Professional Documents
Culture Documents
7, Đối ngữ: Là hình thức sóng đôi mà trong đó các cặp câu
cân xứng nhau.Tạo sự cân đối hài hòa
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay. (Nguyễn Đình Chiểu)
8, Liệt kê: Nêu ra nhiều sự vật sự việc theo quan hệ đẳng
lập. Diễn tả đầy đủ những khía cạnh, biểu hiện cảm xúc, tạo
ấn tượng,
Này chồng này mẹ này cha,
Này là em ruột, này là em dâu (Nguyễn Du)
9, Thậm xưng : Nói quá sự thật. Nhấn mạnh ý diễn đạt, tạo
sự chú ý
Thuyền chở yên hà nặng vạy then. (Nguyễn Trãi)
10, Câu hỏi tu từ : Là câu hỏi nghệ thuật mà nội dung
bao hàm ý trả lời . Xác nhận sự việc, tạo ấn tượng, kích
thích trí tưởng tượng, khơi gợi sự suy tưởng
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
(Nguyễn Du)
11, Đổi trật tự cú pháp ; Thay đổi trật tự thông thường của
các thành phần trong câu, thành tố trong ngữ Nhấn mạnh nội
dung diễn đạt, tạo sắc thái tình cảm
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà. (Bà Huyện Thanh Quan)
12, Điển cố, điển tích : Sử dụng các câu chữ trong tác phẩm
văn học cổ hoặc mượn những chuyện xưa tích cũ để diễn đạt
Nâng cao khả năng diễn đạt ý tưởng, tạo tính hàm súc
sâu sắc
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
(Nguyễn Du)
B1: GV giao nhiệm vụ cho II, Bài tập thực hành :
cá nhân HS. * Nhóm HS TB, yếu :
B2: HS thực hiện các BT 1 : Em hãy xác định câu thơ sau sử dụng biện pháp tu từ
nhiệm vụ sau: nào?
1, Nhận diện được các “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
BPTT được sử dụng trong Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
các ngữ liệu Trả lời:
2, Hiểu được giá trị nghệ Nhân hóa: Thuyền im – bến mỏi nằm
thuật của BPTT đó. Con thuyền sau một chuyến ra khơi vất vả trở về, nó mỏi mệt
B3: HS trình bày kết quả. nằm im trên bến. Con thuyền được nhân hóa gợi cảm nói lên
HS khác góp ý cuộc sống lao động vất vả, trải qua bao sóng gió thử thách.
B4: GV nhận xét, chốt kiến Con thuyền chính là biểu tượng đẹp của dân chài.
thức: BT 2: Xác định điệp ngữ trong bài cao dao sau
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt, leo ra leo vào.
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt, leo vào leo ra.
Trả lời:
Điệp một từ: leo, cành, con kiến
Điệp một cụm từ: leo phải cành cụt, leo ra, leo vào.
BT 3: Vận dụng kiến thức đã học về một số phép tu từ từ
vựng để phân tích nét nghệ thuật độc đáo của những câu thơ
sau:
a, Gác kinh viện sách đôi nơi
Trong gang tấc lại gấp mười quan san
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b, Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa
(Ca dao
Trả lời:
a, Phép nói quá: Gác Quan Âm, nơi Thuý Kiều bị Hoạn Thư
bắt ra chép kinh, rất gần với phòng đọc sách của Thúc Sinh.
Tuy cùng ở trong khu vườn nhà Hoạn Thư, gần nhau trong
gang tấc, nhưng giờ đây hai người cách trở gấp mười quan
san.
- Bằng lối nói quá, tác giả cực tả sự xa cách giữa thân phận,
cảnh ngộ của Thuý Kiều và Thúc Sinh
b, Phép điệp ngữ (còn) và dùng từ đa nghĩa (say sưa).
- Say sưa vừa được hiểu là chàng trai vì uống nhiều rượu mà
say, vừa được hiểu chàng trai say đắm vì tình.
- Nhờ cách nói đó mà chàng trai thể hiện tình cảm của mình
mạnh mẽ và kín đáo.
BT 4: Em hãy sưu tầm 2 câu thơ, văn có sử dụng phép tu từ từ
vựng, chỉ ra thuộc phép tu từ nào?
