Professional Documents
Culture Documents
Morphology
Morphology
Warning: để giỏi lĩnh vực này vốn từ vựng phải phong phú tại vì khi thầy giới thiệu từ Morphology
mà nếu không có những vốn từ vựng khác như: biology, sociology, anthropology, virology tất cả
những cái mà có tính lặp đi lặp lại thì mình sẽ không có đủ tài nguyên về mặt từ vựng để mình đưa
ra 1 cái phỏng đoán rằng “Hình như cái từ Morphology này nó có 1 cái phần được lặp đi lặp lại ở
những từ khác mà tôi thấy có phần -ology”. Từ quan sát ta mới đưa ra một cái phỏng đoán là từ
Morphology nó không phải như vậy, nó là 1 cái combination của những thứ đi với nhau
Nếu vốn từ vựng mình nó nghèo nàn, mình không thể phỏng đoán được từ đó mình không thể phân
tích được
Use your dictionary and locate the entry of "singing". "sang". "sings". and "sung".
Câu hỏi: Trong từ điển có mục nào dành cho các hình thức trên bảng được highlight hay không ví dụ:
sings, sang, singing, sung, sing. Có cái entry nào dành cho nó hay không?
-Không. Tức là nó được liệt kê dưới danh mục riêng biệt (không)
Câu hỏi: Tuy nhiên các em tìm danh mục riêng cho chữ singer coi có hay không?
-Có.
Câu hỏi: Tại sao các từ này nó khác nhau nhưng chữ singer nó được cấp cho một cái mục riêng trong
khi các từ như sings, sang, singing không có một mục riêng?
-Trên bảng 1 cái gọi là dictionary word còn 1 cái gọi là text word – đây là 2 cái từ bình dân (layman
) nhất
-Dictionary word: nhìn chung là một từ hoàn toàn độc lập và được tạo ra như một cái từ hoàn toàn
mới
-Text word: là một từ mà chỉ xuất hiện trong văn bản. Khi nó xuất hiện trong văn bản thì điều đó
đồng nghĩa với việc nó bị quy định bởi luật ngữ pháp của văn bản đó
Luật ngữ pháp: quá khứ - hiện tại – ngôi thứ 3 số ít, chủ động hay bị động…
Trong khi singer, nó không phải là luật ngữ pháp, nó là một từ còn có mục nào cho cái luật ngữ pháp
này không?
-Không. Bởi vì ít hay nhiều thì là cái văn bản đó quy định. Vậy goes là một từ có tính chất văn bản do
cái chủ ngữ đằng trước nó quy định chứ nó không phải là một từ nguyên thủy hay gốc gác của nó là
như vậy
Như vậy chúng ta thấy có một cái gì đó tương tự so với môn Phonology là nó có một cái âm công
thức và vd như âm:
Voiceless
Alveolar
Plosive
Cái này là âm công thức thôi còn khi đọc ra là tùy cái vị trí nó xuất hiện mà nó đọc bật hơi hay
không bật hơi, nó được release hay không release
Như vậy ở đây mình bắt đầu thông minh mình thấy là “À hình như là mình có một cái idea về cái từ
này nó có công thức như nào
Voiceless
Alveolar
Plosive
nhưng ký hiệu như /🌙/này thì nó khó đọc nên người ta ghi như vầy thôi /t/
Công thức:
Voiceless
Alveolar
Plosive
h
khi đọc ở đầu chữ sẽ được kí hiệu như này: [t ]
thì để cho tiện lợi người ta ghi luôn cái âm đó vậy thôi đó là 1 kí hiệu
Tương tự với từ
[GO] cũng là 1 kí hiệu cho nó khớp với từ mình ghi ra chi dễ hiểu nhưng hoàn toàn có thể kí hiệu: /🌙/
Chúng ta chuyển qua công thức của chữ [GO] con người lưu trữ trong đầu là gì:
[GO]
-verb
-được spell gốc: g-o
-được phát âm là /ɡəʊ/
-công thức IRREGULAR go – went – gone
-Nghĩa gốc: trong tiếng Việt là đi
Đây là công thức từ trong đầu mình – các em hiểu gì về chữ go
À anh biết ít nhất về những mẫu tin ở trên - những thành tố này
[FISH] Do you know the word? – Yes, ah yes I do. What do you know about this?
