You are on page 1of 23

Morphology

Hình vị học  học về hình của nó (Morph)

Warning: để giỏi lĩnh vực này  vốn từ vựng phải phong phú tại vì khi thầy giới thiệu từ Morphology
mà nếu không có những vốn từ vựng khác như: biology, sociology, anthropology, virology tất cả
những cái mà có tính lặp đi lặp lại thì mình sẽ không có đủ tài nguyên về mặt từ vựng để mình đưa
ra 1 cái phỏng đoán rằng “Hình như cái từ Morphology này nó có 1 cái phần được lặp đi lặp lại ở
những từ khác mà tôi thấy có phần -ology”. Từ quan sát ta mới đưa ra một cái phỏng đoán là từ
Morphology nó không phải như vậy, nó là 1 cái combination của những thứ đi với nhau

Nếu vốn từ vựng mình nó nghèo nàn, mình không thể phỏng đoán được từ đó mình không thể phân
tích được

Phần quan trọng nhất là Phân tích hình vị

Observe the following highlighted words:

1. He sings happily every time he gets good marks.

2. Last night, Mary sang Karaoke till midnight.

3. Singing is his favorite thing to do.

4. The song has been sung several times!

5. Sing louder! Sing for me!

Use your dictionary and locate the entry of "singing". "sang". "sings". and "sung".

Câu hỏi: Trong từ điển có mục nào dành cho các hình thức trên bảng được highlight hay không ví dụ:
sings, sang, singing, sung, sing. Có cái entry nào dành cho nó hay không?

-Không. Tức là nó được liệt kê dưới danh mục riêng biệt (không)

Câu hỏi: Tuy nhiên các em tìm danh mục riêng cho chữ singer coi có hay không?

-Có.

Câu hỏi: Tại sao các từ này nó khác nhau nhưng chữ singer nó được cấp cho một cái mục riêng trong
khi các từ như sings, sang, singing không có một mục riêng?

-Trên bảng 1 cái gọi là dictionary word còn 1 cái gọi là text word – đây là 2 cái từ bình dân (layman

) nhất
-Dictionary word: nhìn chung là một từ hoàn toàn độc lập và được tạo ra như một cái từ hoàn toàn
mới

-Text word: là một từ mà chỉ xuất hiện trong văn bản. Khi nó xuất hiện trong văn bản thì điều đó
đồng nghĩa với việc nó bị quy định bởi luật ngữ pháp của văn bản đó

Luật ngữ pháp: quá khứ - hiện tại – ngôi thứ 3 số ít, chủ động hay bị động…

Trong khi singer, nó không phải là luật ngữ pháp, nó là một từ còn có mục nào cho cái luật ngữ pháp
này không?

-Không. Bởi vì ít hay nhiều thì là cái văn bản đó quy định. Vậy goes là một từ có tính chất văn bản do
cái chủ ngữ đằng trước nó quy định chứ nó không phải là một từ nguyên thủy hay gốc gác của nó là
như vậy

Như vậy chúng ta thấy có một cái gì đó tương tự so với môn Phonology là nó có một cái âm công
thức và vd như âm:

Voiceless
Alveolar
Plosive
Cái này là âm công thức thôi còn khi đọc ra là tùy cái vị trí nó xuất hiện mà nó đọc bật hơi hay
không bật hơi, nó được release hay không release

Như vậy ở đây mình bắt đầu thông minh mình thấy là “À hình như là mình có một cái idea về cái từ
này nó có công thức như nào

/t/ thực ra thầy có thể kí hiệu /🌙/

có công thức là:

Voiceless
Alveolar
Plosive
nhưng ký hiệu như /🌙/này thì nó khó đọc nên người ta ghi như vầy thôi /t/

Công thức:
Voiceless
Alveolar
Plosive
h
khi đọc ở đầu chữ sẽ được kí hiệu như này: [t ]

vị trí cuối chữ nó sẽ được thể hiện: [t’]

thì để cho tiện lợi người ta ghi luôn cái âm đó vậy thôi  đó là 1 kí hiệu

Tương tự với từ
[GO] cũng là 1 kí hiệu cho nó khớp với từ mình ghi ra chi dễ hiểu nhưng hoàn toàn có thể kí hiệu: /🌙/

Chúng ta chuyển qua công thức của chữ [GO] con người lưu trữ trong đầu là gì:

[GO]

-verb
-được spell gốc: g-o
-được phát âm là /ɡəʊ/
-công thức IRREGULAR go – went – gone
-Nghĩa gốc: trong tiếng Việt là đi
Đây là công thức từ trong đầu mình – các em hiểu gì về chữ go

“À tôi biết chữ này”

-“Anh nói biết là biết cái gì về chữ đó?”

