Professional Documents
Culture Documents
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn
bản
LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH | 17/09/2012 - 11:44
Nguyễn Minh Quân
Trong phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ hai mươi, những
cuộc tranh luận về chủ nghĩa hậu hiện đại
(postmodernism, còn gọi tắt là PoMo) không chỉ xảy ra
trong giới hàn lâm mà còn tạo nên một phong trào hết sức
rộng lớn ảnh hưởng đến nhiều lãnh vực khác nhau trên
khắp thế giới. Về phương diện lý thuyết văn hoá và mỹ
học, cuộc luận chiến nổ ra xung quanh một nghi vấn: Ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện đại (modernism) trong các
ngành nghệ thuật đã thực sự bị khai tử hay chưa? Nếu
có, khuynh hướng nghệ thuật (hậu hiện đại) nào sẽ tiếp
nối?
Gay gắt và dữ dội hơn, các nhà lý thuyết hàng đầu hai
bên bờ Đại Tây Dương đã đẩy các cuộc tranh cãi đến
những giới hạn cuối cùng của các phạm trù triết học.
Những triết gia hoài cổ tiếp tục chống chế và cố biện giải
cho sự duy trì chủ nghĩa nhân bản (humanism) và chủ
nghĩa duy lý (rationalism), nhóm này tìm thấy đồng minh ở
giới khoa bảng trung thành với chủ nghĩa thực
chứng (positivism), lấy Khoa Học và Tri Thức làm nền
tảng cho tri thức luận (epistemology) của họ. Trong khi đó,
nhóm triết gia đại diện cho chủ nghĩa hậu hiện đại như
Barthes, Derrida, Foucault, Baudrillard, Rorty, Lyotard…
tấn công một cách mãnh liệt vào nền tảng triết học của
chủ nghĩa hiện đại, đồng thời khẳng định rằng lý thuyết
này đã đến thời điểm cáo chung. Dần dần, các cuộc tranh
luận về ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đã lan
rộng ra hầu như mọi lãnh vực của đời sống, biến khái
niệm chủ nghĩa hậu hiện đại trở nên vô cùng đa dạng và
phạm vi ý nghĩa của nó ngày một rộng lớn hơn .
Chủ nghĩa hậu hiện đại, theo giáo sư Mary Klages [1], là
một từ ngữ phức tạp bao hàm một hệ thống tư tưởng
được giới nghiên cứu đại học tiếp nhận, khai triển từ
những năm giữa thập niên 1980 đến nay. Rất khó có một
định nghĩa thật chính xác và hàm súc về chủ nghĩa hậu
hiện đại, vì khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện
trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm nghệ
thuật, kiến trúc, âm nhạc, phim ảnh, văn chương, chính trị,
xã hội, truyền thông, khoa học kỹ thuật và ngay cả thời
trang hay các phương tiện giải trí thường ngày
như Disneyland chẳng hạn [2].
Có lẽ cách tiếp cận dễ dàng nhất về chủ nghĩa hậu hiện
đại là nên bắt đầu từ chủ nghĩa hiện đại (modernism):
nguồn gốc phát triển, đồng thời cũng là đối tượng bị phủ
nhận của chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo phương pháp này,
chủ nghĩa hậu hiện đại sẽ được giải thích trên hai bình
diện khác nhau: (a) lịch sử và xã hội, (b) văn học và các
khuynh hướng nghệ thuật.
Nếu dựa theo quan điểm lịch sử và xã hội để giải thích
chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng ta sẽ thấy rằng chủ nghĩa
hậu hiện đại mặc dầu trên danh nghĩa là chủ nghĩa hậu
hiện đại, nhưng có vẻ như đó là tên gọi cho toàn thể hình
thái xã hội, hoặc ít nhất cũng là tên gọi cho những thái độ
xã hội của các khuynh hướng chính trị, triết lý, hay văn
học nhất định. Đứng trên một ngữ cảnh như thế, chủ
nghĩa hậu hiện đại sẽ mang một ý nghĩa không có gì khác
với thời kỳ hậu hiện đại cùng với những tính chất đặc
trưng của nó. Cách tiếp cận này sẽ dẫn đến sự đối chứng
và so sánh giữa thời kỳ hậu hiện đại và thời kỳ hiện đại,
tiền thân lịch sử và xã hội của thời đại chúng ta đang
sống, nếu chúng ta không quá bảo thủ để khư khư cho
rằng thời đại này chỉ là một “quá độ của tư bản chủ
nghĩa.”
Thời Kỳ Hiện Đại/Hậu Hiện Đại
Tính Chất Hiện Đại/Hậu Hiện Đại
Trong các luận văn Anh Ngữ viết về chủ nghĩa hậu hiện
đại, chữ modernity (thời kỳ hiện đại) hay
chữ postmodernity (thời kỳ hậu hiện đại)vừa bao hàm ý
nghĩa thời gian vừa ngầm chứa ý nghĩa của tính chất, nên
trong tiếng Việt của chúng ta, rất khó có một từ ngữ tương
đương, chứa đựng hai đặc điểm diễn tả cả ý niệm thời
gian lẫn tính chất: thời kỳ hiện đại và tính chất hiện đại,
hay, thời kỳ hậu hiện đại và tính chất hậu hiện đại, để
chuyển dịch trọn vẹn cho hai từ ngữ trên.
Về phương diện lịch sử, thời kỳ hiện đại đánh dấu một kỷ
nguyên tương đối dài trong lịch sử thế giới, bắt đầu từ
thời Phục Hưng (Renaissance), kéo dài gần một nửa thiên
niên kỷ, cho đến giữa thế kỷ thứ hai mươi. Nghĩa là kể từ
khi thời đại Trung Cổ (Middle Ages) chấm dứt cho đến
những năm đầu của thập niên 1950 đều thuộc về thời kỳ
hiện đại [3]. Thông thường, người ta sắp xếp thời kỳ hiệân
đại này như một modern era trùng hợp với kỷ nguyên Ánh
sáng (Enlightment) của Âu Châu, mặc dầu thời gian và
tính chất giúp xác định một cách rõ ràng giai đoạn lịch sử
nào tương ứng với Enlightment vẫn còn đang trong vòng
tranh cãi giữa các giới nghiên cứu và học giả. Theo
Oden [4], thời kỳ Ánh Sáng chính là thời kỳ khai sinh của
giai đoạn hiện đại trong lịch sử trí thức. Nó bắt đầu từ
cuộc cách mạng Pháp, 1789, và chấm dứt vào năm 1989,
mốc điểm đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh
bằng sự sụp đổ bức tường ngăn chia Đông và Tây Berlin.
Một số khác cho rằng thời kỳ hiện đại bắt đầu từ năm
1750 và chấm dứt sau đệ nhị thế chiến (2). Tuy có khác
biệt trong việc sắp xếp thời gian, xu hướng chung đều
đồng ý rằng, thời kỳ hiện đại gắn liền với giai đoạn Ánh
Sáng tại Âu Châu.
Khác với thời kỳ hiện đại kéo dài nhiều trăm năm, chủ
nghĩa hiện đại (modernism) là một khuynh hướng văn hoá
rộng lớn xuất hiện vào giai đoạn sau cùng của thời kỳ hiện
đại và chỉ kéo dài 50 hoặc 60 năm, từ cuối thế kỷ thứ 19
đến những năm đầu thập niên 60 (4), cao điểm của nó
vào khoảng thời gian 1890 đến 1930 (5) hoặc ngắn hơn
như quan điểm của Mary Klages là vào khoảng 1910 đến
1930 (2). Thời kỳ hiện đại mang những tính chất liên hệ
đến một hệ tư tưởng về triết lý, đạo đức, chính trị và xã
hội, làm nền tảng căn bản cho các khuynh hướng mỹ học
của chủ nghĩa hiện đại phát triển.