Cái chữ “know” nó rất là instinctive như vậy thì khoa học người ta mới giải thích anh nói biết là biết
cái gì
Giả sử thầy đọc cái chữ [FISH] là /vɪʃ/ thầy đâu có biết chữ này
Thầy nói đây là một tính từ Thầy đã không biết mẫu từ loại của nó
Như vậy, khi ta nói ta biết về 1 chữ là ta biết về aspects của chữ đó
[FISH]
-Noun
-F-I-S-H
-/fɪʃ/
-Danh từ IRREGULAR fish – fish: những con cá cùng loại/nhưng nó cũng có thể là fishes: nhiều loại cá
-Meaning <cá>
-Có. Có thể chúng ta đúng hết nhưng chúng ta không biết fishes hoặc phiên âm sai…
Tức là các aspects của ta khi biết về một chữ có thể không complete
Vì vậy 1 cái chữ khi lưu vào đầu mình thành 1 folder -> mở ra có từng tệp tin của folder đó
Khi các em dùng các folder đó với nhau thì phải đảm bảo các tệp tin không được conflict với nhau ở
bất cứ vị trí nào hết. Nếu mà nó conflict thì structure nó bị crash cái chữ bị khiếm khuyết
Vd: Ở vị trí chủ ngữ - subject mà mấy em để một verb là nó bị conflict về tọa độ
Tức là tất cả những cái gì rơi vào tọa độ đó thì các tệp tin của nó không được xung đột với cái tọa độ
đó – quy định cái từ nó vậy
Tiếng Việt thì không cần nhưng Tiếng Anh là nó phải đúng như vậy thành ra việc hiểu 1 từ bằng các
tệp tin như thế này là RẤT QUAN TRỌNG nếu không là nó sẽ trật
và trong quá trình con người ta lớn lên, thì các tệp tin này nó sẽ được refine từ từ được bổ sung
thêm, bổ sung gì
“Ngày xưa tôi biết FISH là cá, bây giờ tôi còn biết nó là
một động từ khác là rửa tiền, hoặc app rửa tiền FISHING APP
Nên là khi ta nói 1 chữ, tức là t lưu cái từ đó với các file khác nhau của nó mà bên ngoài là 1 folder
Đừng nghĩ ta biết về 1 chữ đó chỉ vì cái folder đó có cái chữ đó thôi, lật ra mới thấy trong folder đó
nó không có tập tin gì hết là chết
LEXEME
Như vậy khi nói về 1 lexeme là ta nói về một cái đơn vị từ có tính trừu tượng trong đầu mình
Tính trừu tượng: từ GO của ta, lexeme GO thật ra là 1 công thức chứa những cái tệp/một tập hợp
chứa những aspects: từ loại, chính tả, phiên âm, quy cách và nghĩa của nó
Như vậy, khi mà người ta thể hiện ra bề mặt thì người ta lấy cái spelling để ghi cho nó dễ hiểu. Giống
như FISH là ta ghi dạng thức fish – cái mà common và popular nhất của nó
Cái từ đó được lưu trong đầu ta bằng những cái files như thế này:
-Noun
-F-I-S-H
-/fɪʃ/
-Danh từ IRREGULAR fish – fish: những con cá cùng loại/nhưng nó cũng có thể là fishes: nhiều loại cá
-Meaning <cá>
và người ta lấy cái spelling: F-I-S-H gọi là phổ biến nhất để ng ta ghi kí hiệu vậy thôi LEXEME
WORDFORM
-Word form are concrete in that they can be pronounced and used in texts.
Vậy thầy hỏi chữ [GO] này thì có phải là lexeme go không?
-Không. Khi thầy ghi âm như go – đây không phải là âm công thức mà mình biết. Nó chỉ đơn giản là
cái popular, nguyên thủy nhất. Go này là bare infinitive Đây là một trong những form có thể có của
lexeme đó chứ nó không phải là lexeme đó
Trong cái chữ destroy nếu như chúng ta tạo ra những forms khác
-Đây là những form mà được tạo ra từ một quá trình gọi là INFLECTIONAL process nghĩa là quá trình
biến hình tức là chỉ biến đổi hình thái bên ngoài
Nhưng mà từ cái destroy chúng ta có thể tạo ra các từ mới có danh mục riêng trong từ điển không
có danh mục riêng cho word form
-Cái quá trình tạo ra như thế này là quá trình phái sinh gọi là DERIVATIONAL tức là nó tạo sinh ra một
nhánh mới
houses
Đây không phải là một lexeme đây là một word form, text word
Khi thầy viết chữ house các em cũng phải biết đây là một word form vậy cái gì là nó nằm ở tầng sâu
mà nó govern cái surface?
