao gồm: Hội đồng các bang
hoặc Ständerat (bằng tiếng Đức), Conseil des États (bằng tiếng Pháp), Consiglio degli Stati

12
(bằng tiếng Ý) (46 ghế; các thành viên trong các khu vực bầu cử nhiều ghế đại diện cho các
bang và các khu vực bầu cử một ghế đại diện cho các nửa bang được bầu trực tiếp theo đa số
đơn giản bỏ phiếu ngoại trừ các bang Jura và Neuchatel sử dụng phiếu đại diện theo tỷ lệ;
nhiệm kỳ thành viên được điều chỉnh bởi luật bang)
Hội đồng quốc gia hoặc Nationalrat (bằng tiếng Đức), Conseil National (bằng tiếng Pháp),
Consiglio Nazionale (bằng tiếng Ý) (200 ghế; 195 thành viên ở các bang được bầu trực tiếp
bằng phiếu đại diện theo tỷ lệ và 6 trong nửa bang được bầu trực tiếp bằng đa số phiếu đơn
giản; các thành viên phục vụ Kỳ hạn 4 năm) (ví dụ: 2019)
Tư pháp:
- Tòa án cao nhất: Tòa án tối cao liên bang (gồm 38 thẩm phán và 19 phó thẩm phán
được tổ chức thành 7 bộ phận)
- Lựa chọn thẩm phán và nhiệm kỳ: thẩm phán do Quốc hội Liên bang bầu ra với
nhiệm kỳ 6 năm;
Lưu ý - thẩm phán liên kết với các đảng phái chính trị và được bầu theo tiêu chí ngôn
ngữ và khu vực theo tỷ lệ gần đúng với mức độ đại diện của đảng trong Quốc hội
Liên bang
- Các tòa án cấp dưới: Tòa án Hình sự Liên bang (thành lập năm 2004); Tòa án Hành
chính Liên bang (thành lập năm 2007);
Lưu ý - mỗi bang trong số 26 bang của Thụy Sĩ đều có các tòa án riêng
Các đảng phái chính trị:
1. Đảng Nhân dân Dân chủ Cơ đốc
2. Đảng Dân chủ Bảo thủ
3. Đảng Dân chủ Tự do
4. Đảng Tự do Xanh
5. Đảng Xanh
6. Đảng Dân chủ Xã hội
7. Đảng Nhân dân Thụy Sĩ
Chính sách đối ngoại:
Thụy Sĩ theo đuổi chính sách đối ngoại trung lập nhằm giữ độc lập và bảo vệ lợi ích dân tộc,
tăng cường vị thế trên thế giới. Chính sách đối ngoại trung lập là công cụ quan trọng, xuyên
suốt và là nội dung chủ yếu của nền ngoại giao Thụy Sĩ từ 1815 tới nay.
Thụy Sĩ nhấn mạnh chính sách đối ngoại phải dựa trên luật pháp. Luật pháp quốc tế là công
cụ để bảo vệ quyền lợi các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nhỏ và quan hệ quốc tế cần
được tiến hành trên các quy định của luật pháp quốc tế. Do đó, việc tôn trọng pháp luật quốc
tế là điểm đặc trưng và nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Thụy Sĩ.
Thụy Sĩ không thực hiện chính sách đối ngoại trung lập theo một định chế cứng nhắc mà vận
dụng chính sách này như một công cụ mềm dẻo, thích hợp trong từng thời kỳ để bảo vệ lợi

13
ích quốc gia. Chính phủ Thụy Sĩ cho rằng chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhưng tình hình
chính trị, an ninh thế giới vẫn căng thẳng, mất ổn định, nguy hiểm, do đó chính sách trung
lập vẫn là một công cụ thích hợp cho việc thực thi chính sách đối ngoại và đảm bảo an ninh
của mình. Thụy Sĩ cam kết không đứng vào bên nào trong các cuộc xung đột theo trách
nhiệm và nghĩa vụ luật quốc tế quy định đối với các quốc gia trung lập. Mặc dù là nơi đặt trụ
sở lớn thứ hai của Liên Hợp Quốc (sau New York), đến năm 2002, Thụy Sĩ mới gia nhập tổ
chức này. Những mục tiêu chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Thụy Sĩ:
- Cùng tồn tại hòa bình giữa nhân dân các dân tộc;
- Thúc đẩy và tôn trọng nhân quyền;
- Phát triển môi trường bền vững;
- Đại diện cho lợi ích của doanh nghiệp Thụy Sĩ ở nước ngoài;
- Chống đói nghèo trên thế giới.
Thụy Sĩ có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới và tham gia vào nhiều Tổ
chức quốc tế và khu vực như: Liên Hợp quốc (UN), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD), Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE), ...
Các tổ chức quốc tế đã tham gia: ADB (thành viên ngoài khu vực), AfDB (thành viên
ngoài khu vực), Australia Group, BIS, CD, CE, CERN, EAPC, EBRD, EFTA, EITI (quốc
gia thực hiện), ESA, FAO, FATF, G-10, IADB, IAEA, IBRD , ICAO, ICC (ủy ban quốc
gia), ICCt, ICRM, IDA, IEA, IFAD, IFC, IFRCS, IGAD (đối tác), ILO, IMF, IMO, IMSO,
Interpol, IOC, IOM, IPU, ISO, ITSO, ITU, ITUC (NGOs), LAIA (quan sát viên), MIGA,
MINUSMA, MONUSCO, NEA, NSG, OAS (quan sát viên), OECD, OIF, OPCW, OSCE,
Liên minh Thái Bình Dương (quan sát viên), Câu lạc bộ Paris, PCA, PFP, Công ước
Schengen, UN , UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UNITAR, UNMISS, UNMOGIP,
UNRWA, UNTSO, UNWTO, UPU, WCO, WHO, WIPO, WMO, WTO, ZC.
3.2. Dân số, lao động
Dân số: 8,637 triệu người (năm 2020);
Dân tộc: Thụy Sĩ 69,3%, Đức 4,2%, Ý 3,2%, Bồ Đào Nha 2,5%, Pháp 2,1%, Kosovar 1,1%,
Thổ Nhĩ Kỳ 1%, khác 16.6% (ước tính năm 2019);
Ngôn ngữ: Tiếng Đức (hoặc tiếng Đức Thụy Sĩ) (chính thức) 62,1%, tiếng Pháp (chính
thức) 22,8%, tiếng Ý (chính thức) 8%, tiếng Anh 5,7%, tiếng Bồ Đào Nha 3,5%, tiếng
Albania 3,3%, tiếng Serbo-Croatia 2,3%, tiếng Tây Ban Nha 2,3%, tiếng La Mã (chính thức)
0,5%, khác 7,9% (ước tính năm 2019);
Tôn giáo: Công giáo La mã 34,4%, Tin lành 22,5%, Thiên chúa giáo khác 5,7%, Hồi giáo
5,5%, tôn giáo khác 1,6%, không tôn giáo 29,5%, không xác định 0,8% (ước tính năm
2019);
Cơ cấu dân số: (ước tính năm 2020)
- 0-14 tuổi: 15,34% (nam 664.255 / nữ 625.252)
- 15-24 tuổi: 10,39% (nam 446.196 / nữ 426.708)

14
- 25-54 tuổi: 42,05% (nam 1.768.245 / nữ 1.765.941)
- 55-64 tuổi: 13,48% (nam 569.717 / nữ 563.482)
- 65 tuổi trở lên: 18,73% (nam 699.750 / nữ 874.448)