À anh biết ít nhất về những mẫu tin ở trên - những thành tố này

What do you say when you say know this word?

Một ví khác là chữ

[FISH] Do you know the word? – Yes, ah yes I do. What do you know about this?

Cái chữ “know” nó rất là instinctive như vậy thì khoa học người ta mới giải thích anh nói biết là biết
cái gì

Giả sử thầy đọc cái chữ [FISH] là /vɪʃ/  thầy đâu có biết chữ này

Thầy bị mất mẫu thông tin về phonetic của nó

Thầy nói đây là một tính từ  Thầy đã không biết mẫu từ loại của nó

Như vậy, khi ta nói ta biết về 1 chữ là ta biết về aspects của chữ đó

Do vậy khi nói biết chữ

[FISH]

-Noun

-F-I-S-H
-/fɪʃ/

-Danh từ IRREGULAR fish – fish: những con cá cùng loại/nhưng nó cũng có thể là fishes: nhiều loại cá

-Meaning <cá>

Vậy các sự biết của ta về chữ nó có bị mắc lỗi không?

-Có. Có thể chúng ta đúng hết nhưng chúng ta không biết fishes hoặc phiên âm sai…

Tức là các aspects của ta khi biết về một chữ có thể không complete

Vì vậy 1 cái chữ khi lưu vào đầu mình thành 1 folder -> mở ra có từng tệp tin của folder đó

Khi các em dùng các folder đó với nhau thì phải đảm bảo các tệp tin không được conflict với nhau ở
bất cứ vị trí nào hết. Nếu mà nó conflict thì structure nó bị crash  cái chữ bị khiếm khuyết

Trên tọa độ của 1 câu, nó quy định như sau:

Vd: Ở vị trí chủ ngữ - subject mà mấy em để một verb là nó bị conflict về tọa độ

Tức là tất cả những cái gì rơi vào tọa độ đó thì các tệp tin của nó không được xung đột với cái tọa độ
đó – quy định cái từ nó vậy

Tiếng Việt thì không cần nhưng Tiếng Anh là nó phải đúng như vậy thành ra việc hiểu 1 từ bằng các
tệp tin như thế này là RẤT QUAN TRỌNG nếu không là nó sẽ trật

và trong quá trình con người ta lớn lên, thì các tệp tin này nó sẽ được refine từ từ được bổ sung
thêm, bổ sung gì

“Ngày xưa tôi biết FISH là cá, bây giờ tôi còn biết nó là

một động từ với động từ có thể là câu cá – V

một động từ khác là rửa tiền, hoặc app rửa tiền FISHING APP

Một tệp tin có thể được dãn nở từ từ

Nên là khi ta nói 1 chữ, tức là t lưu cái từ đó với các file khác nhau của nó mà bên ngoài là 1 folder

Đừng nghĩ ta biết về 1 chữ đó chỉ vì cái folder đó có cái chữ đó thôi, lật ra mới thấy trong folder đó
nó không có tập tin gì hết  là chết

LEXEME

Như vậy khi nói về 1 lexeme là ta nói về một cái đơn vị từ có tính trừu tượng trong đầu mình
Tính trừu tượng: từ GO của ta, lexeme GO thật ra là 1 công thức chứa những cái tệp/một tập hợp
chứa những aspects: từ loại, chính tả, phiên âm, quy cách và nghĩa của nó

Như vậy, khi mà người ta thể hiện ra bề mặt thì người ta lấy cái spelling để ghi cho nó dễ hiểu. Giống
như FISH là ta ghi dạng thức fish – cái mà common và popular nhất của nó

Cái từ đó được lưu trong đầu ta bằng những cái files như thế này:

-Noun
-F-I-S-H
-/fɪʃ/
-Danh từ IRREGULAR fish – fish: những con cá cùng loại/nhưng nó cũng có thể là fishes: nhiều loại cá
-Meaning <cá>

và người ta lấy cái spelling: F-I-S-H gọi là phổ biến nhất để ng ta ghi kí hiệu vậy thôi LEXEME

WORDFORM

Là những từ cụ thể của cái lexeme đó

Ví dụ: lexeme [GO] có những forms: go – goes – went – going – gone

Đây là những form của nó thôi

-Word form are concrete in that they can be pronounced and used in texts.