-Nó là một tập hợp các công thức tức là các files tức là lexeme
Tức là một từ mà ta thấy trong văn bản nó là một form hình thái thôi, nó không phải là một lexeme
Vậy bây giờ để hiểu sâu hơn hãy nhìn chữ này
HOUSES
Gốc:
{🌟} + {♥}
HOUSE + {PLU}
Nhưng mà nếu viết như này {🌟}{♥}thì không in sách được nên người ta đành phải lấy một thứ dễ
đọc, dễ hiểu tức là
{🌟} + {♥}
HOUSE + {PLU}
house + -s
houses
Để dễ hiểu hơn thì ta sẽ nhìn vào cái thứ không tuân thủ theo cái luật này
Police (số nhiều) phân tích như nào? Cần lưu ý là cái surface nó không nhất quán được bởi vì
nó bị thay đổi cái…
Gốc là:
{POLICE} viết là vậy nhưng không phải là vậy – nó chỉ là cái common được người ta lấy làm kí hiệu
{POLICE} + {PLU}
----------------------------- Surface lên bề mặt
police + hiệu ứng α (0)
GEESE
{GOOSE} + {PLU}
----------------------------- Surface lên bề mặt
goose + α(uː iː)
/ɡiːs/ geese
LEAF – LEAVES
FISH – FISH
WOMAN – WOMEN
MEN – MAN
Thì không giải thích bề mặt được, tương tự
WALKED
-Không. Vì giải thích như vậy thì làm sao giải thích được read /riːd/ - read / red/
Càng không giải thích được put – put – put. Các trường hợp irregular sẽ không thể giải thích được
LOVERS
Như vậy lovers không phải là love + er + s Đây là cách nhìn vô cùng trẻ con
LOVERS
Vậy bây giờ mấy đứa thiệt là giỏi, thầy lấy ví dụ nha: is trong câu
-Không. is chỉ là cái surface của tobe ở hiện tại đơn với chủ ngữ số ít. Nhưng ở những bối cảnh khác
thì tobe sẽ ra những thứ khác
MORPHEME
-er & -s: là 1 sense về ngữ pháp (ng thực hiện cái gì đó hoặc là số ít hoặc nhiều) không phải nghĩa
Vậy khi nói về meaning – nghĩa từ vựng còn sense – 1 nghĩa ngữ pháp
Thầy sẽ giải nó liên quan như thế nào giữa morpheme và lexeme để mình không có nhập nhằn?
-Đây là hai thuật ngữ liên quan nhưng không đồng nhất
-do LOVE là một từ nên nó là 1 lexeme – nó cũng nhỏ nhất nên nó cũng là morpheme
Như vậy, mọi từ đơn đều là lexeme nhưng nếu cái lexeme đó là nhỏ nhất không chia được thì nó
cũng là morpheme (free morpheme)
Mọi thứ đều là morpheme nhưng nếu morpheme đó xuất hiện như một từ thì nó có thể gọi là 1
lexeme nhưng mà cái từ phức – một lexeme là đúng, nó được kết hợp bởi nhiều morpheme với nhau
Ráp nhiều morpheme ra nhiều từ mới thì nó là những lexeme phức trong đó có nhiều lexeme nhỏ
nhỏ
Nhưng lover đương nhiên là 1 lexeme chứa hai morpheme nhỏ trong đó có 1 morpheme cũng chính
là lexeme = LOVE
morpheme: hình vị - là một đơn vị nhỏ nhất có nghĩa trong một ngôn ngữ
1.Free morpheme
2.Bound morpheme
-Là những morpheme chỉ xuất hiện in combination với những từ khác
Vd: {-CLUDE}: morpheme này chỉ xuất hiện trong include, exclude nó không thể đứng một mình
Hay {-VIS-}: có thể thấy và chỉ xuất hiện trong invisible, visible, television, supervisor
Cách phân loại số 1 – khả năng đứng được một mình hay không
*Cái chữ {PER} do là mình kí hiệu vậy chứ trong một số sách nó kí hiệu là ir1 (chỉ người) ir2 (só sánh
hơn) s1(ngôi thứ 3 số ít) s2(số nhiều) chỉ là kí hiệu tùy tác giả nhớ đọc chú thích chứ không đồng
nhất
Vd: 3 morphemes
Thầy hỏi:
personality
suicide