Chữ modernity bắt đầu từ chữ modern có từ nguyên từ
tiếng La tinh, modernus, được sử dụng vào thế kỷ thứ
năm, dùng để tách rời một cách chính thức thời kỳ Cơ
Đốc và quá khứ đa thần của đế quốc La Mã [5]. Kể từ đó,
danh từ này được dùng để mô tả một giai đoạn hay một
khoảng thời gian, trong hàm ý so sánh với một quá khứ đi
trước, gọi là thời kỳ Cổ Đại (Antiquity). Tuy nhiên, khi có
sự xuất hiện thời kỳ Ánh Sáng của Pháp (French
Enlightment), ý nghĩa thời gian trong chữ modernity đã
được bổ sung thêm một ý niệm mới, đặc biệt là
sauQuerelle des Anciens et des
Modernes, chữ modernity bao hàm thêm ý nghĩa cao
hơn (ý niệm về tính chất) trong sự so sánh các giai đoạn
lịch sử và phát triển của nhân loại. Trong sự liên hệ với lý
thuyết triết học, tôn giáo và giá trị mỹ học, người ta đã
tranh luận rằng,modernity phải được xem là tiến bộ hơn,
tốt đẹp hơn, tinh tế hơn và dĩ nhiên sở hữu nhiều sự
thật (có nền tảng sâu xa) hơn thời đại cổ xưa [6]. Những
cuộc tranh luận về các tiêu chuẩn giá trị giữa cũ và mới
(vào giai đoạn đó) làm cho lòng tôn kính một cách mù loà
về sự hiện hữu của một đấng siêu nhiên ngoài vũ trụ,
thông suốt hết mọi sự, trở nên hết sức lỗi thời và lố bịch,
nền tảng triết lý của Antiquity bị lật nhào, mang theo nó
những định chế về xã hội và văn hoá chi phối một cách
mạnh mẽ bởi giới vua chúa, quý tộc, tăng lữ và giáo hội
trong hơn 15 thế kỷ, mở đường cho thời kỳ Ánh Sáng với
những phát triển vượt bậc về khoa học, chính trị, xã hội,
luật pháp, đạo đức và văn học tại Âu Châu. Xuyên suốt
chiều dài của giai đoạn Ánh Sáng, dựa trên “tính chất
khách quan” của các “bằng chứng khoa học”, người ta đi
tìm một “sự thật tuyệt đối” trong mỗi tạo vật của thế giới
và vũ trụ ngõ hầu xây dựng nên những lý thuyết về tự
nhiên cũng như những tổ chức và định chế xã hội nhằm
đạt đến “một cơ cấu hợp lý trong đời sống thường
ngày.” [7]
Khi bàn luận về tính chất hiện đại có hai tên tuổi lớn
thường được nhắc đến: Kant và Hegel. Nếu Kant được
thừa nhận như người đầu tiên cổ xuý cho những đổi mới
trong các khuynh hướng triết học hiện đại, và nếu Hegel
được xem như là người tiên phong trong việc đưa ra một
khái niệm triết học rõ ràng để xác định những vấn nạn của
thời kỳ hiện đại như “sự bảo chứng bản ngã”, hoặc sự
cần thiết xây dựng những nền tảng biện chứng riêng cho
bản ngã, thì Baudelaire mới là người thường xuyên được
nói đến như là một lý thuyết gia có công tạo ra được một
ngã rẽ rõ ràng về các hiểu biết của tính chất hiện đại [8].
Baudelaire đã chỉ ra những giá trị có thể có của thời
kỳ hiện đại[9]; nhận thức những đặc tính hiện đại tách biệt
như tính nhất thời, ngẫu nhiên, và phù du trong thời kỳ
hiện đại [10]; làm sáng tỏ những điều kiện và những phức
tạp trong đời sống hiện đại [11]. Nhưng có lẽ Baudelaire
được nhớ đến nhiều nhất là nhờ ông đã chỉ ra “sự tương
phản giữa tính chất mỹ học hiện đại và tính chất thực tiễn
của nền văn minh tư sản trong thời kỳ hiện đại.” [12].
Baudelaire đã có hai quan sát riêng biệt: thứ nhất, có
những trùng hợp đáng kể giữa triết lý và mỹ học thời hiện
đại; thứ hai, sự tương phản giữa mỹ học (hoặc văn hoá)
và chính trị, xã hội thời hiện đại tạo nên hai tính chất riêng
rẽ đối kháng nhau một cách đầy mỉa mai [13], đánh dấu
cho thời kỳ này đang tiến đến giai đoạn phát triển cao
nhất của nó để chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đời các chủ
thuyết lớn thời cận đại.
Theo Jane Flax, trong luận văn Thinking Fragments:
Psychoanalysis, Feminism, and Postmodernism in the
Contemporary West [14], nếu thời kỳ hiện đại được hiểu
với khái niệm thời gian, thì giai đoạn nối tiếp của nó sẽ
được xem như là thời kỳ hậu hiện đại (postmodernity). Và
tính chất riêng biệt đặc trưng cho từng thời kỳ gọi là tính
chất hiện đại và tính chất hậu hiện đại, mặc dầu trong Anh
Ngữ vẫn chỉ làmodernity và postmodernity. Khi nói đến
tính chất hiện đại người ta có khuynh hướng nói đến
những đặc điểm triết lý xuyên suốt thời kỳ Ánh Sáng của
Âu Châu, với những đại diện tiêu biểu cho giai đoạn này
bao gồm: Jean-Jacques Rousseau, Ferdinand de
Saussure, Sigmund Freud, Karl Marx, Jean-Paul Sartre…
Tiến trình xây dựng lý thuyết cho thời kỳ hiện đại từ
Descartes cho đến Marx, Weber, hay Jean-Paul Sartre,
cùng những trường phái liên hệ, đặt định Lý Tính như một
nguồn gốc tiến bộ của tri thức và xã hội, cũng như vị trí
ưu thế đặc quyền trung tâm của Sự Thật làm nền tảng
cho hệ thống tri thức. Lý Tính được sử dụng như một
phương tiện đầy quyền năng để khám phá và xây dựng
một cách đầy đủ những tiêu chuẩn lý thuyết lẫn thực
hành; dựa vào đó, tư tưởng và hành động của từng cá
nhân, cấu trúc xã hội, sẽ hình thành. Cuộc cách mạng tư
tưởng trong thời đại Ánh Sáng cũng xảy ra tại Hoa Kỳ và
một số quốc gia dân chủ khác mà mục đích tối hậu là xoá
bỏ chế độ cùng với ý thức hệ phong kiến để sản sinh ra
một trật tự xã hội đúng đắn và công bằng hơn, tạo nên
một xã hội tiến bộ hơn có chức năng vận động hợp
lý hơn.
Những tư tưởng căn bản của thời kỳ Ánh Sáng đặc trưng
bởi tính chất hiện đại, nêu lên trong công trình nghiên cứu
của Jane Flax, có thể được tóm tắt như sau:
Luôn luôn tồn tại một bản ngã ổn định, tự nhận thức,
được cấu trúc mạch lạc và chặt chẽ. Bản ngã này tự ý
thức, duy lý, tự do về ý chí và mang những đặc tính chung
cho toàn thể thế giới, không có một điều kiện thể lý nào có
thể tạo nên những ảnh hưởng thực thể đến nguyên lý
hoạt động của bản ngã.
Bản ngã này tự biết về bản thân nội tại và thế giới xung
quanh thông qua những quy luật lý tính, trong đó tính hợp
lý được đặt ở vị trí cao nhất trong các dạng thức về chức
năng lý trí, và tính chất này là hữu thể khách quan duy
nhất của vũ trụ.
Phương tiện nhận thức do bản ngã lý tính khách quan tạo
nên là Khoa Học, và chỉ có khoa học mới có khả năng
đưa ra được những Sự Thậttuyệt đối, phổ thông và vạn
năng về thế giới, bất chấp trạng thái cá nhân của người
cảm nhận.
Tri Thức (Kiến Thức) đạt được từ Khoa học là sự thật
tuyệt đối vĩnh hằng.
Tri thức và Sự thật tạo ra bởi Khoa Học thông qua một
bản ngã khách quan hữu lý sẽ luôn dẫn đến sự toàn thiện
và toàn mỹ. Tất cả mọi thể chế và hành động của nhân
loại có thể phân tích bằng khoa học (một khoa học hợp
lý và khách quan) để hoàn thiện.