(Biểu đồ 3.1. Kim tự tháp dân số Thụy Sĩ năm 2020)


Tỉ lệ gia tăng dân số: 0,65% (ước tính năm 2022)
Tuổi thọ: (ước tính năm 2022)
- Tổng dân số: 83,23 tuổi
- Nam: 80,91 tuổi
- Nữ: 85,67 tuổi
Chi phí khám chữa bệnh: 11,3%/GDP (Năm 2019)
Chi phí giáo dục: 4.9% GDP (ước tính năm 2018)
Lực lượng lao động: 5,159 triệu người (ước tính năm 2017)
Lực lượng lao động chia theo lĩnh vực: (ước tính năm 2015)
- Nông nghiệp: 3,3%
- Công nghiệp: 19,8%
- Dịch vụ: 76,9%
Tỉ lệ thất nghiệp:

15
- 2,4% (tháng 3 năm 2022)
- 3,4% (tháng 3 năm 2021)

(Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ thất nghiệp Thụy Sĩ)


3.3. Văn hóa, xã hội
Mặc dù Thụy Sĩ nhỏ và tương đối biệt lập với các trung tâm văn hóa được công nhận rộng
rãi hơn, nhưng nó vẫn có thể tự hào về một danh sách ấn tượng về những đóng góp cho nghệ
thuật và khoa học. Ví dụ, Thụy Sĩ đã giành được nhiều giải Nobel và đăng ký nhiều bằng
sáng chế trên đầu người hơn bất kỳ quốc gia nào khác, và quốc gia này có rất nhiều tổ chức
văn hóa, bảo tàng và thư viện, tất cả đều được hỗ trợ từ quỹ liên bang. Tuy nhiên, vì cơ hội ở
nhà hạn chế, một số bộ óc sáng tạo nhất của Thụy Sĩ — chẳng hạn như kiến trúc sư Le
Corbusier và họa sĩ Paul Klee — đã đi nơi khác làm việc. Mặt khác, tính trung lập truyền
thống của Thụy Sĩ và luật tị nạn chính trị của nó đã khiến đất nước này trở thành một thỏi
nam châm thu hút nhiều người sáng tạo trong thời kỳ bất ổn hoặc chiến tranh ở châu Âu. Ví
dụ, các nhà văn như nhà thơ Anh George Byron, tiểu thuyết gia người Ireland James Joyce,
nhà thơ Pháp gốc Romania Tristan Tzara, và nhà văn Pháp Voltaire sống ở Thụy Sĩ, và trong
những năm 1930 và 40, sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít đã gây ra một số nhà văn Đức, Áo
và Ý như Thomas Mann, Stefan George, và Ignazio Silone để tìm kiếm bến cảng ở Thụy Sĩ.
Vị trí trung tâm địa lý của Thụy Sĩ ở châu Âu được phản ánh trong vai trò của nó là Helvetia
mediatrix (“Thụy Sĩ là người hòa giải”). Tinh thần của Henri Dunant, người sáng lập Ủy ban
Chữ thập đỏ Quốc tế, tiếp tục với ý nghĩa về một sứ mệnh riêng biệt của liên minh văn hóa
được nhiều người Thụy Sĩ chia sẻ, một sứ mệnh cũng được bộc lộ trong các chương trình hỗ
trợ nước ngoài mở rộng của đất nước các nước kém phát triển. Kể từ những năm 1990, khi
Chiến tranh Lạnh kết thúc và sự sụp đổ của sự phân chia lưỡng cực trên thế giới, Thụy Sĩ đã
phải đánh giá lại và xác định lại vai trò truyền thống này. Nó không còn có thể đóng vai trò
là người đi đường giữa cho các khối quyền lực lớn; thay vào đó, các sáng kiến hòa bình quốc
tế giờ đây thường được đưa vào các tổ chức như LHQ hoặc EU, và cho đến khi nước này gia
nhập LHQ vào năm 2002, Thụy Sĩ không phải là thành viên của cả hai nước.
16
Nếu “văn hóa Thụy Sĩ” có thể được nói đến với hàm ý rộng lớn hơn ngoài nghệ thuật, các
giới văn hóa đặc biệt của Pháp, Ý và Đức phải được công nhận, cũng như văn hóa Rhaeto-
Romanic, vốn đã bị đe dọa bởi ảnh hưởng ngày càng tăng của Tiếng Đức ở vùng Romansh
phía đông Thụy Sĩ, được phổ biến rộng rãi qua các phương tiện truyền hình. Hầu hết các tầm
nhìn chính trị và thể chế chung - chủ nghĩa liên bang, dân chủ trực tiếp, chủ nghĩa cá nhân và
ý chí không bị chi phối bởi các quốc gia lớn xung quanh, thường là tập trung - cả hai đều
đoàn kết người Thụy Sĩ và tạo thành văn hóa của họ.
Một số người coi ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng là một mối đe dọa
đối với văn hóa và truyền thống Thụy Sĩ, cả vì tác động đồng nhất của nó và bởi vì các
nhóm ngôn ngữ khác nhau hiện có thể tiếp nhận và bị ảnh hưởng bởi truyền hình và đài phát
thanh trong môi trường văn hóa tương ứng của Đức, Pháp, và Nước Ý. Những người chỉ
trích này nhấn mạnh vai trò quan trọng của tập đoàn phát thanh và truyền hình quốc gia
trong việc duy trì và nuôi dưỡng sự hiểu biết chung giữa tất cả người Thụy Sĩ.
Thụy Sĩ thường tự coi mình, hoặc bị người khác coi là một “trường hợp đặc biệt”
(Sonderfall), phần lớn là vì đa ngôn ngữ, sự chắp vá văn hóa đa dạng và các thể chế của nó,
nhưng cũng vì thành công kinh tế của nó sau Thế chiến thứ hai. Mặc dù một số đặc thù
chính trị và thể chế vẫn còn tồn tại, nhưng sự hiện đại hóa nhanh chóng của cuộc sống hàng
ngày ở Thụy Sĩ được phản ánh trong những thay đổi trong thói quen và ẩm thực của đất
nước.
Ẩm thực Thụy Sĩ có truyền thống được đánh dấu bởi các biến thể văn hóa và khu vực quan
trọng. Các món ăn từ pho mát là đặc trưng của vùng Alpine. Món ăn dân tộc, nước xốt
neuchâteloise (hỗn hợp của pho mát Emmentaler và Gruyère nấu chảy và rượu để nhúng các
viên bánh mì vào), và raclette (pho mát nấu chảy qua lửa và cạo qua khoai tây hoặc bánh mì)
không chỉ phổ biến trên khắp đất nước mà còn ở nhiều của thế giới. Ngành công nghiệp sô
cô la của Thụy Sĩ, ban đầu phát triển từ nhu cầu sử dụng nguồn sữa dồi dào được sản xuất ở
các vùng chăn nuôi bò sữa trước Alpine, đã nổi tiếng thế giới. Cũng phổ biến là bánh mật
ong tráng men, tẩm gia vị được gọi là Leckerli. Món ăn ưa thích của người Thụy Sĩ Đức là
Rösti (khoai tây cắt nhỏ chiên), nhưng xúc xích và dưa cải bắp cũng rất phổ biến. Các món
ăn phổ biến khác bao gồm Zürcher Eintopf, hoặc thịt bò hầm kiểu Zürich, và xung quanh các
hồ ở miền đông Thụy Sĩ, món cá tinh tế Zander (pike perch). Các món ăn đặc sản và theo
mùa, chẳng hạn như lễ hội mùa thu ở Sankt Gallen, giúp phân biệt vùng này với vùng khác,
cũng như các loại bia và rượu phong phú của đất nước (hiện bao gồm cả Maisgold hoặc bia
làm từ ngô).
Miền Tây Thụy Sĩ bị ảnh hưởng bởi ẩm thực và văn hóa Pháp, và trong mì ống Ticino,
polenta và risotto là những dấu hiệu của một nền văn hóa chung với Ý. Mặc dù ảnh hưởng
ẩm thực truyền thống lâu đời, ẩm thực Thụy Sĩ hiện đại mang đặc trưng của xu hướng quốc
tế và các nhà hàng với các món ăn từ khắp nơi trên thế giới có thể được tìm thấy ngay cả ở
các thành phố nhỏ. Có rất nhiều chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh của Mỹ, ngay cả ở các khu
nghỉ mát ở Alpine như Zermatt và Saint Moritz.
Du khách đến Thụy Sĩ đến đó để ăn, nhưng nhiều hơn đi mua sắm, đặc biệt là dọc theo
Bahnhofstrasse nổi tiếng của Zürich, một đại lộ có cả những cửa hàng tốt — bao gồm cả