Nên khi vốn từ vựng của em phong phú thì em “ồ không ngờ nó vậy”
music
Trong này có muse mà có 1 từ rất quen museum (hồi xưa là đền thờ các vị thần)
muscle
clueless
Trong tiếng Việt nghĩa là: không có manh mối
-less: không
Sunday
Monday
Saturday
-August (tháng 8) từ Augustus là một ông vua – ông vua đó “tao mà cái ngày lấy tên tao là phải nhiều
ngày nhất trong cái lịch” thế là Julius Caesar mới lấy 1 ngày qua hình như trong lịch gốc là tháng 7 có
31 ngày thì cái ông Augustus mới nói là “tại sao cái ông đó được vậy tao cũng được zậy” thế là ông
mới lấy một ngày từ tháng 2 qua thành ra tháng 2 bây giờ chỉ còn có 29
Nếu mốt mấy em có nhiều hứng thú mấy em đi nghiên cứu thử
bone + fire
Ngày xưa các bộ tộc người ta đốt xương tại vì người ta không có củi
INFLECTIONAL DERIVATIONAL
Do not change the Grammatical category. May or may not change the grammatical
(Sing-sings-singing) category. (Judge-judgement; Do-undo)
-Ý cần phải hiểu đầu tiên là ý cuối cùng “Have a wide and consistent application.” nghĩa là đối với các
hình vị biến hình thì nó áp dụng một cách nhất quán
Vd: như động từ nào trong tiếng anh ngôi thứ ba số ít cũng thêm s
adjectives nếu như có thể so sánh hơn thì more còn đơn âm thì thêm -er
Nghĩa là, nó thành một cái luật và nó áp dụng nhất quán trong các trường hợp
Như vậy không có bài tập thêm ing mà thường có bài tập word-form tại vì nhìn cái chữ nó KHÔNG có
biết. Người ta mới thách thức – thầy cho đề sau
Thật may mắn là trong tiếng anh chỉ có bấy nhiêu đây Inflectional
INFLECTIONAL
{PLU}/s1 =plural houses
{POSS}/s2 =possessive Peter’s
{COMP} =comparative younger
{SUP} =superlative richest
{PRES} =present walks
{PAST} =past walked
{PAST PART}/ed1/ =past participle driven
{PRES PART}/en =present participle driving
-2 cái đầu: danh từ
-2 cái sau: tính từ
-4 cái cuối: động từ
Chỉ thế thôi
Quay lại,
còn Tiếng Pháp nó biến hình theo danh từ số ít, danh từ số nhiều, danh từ giống đực, danh từ giống
cái. Tính từ nó biến hình luôn
cata là tương lai – catalyst: chất xúc tác -> đẩy tới
-Động từ thì nó chỉ biến thành: hiện tại, ngôi thứ 3 số ít, quá khứ đơn, quá khứ phân từ và hiện tại
phân từ
-Flame: lửa
+Flammable: dễ cháy
+Inflammable: chữ -in này không có nghĩa là negative -in: very: rất dễ bắt lửa
Cái này là able: là able nhưng mà đi vào chữ thì nó những biến thể trên bề mặt thôi nó ra kiểu
spelling này nhưng gốc là -able
-Một morpheme có nhiều tha hình vị (allomorph) xuất hiện
Tất cả những thứ ở đây đều tuân theo 1 nguyên tắc, chúng ta không làm theo kiểu nghiệp dư là:
walked = walk +ed
Trình tự thêm: Tất cả các devirational xong rồi mới là inflectional
Inflectional luôn là thành tố, layer cuối cùng trong một từ đó là quy tắc trong tiếng anh
Inflectional phải là hành vi cuối cùng của một từ khi nó biến hình
PHÂN TÍCH:
untouchabilities
Đây là linh tính của mình, linh tính này có thể sai trong nhiều trường hợp lắm nhưng căn bản phải
tách nó ra được như trên hình
Vậy -able: adjective suffix tức là suffix -able sẽ biến từ touch thành adjective
Khi làm cái quyết định nó rất quan trọng, từ đâu ra cái quyết định đó (kiến thức từ vựng)