Lý tính là sự phán xử sau cùng cho những gì gọi là Sự
Thật, do đó cũng sẽ quyết định cái gì là đúng, là tốt, là
hợp pháp và hợp đạo đức. Sự tự do phải bao hàm ý
nghĩa tuân thủ luật pháp, một luật pháp phù hợp với tri
thức phát hiện bởi lý tính.
Trong thế giới điều khiển bằng lý tính, Sự Thật luôn luôn
đồng nghĩa với cái đúng, cái tốt và cái đẹp, sẽ không bao
giờ có sự mâu thuẫn giữa những gì gọi là sự thật và
những gì gọi là điều đúng.
Khoa học, vì vậy, sẽ đại diện cho một khuôn mẫu bao
gồm tất cả mọi hình thái tri thức có ích đối với xã
hội. Khoa Học là trung tính và khách quan; khoa học gia,
kẻ sản sinh ra những kiến thức khoa học thông qua khả
năng lý tính không bị ảnh hưởng của sự chủ quan, phải
theo đúng quy luật lý tính và không bị khuynh đảo bởi
những động cơ vụ lợi như quyền lực hay tiền bạc chẳng
hạn.
Ngôn ngữ được sử dụng như một phương tiện diễn đạt
dùng để sản xuất ra kiến thức và phổ biến kiến thức khoa
học. Vì là một phương tiện khoa học, nên ngôn ngữ cũng
phải hợp lý. Vì phải duy trì tính hợp lý, nên ngôn ngữ phải
trong sáng, chức năng duy nhất của nó là phản ánh và thể
hiện thế giới hiện thực cảm nhận, một thế giới mà từ đó
một bản ngã duy lý quan sát được.
Phải có một liên kết khách quan và chặt chẽ giữa đối
tượng được nhận thức và ngôn ngữ dùng để diễn tả sự
nhận thức khách quan đó. Nói khác đi là cần có một quan
hệ biện chứng “khoa học” giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt (signifier/signified).
Dựa trên các nguyên tắc trên, chủ nghĩa nhân bản và chủ
nghĩa duy lý sử dụng để giải thích gần như tất cả mọi hình
thức cấu trúc và thể chế xã hội, bao gồm tính chất dân
chủ, luật pháp, khoa học, đạo đức và mỹ học…
Về căn bản, tính chất hiện đại được bao trùm bởi tính duy
lý và tiến trình hợp lý hoá, một quá trình nhằm tạo nên
một trật tự từ những hỗn loạn. Các chủ thuyết hiện đại
luôn có cương lĩnh hành động trên cơ sở một giả định:
xây dựng một xã hội hợp lý có nghĩa là tạo nên một trật tự
ổn định; xã hội ổn định chừng nào thì chức năng của nó
càng hoạt động hữu hiệu chừng đó và càng hợp lý hơn.
Vì tính chất của xã hội trong thời kỳ hiện đại luôn nhấn
mạnh đến sự gia tăng ngày một cao hơn trong mức độ ổn
định và trật tự xã hội, nên điểm đặc thù nhất trong xã hội
hiện đại là thường xuyên canh giữ những gì gọi là mất trật
tự — những nguy cơ phá vỡ các trật tự đã được khoa
học và lý tính xây dựng. Vô hình trung, trong xã hội hiện
đại, đặc biệt là xã hội hiện đại tây phương, tính chất ổn
định và trật tự phải được đặt ở vị trí trấn áp trong cặp đối
lập nhị phân Trật Tự/Hỗn Loạn. Muốn vậy, mặt đối lập
của Sự Đúng/Sự Thật/Trật Tự/Ổn Địnhphải được tạo ra
một cách thường trực. Theo ngôn ngữ của Jacques
Derrida, phần đối lập của trật tự, của đúng đắn, của chân
lý, v.v… được xếp chung trong một phạm trù Khác (the
Others).
Tính chất hiện đại xâm nhập vào đời sống thường ngày
bằng cách phổ biến nền nghệ thuật của chủ nghĩa hiện
đại (sẽ trình bày chi tiết ở phần dưới), những sản phẩm
của một xã hội tiêu thụ, những kỹ thuật mới, những
phương tiện di chuyển và truyền thông tân tiến. Những
phương tiện năng động mà nhờ đó, thời kỳ hiện đại đã tạo
ra một thế giới mới mang tính chất công nghiệp và thực
dân, một quá trình biến chuyển xã hội để tiến tới công
nghiệp hóa, chuyên biệt hoá, vật chất hoá, thành thị hoá,
thư lại hoá, cá nhân hoá, và đặc biệt nhất và rộng lớn nhất
là khoa học hoá và hợp lý hoá, một quá trình chuyển hoá
toàn diện để gộp thành ý nghĩa của hiện đại hoá [15]
Trong quá trình hiện đại hoá như thế cái “Others” dùng để
chỉ mọi thứ không hợp lý, thiếu văn minh, không có nguồn
gốc Âu Châu, không phải da trắng, không phải đàn ông,
đồng tính luyến ái, văn hoá của các dân tộc thiểu số…
đều là Khác, Lạ, cần phải loại trừ. Nhân danh cho sự loại
trừ những cái Khác này là sự khai phóng, là cách mạng,
để tạo nên một trật tự và ổn định mới, hợp lý hơn, tốt đẹp
hơn. Và trên con đường thi hành sứ mệnh duy trì trật tự
và gieo rắc chủ nghĩa khai phóng, nền văn minh hiện đại
cũng sáng tạo nên một hệ thống xã hội pháp lý toàn trị
nhằm che đậy cho sự đô hộ và trấn áp: Tính chất Đế
Quốc và Thực Dân; lý tưởng khai phóng của thời kỳ Ánh
Sáng đã mang những ý nghĩa trái ngược. Với hai cuộc
chiến tranh thế giới (chủ yếu tại Châu Âu) kéo theo những
hệ luỵ khủng hoảng xã hội thời hậu chiến, cộng với sự nổi
dậy của các dân tộc bị trị dưới chế độ thực dân, thời kỳ
hiện đại cùng với những hệ tư tưởng triết lý của nó tiến
dần đến sự mâu thuẫn và khủng hoảng, mở đường cho
một giai đoạn kế tiếp: thời kỳ hậu hiện đại.
Khác với chủ nghĩa hiện đại xuất hiện trong giai đoạn cuối
cùng của thời kỳ hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại
(postmodernism) xuất hiện gần như đồng thời với thời kỳ
hậu hiện đại (postmodernity), và có thể xem như hình ảnh
đối xứng của chủ nghĩa hiện đại theo khía cạnh thời gian.
Về mặt từ ngữ, chữ postmodern đã manh nha từ năm
1934, và được sử dụng lần đầu tiên bởi Arnold Toynbee
vào năm 1939[16]. Trong phần chú giải ở trang đầu tiên
của tập thứ nhất thuộc bộ sách lịch sử đồ sộ của ông, A
Study of History, Toynbee đã ghi rõ thời kỳ hiện đại chấm
dứt vào khoảng phần tư thứ ba của thế kỷ 19, nghĩa là
vào khoảng thời gian 1850 – 1875. Như vậy, thời kỳ hậu
hiện đại tiếp theo không phải nằm trong thế kỷ 20 mà bắt
đầu từ thế kỷ 19. Khi nghiên cứu sâu hơn trong công trình
lịch sử đó, Toynbee đã chính thức sử dụng từ ngữ hậu
hiện đại (Post-modern) trong tập sách thứ 5, bộ sách này
xuất bản vào năm 1939, trong đó ông dời sự chấm dứt
của thời kỳ hiện đại lại vào khoảng thời gian giữa hai cuộc
thế chiến, nghĩa là thời kỳ hậu hiện đại có khởi điểm nằm
trong khoảng thời gian từ năm 1918 đến 1939 [17].