17
những nhà sản xuất kim hoàn và đồng hồ nổi tiếng của đất nước — và các ngân hàng hàng
đầu. Dọc theo Bahnhofstrasse, người mua sắm có thể tìm thấy những chiếc đồng hồ nổi
tiếng của Thụy Sĩ, hàng thủ công mỹ nghệ địa phương và sách cũng như dùng bữa tại các
quán cà phê trang nhã. Mỗi thành phố và thị trấn ở bất kỳ quy mô nào đều có một địa điểm
giống nhau, và một số có nhiều hơn một khu mua sắm; ví dụ, ngay bên kia sông Limmat từ
Bahnhofstrasse là Niederdorfstrasse hướng đến giới trẻ của Zürich, nơi có các quán rượu
nhỏ, cửa hiệu và nhà hàng dân tộc.
Nói chung, thói quen của cư dân thành phố phản ánh thói quen của cư dân thành thị ở những
nơi khác trên thế giới. Văn hóa dân gian đặc trưng của Thụy Sĩ (ví dụ, yodeling và chơi
alphorn) vẫn còn được thực hiện ở một số vùng nông thôn. Alpabzug hàng năm vào đầu mùa
thu, trong đó gia súc được lùa từ đồng cỏ Alpine đến những nơi có độ cao thấp hơn, là dịp
diễn ra các hội chợ và đấu giá nông thôn nhấn mạnh truyền thống nông thôn và nhiều thành
phố cũng như thị trấn lớn tổ chức các phiên chợ nông dân tham gia vào các khu vực thành
thị và nông thôn. Đấu vật đứng (Schwingen), trong đó các chiến binh mặc quần chẽn đấu
vật, có thể được nhìn thấy trong nhiều lễ hội vùng, và ở một số làng miền núi, chẳng hạn
như ở Valais, trang phục truyền thống của nông thôn đôi khi được mặc.
Truyền thống của Thụy Sĩ vẫn tồn tại trong nhiều ngày lễ và lễ hội của đất nước. Fasnacht
(Lễ hội hóa trang), đánh dấu sự bắt đầu của Mùa Chay, được tổ chức vào cuối mùa đông trên
khắp đất nước, với các cuộc diễu hành của Basel là đặc biệt đáng chú ý. Mặc dù trang phục
và âm nhạc là những đặc điểm chung, Fasnacht thể hiện các biến thể theo vùng, và ở một số
nơi, những người nổi tiếng được trang điểm với những chiếc mặt nạ được cho là để xua đuổi
tà ma. Mặt nạ cũng là một phần của lễ kỷ niệm Sylvesterkläuse (Năm mới), đặc biệt là ở
vùng nông thôn Thụy Sĩ. Mùa xuân được đánh dấu bằng việc đốt cháy Böögg trong một lễ
hội diễn ra từ năm 1818, khi một hội quán tổ chức một cuộc diễu hành với đầy đủ âm nhạc
và ngựa. Lễ hội, đánh dấu sự kết thúc của mùa đông, kết thúc bằng việc đốt một đống gỗ lớn
được đặt trên đầu bởi một người tuyết. Trong suốt mùa thu có rất nhiều lễ hội thu hoạch và
rượu vang. Một ngày lễ phổ biến ở Geneva là Escalade, được tổ chức vào tháng 12 và đánh
dấu chiến thắng của thành phố trước công tước Savoy năm 1602. Ngày 1 tháng 8 là Ngày
Quốc khánh (tiếng Đức: Bundesfeier; tiếng Pháp: Fête Nationale; và tiếng Ý: Festa
Nazionale), mà kỷ niệm thỏa thuận giữa các đại diện của các bang Alpine của Uri, Schwyz
và Nidwalden, những người đã ký một lời tuyên thệ liên minh vào năm 1291. Tuy nhiên,
ngày lễ này chỉ có từ năm 1891 và nó đã trở thành ngày lễ chính thức của liên bang vào năm
1993. Các ngày lễ chính thức khác có nguồn gốc tôn giáo, và nhiều người trong số họ, chẳng
hạn như Whit thứ hai và Assumption, chỉ được quan sát thấy ở một số bang.
3.4. Tài nguyên du lịch văn hóa
Đất nước Thụy Sĩ nằm tại vị trí trung tâm của Châu Âu và tiếp giáp với các nước khác như
Đức, Pháp, Áo, Ý và Liechtenstein. Chính nhờ điều đó mà văn hóa Thụy Sĩ rất đặc biệt khi
có sự pha trộn giữa văn hóa của các quốc gia trên, điều đó thể hiện qua ngôn ngữ đa dạng.
Ngôn ngữ giao tiếp của người Thụy Sĩ rất đa dạng do có sự giao lưu văn hóa với các quốc
gia liền kề, cũng như là do sự du nhập của người dân từ nhiều nước khác đến đây sinh sống
và làm việc.