-Every word-form belongs to one lexeme

Vậy thầy hỏi chữ [GO] này thì có phải là lexeme go không?

-Không. Khi thầy ghi âm như go – đây không phải là âm công thức mà mình biết. Nó chỉ đơn giản là
cái popular, nguyên thủy nhất. Go này là bare infinitive  Đây là một trong những form có thể có của
lexeme đó chứ nó không phải là lexeme đó
Trong cái chữ destroy nếu như chúng ta tạo ra những forms khác

Vd: destroyed, destroying, destroys

-Đây là những form mà được tạo ra từ một quá trình gọi là INFLECTIONAL process nghĩa là quá trình
biến hình tức là chỉ biến đổi hình thái bên ngoài

Nhưng mà từ cái destroy chúng ta có thể tạo ra các từ mới có danh mục riêng trong từ điển không
có danh mục riêng cho word form

Vd: destruction, destructible, indestructible, indestructibility

-Cái quá trình tạo ra như thế này là quá trình phái sinh gọi là DERIVATIONAL tức là nó tạo sinh ra một
nhánh mới

Quá trình biến hình: Inflectional Process

Quá trình phái sinh: Derivational Process

Những ý quan trọng nhất:

Khi thầy viết một từ như chữ

houses

Đây không phải là một lexeme đây là một word form, text word

Khi thầy viết chữ house các em cũng phải biết đây là một word form vậy cái gì là nó nằm ở tầng sâu
mà nó govern cái surface?

-Nó là một tập hợp các công thức tức là các files tức là lexeme

Đây là khó hiểu nhất và là cốt tủy của morphology

Tức là một từ mà ta thấy trong văn bản nó là một form hình thái thôi, nó không phải là một lexeme

Vậy bây giờ để hiểu sâu hơn hãy nhìn chữ này

 HOUSES

Đây là form bề mặt vậy cái gốc của nó là gì?

Gốc:

{🌟} + {♥}
HOUSE + {PLU}

house + -s (kí hiệu để giảng dạy cho người đời hiểu)

Nhưng ta cần hiểu:

{🌟} : concept về vật thể đó

{♥}: concept về số lượng của vật thể đó

Nhưng mà nếu viết như này {🌟}{♥}thì không in sách được nên người ta đành phải lấy một thứ dễ
đọc, dễ hiểu tức là

{🌟} + {♥}

HOUSE + {PLU}

house + -s

 houses

Để dễ hiểu hơn thì ta sẽ nhìn vào cái thứ không tuân thủ theo cái luật này

 Police (số nhiều) phân tích như nào? Cần lưu ý là cái surface nó không nhất quán được bởi vì
nó bị thay đổi cái…

Vậy POLICE (số nhiều) phải được phân tích là:

Gốc là:

{POLICE} viết là vậy nhưng không phải là vậy – nó chỉ là cái common được người ta lấy làm kí hiệu

{POLICE} + {PLU}
----------------------------- Surface lên bề mặt
police + hiệu ứng α (0)

 GEESE

geese là số nhiều của goose

{GOOSE} + {PLU}
----------------------------- Surface lên bề mặt
goose + α(uː iː)

(plural sẽ là một effect α – α này sẽ có tác động biến uː thành iː)

 /ɡiːs/ geese

 LEAF – LEAVES
 FISH – FISH
 WOMAN – WOMEN
 MEN – MAN
Thì không giải thích bề mặt được, tương tự

 WALKED

Đây có phải là walk + ed không?

-Không. Vì giải thích như vậy thì làm sao giải thích được read /riːd/ - read / red/

Càng không giải thích được put – put – put. Các trường hợp irregular sẽ không thể giải thích được

Đây là ý quan trọng nhất

 LOVERS

Như vậy lovers không phải là love + er + s Đây là cách nhìn vô cùng trẻ con

LOVERS

{LOVERS} = {LOVE} + {PER} + {PLU} mental


------------------------------------------------------------------
love + er + -s

Vậy bây giờ mấy đứa thiệt là giỏi, thầy lấy ví dụ nha: is trong câu

A morphme is the smallest meaningful unit in the grammar….Vậy is có phải là is không?