Trả lời:
- Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
- Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
- Nhân hóa: buồn, sầu
- Nói quá: Mồ hôi như mưa
tiếng hót của loài chim mà ông cảm nhận bằng thính giác
giờ đây trở thành giọt long lanh rơi mà ông đã trông thấy
chúng sắp rơi xuống .
5. Hoán dụ : Thôn đoài , thôn Đông : lấy địa danh để chỉ
người sống ở địa danh đó
Cau , trầu : Ẩn dụ chỉ người con trai và người con gái
Cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ, hán dụ rất phù hợp với lối
nói bóng gió, xa xôi, tế nhị của tình yêu.
6.Hoán dụ : bắp chân, đầu gối : chỉ người/ ý chí của người
->>Hoán dụ dựa trên mối quan hệ giữa cái toàn thể và các
bộ phận bên trong
7. Điệp ngữ : Khăn thương nhớ ai
Hán dụ “khăn : chỉ người cọn gái
Tác dụng của biện pháp tu từ: bộc lộ nỗi niềm thương nhớ
một cách kín đáo , tế nhị nhưng không kém phần mãnh
liệt của cô gái
8.Hoán dụ : “Áo chàm” chỉ đồng bào Việt Bắc
9. Lửa : ẩn dụ chỉ hoa dâm bụt
Cách nói ẩn dụ khắc họa vẻ đẹp của hoa dâm bụt : đỏ, rực
rỡ, đầy sức sống…
10. Hoán dụ : bàn tay ->> chỉ người/ sức lao động, ý chí
của con người
11. Hoán dụ :
Đầu xanh : chỉ người còn trẻ
Má hồng : người con gái đẹp
12. Hoán dụ :
Áo nâu: người nông dân
Áo xanh : người công nhân
13. Biện pháp phóng đại :khom lưng chống gối ( cố gắng
hết sức) để gánh 2 hạt vừng ( công việc quá nhỏ nhặt,
không đáng kể)
Trên thực tế không ai như thế ->> phóng đại nhằm mục
đích mỉa mai, châm biếm những chàng trai yếu đuối, vô
tích sự
14. Ẩn dụ Văn nghệ ngòn ngọt : thứ văn nghệ tầm
thường, hào nhoáng bề ngoài, không có giá trị
Tình cảm gầy gò: (phản ánh ) những tình cảm ,cảm xúc
thoáng qua,vô nghĩa, tầm thường…
15.Thác bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên bờ
Hình ảnh so sánh độc đáo, đặc sắc nhằm ca ngợi đất nước
dù phải trải qua bao vất vả gian lao nhưng vẫn tươi đẹp,
tráng lệ, trường tồn, vươn lên phía trước.
e. Đoạn văn sử dụng phép tu từ ẩn dụ qua hình ảnh một bó
hoa nào khác nữa. Bó hoa khác là những giá trị tinh thần
mà cô gái đã tìm thấy ở anh thanh niên, một con người
sống có lí tương cao đẹp, biết sống cống hiến, yêu đời,
yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
chân tình, cởi mở, khiêm tốn. Những điều ấy đẹp tựa bó
hoa, tiếp thêm cho cô tình yêu cuộc sống, háo hức mộng
mơ và tin vào con đường mình đã chọn.
_ GV: giao nhiệm vụ cho HS: Bài tập 3: Viết một đoạn văn ( chủ đề tự chọn( trong
+ Viết đoạn văn có sử dụng đó có sử dụng một số BPTT đã học
BPTT - Yêu cầu nội dung:
_ HS: thực hiện nhiệm vụ theo + phù hợp, ý nghĩa
hình thức cá nhân. - Yêu cầu về hình thức:
+ Trình bày kết quả. + Viết đúng hình thức một đoạn văn
+ HS khác góp ý. + Có sử dụng BPTT đúng, hợp lí.
GV chốt kiến thức.
cụ Tứ; suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật trở nên thật gần
gũi, được thể hiện rất tự nhiên; nỗi lòng, tâm trạng cùa
người mẹ thương con thật được diễn tả thật chân thực).