18
Chính nhờ sự đa dạng về chủng tộc và ngôn ngữ mà chuyến du lịch Thụy Sĩ sẽ mang đến
cho bạn cơ hội để khám phá, biết thêm những điều thú vị và nhiều thứ tiếng hơn. Văn hóa
của Thụy Sĩ với nét đặc trưng là vô cùng đa dạng, thể hiện qua các phong tục truyền thống
có sự giao thoa, kết nối với các quốc gia châu Âu.
Thụy Sĩ thuộc gốc văn hóa Tây Âu nên người ta dễ dàng nhận thấy được mộtsố điểm đặc
trưng qua kiến trúc của Thụy Sĩ như các lâu đài, pháo đài, nhàthờ cổ kính được xây theo
phong cách Roman, Gothic, Broque…
Thụy Sĩ là đất nước có nhiều đóng góp đáng kể cho nền văn hóa nhân loạithông qua các di
sản về văn học, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, khoa học…Vì lẽ đó mà Thụy Sĩ chính là địa
điểm du lịch hàng đầu và cũng là nơi được nhiều du họcsinh khao khát học tập. Trên khắp
đất nước có khoảng 1000 viện bảo tàng lưu giữ các di sản, giá trị văn hóa.
Do đặc điểm về khí hậu và cảnh quan thiên nhiên mà ở Thụy Sĩ còn có văn hóa nghỉ dưỡng,
trượt tuyết vào mùa đông, và văn hóa leo núi, đi xe đạp, đi bộ đường dài vào màu hè. Và
thêm một điều ấn tượng nữa khi nói về sự ảnh hưởng của dãy núi Alpes trong văn hóa Thụy
Sĩ đó chính là lối hát Yodel và chơi đàn phong cầm.
Thụy Sĩ có 9 địa điểm được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới:
Thành cổ Bern: Được thành lập vào thế kỷ 12 trên một khu đồi được bao quanh bởi sông
Aare, Bern phát triển dọc theo "bán đảo" sông đó. Sau một trận hỏa hoạn kinh hoàng, toàn
bộ thị trấn đã được xây dựng lại theo một phong cách thống nhất. Các tòa nhà bằng gỗ ban
đầu được thay thế bằng đá sa thạch, sau đó là các mái vòm thế kỷ 15 và đài phun nước thế
kỷ 16. Thị trấn thời Trung Cổ được xây dựng lại vào thế kỷ 18, nhưng vẫn giữ được đặc
điểm trước đó của nó.
Tu viện Thánh Gall: Tu viện Carolingian Thánh Gall là một trong những tu viện quan
trọng nhất ở châu Âu. Nó hoạt động từ thế kỷ thứ 8 cho đến khi được hoàn tục vào năm
1805. Thư viện của nó là một trong những nơi phong phú và lâu đời nhất trên thế giới có
chứa một số bản thảo quý giá như Bản thiết kế của Tu viện Thánh Gall. Các phần của tòa
nhà được xây dựng lại theo phong cách kiến trúc Baroque.
Tu viện dòng Biển Đức của Thánh Gioan tại Müstair: Tu viện của Müstair là một tu viện
Cơ đốc giáo từ thời Carolingian. Nó có một loạt các bức tranh tường lớn nhất Thụy Sĩ, được
vẽ vào khoảng năm 800 sau Công nguyên, cùng với các tác phẩm nghệ thuật và thiết kế khác
theo phong cách Romanesque.
Các lâu đài của Bellinzona: Bellinzona bao gồm một nhóm các công sự xung quanh lâu đài
Castelgrande, nằm trên một đỉnh núi đá nhìn ra toàn bộ thung lũng Ticino. Chạy từ lâu đài,
một loạt các bức tường kiên cố bảo vệ thị trấn cổ và chặn lối đi qua thung lũng. Lâu đài thứ
hai là Montebello tạo thành một phần không thể thiếu của các công sự, trong khi lâu đài thứ
ba nhưng riêng biệt tên là Sasso Corbaro được xây dựng trên một mỏm đá biệt lập ở phía
đông nam của các công sự khác.
Lavaux – vườn nho bậc thang: Vườn nho Lavaux trải dài khoảng 30 km (19 mi) dọc theo
bờ phía bắc của hồ Geneva từ lâu đài Chillon đến vùng ngoại ô phía đông

19
của Lausanne trong tiểu bang Vaud. Các ruộng bậc thang hiện tại có thể bắt nguồn từ thế kỷ
11, khi các tu viện dòng Biển Đức và Xitô kiểm soát khu vực này.
Tuyến đường sắt Rhaetian trong Cảnh quan văn hóa Albula / Bernina: tập hợp hai
tuyến đường sắt lịch sử băng qua dãy Anpơ của Thụy Sĩ băng qua hai con đèo cùng tên. Các
tuyến đường sắt cung cấp một tuyến đường nhanh chóng và dễ dàng tới nhiều khu định cư
trên núi cao bị cô lập trước đây. Việc xây dựng các tuyến đường sắt đòi hỏi phải vượt qua
một số thách thức kỹ thuật với việc sử dụng các cây cầu và hầm xuyên núi.
La Chaux-de-Fonds / Le Locle, quy hoạch thị trấn chế tác đồng hồ: Địa điểm này bao
gồm hai thị trấn nằm gần nhau trong một môi trường hẻo lánh ở vùng núi Jura của Thụy Sĩ.
Do đất nông nghiệp nghèo nàn, ngành công nghiệp sản xuất đồng hồ đã phát triển ở các thị
trấn vào thế kỷ 19. Sau một số trận hỏa hoạn kinh hoàng, các thị trấn đã được xây dựng lại
để hỗ trợ ngành công nghiệp duy nhất này. Thị trấn La Chaux-de-Fonds được Karl Marx mô
tả là “thị trấn nhà máy khổng lồ” ở Das Kapital, nơi ông phân tích sự phân công lao động
trong ngành sản xuất đồng hồ của Jura.
Nhà sàn thời tiền sử xung quanh dãy núi Anpơ: Bao gồm 111 địa điểm riêng nhỏ lẻ với
dấu tích của các khu định cư đóng cọc (hoặc nhà sàn) thời tiền sử trong và xung quanh dãy
Anpơ được xây dựng từ khoảng 5000 đến 500 năm trước Công nguyên trên các bờ hồ, sông
hoặc vùng đầm lầy. Chúng chứa nhiều thông tin về cuộc sống và hoạt động thương mại của
các nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới và đồ đồng trên khu vực núi cao của Châu Âu. Có 56 địa
điểm nằm ở Thụy Sĩ.
Công trình kiến trúc của Le Corbusier, một đóng góp cho phong trào kiến trúc hiện
đại: Địa điểm xuyên quốc gia này bao gồm 17 tác phẩm của kiến trúc sư Pháp-Thụy Sĩ Le
Corbusier ở 7 quốc gia, minh chứng cho sự đột phá sáng tạo của ông để điều chỉnh kiến trúc
phù hợp với nhu cầu của xã hội hiện đại. Hai địa điểm được liệt kê ở Thụy Sĩ, Immeuble
Clarté và biệt thự Le Lac.
Không chỉ vậy, những năm trở lại đây Thụy Sĩ còn thu hút du khách bởi nền văn hóa truyền
thống đặc sắc với nhiều lễ hội nổi tiếng nhất thế giới mà ai cũng mong muốn được một lần
trải nghiệm như: Lễ hội khinh khí cầu, lễ hội đấu bò, ngày lễ Escalade, lễ hội đường phố
Zurich, lễ hội kèn Alphorn,

4. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ


Sự phát triển kinh tế của Thụy Sĩ đã bị ảnh hưởng bởi các yếu tố địa lý vật lý và văn hóa cụ
thể. Trong trường hợp đầu tiên, nước này có ít nguyên liệu thô; lượng mưa và chất lượng đất
quyết định phần lớn kiểu và quy mô canh tác; mở rộng đô thị và công nghiệp lấn chiếm diện
tích đất canh tác hạn chế; lĩnh vực thương mại và vận tải đã được hưởng lợi từ vị trí trung
tâm của Thụy Sĩ dọc theo các tuyến đường thương mại quốc tế; và du lịch đã được thúc đẩy
bởi vẻ đẹp phong cảnh đặc biệt của cảnh quan, bao gồm các đỉnh núi băng và hồ Alpine.
Trong trường hợp thứ hai, thị trường nội địa nhỏ bé của quốc gia không có khả năng hấp thụ
tổng sản lượng của một nhóm dân cư có kỹ năng và hiệu quả đã buộc Thụy Sĩ phải tìm kiếm
thị trường thế giới. Do đó, bằng cách nhập khẩu nguyên liệu thô và chuyển đổi chúng thành
các thành phẩm chất lượng cao, có giá trị gia tăng cao để xuất khẩu, phát triển hệ thống giao