-Không. is chỉ là cái surface của tobe ở hiện tại đơn với chủ ngữ số ít. Nhưng ở những bối cảnh khác
thì tobe sẽ ra những thứ khác

MORPHEME

Morpheme: một hình vị tức là một đơn vị nhỏ nhất có nghĩa

Vậy thế nào là nhỏ nhất?

Nhỏ nhất: không chia nhỏ hơn được


Vậy thế nào là meaningful?

Meaningful: có 1 nghĩa meaning – ý chỗ này là nghĩa từ vựng

Vd: Love: yêu

-er & -s: là 1 sense về ngữ pháp (ng thực hiện cái gì đó hoặc là số ít hoặc nhiều) không phải nghĩa

Vậy khi nói về meaning – nghĩa từ vựng còn sense – 1 nghĩa ngữ pháp

Thầy sẽ giải nó liên quan như thế nào giữa morpheme và lexeme để mình không có nhập nhằn?

-Đây là hai thuật ngữ liên quan nhưng không đồng nhất

LOVE: từ này có thể chia nhỏ được nữa không?

-Không. Nên chúng ta có

lexeme {LOVE} cũng chính là morpheme của nó

Trong trường hợp từ đơn như thế này nhưng mà

{LOVER} bào gồm: {LOVE} + {PER}

-do LOVE là một từ nên nó là 1 lexeme – nó cũng nhỏ nhất  nên nó cũng là morpheme

-còn {-ER} nó không phải là từ vựng nữa mà nó đơn giản là 1 morphme

Như vậy, mọi từ đơn đều là lexeme nhưng nếu cái lexeme đó là nhỏ nhất không chia được thì nó
cũng là morpheme (free morpheme)

Mọi thứ đều là morpheme nhưng nếu morpheme đó xuất hiện như một từ thì nó có thể gọi là 1
lexeme nhưng mà cái từ phức – một lexeme là đúng, nó được kết hợp bởi nhiều morpheme với nhau

Như vậy, đơn vị gốc là morpheme, nếu morpheme đó là đơn và là 1 từ  lexeme

Ráp nhiều morpheme ra nhiều từ mới thì nó là những  lexeme phức trong đó có nhiều lexeme nhỏ
nhỏ

Như vậy, love là một lexeme (1 từ vựng) và là 1 morpheme

Nhưng lover đương nhiên là 1 lexeme chứa hai morpheme nhỏ trong đó có 1 morpheme cũng chính
là lexeme = LOVE

Như vậy, từ vựng quan trọng bây giờ cần thấu

morpheme: hình vị - là một đơn vị nhỏ nhất có nghĩa trong một ngôn ngữ

Phân loại hình vị:

1.Free morpheme

-Là những morpheme có thể đứng riêng như một từ


Vd: morpheme {GO} đứng riêng thành chữ go

morpheme {HAPPY} đứng riêng thành chữ happy

2.Bound morpheme

-Là những morpheme chỉ xuất hiện in combination với những từ khác

Vd: {-CLUDE}: morpheme này chỉ xuất hiện trong include, exclude nó không thể đứng một mình

Hay {-VIS-}: có thể thấy và chỉ xuất hiện trong invisible, visible, television, supervisor

Cách phân loại số 1 – khả năng đứng được một mình hay không

*Cái chữ {PER} do là mình kí hiệu vậy chứ trong một số sách nó kí hiệu là ir1 (chỉ người) ir2 (só sánh
hơn) s1(ngôi thứ 3 số ít) s2(số nhiều)  chỉ là kí hiệu tùy tác giả nhớ đọc chú thích chứ không đồng
nhất

Vd: 3 morphemes

-dis-:ngượ lại với 1 cái verb nào đó

-in-: internal, include

-bio-:nghĩa là life biology, biodegradable, biomimicry

-pseudo: nghĩa là mặt nạ, pseudonym (bút danh)