Bài tập 2:: Cho đoạn văn sau:
“Tràn trề trên mặt bàn, chạm cả vào cành quất Lí cố tình
để sát vào mâm cỗ cho bàn ăn thêm đẹp, thêm sang, là la
liệt bát đĩa ngồn ngộn các món ăn. Ngoài các món thường
thấy ở cỗ Tết như gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân
giò, miến nấu lòng gà, xúp lơ xào thịt bò… - món nào
cũng mang dấu ấn tài hoa của người chế biến – là các
món khác thường như gà quay ướp húng lìu, vịt tần hạt
sen, chả chìa, mọc, vây…”(Trích Mùa lá rụng trong vườn
– Ma Văn Kháng)2
? Đoạn văn sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Tác dụng
của biện pháp nghệ thuật đó trong đoạn văn?
Trả lời:
- Trong đoạn văn, tác giả có sử dụng biện pháp liệt kê:“…
gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu lòng
gà, xúp lơ xào thịt bò…”
-Tác dụng: Biện pháp liệt kê giúp cho nhà văn miêu tả
sinh động mâm cỗ Tết vốn tràn trề, ngồn ngộn những của
ngon vật lạ
Bài tập 3: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:…
“Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng
nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác
nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng
bọt đã trắng xoá cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm
vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu
này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là
một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá
nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo
mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. ( Trích Tuỳ bút Người
lái Sông Đà-Nguyễn Tuân).
* Trong đoạn văn trên, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều biện
đàn giải oan bên song, Vũ Nương chỉ hiện lên giữa dòng,
nói với chàng mấy câu rồi biến mất.
- GV giao nhiệm vụ cho HS Bài tập 2: Hình ảnh cái bóng xuất hiện mấy lần trong
theo nhóm bàn: truyện ? Nêu ý nghĩa.
- HS thức hiện nhiệm vụ: Gợi ý:
+ HS tìm ý và diễn đạt thành 1 _Có hai cái bóng xuất hiện trong tác phẩm:
đoạn văn ngắn + Cái bóng “trên tường” hay còn được gọi là “Cha Đản”
- HS từng nhóm trình bày kết Đây vừa là chi tiết thắt nút, là nguyên nhân trực tiếp dẫn
quả tới cái chết của Vũ Nương. Đồng thời cũng là chi tiết mở
- HS khác góp ý nút khi Trương Sinh nhận ra cái bóng trên tường chính là
=> GV chốt kiến thức người mà bé Đản gọi là Cha, từ đó nhận ra mình đã nghi
oan cho Vũ Nương. Chi tiết cái bóng còn góp phần hoàn
thiện thêm vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương, đồng thời
cũng thể hiện rõ nét hơn số phận bi kịch của Vũ Nương
nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Cái bóng
“trên tường” còn góp phần tố cáo những oan trái, bất công
trong xã hội phong kiến xưa.
+ Cái bóng “trên sông” khi Vũ Nương trở về
Đây là cái bóng mang ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo. Bóng
“trên sông” có ý nghĩa:
“Chiếc bóng” xuất hiện ở cuối truyện: “Rồi trong
chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà
biến đi mất” : khắc họa giá trị hiện thực, nhân đạo
sâu sắc của tác phẩm.
“Chiếc bóng” mang ý nghĩa thức tỉnh người đọc về
bài học hạnh phúc muôn đời: một khi đánh mất
niềm tin, hạnh phúc chỉ còn là chiếc bóng mờ ảo,
hư vô. Oan đã được giải nhưng Vũ Nương không
thể trở về trần gian được nữa. Câu chuyện trước
sau vẫn là bi kịch về cuộc đời của một người con
gái thủy chung, đức hạnh.
- GV giao nhiệm vụ cho HS Bài tập 3: Nêu ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo trong tác phẩm
theo nhóm bàn: Gợi ý:
- HS thức hiện nhiệm vụ: _Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:
+ HS tìm ý và diễn đạt thành 1 + Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
đoạn văn ngắn + Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi,
- HS từng nhóm trình bày kết được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương, được sứ giả của Linh
quả Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
- HS khác góp ý + Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng
=> GV chốt kiến thức Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến đi mất.
+ Bi kịch gia đình tan vỡ, phải tìm đến cái chết
Bị chồng nghi oan tấm lòng chung thủy, mắng nhiếc, đánh
đuổi một cách phũ phàng.
Bế tắc, nàng tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức
=> Cái chết tô điểm thêm tính chất bi kịch của thân phận
Vũ Nương.
* Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Tạo dựng tình huống để thử thách nhân vật
+ Khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối
thoại...
+ Yếu tố kì ảo, kịch tính và có thực.
c) Kết bài
- Tác giả Nguyễn Dữ với bút pháp miêu tả nhân vật sinh
động, Chuyện người con gái Nam Xương khắc họa được
nhân cách cao đẹp và số phận bi thảm của người phụ nữ
tài sắc vẹn toàn
- Truyền kì mạn lục trở thành áng thiên cổ kì bút trong
nền văn học trung đại Việt Nam khi góp tiếng nói nhân
đạo chủ nghĩa sâu sắc.
- GV giao nhiệm vụ cho HS: *Nhóm HS khá – giỏi:
+ Tìm ý cho đề bài Bài tập 1: Chiếc bóng trên vách trong tác phẩm Chuyện
- HS thực hiện nhiệm vụ theo người con gái Nam Xương là một chi tiết nghệ thuật đặc
hình thức cá nhân. sắc trong truyện. Hãy phân tích làm rõ cái hay của chi
- HS trình bày kết quả tiết đó.
- HS khác góp ý – Chiếc bóng thể hiện tình thương của Vũ Nương đối với
=> GV chốt con, tình yêu đối với chồng (vợ chồng như hình với bóng)
và khát vọng sum họp của nàng.
– Chỉ là chiếc bóng vô hình nhưng cũng có thể dẫn tới
một bi kịch nếu người ta không tỉnh táo. Chiếc bóng Vũ
Nương vô tình đem ra đùa với con, mà chính nó lại là
nguyên nhân làm hại chính mình, hủy hoại chính mình.
Phải chăng chiếc bóng cũng hàm chứa một ý nghĩa nhân
sinh? Trong cuộc đời ai có thể học hết được chữ “ngờ”?
– Đặc sắc ở chỗ tạo ra sự bất ngờ, tính hấp dẫn của tình
huống và sự chặt chẽ của cốt truyện. Nếu tác giả để lộ
chiếc bóng ngay từ đầu câu chuyện thì truyện không chỉ
kém hấp dẫn mà còn phá vỡ tình logic của cốt truyện, ảnh
hưởng tới tính cách cảu Trương Sinh. Chi tiết được để
xuống phần cuối khi Vũ Nương đã không còn nữa, mọi
chuyện đã rồi, mâu thuẫn tích tụ được đẩy lên đỉnh điểm
+ Chi tiết kì ảo còn có tác dụng hoàn chỉnh nét đẹp trong
tính cách của Vũ Nương. Dù đã sang thế giới bên kia
nhưng bản chất tốt đẹp vẫn giữ gìn, vẫn nặng tình với quê
hương, chồng con, vẫn khao khát được sum họp, được trả
lại danh dự.
+ Tuy nhiên, chi tiết kì ảo không làm giảm đi tính bi kịch
của truyện bởi sự trở về (hiển linh) của Vũ Nương chỉ
trong thoáng chốc, là ảo ảnh loang loáng, mờ nhạt giữa
dòng sông. Nàng và chàng vẫn chia lìa âm dương đôi ngả.
Nguyễn Dữ đưa người đọc vào giấc mơ đẹp nhưng để rồi
lại sực tỉnh trở về với hiện tại cay đắng. Sương khói đàn
tràng của Trương Sinh không xua tan được nỗi oan, sự ân
hận muộn mằn cũng không thể cứu vẫn nổi hạnh phúc.
Giấc mơ chỉ làm giảm đi độ căng về tâm lí cho người đọc,
nhưng bi kịch vẫn là bi kịch. Thực tại vẫn phũ phàng.
Giấc mơ là lời cảnh tỉnh để lại dư vị ngậm ngùi và bài học
thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc.
+ Lời từ biệt của Vũ Nương là lời tố cáo cái nhân gian của
xã hội phong kiến đầy oan nghiệt, khổ đau, chà đạp lên
thân phận người phụ nữ. Chi tiết nghệ thuật còn thể hiện
cảm quan của nhà văn đối với xã hội đương thời và lòng
thương cảm đối với thân phận người phụ nữ trong chế độ
gia tộc phụ quyền.