Vì sự xuất hiện có tính cách đồng thời như vậy, nên tính
chất hậu hiện đại thường được diễn tả trong các đặc tính
của chủ nghĩa hậu hiện đại. Do đó, trong các văn bản
tiếng Anh, chữ Postmodernity chỉ dùng để chỉ khoảng thời
gian theo sau thời kỳ hiện đại, những tính chất về xã hội,
triết lý, văn hoá, mỹ học… được bao hàm trong chủ nghĩa
hậu hiện đại (postmodernism). Thời kỳ hậu hiện đại (Post-
modern age, Postmodernity) có liên hệ nối tiếp với thời kỳ
hiện đại, có thể kéo dài vài thế kỷ mà thời đại chúng ta
sống hiện nay là phần đầu của nó. Nếu chủ nghĩa hậu
hiện đại, cũng như chủ nghĩa hiện đại chỉ kéo dài một thời
gian ngắn, sau này người ta sẽ phân biệt rõ hơn giữatính
chất hậu hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, như chúng ta
thường phân biệt tính chất hiện đại và chủ nghĩa hiện
đại khi nói về giai đoạn Aùnh Sáng. Điều này phù hợp với
quan điểm của Lemke [18], “chủ nghĩa hiện đại, hay bất
cứ một khuynh hướng trí thức nào, cuối cùng sẽ được xác
định và làm rõ tính chất từ quan điểm của thế hệ kế tiếp.”
Chủ nghĩa hậu hiện đại: Những Khái Niệm Căn Bản
Theo Hassan [19], danh từ postmodernism được Federico
de Onis đưa vào văn bản lần đầu vào thập niên 1930 để
chỉ sự ảnh hưởng đối kháng với chủ nghĩa hiện đại. Danh
từ này được sử dụng một cách phổ biến vào thập niên
1960 tại New York, theo sau sự xuất bản hai cuốn sách
phê bình về mỹ thuật kiến trúc: The Death and Life of
Great American Cities của Jane Jacobs vào năm 1961 và
cuốn Complexity and Contradiction in Architecture của
Robert Venturi vào năm 1966. Trong khi Jacobs phê bình
những quá trình hiện đại hoá đô thị đã làm mất đi tính mỹ
thuật về kết cấu tổng thể của thành phố, Venturi phê bình
lối kiến trúc đơn điệu cộc lốc của các cao ốc mang nặng
tính thực dụng của diện tích mặt bằng mà lại bỏ quên tính
đa dạng, sự hài hoà giữa lịch sử cổ điển và văn minh
đương đại. Trong hai tập sách, mặc dầu không nhắc đến
chữ chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng cả hai tác giả đều đề
nghị giới trí thức hiện đại phải có tầm nhìn vượt lên trên
thời hiện đại. Đến năm 1972, những khối nhà cao tầng
được xây dựng từ những năm 50 (do Yamasaki thiết kế
và đoạt giải kiến trúc Pruitt-Igoe về thiết kế nhà ở đô thị
hiện đại) tại thành phố St. Louis, Missouri (Miền Trung
Tây Hoa Kỳ) bị giật sập kéo theo sự phá huỷ các cao ốc
có lối kiến trúc tương tự tại các thành phố khác của Mỹ,
Gia Nã Đại và Âu Châu trong những năm tiếp theo, năm
1972 trở thành mốc thời gian cho sự ra đời của chủ nghĩa
hậu hiện đại.
Trong suốt thập niên 60, danh từ postmodernism được
nhiều giới nghệ sĩ, nhà văn và nhà phê bình như
Rauschenberg, Cage, Burroughs, Barthelme, Fielder,
Hassan và Sontag sử dụng để chỉ trích sự cạn kiệt của
chủ nghĩa hiện đại và để mô tả những khuynh hướng
nghệ thuật muốn vượt qua những phạm vi giới hạn của
chủ nghĩa đó [20]. Khuynh hướng hậu hiện đại từng bước
tạo những ảnh hưởng rộng lớn hơn, lôi kéo sự bàn luận
và chú ý của giới trí thức đại học như Bell, Kristeva,
Lyotard, Vattimo, Derrida, Foucault, Harbemas,
Baudrillardd và Jameson [21].
Theo Fredric Jameson, chủ nghĩa hậu hiện đại cũng như
chủ nghĩa hiện đại, là những cơ cấu văn hoá, xã hội,
tương ứng với những giai đoạn nhất định của chủ nghĩa
tư bản. Jameson đã chia chủ nghĩa tư bản ra làm ba giai
đoạn phát triển căn bản gắn liền với những hình thái văn
hoá đặc thù, để từ đó các ngành nghệ thuật và văn
chương được hình thành một cách tương ứng:
Giai đoạn thứ nhất hay chủ nghĩa tư bản thị trường xảy ra
từ nửa đầu thế kỷ 18 kéo dài đến cuối thế kỷ thứ 19 tại
Tây Âu, Anh Quốc và Hoa Kỳ cùng các quốc gia chịu ảnh
hưởng. Giai đoạn này gắn liền với sự phát triển kỹ thuật
của chủ nghĩa tư bản, ví dụ như động cơ hơi nước và về
mỹ học là sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực (Realism).
Giai đoạn thứ hai hay chủ nghĩa tư bản độc quyền, bắt
đầu từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến khi Âu Châu hoàn tất
chương trình tái thiết thời hậu chiến (vào khoảng thập
niên 1950). Giai đoạn này tương ứng với sự ra đời của
động cơ đốt trong và động cơ điện về kỹ thuật; về mỹ học
là sự hình thành chủ nghĩa hiện đại (modernism).
Giai đoạn thứ ba tức thời kỳ đương đại chúng ta đang
sống, là chủ nghĩa tư bản đa quốc gia mang nặng yếu tố
mở rộng thị trường, buôn bán và tiêu thụ sản phẩm. Về kỹ
thuật tương ứng với sự ra đời năng lượng hạch tâm và kỹ
nghệ điện tử. Chủ nghĩa hậu hiện đại tương ứng với thời
kỳ này.
Về phương diện lý thuyết, chủ nghĩa hậu hiện đại phủ
nhận những giả định căn bản của chủ nghĩa hiện đại mà
hai yếu tố đóng vai trò chủ đạo cho mọi nền tảng triết lý
của nó là Tri Thức Khách Quan (Objective Knowledge)
và Sự Thật Tuyệt Đối (Absolute Truth). Theo cách nhìn
của các triết gia hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện đại được xây
dựng trên một niềm tin là có một hiện thực khách quan,
tồn tại một cách độc lập với mọi suy nghĩ của chủ thể
quan sát, vì vậy chỉ có một kết quả biểu hiện khách quan
duy nhất từ hiện thực: Sự Thật. Phương tiện để tìm hiểu
hiện thực (sự thật) khách quan là Khoa Học và các nhà lý
thuyết của chủ nghĩa hiện đại tin rằng con người có thể
tìm ra được sự thật khách quan của thế giới và vũ trụ.
Nhờ vào khoa học, chủ nghĩa hiện đại tin rằng, trí óc con
người có thể có những hoạt động tinh thần để tạo ra tri
thức phản ánh cho một hiện thực khách quan – Tri thức
khách quan.
Lý thuyết chủ nghĩa hậu hiện đại tranh luận rằng những gì
chúng ta gọi là Tri Thức chỉ là một mẩu chuyện đặc biệt,
một dạng văn bản, hay một giải trình ngôn ngữ
(discourse), là sự sắp xếp các từ ngữ, hình ảnh hay ký
hiệu, dáng điệu… theo một cách đặc biệt nhất định nào đó
để phù hợp với những lợi ích của một nền văn hoá, hoặc
đôi khi chỉ làm vui tai, vui mắt cho một thành phần nhỏ
nhoi có quyền lực trong nền văn hoá đó. chủ nghĩa hậu
hiện đại phủ nhận con người có thể có một Tri Thức
Khách Quan vì những gì chúng ta gọi là tri thức phải được
tạo thành từ ngôn ngữ và những nguồn gốc tạo
nghĩa khác tồn tại trong một nền văn hoá nhất định, mỗi
nền văn hoá có cách nhìn thế giới trong những cách khác
nhau, những hệ thống hình thành tri thức trong các nền
văn hoá khác nhau như thế hoạt động trên một nguyên
tắc đặc thù riêng biệt. Vì vậy, quan điểm về thế giới và vũ
trụ từ nền văn hoá Âu Mỹ xây dựng trên nền tảng chủ
nghĩa hiện đại bị áp đặt để trở thành một quan điểm thống
nhất và hằng định cho toàn thể mọi nền văn hoá trên thế
giới, về thực chất là một giả định có tính chất mưu cầu lợi
ích chính trị để đạt được những tham vọng đế quốc trong
quá khứ, nó không tồn tại vững chắc trên cơ sở trí thức.