-arch-: tổng lãnh archbishop, archangel

Thầy hỏi:

 personality

Gốc từ “persona”: mặt nạ

 suicide

Trong này -cide: kill, sui: self

Từ đây có matricide, patriside, genocide (diệt chủng) geno-: chủng từ gene

Nên khi vốn từ vựng của em phong phú thì em “ồ không ngờ nó vậy”

 music

Trong này có muse mà có 1 từ rất quen museum (hồi xưa là đền thờ các vị thần)

 muscle

mus: nghĩa là con chuột  muscle: con chuột

 clueless
Trong tiếng Việt nghĩa là: không có manh mối

-less: không

clue= clew: sợi chỉ -> manh mối miếng

clueless: lạc lối không tìm được mối chỉ

 Sunday

Nghĩa là sun day= the day of sun

 Monday

The day of the moon

 Saturday

The day of Saturn

Và nó xuất phát từ những câu chuyện khác nhau

-July (tháng 7) từ Julius Caesar

Vậy tháng 7 có 31 ngày, tháng 8 cũng có 31 ngày

-August (tháng 8) từ Augustus là một ông vua – ông vua đó “tao mà cái ngày lấy tên tao là phải nhiều
ngày nhất trong cái lịch” thế là Julius Caesar mới lấy 1 ngày qua hình như trong lịch gốc là tháng 7 có
31 ngày thì cái ông Augustus mới nói là “tại sao cái ông đó được vậy tao cũng được zậy” thế là ông
mới lấy một ngày từ tháng 2 qua thành ra tháng 2 bây giờ chỉ còn có 29

Nếu mốt mấy em có nhiều hứng thú mấy em đi nghiên cứu thử

Vd: một đám lửa trại bonfire

bone + fire

Ngày xưa các bộ tộc người ta đốt xương tại vì người ta không có củi

Đây là cách phân loại số 2

Inflectional: biến hình

Derivational: phái sinh

INFLECTIONAL DERIVATIONAL

 Are all Suffixes  Could be Prefixes or Suffixes

 Assign a particular grammartical property  Contribute a lexical property to the word


to that word
 Do not create a new lexeme. (They create  Create a new lexeme. (literally, a new
only new word forms) word)

 Do not change the Grammatical category.  May or may not change the grammatical
(Sing-sings-singing) category. (Judge-judgement; Do-undo)

  The application is less consistent.


Have a wide and consistent application.
(Compare: Inflectional plural {-S} vs. (Modernity vs. Openness)
Derivational {-ITY})

-Ý cần phải hiểu đầu tiên là ý cuối cùng “Have a wide and consistent application.” nghĩa là đối với các
hình vị biến hình thì nó áp dụng một cách nhất quán

Vd: như động từ nào trong tiếng anh ngôi thứ ba số ít cũng thêm s

động từ có thể thêm -ing

adjectives nếu như có thể so sánh hơn thì more còn đơn âm thì thêm -er

Nghĩa là, nó thành một cái luật và nó áp dụng nhất quán trong các trường hợp

Nhưng mà đối với hình vị biến hình thì hong – để chỉ

mối quan hệ thì: friend – friendship

hàng xóm thì: neighborhood

Có cái lý nào dạy được cái đó không ?

-Không dạy được. Cái đó phải học từ word-by-word

Nhưng mà V.ing là cứ V.ing thay vào biến số verb đó

Đã hiểu thế nào là consistent

Như vậy không có bài tập thêm ing mà thường có bài tập word-form tại vì nhìn cái chữ nó KHÔNG có
biết. Người ta mới thách thức – thầy cho đề sau

Thật may mắn là trong tiếng anh chỉ có bấy nhiêu đây Inflectional

INFLECTIONAL
{PLU}/s1 =plural houses
{POSS}/s2 =possessive Peter’s
{COMP} =comparative younger
{SUP} =superlative richest
{PRES} =present walks
{PAST} =past walked
{PAST PART}/ed1/ =past participle driven
{PRES PART}/en =present participle driving
-2 cái đầu: danh từ
-2 cái sau: tính từ
-4 cái cuối: động từ
Chỉ thế thôi

Trong morphology “be going to” chữ going là từ go thêm -ing mà ra

Quay lại,

-Danh từ thì chỉ có 2 loại: số ít, số nhiều & sở hữu

-Tính từ thì biến hình có 2 loại: so sánh hơn, so sánh nhất

còn Tiếng Pháp nó biến hình theo danh từ số ít, danh từ số nhiều, danh từ giống đực, danh từ giống
cái. Tính từ nó biến hình luôn