- GV giao nhiệm vụ cho HS: Bài tập 3: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương
+ Lập dàn ý cho đề bài (chuyện người con gái Nam Xương)
+ HS viết các đoạn mở bài, Gợi ý:
thân bài, kết bài. I. Mở bài:
- HS thực hiện nhiệm vụ theo - Giới thiệu tác phẩm, tác giả
hình thức cá nhân. - Giới thiệu nhân vật: Vũ Nương là nhân vật chính trong
- HS trình bày kết quả truyện; là người phụ nữ bình dân có truyền thống tốt đẹp
- HS khác góp ý về đạo đức, phẩm chất nhưng trong xã hội phong kiến
=> GV chốt nhưng chịu đau khổ.
+ Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ ta thương nàng Vũ Thị Thiết đã chịu đựng nỗi đau oan
khuất.
II, Thân bài:
a) Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương
* Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
- “vốn đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung, tốt đẹp”.
- Có tư tưởng tốt đẹp.
tạo. Cuộc sống trong phủ chúa xa hoa, phồn thực tuyệt đỉnh:
“Cả trời Nam sang nhất là đây” (Lê Hữu Trác), lầu gác, rèm
châu, hiên ngọc, hoa cung ngạt ngào, vườn ngự chim kêu
vượn hót, núi non bộ, vào đây như lạc vào chốn bồng lai tiên
cảnh, thơ mộng nhất trời Nam. Cuộc sống quyền uy, vương
giả nhưng những thức giả đều nhận thấy đó là điều triệu bất
tường, báo trước sự suy vong, sụp đổ tất yếu của một triều
đại chỉ ham tranh quyền đoạt vị, ham ăn chơi xa đọa, không
lo nghĩ phát triển dân giàu nước mạnh.
– Con người trong phủ chúa: kẻ cầm quyền thì ăn chơi,
hoang dâm vô độ, vô trách nhiệm. Kẻ dưới quyền (quan lại,
hầu cận) thì đục nước béo cò, ỷ thế thỏa sức vơ vét, cướp
bóc dân lành, làm cho cuộc sống nhân dân ngày càng khốn
khó. Một thời đại không “vô vi cư điện các” (nơi triều chính
không yên ổn) ắt đại loạn sẽ xảy ra. Đoạn trích đã phơi bày
một tình trạng đen tối, thối nát, mục ruỗng của tập đoàn
phong kiến Lê – Trịnh: xa hoa, quyền uy nhưng giả tạo đã
đến thời mạt vận
- GV giao nhiệm vụ cho HS: Bài tập 3: Cảm nhận của em về đoạn trích “Chuyện cũ
+ Lập dàn ý theo đề bài cho trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ (Ngữ văn 9-
sẵn. tập 1)
+ HS chọn một ý và trình Gợi ý:
bày thành 1 đoạn văn 1. Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả - tác phẩm, khái quát
- HS thực hiện nhiệm vụ nội dung nghệ thuật của tác phẩm
theo hình thức cá nhân. “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” phản ánh đời sống xa hoa
- HS trình bày kết quả của vua chúa và sự nhũng nhiễu của quan lại thời Lê – Trịnh
- HS khác góp ý 2. Thân bài:
=> GV chốt a. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh
- Xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả ý
- Thích chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp → Ý thích đó không
biết bao nhiêu cho vừa. Vì vậy việc xây dựng đình đài cứ
liên miên, hao tài, tốn của
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tỉ
mỉ (diễn ra thường xuyên, tháng ba bốn lần). Huy động rất
đông người hầu hạ (Binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt
hồ mà Tây Hồ rất rộng)
- Các nội thần, quan hộ giá, nhạc công ... bày đặt nhiều trò
giải trí lố lăng và tốn kém
- Việc tìm thu vật “phụng thủ” thực chất là cưỡng đoạt
những của quý trong thiên hạ (chim quý, thú lạ) về tô điểm
thủ đoạn nhũng nhiều của chúng đối với nhân dân qua đoạn
trích.
– Xác định nội dung cần nghị luận (luận điểm)
+ Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận. +
Những thủ đoạn những nhiễu của quan lại.
+ Thái độ của tác giả
– Tư liệu: Chủ yếu trong đoạn trích , có thể mở rộng ra đoạn
trích (phần Đọc thêm).
