Professional Documents
Culture Documents
Tanin gặp chủ yếu trong thực vật bậc cao ở cây hai lá mầm. Thường gặp nhất ở các
họ: Sim, Hoa hồng, Đậu, Bàng... Một số tanin được tạo thành do bệnh lý khi cây bị sâu
chích vào để đẻ trứng tạo nên ‘Ngũ bội tử’. Một số loại Ngũ bội tử chứa đến 50 - 70%
tanin.
Phần đường và phần không phải đường nối với nhau theo dây nối ester (không phải
dây nối acetal) nên người ta coi tanin loại này là những pseudoglycosid. Các đặc trưng của
tanin loại này là:
- Khi cất khô ở 180 - 200C sẽ thu được pyrogallol là chủ yếu.
- Khi đun nóng với HCl sẽ cho acid gallic hoặc acid ellargic.
- Cho tủa bông với chì acetat 10 %.
- Cho tủa màu xanh đen với muối sắt (III).
- Thường dễ tan trong nước.
Sau đây là ví dụ một số tanin thuộc loại thủy phân được:
- Tanin của Ngũ bội tử nguồn gốc từ các loài
Quercus spp. và Rhus spp. Theo Fisher công thức
của tanin trong Ngũ bội tử là pentagalloyl-β-D-
glucose.
- Tanin trong một số cây thuộc chi Terminalia: acid chebulinic và acid chebulagic
- Hai
chất
tanin
casuarictin và casuarinin có trong cây Ổi - Psidium guajava L và một số loài Rubus spp,
Quecus spp.
- Một số nguyên liệu khác có chứa tanin thủy phân được như Đại hoàng, Đinh hương,
Cánh hoa hồng đỏ, Vỏ quả và vỏ cây Lựu, lá cây Bạch đàn...
2. Tanin ngưng tụ
Tanin ngưng tụ hay còn
được gọi là tanin không thuỷ phân được, tanin pyrocatechic hay phlobatanin. Các chất
thuộc nhóm này là những polyflavonoid thường được tạo thành do sự ngưng tụ từ các đơn
vị flavan-3-ol hoặc flavan-3,4- diol'. Ví dụ tanin của vỏ quế là [epicatechin-(4ß–8)]5-
epicatechin. Tanin nhóm này có những đặc điểm sau:
- Dưới tác dụng của acid hoặc enzym dễ tạo thành
chất đỏ taning hay phlobaphen. Phlobaphen rất ít tan
trong nước là sản phẩm của sự trùng hiệp hoá kèm
theo oxy hoá, do đó tanin nhóm này còn mạnh được
gọi là phlobatanin. Phlobaphen là đặc trưng của một
số dược liệu như vỏ Canh ki na, vỏ Quế
- Khi cất khô thu được được pyrocatechin là chính
- Cho tủa màu xanh lá đậm với muối sắt (III)
- Cho tủa bông với nước brom.
- Khó tan trong nước hơn tanin pyrogallic.
Tanin ngưng tụ hay gặp trong các chi Acacia,
Camellia, Cinchona, Cinnamomum, Rheum, Salix...
3. Tanin hỗn hợp
Ngoài 2 loại tanin chính như trên, còn có một loại tanin khác. Loại này được tạo
thành trong cây do sự kết hợp giữa 2 loại tanin đã nói ở trên. Trong phân tử có dây nối C-
glycosid giữa C-6 hay C-8 của flavanoid và C-1 của theo dây nối ester. Ví dụ tanin trong
vỏ cây Quercus stenophylla, lá ổi và lá chè.
Cũng cần chú ý rằng trong một số nguyên liệu thực vật có thể có mặt cả hai loại tanin thuỷ
phân được và tanin ngưng tụ. Ví dụ, lá cây thuộc chi Hamamelis, rễ Đại hoàng, lá ổi, lá
Bàng...
V. ĐỊNH LƯỢNG
1. Phương pháp bột da
Nguyên tắc: cho tanin trong dịch chiết dược liệu tác dụng với một lượng thừa bột da.
Xác định khối lượng tanin được hấp thụ vào bột da từ đó quy ra lượng cân tanin có trong
dược liệu.
Thực hiện: chiết tanin trong dược liệu bằng cách đun với nước cất nhiều lần cho đến
khi dịch chiết âm tính với thuốc thử sắt (III)
Lấy 1 phần chính xác dịch chiết, bốc hơi tới cắn và sấy ở 105°C rồi xác định lượng cắn
(T1) bằng phương pháp cân.
Lấy 1 phần chính xác dịch chiết thêm bột da, khuấy đều, để yên 15 phút rồi lọc. Bốc hơi
dịch lọc đến cắn, sấy ở 105°C rồi xác định lượng cắn (T1) bằng phương pháp cân.
Lấy 1 phần chính xác nước cất. thêm lượng bột da như ở phần trên, khuấy đều, để
yên rồi lọc. Bốc hơi dịch lọc đến cắn, sấy ở 105°C rồi xác định lượng cắn (T) bằng phương
pháp cân.
Hiệu số (T1 + T0) – T2, chính là lượng cân tanin có trong lượng dịch chiết sử dụng định
lượng.
2. Phương pháp oxy hoá (Phương pháp Löwenthal)
Nguyên tắc: Hàm lượng tanin trong dược liệu được đánh giá bằng khả năng phản
ứng với thuốc thử KMnO. Từ lượng KMnO, tiêu thụ quy ra lượng tanin có trong dược liệu.
3. Phương pháp tạo tủa với đồng acetat.
Chiết tanin trong dược liệu bằng cồn 60°, thêm dung dịch đồng acetat 15%, lọc tủa,
sấy, cân. Nung tỏa sẽ thu được đồng oxyd. Lấy hiệu số giữa lượng đồng tanat và đồng
oxyd rồi qui về phần trăm.
Có thể kết hợp phương pháp tạo tủa nói trên với phương pháp đo Iod: Chiết tanin
trong dược liệu bằng nước, nếu có pectin thì tủa bằng cồn, sau đó thêm một lượng chính
xác dung dịch đồng acetat đã biết độ chuẩn. Lọc tủa đồng tanat, dịch lọc được thêm H,SO,
10% và KI. Acetat đồng thừa sẽ tác dụng lên KI trong môi trường acid để giải phóng iod.
2Cu(CH3COO)2 + 4 KI→ 4KCH3COO + Cu2l2 + 2I
4. Phương pháp đo màu với thuốc thử Folin
5. Phương pháp đo màu với thuốc thử phosphomolibdotungstic
6. Phương pháp sử dụng sắc ký lỏng cao áp