Vd: Một người nam đẹp là beau từ beautiful

Một người nữ đẹp là belle

->Thành ra Bella nghĩa là nhỏ đẹp

Anna: diễm xưa do anna là quá khứ

cata là tương lai – catalyst: chất xúc tác -> đẩy tới

-Động từ thì nó chỉ biến thành: hiện tại, ngôi thứ 3 số ít, quá khứ đơn, quá khứ phân từ và hiện tại
phân từ

Đây là một vài ví dụ về derivational morpheme:

Cái này thì không có luật, từ nào biết từ đó case by case

-Flame: lửa

+Flammable: dễ cháy

+Inflammable: chữ -in này không có nghĩa là negative -in: very: rất dễ bắt lửa

Cái này là able: là able nhưng mà đi vào chữ thì nó những biến thể trên bề mặt thôi nó ra kiểu
spelling này nhưng gốc là -able
-Một morpheme có nhiều tha hình vị (allomorph) xuất hiện

Tất cả những thứ ở đây đều tuân theo 1 nguyên tắc, chúng ta không làm theo kiểu nghiệp dư là:
walked = walk +ed
Trình tự thêm: Tất cả các devirational xong rồi mới là inflectional
Inflectional luôn là thành tố, layer cuối cùng trong một từ đó là quy tắc trong tiếng anh

Inflectional phải là hành vi cuối cùng của một từ khi nó biến hình
PHÂN TÍCH:

untouchabilities

Đây là linh tính của mình, linh tính này có thể sai trong nhiều trường hợp lắm nhưng căn bản phải
tách nó ra được như trên hình

B2: Đâu là gốc – touch – loại từ (verb)

B3: là untouch hay untouchable -> touchable

Vậy -able: adjective suffix tức là suffix -able sẽ biến từ touch thành adjective

B4: bây giờ tới untouchable hay touchability  untouchable

Khi làm cái quyết định nó rất quan trọng, từ đâu ra cái quyết định đó (kiến thức từ vựng)

B5: un-: prefix và trước nó không ghi từ loại tức là không thay đổi từ loại

B6: -ity: noun suffix, -s: plural suffix

Đó là bài phân tích hình vị

Khi làm cần:

-tách ra được các thành tố

-phân loại được các thành tố

-chỉ ra cái trình tự nào mà các thành tố đó xếp với nhau

*-s khi ghi đầy đủ là: Plural Inflectional Suffix


audible

Khi đây là những bound morpheme người ta sẽ để một cái dấu nối như này: -text nói như vậy để biết
nó không đứng một mình mà nó phải ráp với cái khác

Đây là bound morpheme nên không biết nó là loại từ gì hết còn free morpheme thì mình biết loại từ

nên aud -> ghi là root (đây là gốc nhưng không phân định được loại từ )

-ible -able (hai này là biến thể của nhau) về mặt spelling còn gốc là -able

unbelievable

Chữ unbelievable có thể 1 trong 2 cách này đâu là cách đúng và dựa vào điều gì để xác quyết:

Nghĩa gốc cần liên đới với nghĩa cuối cùng của mình (phải có liên quan gì đó)

Một cách trực quan hơn là nhìn vào nghĩa: unbelieve không tồn tại hard evidence

Soft evidence: Một trong những dấu hiệu quan trọng là từ đó có tồn tại trong từ điển hay không

Nhưng lỡ không tra từ điển được thì sao?

-Thì mình phải xét chữ unbelievable: không thể tin được

Cái nghĩa là tin hoặc không tin còn nếu giả sử tôi không biết unbelieve thì mình phải đoán từ
do -> undo (cancel cái do đó)
redo (làm lại cái do đó)
vậy undo: đảo ngược làm mất cái effect nào đó
Vậy cái chữ unbelieve cũng vậy, giả sử nếu như có đi chăng nữa thì cái nghĩa đó nó irrelevant với cái
nghĩa cuối cùng là không thể tin được cái ý tin nó mất rồi

Tóm lại, nếu unbelieve exist thì nghĩa của unbelieve không liên quan tới nghĩa của unbelievable

Chính vì lẽ đó ta phải chọn:

undoable

B1: coi nghĩa undoable là gì?