20
thông vận tải và ngành du lịch có tổ chức và hiệu quả, và thiết lập định hướng thị trường tự
do, Thụy Sĩ nhìn chung đã có thể giữ tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp và kiểm soát lạm phát,
đồng thời đạt được mức sống và thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới.
Các yếu tố vật chất và văn hóa khác nhau cũng đã thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch
vụ như vận tải biển, ngân hàng, bảo hiểm và du lịch, cũng như xuất khẩu như hóa chất, máy
móc, dụng cụ chính xác và thực phẩm chế biến. Nền kinh tế Thụy Sĩ được đặc trưng bởi sự
đa dạng trong công nghiệp và thiếu các công ty lớn. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp Thụy
Sĩ - chẳng hạn như tập đoàn thực phẩm khổng lồ Nestlé và công ty dược phẩm Novartis - có
các doanh nghiệp trên toàn thế giới tuyển dụng nhiều người ở nước ngoài hơn so với ở Thụy
Sĩ và bán hầu hết sản phẩm của họ ở thị trường nước ngoài. Lao động nước ngoài chiếm
khoảng một phần tư dân số hoạt động kinh tế ở Thụy Sĩ, và nếu không có sự hiện diện của
họ, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế (ví dụ: khách sạn, nhà hàng và du lịch) sẽ ngừng hoạt
động. Tuy nhiên, những căng thẳng xã hội đôi khi đã bộc lộ rõ ràng, đặc biệt khi người nước
ngoài được cho là đã đe dọa lối sống của người Thụy Sĩ và khiến người lao động Thụy Sĩ
phải di dời.
Truyền thống lâu đời về dân chủ trực tiếp (hơn một nửa số cuộc trưng cầu dân ý quốc gia
trên thế giới được tổ chức tại quốc gia này) và chủ nghĩa liên bang ở Thụy Sĩ và sự phụ
thuộc nặng nề của đất nước vào ngoại thương đã làm nảy sinh một truyền thống không thích
sự can thiệp của nhà nước và mạnh và hỗ trợ liên tục cho thương mại tự do trên toàn thế
giới. Do đó, ngoại trừ bưu điện, hầu hết các tiện ích và dịch vụ quan trọng đều thuộc sở hữu
tư nhân hoặc các doanh nghiệp thành phố, trong một số trường hợp được chính phủ các bang
trợ cấp. Trước đây thuộc sở hữu và điều hành của liên bang, mạng điện thoại và đường sắt
đã được tư nhân hóa vào cuối những năm 1990.
Thụy Sĩ, một quốc gia tán thành sự trung lập, là một nền kinh tế thị trường thịnh vượng và
hiện đại với tỷ lệ thất nghiệp thấp, lực lượng lao động có tay nghề cao và GDP bình quân
đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới. Nền kinh tế của Thụy Sĩ được hưởng lợi từ một khu
vực dịch vụ phát triển cao, dẫn đầu là các dịch vụ tài chính và một ngành công nghiệp sản
xuất chuyên về công nghệ cao, sản xuất dựa trên tri thức. Sự ổn định về kinh tế và chính trị,
hệ thống luật pháp minh bạch, cơ sở hạ tầng đặc biệt, thị trường vốn hiệu quả và thuế suất
doanh nghiệp thấp cũng khiến Thụy Sĩ trở thành một trong những nền kinh tế cạnh tranh
nhất thế giới.
Trong những năm gần đây, Thụy Sĩ đã đối phó với áp lực ngày càng tăng từ các nước láng
giềng và các đối tác thương mại nhằm cải cách luật bảo mật ngân hàng bằng cách đồng ý
tuân thủ các quy định của OECD về hỗ trợ hành chính trong các vấn đề thuế, bao gồm cả
trốn thuế. Chính phủ Thụy Sĩ cũng đã đàm phán lại các thỏa thuận đánh thuế hai lần với
nhiều quốc gia, bao gồm cả Mỹ, để đưa vào các tiêu chuẩn của OECD.
4.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Thụy Sĩ vào năm 2021 là 810,83 tỷ USD theo số liệu
mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Theo đó, tốc độ tăng trường GDP đạt 1.08% so với năm
2020 trong khi trước đó GDP giảm -2.87% trong năm 2020, cho thấy sự hồi phục kinh tế của
Thụy Sĩ sau bùng phát Covid-19.

21
Tuy nhiên, theo các chuyên gia của Focus Economics Consensus dự báo tốc độ tăng trưởng
GDP của Thụy Sĩ sẽ giảm trong năm 2022 bởi các biến thể của Covid-19, chiến tranh Nga -
Ucraina và sự suy yếu dần của các liên kết thương mại với EU khi không có một thỏa thuận
thương mại cải tiến, làm mờ đi triển vọng kinh tế. Tuy nhiên, động lực phát triển vẫn còn
bởi được hỗ trợ bởi thị trường lao động lành mạnh thúc đẩy tiêu dùng tư nhân.

(Biểu đồ 4.1. Tăng trưởng GDP bình quân đầu người 1981 - 2020 của Thụy Sĩ)
4.2. Cơ cấu ngành kinh tế
4.2.1. Nông – lâm – ngư nghiệp
Khoảng một phần ba đất đai của Thụy Sĩ được dành cho sản xuất nông nghiệp (ngũ cốc,
thức ăn gia súc, rau, trái cây và vườn nho) và đồng cỏ. Một số đồng cỏ được sử dụng riêng
cho đồng cỏ trên núi, bao gồm cả vùng Monte Rosa. Sự khác biệt về chất lượng đất trong
các khu vực nhỏ ở Thụy Sĩ, do điều kiện địa chất và do giảm nhẹ, làm cho việc canh tác một
vụ quy mô lớn trở nên khó khăn; thay vào đó, một loạt các loại cây trồng đặc biệt đa dạng
được trồng trong một không gian hạn chế. Khoảng 2/3 tổng số trang trại kết hợp trồng cỏ và
trồng ngũ cốc, và trang trại này đáp ứng gần 4/5 nhu cầu trong nước.
Được thực hiện trên khắp đất nước nhưng đặc biệt nổi bật ở Mittelland và trước dãy Alps,
chăn nuôi gia súc là mục tiêu nông nghiệp chính của Thụy Sĩ, mang lại sản phẩm xuất khẩu
khắp châu Âu. Thu nhập từ chăn nuôi bò sữa và gia súc chiếm hơn 2/3 tổng giá trị nông
nghiệp. Các sản phẩm bao gồm sữa, bơ, pho mát, sữa chua và sữa sô cô la
Nông nghiệp chiếm 0,6% GDP và sử dụng 3% dân số hoạt động. Các sản phẩm nông nghiệp
chính là chăn nuôi và các sản phẩm từ sữa, mặc dù quốc gia này cũng là nơi có hơn 9.000
nhà máy rượu vang. Chính quyền Thụy Sĩ cấp nhiều khoản trợ cấp trực tiếp cho nông dân để
đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt về sinh thái, chẳng hạn như bảo vệ đất. Đất nước này hầu