Chủ nghĩa hậu hiện đại đi xa hơn để chỉ ra rằng, cũng
giống như một số nền văn hoá Âu Châu trong thời kỳ cận
đại đã áp đặt quan điểm của họ lên những nền văn hoá
khác bằng vũ lực, bằng xâm lăng và đô hộ, thì ngay trong
các quốc gia “hiện đại” đó cũng có một thiểu số thuộc giai
cấp quyền thế, giai cấp quý tộc cầm quyền chiếm ưu thế
bởi các nhóm nam giới trung niên, đã thống trị và chi phối
các dòng tư tưởng “chính mạch” trong các động hướng xã
hội, chính trị, văn hoá và cả đến khoa học tự nhiên (nếu
thực sự có một khoa học khách quan về tự nhiên như thế
hằng tồn tại), làm cho “thế giới quan hiện đại” phát đi từ
chủ nghĩa hiện đại tại các quốc gia đó vốn dĩ đã không
khách quan lại càng bị bó hẹp hơn – quan điểm của giai
cấp thống trị [22].
Như đã đề cập ở phần trên, Huyssen đã truy nguyên
nguồn gốc của chủ nghĩa hậu hiện đại từ các khuynh
hướng kiến trúc, mỹ thuật và phê bình của giới trí thức và
nghệ sĩ tại New York vào thập niên 1960 sau đó được các
nhà lý thuyết triết học Âu Châu khai triển vào thập niên
70, trong số các lý thuyết gia hàng đầu đó (Michel
Foucault, Jean Baudrillardd, Kristeva, Bell…) phải kể đến
Jean-Francois Lyotard với cuốn sách nổi tiếng La
Condition Postmoderne xuất hiện tại Paris vào năm 1979,
khi cuốn sách này được chuyển dịch sang Anh ngữ vào
năm 1984 [23], cùng với bài luận văn ngắn: “An Answer to
the Question: What is Postmoderism?” đăng trong phần
phụ lục, đã trở thành cuốn sách giáo khoa về chủ nghĩa
hậu hiện đại lưu hành phổ biến trong giới đại học của các
quốc gia nói tiếng Anh. Lyotard phê phán nỗ lực tạo ổn
định xã hội bằng cách trấn áp sự hỗn loạn (disorder) của
chủ nghĩa hiện đại, ông cho rằng tính chất ổn định xã hội
này trùng hợp với khái niệm toàn thể (totality) của J.
Derrida (trong đó totality tương đương với wholeness,
completeness). Tính toàn thể, tính ổn định, tính trật tự
trong xã hội hiện đại, theo Lyotard, được duy trì thông qua
những thần thoại hợp lý hoá (legitimating myths), hay
những đại tự sự (grand narratives) của thời kỳ hiện đại.
Lyotard tấn công vào tính đại tự sự mà chủ thuyết hiện đại
tin rằng sẽ có một quá trình giải phóng nhân loại để tiến
đến sự tiến bộ thông qua khoa học, cùng với ý tưởng triết
lý có thể phục hồi tính thống nhất trong sự tiếp nhận và
phát triển một tri thức nhân loại có giá trị chung cho toàn
thế giới (và vũ trụ). Một trong những đối tượng tấn công
của Lyotard vào thời kỳ này là Habermas, người đặt nghi
vấn về một hình thức bảo thủ mới trong lý thuyết của chủ
nghĩa hậu hiện đại và hậu cấu trúc luận
(poststructuralism) của Pháp [24]. Lyotard tranh luận rằng,
tất cả mọi khía cạnh của xã hội hiện đại, bao gồm cả khoa
học – hình thức căn bản của tri thức, hoàn toàn tuỳ thuộc
vào những đại tự sự. Theo ông, đại tự sự là những câu
chuyện “có tính cách thần thoại” một nền văn hoá tự kể về
niềm tin và hành động thực tiễn của nó. Ví dụ như tại Hoa
Kỳ, một trong những đại tự sự về chính trị hiện nay là Dân
Chủ và Nhân Quyền, một đại tự sự mà chính phủ Mỹ cho
là chính sách hợp lý và văn minh nhất trong vấn đề đối
ngoại, và dĩ nhiên, người lập ra sách lược này tin rằng nó
sẽ làm cho nhân loại trên thế giới sống hoà bình và hạnh
phúc hơn. Có lẽ cho đến nay không ai trong chúng ta là
không tin vào chính sách “hết sức khoa học và hợp lý”
này. Nhưng tuyệt nhiên không ai đặt một dấu hỏi cỏn con
nào về mặt thật đằng sau tính chất đại tự sự ấy của nền
văn hoá Mỹ. Theo quan điểm hậu hiện đại, mỗi hệ thống
đức tin hoặc ý thức hệ, đều chứa đựng những “thần thoại
hữu lý” của nó. Ví dụ, giáo hội Công giáo tin có một
thượng đế duy nhất hằng hữu, bao dung và toàn trị; trong
khi đó, những người Mác-xít tin tưởng một cách kiên trung
rằng, một ngày kia chế độ tư bản sẽ tự nó sụp đổ và thế
giới xã hội không tưởng sẽ hình thành; hay Việt Nam ta
cũng có đại tự sự: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh
hùng, đánh thắng ba đế quốc to…
Chủ nghĩa hậu hiện đại phê phán các hình thức đại tự sự
của chủ nghĩa hiện đại bằng cách cảnh báo rằng, những
đại tự sự đó được lạm dụng để che đậy những mặt đối
lập và bất định gắn liền với mọi tổ chức xã hội cũng như
mọi thực tiễn hành động. Nói một cách khác, mọi nỗ lực
kiến tạo trật tự và ổn định luôn luôn sản sinh ra một đối
lực tương ứng của hỗn loạn và bất ổn, như hai quá trình
song hành trong một thể thống nhất của hiện thực xã hội.
Nhưng, thay vì nhìn những yếu tố “hỗn loạn” và “bất ổn”
đó như một đối trọng có tính cách cân bằng trong nghĩa
xây dựng, đại tự sự của chủ nghĩa hiện đại đã tìm mọi
cách đè bẹp với lý lẽ cho rằng sự hỗn loạn và bất ổn là
xấu, là phá hoại, là phản động, cần phải tận diệt, trong khi
đó trật tự và ổn định là luôn luôn tốt, luôn luôn đúng, phù
hợp với cách mạng, hợp lý với khoa học! Chủ nghĩa hậu
hiện đại phủ nhận tính chất đô hộ và áp đặt của đại tự sự,
cổ xuý những tiểu tự sự, những lý lẽ giải thích cho những
hành động nhỏ bé, những biến cố có tính chất địa phương
thay vì những khái niệm rộng lớn có tính cách bao quát và
toàn thể. Những tiểu tự sự của chủ nghĩa hậu hiện đại
thường được nhìn dưới góc độ hoàn cảnh tạm thời, ngẫu
nhiên, không tuyên xưng tính thống nhất toàn thể, tính ổn
định, tính hợp lý, hay sự thật khách quan. Đối với chủ
nghĩa hậu hiện đại, mọi sự thật vĩnh hằng và trường cửu
sẽ biến mất, mang theo nó những quy định về ngôn ngữ
của cái biểu đạt (signifier/signifiant) và cái được biểu đạt
(signified/signifié), thay vào đó là những biểu hiện bề mặt
không cần có bản chất, như Foucault [25] đã chỉ ra bản
chất của lịch sử, trong đó ông cho rằng, sử gia tái tạo lịch
sử là một công việc hão huyền, nếu không muốn nói là sự
đánh lừa công chúng một cách ấu trĩ, vì, giải trình ngôn
ngữ lịch sử là một giải trình ngôn ngữ hiện tại, phục vụ
cho hiện tại, tạo ra một ý nghĩa nào đó cho con người
hôm nay, có một hiểu biết nào đó, về những dấu tích khảo
cổ để lại từ những sinh hoạt mà nhân loại thu lượm được
từ quá khứ. Từ lý luận về giải trình ngôn ngữ lịch sử,
Foucault đã đi sâu hơn về khái niệm giải trình ngôn
ngữ (discourse), ông viết một chương dài bàn luận về vai
trò của khái niệm này, nó không phải chỉ đặc trưng cho
chức năng ngôn ngữ, mà tất cả những gì con người có
thể làm để tạo nghĩa về thế giới. Foucault đã chứng minh
rằng, những hiện thực khách quan, những đối tượng
nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa hiện đại, như những
ý niệm (thực thể) của bản ngã, quốc gia, ngôn ngữ, trí tuệ,
giới tính, tội phạm, những định chuẩn tự nhiên, vân vân,
thực chất là những cấu trúc đặc thù của lịch sử, hay sản
phẩm của lịch sử, không thuộc về đối tượng của giải trình
ngôn ngữ nhân loại. Ông chú ý đến cái gọi là khoa học
hiện tượngđể tìm ý nghĩa thông qua giải trình ngôn ngữ,
từ đó nghiên cứu những phương pháp lý thuyết của quá
trình tạo nghĩa bởi sự tương tác giữa con người và giải
trình ngôn ngữ đối với sự vật. Với giải trình ngôn ngữ của
Foucault hay “tr ch i ngôn ngữ” (language game) của
Wittgenstein (J. F. Lyotard khai triển thêm), chủ nghĩa hậu
hiện đại đã bước hẳn sang một ngã rẽ khác trong quá
trình quan sát và tạo nghĩa, một quá trình hoàn toàn loại
trừ khái niệm cái biểu đạt và cái được biểu đạt của chủ
nghĩa hiện đại để tập trung xây dựng một cách diễn đạt ý
nghĩa mới về thế giới và vũ trụ.