doable: able to be done

undoable: if something is undoable, it cannot be done

Vì nó có nghĩa đó nên nó phải nghĩa là vậy

progressiveness
Do mình có digress: lạc đề, regress: quay lại

Chữ gress: nghĩa là to go

progress: to go forward

regress: to go backward

transgress: xâm phạm vào


transportabilities
Ta có port (root): nghĩa là mang vác

porter: thằng mang vác ở khách sạn

portable: có thể mang vác được

extraterrestrials: những người ngoài hành tinh

Gốc của chữ extraterrestrial: có nghĩa là người ngoài hành tinh (adj)

Như vậy với tư cách là một adj nó không thể thêm s được

Vì muốn thêm s nó phải là danh từ rồi mới thêm s

Và cái danh từ đó nó không thể hiện trên bề mặt

Đề thi sẽ ra những chữ như vậy, không biết được gốc (root) là biến mất luôn

Khi mà mình làm những từ phức tạp, thực ra nó rất đơn giản tại vì càng phức tạp là gốc từ càng rõ
the beloved
The beloved: là danh từ nhưng mà trông nó giống tính từ

Thực ra là do nó có một layer danh từ vô hình ở đây

the intellectuals: những người trí thức


Rõ ràng đây là một adjective nhưng mà được thêm s

Vậy trước khi thêm s nó phải là một danh từ

Vậy là nó có một lớp danh từ vô hình rồi mới thêm s

the rich
Thực ra, theo ngữ pháp nó không được giải thích theo như vậy

Nó giải thích thành the rich (one(s))N

Tóm lại, được hiểu là có một giá trị danh từ được ẩn đi

truthfulness
2:12:09

Word-form

1.[JERK] He did not think much before responding. It was a mere____________reaction.


knee-jerk: một phản ứng mà mình không có suy nghĩ (a forceless reaction)

2.[HEART] We apologize. Please accept our____________apology for the mistake we have made.

heartfelt:

3.[PULSE] It was such a wonderful party that every one seems to____________with excitement.

pulsate: to be full of excitement or energy

invisibilty

sympathetically

Phần áp dụng:

Thầy sẽ show một vài cái nhãn thuốc và các em nói cho thầy nhìn vào cái gốc từ và kiến thức
morphology ngày hôm nay, mấy em nghĩ cái thuốc đó trị cái gì?

-thuốc uống vào tạo sữa:

-Pedia-: baby– paediatrics: khoa nhi


-(gastro-: stomach – cái bao tử)

-vite-: vitamin

vital + amino

-{-ocu-}: gốc chữ ocu có nghĩa là bị che khuất, che khỏi tầm mắt

occutism: thần bí học – thấy được tương lai mà bị che

Sau này người ta mới dùng chữ này với nghĩa con mắt

occulus: kính thực tế ảo – dùng gốc ocu – để em thấy được cái thứ mà con mắt thường không thấy

-Ferrovit: ferr: sắt -> thuốc bổ máu

-Polyhema: hemo-: hồng huyết cầu, anemia: thiếu -> thiếu máu do thiếu hồng huyết cầu

-Amoxicillin: gốc cilin kháng sinh

pulmonary

arthritis

endo-: nội, scope: see – soi endoscopy: nội soi

Cái việc mình biết được gốc chữ giúp mình dịch được cái chữ đó

-electrocardiogram: điện tâm đồ

cardio-: heart, electro-: điện, gram: viết

-gastritis:

-tis: inflammation – bị viêm

gastro-: stomach – dạ dày

viêm dạ dày

-arthritis: viêm khớp

-haematology:

hema-: máu, -ology: nghiên cứu về nghiên cứu về hệ huyết học

leuk-: trắng  những bệnh liên quan đến máu trắng sẽ có chữ này

leukemia: bệnh máu trắng


derma-: skin

-ultrasonography

ultra-: siêu, sono: âm thanh, -graphy: vẽ ra

phòng siêu âm

-hyperglycemia:

hyper-: quá

glyco-: đường

-emia: máu

đường huyết cao – đường trong máu

-musculoskeletal: thuộc cơ xương

muscle: thuộc về cơ

skeletal: xương

Đây là một bài khó, rất khó nhưng tính ứng dụng rất cao mai mốt có đi mua thuốc thì cũng sẽ bắt đầu
hiểu được vd:

decolgen: thuốc trị cảm

de-: reduce - khử

col-: lạnh

gen: tác nhân agent

viên khử cảm lạnh

You might also like