22
như không có bất kỳ tài nguyên khoáng sản nào. Mặc dù quy mô nhỏ của ngành nông nghiệp
nói chung, nông nghiệp hữu cơ đã có sự tăng trưởng đáng kể (14,5% diện tích đất nông
nghiệp, theo Văn phòng Thống kê Liên bang), nhưng có sự khác biệt lớn giữa các vùng.
4.2.2. Công nghiệp – xây dựng
Sự chuyển đổi của Thụy Sĩ thành một quốc gia công nghiệp bắt đầu trong nửa sau của thế kỷ
19. Sự tồn tại của ngành công nghiệp Thụy Sĩ dựa trên một công thức đã hoạt động rất hiệu
quả: chế tạo các sản phẩm chuyên dụng như động cơ, tuabin và đồng hồ; đảm bảo ngày giao
hàng; cung cấp tài chính cần thiết thông qua một mạng lưới ngân hàng hiệu quả; cung cấp
dịch vụ sau bán hàng hiệu quả; bán sản phẩm trên toàn thế giới và do đó đạt được hiệu quả
kinh tế theo quy mô; và, nếu cần, xây dựng các nhà máy địa phương. Ngành công nghiệp
hóa dược, bao gồm các công ty của Novartis, Ciba Specialty Chemicals, Clariant và Roche
Holdings (tất cả đều có trụ sở chính tại Basel), là một ví dụ điển hình về khả năng cạnh tranh
của Thụy Sĩ. Giống như nhiều ngành công nghiệp của Thụy Sĩ, ngành công nghiệp hóa dược
dành một khoản tiền lớn cho nghiên cứu và phát triển. Một số công ty hợp tác với các trường
đại học của đất nước và với Viện Công nghệ Liên bang ở Zürich và Lausanne.
Do thị trường châu Âu duy nhất và sự cạnh tranh trên thế giới, lĩnh vực sản xuất của Thụy Sĩ
đã trải qua quá trình tái cơ cấu lớn trong những năm 1990 bao gồm sáp nhập, mở rộng quốc
tế của các công ty Thụy Sĩ, bán các công ty Thụy Sĩ cho các công ty nước ngoài, đóng cửa
các loại hình hoạt động có giá trị gia tăng thấp và nâng cấp các hoạt động dựa trên công
nghệ. Bất chấp xu hướng hướng tới các công ty lớn hơn, ngành sản xuất của Thụy Sĩ vẫn có
đặc điểm là đa dạng. Hầu hết các công ty đều có quy mô vừa hoặc nhỏ; chúng nằm trên khắp
đất nước nhưng đặc biệt là ở Mittelland.
4.2.3. Dịch vụ
Dịch vụ: Các ngành có khả năng cạnh tranh trên thế giới và phát triển mạnh của Thụy Sĩ là
ngân hàng, bảo hiểm và vận tải tàu biển. Vận tải tàu biển của Thụy Sĩ đóng vai trò quan
trọng trong việc chuyên chở hàng hóa thương mại trên khắp cả nước. Du lịch cũng đóng góp
đáng kể cho nền kinh tế Thụy Sĩ, điều đó giúp cân bằng thâm hụt mậu dịch của Thụy Sĩ.
Thương mại: Ngoại thương đóng góp gần 80% vào GDP của Thụy Sĩ. Liên minh EU là
khối thương mại lớn nhất của Thụy Sĩ, chiếm 2/3 tổng ngoại thương nước này. Xuất khẩu
hàng hóa chiếm 45% GDP của Thụy Sĩ. Ba đối tác xuất khẩu hàng đầu của Thụy Sĩ là Đức,
Mỹ và Pháp. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm dược, máy móc, chất hữu cơ, đồng
hồ, thiết bị điện và điện tử. Ba đối tác nhập khẩu chính của Thụy Sĩ là Đức, Ý và Pháp. Thụy
Sĩ chủ yếu nhập khẩu máy móc, hóa chất, xe hơi, kim loại, sản phẩm nông nghiệp, hàng dệt
may.
4.3. Cơ cấu lãnh thổ: Phân vùng kinh tế của quốc gia
Khoảng cách kinh tế khu vực đã giảm nhẹ ở Thụy Sĩ kể từ năm 2008 bởi sự sụt giảm vừa
phải của GDP bình quân đầu người ở Zurich - khu vực giàu nhất.
Với mức tăng trưởng năng suất 0,7% mỗi năm trong giai đoạn 2008 - 2016, Espace
Mittelland - khu vực Thụy Sĩ có năng suất thấp nhất trong năm 2011, đã bắt kịp Ticino - khu
vực biên giới về năng suất ở Thụy Sĩ.

23
(Biểu đồ 4.2. Khoảng cách về năng suất trong khu vực)

5. MỐI QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM


5.1. Quan hệ kinh tế
5.1.1. Về thương mại
Việt Nam tiếp tục được hưởng các quy chế ưu đãi về thương mại của Thụy Sĩ, như Quy chế
tối huệ quốc (MFN) theo Hiệp định thương mại song phương (1994) và Chế độ ưu đãi thuế
quan phổ cập (GSP) theo quyết định đơn phương của Thụy Sĩ từ năm 1972 dành cho các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Các mặt hàng Việt Nam thường xuất sang Thụy Sĩ là giày dép (chiếm khoảng 25%), hải sản
(24,25 %), cà phê, dệt may, sản phẩm túi xách, ô dù và đồ dùng nội thất. Trong số các sản
phẩm xuất khẩu có kim ngạch lớn, chỉ có giày dép, cà phê, hải sản có kim ngạch tăng so với
cùng kỳ năm trước, các mặt hàng còn lại giảm đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang Thụy Sĩ tuy đã bắt đầu trải rộng (trên 300 mặt hàng), nhưng kim ngạch vẫn tập
trung chủ yếu vào những mặt hàng quen thuộc kể trên.
Việt Nam nhập khẩu từ Thụy Sĩ các mặt hàng như kim loại quý, máy móc thiết bị, phụ tùng,
hóa chất, tân dược, sản phẩm và nguyên liệu chất dẻo phục vụ cho sản xuất và gia công hàng
hóa trong nước.

24
Thụy Sĩ là thị trường cao cấp “khó tính” nên đòi hỏi chất lượng sản phẩm nhập khẩu rất cao.
Ngoài ra, xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là nông sản, vào Thụy Sĩ còn phải chịu chế độ cấp
phép rất chặt chẽ nhằm đảm bảo yêu cầu về sức khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là một
rào cản thương mại lớn đối với hàng hóa chất lượng vừa và thấp của các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Thụy Sĩ những năm gần đây đã có những
bước phát triển vượt bậc, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO).
Thụy Sĩ là một thị trường nhỏ (dân số 7.5 triệu người), mức sống bình quân cao, nằm ở
trung tâm Châu Âu, nên người tiêu dùng có rất nhiều lựa chọn sản phẩm do chính sách mở
cửa và mức độ hội nhập quốc tế cao của Thụy Sĩ. Việt Nam chưa phải là đối tác kinh tế,
thương mại ưu tiên của Thụy Sĩ, hơn nữa doanh nghiệp hai nước chưa biết nhiều về nhau, do
đó việc tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Thụy Sĩ ít có khả năng đột biến trong thời
gian ngắn.
Theo số liệu báo cáo thống kê của trademap.org, tổng kim ngạch xuất nhập Việt Nam –
Thụy Sĩ năm 2019 đạt 3,6 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt giá trị 2,8 tỷ USD.
Bảng 5.1. Kim ngạch xuất nhập Việt Nam – Thụy Sĩ năm 2015 - 2019

Năm 2015 2016 2017 2018 2019

VN xuất 230.719 593.483 240.127 171.463 2.897.314

VN nhập 544.679 552.195 628.836 690.433 770.137

Kim ngạch 775.398 1.145.678 868.963 861.896 3.667.451


XNK

(Đơn vị 1.000 USD – nguồn trademap.org)