Trong giải trình ngôn ngữ hậu hiện đại, sự phân tích ngôn
ngữ là một sự áp dụng ngữ nghĩa học (semantics) vào
một văn bản thuần tuý, không tìm những ý nghĩa ẩn tàng
sau những cách sử dụng cú pháp, văn phạm và tu từ như
được nhấn mạnh trong chủ nghĩa hiện đại. Thay vào đó là
sự chú tâm đến những quy ước văn hoá của ngôn ngữ,
do đó đòi hỏi sự tìm hiểu ngôn ngữ xuất phát từ xã hội
hơn là xuất phát từ ý thức. Chúng ta không thể nào phân
tích một cách đầy đủ quá trình thụ nhận tri thức của một
cá nhân từ ngôn ngữ nếu chúng ta không hề hay biết đến
kiểu mẫu giải trình ngôn ngữ của cộng đồng cá nhân đó
đang lệ thuộc [26]. Giải trình ngôn ngữ của chủ nghĩa hậu
hiện đại đặt nền tảng trên nguyên tắc liên văn
bản (intertextuality), bất chấp giải trình đó là ngoại biểu
hay nội biểu; nói cách khác, mọi ý nghĩa được tạo nên
phải dựa vào căn bản một ý nghĩa khác đã được thành
lập trước đó và chia sẻ bởi cộng đồng, rộng hơn, của nền
văn hoá cộng đồng đó phụ thuộc [27].
Trong giải trình ngôn ngữ của chủ nghĩa hậu hiện đại, có
hai tên tuổi lớn luôn được nhắc đến: Foucault và Bakhtin.
Bakhtin và Foucault quan niệm rằng, giải trình ngôn ngữ
là một quá trình hành động để tạo nghĩa, mà đơn vị giải
trình của nó là đơn vị ý nghĩa hoặc một hành động của
con người để diễn tả ý nghĩa chứ không phải những đơn
vị của ngôn ngữ như ngôn, từ, mệnh đề, câu… Giải trình
ngôn ngữ có thể tạo nghĩa từ những điệu luân vũ, dáng
điệu, chuyển động; với hình ảnh, biểu đồ, bài hát, hay
ngay cả với thực phẩm và quần áo. Lấy ví dụ, trong khoa
học, chúng ta không phải chỉ viết và nói, chúng ta còn sử
dụng rất nhiều phương pháp khác nhau để xây dựng
những ý nghĩa đặc thù cho mỗi ngành khoa học, những
phương pháp đó bao gồm việc quan sát các hiện tượng
xảy ra khi tiến hành một thực nghiệm sinh hoá học, ghi
nhận và phân tích dữ kiện, hoặc trong kinh tế, các chuyên
gia thường chú ý đến các biểu đồ lên xuống của tiền tệ,
hối đoái, trong xã hội người ta lại tìm kiếm các số liệu
người thất nghiệp, người có việc làm, tỉ lệ tội phạm, hoặc
thăm dò các khuynh hướng chính trị của một nhóm chủng
tộc nào đó… (ví dụ sẽ còn rất nhiều, chỉ xin đơn cử một
số để minh hoa)ï. Trong mỗi lãnh vực riêng biệt đều có
một hệ thống ký hiệu quy ước mà cộng đồng chấp nhận,
và giải trình ngôn ngữ là sự ứng dụng các hệ thống ký
hiệu để tạo nghĩa về một hiện tượng, một vật thể hay rộng
hơn về thế giới. Ký hiệu học hậu hiện đại nhấn mạnh đến
sự giải trình ngôn ngữ về tạo vật hay hiện tượng tức là
cách chúng ta nhìn sự vật và hiện tượng như thế nào chứ
không phải hiện tượng và sự vật được mô tả như thế nào
bằng giải trình ngôn ngữ. Chủ nghĩa hậu hiện đại hoàn
toàn không đề cập đến bản chất hiện tượng đó, hay nói
theo ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện đại, Sự Thật đằng sau
hiện tượng. Như đã đề cập phần trên, hiện tượng chúng
ta quan sát và tạo nghĩa bằng giải trình ngôn ngữ, là một
quá trình so sánh liên văn bản kéo dài đến bất tận, nên
chúng ta không tài nào biết được đâu là nguồn gốc của ý
nghĩa, đâu là sự thật của ý nghĩa đó. Một quá trình mà
Baudrillard cho là sự sao chép giả tạo (simulation).
Khái niệm căn bản cho lý thuyết hiện tượng học của
Baudrillard là Vật thể giả tạo (Simulacrum). Simulacrum là
một hiện tượng mà bản chất của nó hoàn toàn bị che dấu
nên không còn mang tính chất hiện thực [28] và chúng ta
cảm nhận được thế giới là nhờ giải trình ngôn ngữ trên
các hiện tượng “giả tạo” đó. Vì vậy, Sự Thật mà chủ nghĩa
hiện đại tìm thấy ở vật thể và thế giới thực ra là những
hình ảnh giả tạo, Simulacrum.
Tri Thức Dưới Quan Điểm Hậu Hiện Đại
Khai triển từ luận văn của J.F. Lyotard, Sarup [29] đã
phân tích một cách khá chi tiết về tổ chức của tri thức
theo lý thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong xã hội
hậu hiện đại, tri thức không những được đặc trưng bởi
tính chất ứng dụng, mà còn có thể phân phối, dự trữ, và
sắp xếp: Tri Thức thuần tuý là một hiện tượng, một sản
phẩm, do đó nó mang đầy đủ tính chất của một vật thể có
giá trị trao đổi. Đi xa hơn, như Sarup đã nhấn mạnh theo
lý luận của Lyotard, trong xã hội hậu hiện đại, bất cứ một
loại tri thức nào mà không được mã hoá để nhận biết và
lưu trữ bởi máy điện toán, thì không còn được xem là tri
thức. Dựa theo khuôn mẫu này, đối lập với tri thức không
còn là sự dốt nát như các cặp đối lập nhị phân trong chủ
nghĩa hiện đại, mà là tạp hiệu (noise). Tạp hiệu được
dùng để chỉ một cái gì đó không nhận thức được trong
khuôn mẫu hậu hiện đại, tín hiệu không chuyên chở một
thông tin có nghĩa nào.