*Lập dàn ý
Mở bài
_ Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ
trung tùy bút) của Phạm Đình Hổ là một minh chứng xác
đáng về hiện thực đen tối của đất nước vào thời vua Lê –
chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII.
Thân bài
– Bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê – Trịnh
được tác giả kể lại một cách sinh động, hấp dẫn.
+ Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở khắp nơi để
thỏa ý “thích chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp, ý thích đó
không biết bao nhiêu cho vừa. Vì vậy, “Việc xây dựng đình
đài cứ liên miên” hao tiền, tốn của.
+ Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở li cung (cung
điện, lâu đài xây xa kinh thành). Những cuộc dạo chơi của
chúa ở Tây Hồ được tác giả miêu tả tỉ mỉ: diễn ra thường
xuyên “tháng ba bốn lần”, huy động rất nhiều kẻ hầu người
hạ: “binh lính dàn hấu hết bốn mặt hồ” (Hồ Tây ngày ấy
rộng hơn bây giờ rất nhiều). Không chỉ dạo chơi đơn thuần
mà còn bày ra nghi lễ tiếp đón tưng bừng, độc đáo; những
trò chơi lố lăng như tổ chức hội chợ, các quan nội thần cải
trang thành đàn bà, bày bách hóa xung quanh hồ để bán;
thuyền ngự tùy ý ghé vào mua bán như cửa hàng trong chợ.
+ Chúa Trấn Quốc, nơi linh thiêng của Phật giáo cũng bị bọn
nhạc công ngồi trên hòa nhạc làm vui cho chúa.
+ Bọn quan quân dùng quyền lực để tìm thu thực chất là
cướp đoạt của quý trong thiên hạ như “trân cầm dị thú, cổ
mộc quái thạch,…” (chim quý, thú lạ, cây cổ thụ, những hòn
đá có hình thù lạ, chậu hoa, cây cảnh) về tổ điểm cho phủ
chúa để thành nơi giàu đẹp nhất trời Nam.
+ Tác giả đã chọn một chi tiết điển hình nhằm khắc sâu chủ
đề của đoạn trích, đó là cảnh binh lính khiêng một cây đa cổ
thụ về phủ chúa. Nhà văn miêu tả bằng những từ ngữ sống
động và ấn tượng: “Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước
qua sông”, “giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc
đá, rễ dài đến vài trượng”. Cây đa ấy “phải một cơ binh mới
khiêng nổi”, không chỉ có thế, việc di chuyển còn có “bốn
người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân
lính khiêng đi cho đều tay”. Người cầm bút chỉ đưa ra những
sự việc cụ thể, chân thực và khách quan, không bình luận
nhưng các hình ảnh, chỉ tiết vẫn hiện lên sống động và tự nó
phơi bày.
– Thói tham lam, những thủ đoạn nhũng nhiễu của bọn quan
lại hầu cận trong phủ chúa cũng được tác giả tường thuật
một cách sắc nét:
+ Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa
rất được sủng ái, bởi chúng biế bợ đỡ, làm vui lòng chúa
bằng cách bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Cho nên chúng ỷ
thế nhà chúa, mượn gió bẻ măng tha hồ hoành hành, tác yêu
tác quái, vơ vét của dân.
+ Thủ đoạn của chúng vô cùng bỉ ổi, trắng trợn: dò xem nhà
nào có vật quý thì biên vào hai chữ “phụng thủ”, cho người
lấy phăng đi. Rồi vừa ăn cướp vừa la làng, vu cho người có
của giấu giếm của cung phụng, chống lại thánh chỉ để học lại
phải đút tiền thoát tội. Người dân vừa bị cướp đoạt vật quý
vừa bị mất tiền thêm, có nhà bị mất của lại còn bị phá nhà
hủy tường. Vì thế, để tránh tai họa, có người phải tự tay “đập
bỏ núi nọn bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh’’ mà mình đã dày công
vun trồng, yếu quý.