5.1.2. Về đầu tư
Thụy Sĩ hiện có 167 dự án có tổng vốn đăng ký là 2 tỉ USD, là nhà đầu tư lớn thứ 6 của châu
Âu vào Việt Nam. Hai bên đang thúc đẩy sớm kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do
giữa Việt Nam và Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA).
Đầu tư của Thụy Sĩ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (Dự án sản xuất xi măng của
Tập đoàn Holcim đứng đầu với tổng vốn đầu tư khoảng 800 triệu USD), nông lâm nghiệp và
dịch vụ. Hiện có khoảng 90 doanh nghiệp Thụy Sĩ đang hoạt động ở Việt Nam. Đa số các
nhà đầu tư Thụy Sĩ lựa chọn hình thức công ty 100% vốn nước ngoài khi đầu tư vào Việt
Nam. Trong số các tập đoàn lớn của Thụy Sĩ đầu tư tại Việt nam, có thể kể đến Nestlé (Thực
phẩm, đồ uống), Novatis/ Ciba - Sandoz (Hóa dược), Roche (Dược phẩm), Holderbank/
Holcim (Xi măng), ABB (Thiết bị điện, xây dựng trạm biến thế), Sulzer (Cơ khí, thiết bị
điện), SGS (Giám định), Escatec (Thiết bị điện tử), Ringier (In ấn), André/ CIE (Thương
mại) v.v. Hiện nay Thuỵ Sĩ có hơn 110 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đạt trên

25
2,2 tỷ USD. Thuỵ Sĩ có chiến lược Hợp tác phát triển mới của Thụy Sĩ dành cho Việt Nam
giai đoạn 2017-2020.
5.2. Quan hệ giáo dục – đào tạo, văn hóa – du lịch, khoa học – kỹ thuật
Về giáo dục - đào tạo: Thụy Sĩ nổi tiếng là trung tâm đào tạo có uy tín trong lĩnh vực ngân
hàng, du lịch, bảo hiểm và công nghệ cao. Hiện nay có khoảng 150 thực tập sinh, sinh viên
và nghiên cứu sinh Việt Nam đang theo học tại các trường đại học Thụy Sĩ. Thụy Sĩ tích cực
giúp đỡ Việt Nam thông qua các dự án hỗ trợ giáo dục về môi trường, quản lý và các dự án
đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh. Chương
trình hợp tác liên kết đào tạo thạc sĩ tài chính ngân hàng đầu tiên giữa Trường Đại học Ngân
hàng Tp. Hồ Chí Minh và Đại học Khoa học ứng dụng Tây Bắc Thụy Sĩ (bắt đầu từ 2007)
đã gặt hái những thành công bước đầu. Các thỏa thuận đào tạo tiến sĩ Việt Nam đạt được
giữa Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh và Viện công nghệ Liên bang Thụy Sĩ
Lausanne, giữa Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Geneva trong khuôn khổ chuyến thăm
Việt Nam của Tổng thống Pascal Couchepin vào tháng 8/2008 và chuyến thăm Thụy Sĩ của
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân vào tháng 2/2009 đã tạo đà quan trọng cho
sự phát triển quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước trong thời gian qua. Hai nước
đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục đào tạo trong chuyến thăm Thụy Sĩ của Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết năm 2010.
Về văn hóa - du lịch: Hải nước có nhiều hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa tại mỗi nước,
như tổ chức hòa nhạc sở hữu Việt Nam - Thụy Sĩ vào tháng 3/2007, mời nghệ sĩ cello Thụy
Sĩ sang giảng dạy và biểu diễn tại Việt Nam, phối hợp với nước sở tại tổ chức một số hoạt
động giao lưu, giới thiệu văn hóa và biểu diễn văn nghệ Việt Nam tại Thụy Sĩ. Số lượng
khách du lịch Thụy Sĩ vào Việt Nam tương đối ổn định (2009: 19.000 khách; 2010: 25.266
khách; 2011: khoảng 20.000 khách).
Về khoa học - kỹ thuật: Hải nước ký hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ, triển khai chương trình đặc biệt Việt Nam - Thụy Sĩ về chủ sở hữu trí tuệ
(SPC) và tác giả dự án về sở hữu trí tuệ (SVIP).
5.3. Quan hệ ngoại giao
Ngày 11/10/1971 Việt Nam và Thụy Sĩ thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ.
Tháng 2/1973, Thụy Sĩ mở Đại sứ quán thường trú tại Hà Nội.
Tháng 3/1994, Thụy sĩ mở thêm Lãnh sự quán tại TP. Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990 đến nay, quan hệ Việt Nam – Thụy Sĩ có những bước phát triển tích cực, đặc
biệt sau khi Thụy Sĩ mở lại Đại sứ quán tại Hà Nội.
Các chuyến thăm song phương gần đây
Lãnh đạo Thụy Sĩ thăm Việt Nam:
- Tháng 3/2017, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch thượng viện Thụy Sĩ Ivo
Bischofberger đã bắt đầu thăm chính thức Việt Nam.

26
- Tháng 4/2018 bà Doris Leuthard, Bộ trưởng Môi trường, Giao thông, Năng lượng và
Truyền thông Thụy Sĩ thăm Việt Nam. Hai nước đã ký Hiệp định vận chuyến hàng không
mới.
- Tháng 07/2019, Bộ trưởng Kinh tế, Giáo dục và Nghiên cứu Thụy Sĩ, ông Guy Parmelin
thăm và làm việc tại Việt Nam.
Lãnh đạo Việt Nam thăm Thụy Sĩ:
- Tháng13/ 9/2017, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ thăm Thụy Sĩ.
- Từ ngày 24 - 25/3/2018, Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân dẫn đầu tham dự Đại hội đồng lần thứ 138 Liên minh Nghị viện thế
giới (IPU-138) và các hội nghị liên quan từ ngày 24 - 25/3/2018 tại Genève, Thụy Sĩ và
thăm chính thức Vương quốc Hà Lan từ ngày 26 - 28/3/2018.
- 25/1/2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế
Thế Giới tại Davos, Thụy Sĩ.
- Ngày 3/7/2019, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh tham dự Hội nghị Thượng đỉnh
Phụ nữ toàn cầu lần thứ 29 tại thành phố Basel.
- Ngày 20/1/2020, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình dự Diễn đàn Kinh tế
Davos WEF 2020 tại Thụy Sĩ.
- Ngày 26/11/2021, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và phu nhân đến thăm chính thức
Thụy Sĩ trong vòng 4 ngày, diễn ra đúng vào kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại
giao (1971 – 2021).

6. KẾT LUẬN
Được mệnh danh là thiên đường của du lịch Châu Âu, Thụy Sĩ là một trong những cung
đường hấp dẫn, một địa điểm du lịch tuyệt vời mà rất nhiều du khách mong ước được đặt
chân khám phá. Đến với không gian này, bạn sẽ được thưởng ngoạn khung cảnh núi non
trùng điệp và những ngôi làng cổ kính bước ra từ tác phẩm nghệ thuật kinh điển đẹp mê hồn.
Những đỉnh núi quanh năm phủ đầy tuyết trắng tại dãy Alps, những mặt hồ trong xanh gợn
sóng hay những thảo nguyên xanh mướt, những dòng sông băng lặng im mà bất chợt bạn đã
từng nghe qua trong một câu chuyện cổ tích nào đó, sẽ hiện diện thật rõ và đẹp như tranh vẽ
khi bạn đến với Thụy Sĩ.
Không chỉ dừng lại ở đó, bài tiểu luận trên đã tìm hiểu về đặc điểm địa lý, đặc điểm tự nhiên
thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên, đặc điểm dân cư – xã hội, đặc điểm kinh tế và mối
quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về quốc gia được mệnh
danh là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.
Mặc dù Thụy Sĩ có diện tích khiêm tốn cùng với số dân tương đối ít - hơn 8,6 triệu nhưng để
tìm hiểu chi tiết, cặn kẽ về quốc gia này từ thiên nhiên, văn hóa – xã hội, con người thì vẫn
còn là một đề tài rộng lớn. Trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận cuối kỳ này, do sự hạn
chế về tầm hiểu biết nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy kính mong được

27
sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của cô Hoàng Thị Thu Hương để bài tiểu luận của em được
hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn.

7. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bách khoa toàn thư mở https://wikipedia.org/


2. Cổng thông tin điện tử Thương mại và Đầu tư http://www.itpc.hochiminhcity.gov.vn/
3. Schweizerische Eidgenossenschaft – Discover Switzerland
https://www.eda.admin.ch/aboutswitzerland/en/
4. Schweizerische Eidgenossenschaft – BAFU https://www.bafu.admin.ch/
5. Phân tích dữ liệu Moody https://moodysanalytics.com
6. Dữ liệu Ngân hàng Thế giới https://data.worldbank.org/
7. Central Intelligence Angency https://www.cia.gov/the-world-
factbook/countries/switzerland/
8. Ban quan hệ quốc tế https://vcci.com.vn/
9. Bản đồ thương mại của ITC trademap.org

PHỤ LỤC
Kinh tế của các bang Thụy Sĩ

STT Tên Bang Viết tắt GDP (2017) tính bằng triệu GDP bình quân đầu người
CHF* (2018) tính bằng CHF**

1 Zurich ZH 143.044 104.820

2 Bern BE 78.278 79.115

3 Lucerne LU 26.992 69.256

4 Uri UR 1.900 54.291

5 Schwyz SZ 9.444 62.040

6 Obwald OW 2.510 67.458

7 Nidwald NW 3.050 73.729

8 Glarus GL 2.764 68.860

9 Zug ZG 2.764 68.860

10 Fruburg FR 18.635 61.237

28
11 Solothurn SO 17.702 68.640

12 Basel - Stadt BS 35.955 203.967

13 Basel - BL 20.247 73.550


Landschaft

14 Schaffhouse SH 6.963 91.379

15 Appenzell AR 3.086 58.807


Auserrhoden

16 Appenzell AI 989 64.868


Innerrhoden

17 St. Gall GG 36.794 76.219

18 Grisons GR 14.020 73.366

19 Argovia AG 41.592 64.996

20 Thurgovia TG 16.374 62.739

21 Ticino TI 28.512 87.612

22 Vaud VD 53.731 74.060

23 Valais VS 18.405 56.627

24 Neuchâtel NE 15.435 93.227

25 Geneva GE 49.467 109.847

26 Jura JU 4.629 68.876

27 Thụy Sĩ 669.542 84.518

(* Federal Statistical Office. "Cantonal gross domestic product (GDP) per


capita". www.bfs.admin.ch. Retrieved 19 October 2020.
** Swiss Federal Statistical Office. "Gemeinden - Suche | Applikation der Schweizer
Gemeinden". www.agvchapp.bfs.admin.ch (in German). Retrieved 22 October 2018.)

29
Các tổ chức quốc tế Thụy Sĩ đã tham gia

STT Ký hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

1 UN Liên Hợp quốc

2 AP Liên minh Thái Bình Dương

3 OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

4 OSCE Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu

5 ADB Ngân hàng Phát triển châu Á

6 AfDB Ngân hàng Phát triển Châu Phi

7 BIS Ngân hàng Thanh toán Quốc tế

8 EAPC Hội đồng Nghiên cứu hạt nhân châu Âu

9 EBRD Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu

10 EFTA Hiệp hội thương mại tự do Châu Âu

11 EITI Sáng kiến minh bạc ngành công nghiệp khai thác

12 ESA Cơ quan Vũ trụ châu Âu

13 FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc

14 FATF Lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính

15 G-10 Nhóm 10

16 IADB Ngân hàng phát triển liên Mỹ

17 IAEA Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế

18 IBRD Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế

19 ICAO Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế

20 ICC Phòng thương mại quốc tế

21 IDA Hiệp hội Phát triển Quốc tế

22 IEA Cơ quan Năng lượng Quốc tế

30
23 IFAD Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp

24 IFC Tập đoàn Tài chính Quốc tế

25 IFRCS Hiệp hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ Quốc tế

26 IGAD Cộng đồng kinh tế châu Phi

27 ILO Tổ chức Lao động Quốc tế

28 IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế

29 IMO Tổ chức Hàng hải Quốc tế

30 IMSO Olympic Toán và Khoa học quốc tế

31 IOC Ủy ban Olympic Quốc tế

32 IOM Tổ chức Di cư quốc tế

33 IPU Liên minh Nghị viện Thế giới

34 ISO Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế

35 ITSO Tổ chức vệ tinh viễn thông quốc tế

36 ITU Tổ chức liên minh viễn thông quốc tế

37 ITUC Tổng liên đoàn Lao động Quốc tế

38 MIGA Tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên

39 MINUSMA Phái đoàn Ổn định Tích hợp Đa chiều của Liên Hợp Quốc
tại Mali

40 MONUSCO Phái bộ Ổn định Tổ chức Liên hợp quốc tại Cộng hòa Dân
chủ Congo

41 NEA Tổ chức giáo dục Liên bang

42 NSG Tổ chức bảo vệ an ninh Quốc gia

43 OAS Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ

44 OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

31
45 OIF Tổ chức Quốc tế của các quốc gia nói tiếng Pháp

46 OPCW Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học

47 OSCE Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu

48 PCA Tòa án Trọng tài thường trực

49 PFP Các Đối tác vì Hòa bình

50 UNCTAD Hội nghị Liên hợp quốc tế về thương mại và phát triển

51 UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc

52 UNHCR Cao uỷ Liên hợp quốc về Người tị nạn

53 UNIDO Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc

54 UNITAR Viện đào tạo và nghiên cứu Liên Hợp Quốc

55 UNMISS Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại Nam Sudan

56 UNMOGIP Nhóm quan sát viên quân sự ở Ấn Độ và Pakistan

57 UNRWA Cơ quan Liên hợp quốc cứu trợ Palestine

58 UNTSO Tổ chức giám sát ngừng bắn ở Trung Đông

59 UNWTO Tổ chức Du lịch Thế giới

60 UPU Liên minh Bưu chính Quốc tế

61 WCO Tổ chức Hải quan thế giới

62 WHO Tổ chức Y tế Thế giới

63 WIPO Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới

64 WMO Tổ chức Khí tượng Thế giới

65 WTO Tổ chức Thương mại Thế giới

66 ZC Ủy ban xuất khẩu hạt nhân

32
Hình ảnh

(Dãy Alps)

(Hồ Bienne)
33
(Hồ Neuchâtel)

(Hồ Geneva)

34
(Khu bảo tồn thiên nhiên Jungfrau-Aletsch)

(Kiến tạo Arena Sardona)

35
(Monte San Giorgio)

(Vườn quốc gia Thụy Sĩ)


36
(Các lâu đài của Bellinzona)

(Nhà sàn thời tiền sử xung quanh dãy núi Anpơ)

37
(Công trình kiến trúc của Le Corbusier)

(La Chaux-de-Fonds Le Locle)


38
(Lavaux – vườn nho bậc thang)

(Thành phố Bern)

39
(Tu viện dòng Biển Đức của Thánh Gioan tại Müstair)

(Tu viện St. Gall)

40
(Tuyến đường sắt Rhaetian trong Cảnh quan văn hóa Albula Bernina)

41

You might also like