Theo chủ nghĩa hậu hiện đại, tri thức không phải chỉ thuần
tuý làm giàu kiến thức cá nhân, mà nhấn mạnh đến khía
cạnh chức năng, tri thức học hỏi để hành động chứ không
phải chỉ để biết. Vì vậy, trong các xã hội tây phương chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại, chính sách giáo
dục thường được chú ý đến phương diện thực tiễn, tạo
một sự liên kết chặt chẽ giữa giáo dục và hướng nghiệp.
Sau hết, làm thế nào để xác định tri thức và tạp hiệu? Chủ
nghĩa hậu hiện đại không đưa ra một định nghĩa rõ ràng
làm thế nào để phân biệt hai lãnh vực này, thay vào đó,
dựa vào Ký Hiệu Học hậu hiện đại, tri thức là một hành
động giải trình ngôn ngữ trước một hiện tượng, một sự
kiện, một tạo vật…, còn đối với Lyotard, tri thức là một “trò
chơi ngôn ngữ” (language game). Từ cách đặt vấn đề như
thế chúng ta có thể phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa
hai quan niệm tri thức hiện đại và hậu hiện đại. Tri thức
theo quan niệm của chủ nghĩa hiện đại là sự phản ánh sự
thật khách quan từ một hiện tượng, được làm rõ bản chất
thông qua phương tiện khoa học. Nó trở thành tấm gương
soi cho sự thật của vật thể và thế giới. Dưới lăng kính của
chủ nghĩa hậu hiện đại, tri thức tự thân của nó cũng là
một hiện tượng, được diễn dịch một cách chủ quan bằng
giải trình ngôn ngữ, một quá trình hoàn toàn phụ thuộc
vào kinh nghiệm cá nhân. Nói khác đi, không có tri thức
khách quan và có trở thành tri thức cho một cá nhân hay
không là dựa vào kinh nghiệm cá nhân cảm nhận hiện
tượng. Lấy ví dụ, đối với một nhà phê bình văn học, hiểu
biết những vấn đề về văn chương là điều tối cần thiết, nên
sự ra đời một tác phẩm có thể loại hoàn toàn mới, sẽ trở
thành một tri thức vì chưa bao giờ anh ta gặp một thể loại
như thế từ trước, trái lại, tác phẩm đó rơi vào tay một anh
lái buôn, anh ta không thấy hứng thú đọc tiếp, đối với bản
thân anh ta nó là thứ anh ta không cần phải biết, tác phẩm
biến thành một tạp hiệu.
Mỹ Học Theo Quan Điểm Hiện Đại và Hậu Hiện Đại
Theo một nghĩa rất hạn hẹp, chủ nghĩa hiện đại và hậu
hiện đại gắn liền với những khuynh hướng mỹ học có tính
chất đặc trưng cho thời kỳ hiện đại và thời kỳ hậu hiện
đại. Như đã khảo sát ở phần đầu, chủ nghĩa hiện đại xuất
hiện vào giai đoạn sau cùng của thời kỳ hiện đại (cuối thế
kỷ thứ 19) với những đại diện tiêu biểu như: Joyce, Yeats,
Gide, Proust, Rilke, Kafka, Mann, Musil, Lawrence và
Faulkner (Văn Chương); Rilke, Pound, Eliot, Lorca, Valéry
(Thi Ca); Strindberg, Pirandelo và Wedekind (Kịch);
Matisse, Picasso, Braque, Cézanne và những trường phái
Vị Lai, Biểu Hiện, Đa Đa, Siêu Thực, trong hội hoạ;
Stravinsky, Schoenberg và Berg (Âm Nhạc). Những đặc
điềm mỹ học của chủ nghĩa hiện đại có thể tóm tắt như
sau (2): nhấn mạnh đến sự diễn tả quá trình nhận thức
xảy ra như thế nào hơn là những gì được cảm nhận, sử
dụng hình thức ấn tượng và nêu bật vai trò chủ thể trong
hành văn, như trường hợp lối viết của thể loại dòng ý
thức(stream of consciousness) trong tác phẩm của James
Joyce; loại trừ lối viết tự sự, bắt nguồn từ một ngôi thứ ba
thông suốt hết mọi sự, có cảm quan cố định và một làn
ranh rõ ràng về đạo đức; xoá nhoà sự tách biệt giữa các
thể loại, do đó thơ đến gần với văn xuôi (trường hợp Eliot)
và văn xuôi đến gần với thơ (trường hợp của Woof và
Joyce); tác phẩm mỹ thuật có dạng thức phân đoạn,
không liên tục và là một kết hợp ngẫu nhiên nhiều chất
liệu; tác phẩm mang nhiều sắc thái nội hướng, ý thức bản
ngã của tác giả, để mỗi sáng tác mang một ý nghĩa mỹ
học tự thân; và sau cùng là sự chối bỏ các lý thuyết mỹ
học khuôn sáo để tiến đến sự ngẫu hứng và khám phá sự
sáng tạo, phủ nhận sự phân biệt các dạng thức cao thấp
trong mỹ học.
Quan điểm mỹ học hậu hiện đại mang những đặc điểm
như: xoá nhoà ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống
thường ngày; phá bỏ những giai tầng văn hoá quý phái và
văn hoá đại chúng; phủ nhận tính chất nguyên thuỷ của
một tác phẩm nghệ thuật và cho rằng nghệ thuật cũng chỉ
là một hiện tượng lập lại; nhấn mạnh đến phong cách trộn
lẫn giữa nhân vật và sự can thiệp của chính tác giả vào
tác phẩm; tính chất kết dính nhiều mảng kết cấu khác
nhau trong cùng một tác phẩm, tựa như một bức tranh
khảm có nhiều chất liệu dị biệt, là điều khá phổ biến trong
các tác phẩm hậu hiện đại. Nghệ thuật hậu hiện đại cũng
có nhiều điểm tương đồng với quan niệm mỹ học hiện đại,
như sự soi rọi nội tâm, ý thức bản ngã, cách đoạn và
không liên tục, tính đồng diễn… Nhưng ngược lại, thái độ
của chủ nghĩa hậu hiện đại trong mỹ học là phi cấu trúc,
phi tâm hoá và từ chối vai trò chủ thể của con người, một
sự tiếp nhận, mô tả hiện tượng không suy diễn, không chú
ý đến chiều sâu, không diễn dịch bản chất sự vật theo chủ
quan tác giả; thay vào đó, tác giả cũng tham gia vào một
trò chơi ngoại biểu, tạo ra những đối kháng có tính chất
mỉa mai và châm biếm để người đọc tự tìm thấy trong tác
phẩm và nếu cần tác giả sẽ chủ động lôi kéo người đọc
vào trò chơi đó.
Quan điểm mỹ học hiện đại vẫn còn mang nặng tính chất
đại tự sự, khi nhiều công trình nghệ thuật được sáng tác
để mang một thông điệp cho loài người biết rằng, nghệ
thuật hiện đại có khả năng tạo ranhững tác phẩm có sự
đồng nhất, kết cấu chặt chẻ và mang những ý nghĩa của
đời sống mà chính sự phát triển các phương tiện hiện đại
đã làm chúng biến mất. Nghệ thuật hiện đại tự khoác cho
nó một vai trò lịch sử to lớn để tái tạo lại những gì mà các
thể chế khác của nhân loại đã bó tay. Nói chung, nền mỹ
học hiện đại, giống như chủ thuyết khai sinh ra nó, vẫn bị
ảnh hưởng nặng nề bởi những niềm tin vào khả năng vô
hạn của con người, một khả năng dựa hẳn vào tính chất
tuyệt đối của sự thật phát hiện bởi các phương tiện khoa
học.
Chủ nghĩa hậu hiện đại, trái lại, xem mỹ học cũng như các
vật thể giả tạo khác mà hiện thực hoàn toàn bị khuất lấp
sau những hiện tượng, những Simulacrum. Càng nhiều
hiện tượng, “hiện thực” càng được làm đầy thêm (hyper-
reality) và vai trò của nghệ thuật chỉ thuần tuý là tham gia
vào trò chơi hỗn loạn giữa các vật thể giả tạo đó, và việc
có tin tưởng vào hiện thực biểu hiện hay không là hoàn
toàn tuỳ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của người đọc,
tuỳ thuộc vào nền văn hoá mà họ đang sinh hoạt và tuỳ
vào khả năng phản ánh hiện thực thông qua hành động
giải trình ngôn ngữ, và cứ như thế mà mỹ học hậu hiện
đại cứ kéo dài sự diễn dịch ra ngoài mọi biên cương để
tiến về nơi bất tận.