B5: un-: prefix và trước nó không ghi từ loại tức là không thay đổi từ loại
Khi đây là những bound morpheme người ta sẽ để một cái dấu nối như này: -text nói như vậy để biết
nó không đứng một mình mà nó phải ráp với cái khác
Đây là bound morpheme nên không biết nó là loại từ gì hết còn free morpheme thì mình biết loại từ
nên aud -> ghi là root (đây là gốc nhưng không phân định được loại từ )
-ible -able (hai này là biến thể của nhau) về mặt spelling còn gốc là -able
unbelievable
Chữ unbelievable có thể 1 trong 2 cách này đâu là cách đúng và dựa vào điều gì để xác quyết:
Nghĩa gốc cần liên đới với nghĩa cuối cùng của mình (phải có liên quan gì đó)
Một cách trực quan hơn là nhìn vào nghĩa: unbelieve không tồn tại hard evidence
Soft evidence: Một trong những dấu hiệu quan trọng là từ đó có tồn tại trong từ điển hay không
-Thì mình phải xét chữ unbelievable: không thể tin được
Cái nghĩa là tin hoặc không tin còn nếu giả sử tôi không biết unbelieve thì mình phải đoán từ
do -> undo (cancel cái do đó)
redo (làm lại cái do đó)
vậy undo: đảo ngược làm mất cái effect nào đó
Vậy cái chữ unbelieve cũng vậy, giả sử nếu như có đi chăng nữa thì cái nghĩa đó nó irrelevant với cái
nghĩa cuối cùng là không thể tin được cái ý tin nó mất rồi
Tóm lại, nếu unbelieve exist thì nghĩa của unbelieve không liên quan tới nghĩa của unbelievable
undoable
progressiveness
Do mình có digress: lạc đề, regress: quay lại
progress: to go forward
regress: to go backward
Gốc của chữ extraterrestrial: có nghĩa là người ngoài hành tinh (adj)
Như vậy với tư cách là một adj nó không thể thêm s được
Đề thi sẽ ra những chữ như vậy, không biết được gốc (root) là biến mất luôn
Khi mà mình làm những từ phức tạp, thực ra nó rất đơn giản tại vì càng phức tạp là gốc từ càng rõ
the beloved
The beloved: là danh từ nhưng mà trông nó giống tính từ
the rich
Thực ra, theo ngữ pháp nó không được giải thích theo như vậy
truthfulness
2:12:09
Word-form
2.[HEART] We apologize. Please accept our____________apology for the mistake we have made.
heartfelt:
3.[PULSE] It was such a wonderful party that every one seems to____________with excitement.
invisibilty
sympathetically
Phần áp dụng:
Thầy sẽ show một vài cái nhãn thuốc và các em nói cho thầy nhìn vào cái gốc từ và kiến thức
morphology ngày hôm nay, mấy em nghĩ cái thuốc đó trị cái gì?
-vite-: vitamin
vital + amino
-{-ocu-}: gốc chữ ocu có nghĩa là bị che khuất, che khỏi tầm mắt
Sau này người ta mới dùng chữ này với nghĩa con mắt
occulus: kính thực tế ảo – dùng gốc ocu – để em thấy được cái thứ mà con mắt thường không thấy
-Polyhema: hemo-: hồng huyết cầu, anemia: thiếu -> thiếu máu do thiếu hồng huyết cầu
pulmonary
arthritis
Cái việc mình biết được gốc chữ giúp mình dịch được cái chữ đó
-gastritis:
viêm dạ dày
-haematology:
leuk-: trắng những bệnh liên quan đến máu trắng sẽ có chữ này
-ultrasonography
phòng siêu âm
-hyperglycemia:
hyper-: quá
glyco-: đường
-emia: máu
muscle: thuộc về cơ
skeletal: xương
Đây là một bài khó, rất khó nhưng tính ứng dụng rất cao mai mốt có đi mua thuốc thì cũng sẽ bắt đầu
hiểu được vd:
col-: lạnh