Đối với văn học Việt Nam, sự ảnh hưởng của chủ nghĩa
hậu hiện đại gần như chưa có một dấu ấn nào đáng kể
(xem thêm bài viết của Nguyễn Hưng Quốc trong số này).
Cũng có một số “đại học giả” kiến nghị rằng chúng ta nên
giữ một thái độ bao dung và thể tất tối đa với văn học
nước nhà, không nên vì cái mới mà xoá bỏ cái cũ. Tôi
đồng ý, bảo vệ nền văn học (và rộng hơn là văn hoá)
truyền thống của dân tộc là chuyện nên làm; nhưng tôi
cảm thấy bị lạc trong “cao trào văn hoá truyền thống” đó.
Truyền thống là một giải trình ngôn ngữ văn hoá, chúng ta
sẽ không bao giờ mất, bởi tự thân giải trình ngôn ngữ văn
hoá này xuất phát từ quan điểm cá nhân rất Việt Nam đã
thâm căn cố đế trong máu huyết của mỗi một chúng ta (có
ai nhìn tà áo dài Việt Nam mà bảo rằng đó là cái váy đâu).
Cái còn lại mà chúng ta sẽ mất là đà tiến hoá của nhân
loại. Khi thế giới đang vượt lên trên mọi giới hạn của dân
tộc và biên giới quốc gia để tạo nên một cách nhìn đa
nguyên về cuộc sống, để tạo nên một sự hoà trộn giữa
các nền văn hoá nói chung và văn học nói riêng, lẽ nào
chúng ta cứ ôm giữ mãi một đại tự sự “độc tôn”: Việt nam
là đỉnh cao của trí tuệ và lương tri của loài người. Một đại
tự sự đã làm cho những trí óc siêu việt chứng minh một
cách rất “khoa học và biện chứng” rằng củ mì có chất đạm
cao hơn thịt bò. Một đại tự sự đã làm cho ai đó ở Tây ba
năm, ở Mỹ nửa đời niên thiếu, vẫn nặng lòng với dân tộc,
để hô hào bảo vệ nền văn hoá truyền thống dân tộc, vì e
rằng văn hoá Âu Mỹ sẽ ăn tươi nuốt sống nền văn học
Việt Nam. Chủ nghĩa hậu hiện đại không những không
phá huỷ nền văn hoá dân tộc mà ngược lại, còn cổ xuý
cho sự phát triển tính đa dạng của các nền văn hoá (và
văn học) nhỏ bé đó. Chỉ có điều nên thể hiện nó dưới một
quan điểm mới hơn, lạ hơn và thú vị hơn. Để làm được
như vậy, không phải chúng ta có nên bao dung với nền
văn học nước nhà hay không, mà thực ra những kẻ hô
hào bao dung đó phải từ bỏ những Đại Tự Sự kiểu như:
dân tộc ta thông minh có thừa… Dân tộc ta là một dân tộc
anh hùng vân vân. May ra văn học Việt có được một lối đi
mới mẻ trong kỷ nguyên tới.
_________________________
[1]Mary Klages, Postmodernism đăng trên trang web:
http://www.colorado.edu/English/ENGL2012Klages/pomo.
htm
[2]Baudrilla, J. (1996) Disneyworld Company đăng trên
nhật báo xuất bản tại Paris: Liberation ngày 4 tháng 5
năm 1996, bản dịch Anh ngữ của Francois Debris.
[3]Epstein, M. On the place of Postmoderism in
Postmordernity in the book Russian Postmodernism: New
perspectives on Post-Soviet Culture. New York, Oxford:
Berghalm Books (1999), pp. 456-468.
[4]Bell, D. (1976) The Cultural Contradictions of
Capitalism. London: Heinemann, p. 50.
[5]Oden, T. C. (1992) Two Worlds: Notes on the Death of
Modernity in America and Russia. Downers Grove, Illinois:
InterVarsity Press. P32.
[6]Bock, K. (1979) Theory of Progress, Development,
Evolution in Bottomore, T. and Nisbet, R. A history of
Sociological Analysis. London: Heinemann. Calinescu, M.
(1977) Faces of Modernity. London: Indiana University
Press. Habermas, J. (1981) Modernity versus
Postmodernity. New German Critique, 22:9.
[7]Smart, B. (1990) Modernity, Postmodernity and
Present in Turner, B. S. (1991) Theories of Modernity and
Postmodernity. London: SAGE Publ, p17.
[8]Benjamin, W. (1973) Illumination. London: Fontana,
p196.
[9]Harbemas, J (1987) The Philosophical Discourse of
Modernity. Cambridge: Polity, p8.
[10]Berman, M. (1983) All that is Solid Melts in
Air. London: Verso, p40.
[11]Calinescu, M. (1977) Faces of Modernity. London:
Indiana University Press, p4.
[12]Sách đã dẫn trong (14), p41.
[13]Lash, S. (1987) Modernity or Modernism: Weber and
contemporary social theory, in Whimster, S. and Lash, S
(eds) Max Weber, Rationality and Modernity. London:
Allen and Unwin.
[14]Flax, J. (1990) Thinking Fragments: Psychoanalysis,
Feminism, and Postmodernism in the Contemporary
West. California: The University of California Press, p41.
[15]Featherstone, M. In Pursuite of the Postmodern: An
Introduction. In Theory, Culture & Society Volume 5, 195-
215. London: SAGE Publication, 1988.
[16]Toynbee, A. (1939) A Study of History. Volume 5.
Oxford: Oxford University Press, p43.
[17]Best, S. and Kellner, D. (1991) Postmodern Theory:
Critical Interrogations. New York: Guiford Press.
Introduction of Chapter 1.
[18]Lyotard, J. F. (1979) The Postmodern Condition: A
Report on Knowledge. Translated by Geoff Bennington
and Brian Massumi, Manchester: Manchester University
Press (1984).
[19]Hassan, I. (1985) Theory, Culture and Society.
Postmodern Culture, 2(3): 119-131.
[20]Huyssen, F. (1984) Mapping the Postmodern. New
German Critique 33.
[21]Jameson, F. (1984) Postmodernism, or the Cultural
Logic of Late Capitalism. New Left Review 146.
[22]Lemke, J. L. (1994) Semiotics and the Deconstruction
of Conceptual Learning. J. Soc. For Accelerative Learning
and Teaching.
[23]Lyotard, J. F. (1979) The Postmodern Condition: A
Report on Knowledge. Translated by Geoff Bennington
and Brian Massumi, Manchester: Manchester University
Press, 1984).
[24]Beinstein, R. (1985) Habermas and Modernity. Oxford:
Polity and Richters, A. (1988) Habermas and
Foucault. Theory, Culture & Society: Vol 5, No. 4.
[25]Foucault, M. (1969) The Archaeology of Knowledge
and The Discourse on Language. New York: Pantheon
Books, 1972. Chapter 1: The Unities of Discourse.
[26]Lemke, J. L. (1989) Social Semiotics: A new model for
literacy education. In D. Bloome Edition. Classrooms and
Literacy, pp 289-309. Norwood, New Jersey: Ablex
Publishing.
[27]Lemke, J. L. (1985) Ideology, Intertexuality, and The
Notion of Register. In Benson, J. D. and Greaves, W. S.
Editions: Systemic Perspectives on Discourse, pp 275-
294. Norwood, New Jersey: Ablex Publishing.
[28]Woolley, M. (1996) Beyond Simulation: Production
and the Nostalgia Industry. SSPP.net Vol.2, No.1, Sep.
1999.
[29]Sarup, M. (1993) An Introduction Guide to Post-
Structuralism and Postmodernism. Atlanta: University of
Georgia Press.
Nguồn: http://www.tienve.org
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Dưới lớp mặt nạ Exotic
LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH | 31/10/2015 - 08:31