+ Để tăng sức tố cáo hiện thực và sức thuyết phục người
đọc, tác giả đưa ra bằng chứng từ chính sự việc của gia đình
mình: bà mẹ đã phải sai chặt đi một cây lê và hia cây lựu quý
có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà để tránh tai họa. Nhân
dân bị nhũng nhiễu, cuộc sống nghèo đói, vất vả, không yên
ổn, nọn vua chúa, quan lại thì ăn chơi xa đọa. Chúa thì lơi
lỏng việc triều chính, không chăm lo việc nước; quan quân
được thể hoành hành dân chúng. Cướp đoạt của cải của dân,
bọn chúng không những không bị phê mà còn được khen,
được thưởng, được thăng quan tiến chức.
– Thái độ của người cầm bút
+ Tác giả ghi chép sự việc diễn ra rất cụ thể, khách quan,
không lời bình, không bộc lộ thái độ, cảm xúc trực tiếp.
Nhưng mạch ngầm chủ đạo văn bản là thái độ phê phán đối
với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại
hầu cận trong phủ chúa. Nhà văn kể lại sự việc khách quan
nhưng tự nó đã phơi bày tất cả bản chất của giai cấp thống trị
và dự cảm một tương lại gần đầy nguy cơ. Chi tiết: “Trong
phủ, tùy chỗ điểm xuyết, bày vẽ ra hình núi non bộ trông
như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng
chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào
như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là
điều triệu bất tường”, tác giả kín đáo cảnh báo thói ăn chơi
hưởng lạc, xa hoa trên mồ hôi nước mắt của nhân dân sẽ dẫn
đến cảnh đất nước suy tàn, tan rã tang thương.
+ Kẻ thức giả (người trí thức) nhìn xa trông rộng thấy điều
đó không phải là cảnh thực. Cảnh núi non thu hẹp trong
vườn thượng uyển không phải là biểu tượng của toàn cảnh
đất nước đẹp tươi, phồn thịnh, mà đó là cảnh đẹp giả tạo,
phù phiếm chỉ có trong phủ chúa. Đêm thanh cảnh vắng,
chim kêu vượn hót rộn bề không phải là cảnh bình yên, phồn
thực mà đó là “điều triệu bất tường”, một dấu hiệu chẳng
lành, điểm gỡ sẽ xảy ra ồn ào như trận mưa sa bão táp, vỡ tổ
tan đàn. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho sự suy vong tất yếu của
một triều đại. Thật đúng như dự cảm, không bao lâu, nạn
kiêu binh nổi dậy, lật đổ phe cánh Trịnh Sâm, Hoàng Đình
Bảo, gia đình chúa cốt nhục tương tàn, tan đàn xẻ nghé, cuối
cùng bị nhà Tây Sơn xóa vết. Vũ trung tùy bút phảng phất
đó đây một phong vị buồn của con người luôn trăn trở với
dân với nước. Ông viết nhẹ nhàng, không lên gân […]. Phạm
Đình Hổ là sự minh chứng cho tính phong phú, đa dạng của
kí’’ (Nguyễn Đăng Mạnh). Kết bài
– Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động cho người
đọc về tầng lớp quyền quý cũng như nỗi thống khổ của nhân
dân lao động đương thời. Tác phẩm không chỉ giàu giá trị
hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo. – Chuyện cũ viết lại
trong phủ chúa Trịnh một thời đã thành dĩ vãng, nhưng
những câu chuyện ấy vẫn còn mang giá trị tư liệu, giá trị lịch
sử và giá trị văn chương…
*Ghi nhớ:
_ Đặc điểm thể loại tùy bút (trung đại)
_ Nội dung nghệ thuật đoạn trích
_ Giá trị hiện thự của đoạn trích
thắm liễu hờn kém xanh là: Hoa ghen, liễu hờn → Ẩn dụ, nhân
hóa.
⇒ Ghen hờn, báo hiệu sự đố kị, dự báo một số phận éo le, đau
khổ.
Câu 4: Thành ngữ có trong đoạn thơ: Nghiêng nước nghiêng
thành
*Nhóm HS Khá – Giỏi:
Đề 1 :Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều (trích Truyện
Kiều) của Nguyễn Du.
GV giao nhiệm vụ cho cá Dàn ý tham khảo :
nhân HS: 1, Mở bài
_ Lập dàn ý cho đề bài – Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy
sau. Kiều:
_ Tiến hành viết các đoạn + Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Nguyễn Du, giàu tính
của bài văn hiện thực, nhân đạo và mang nhiều giá trị nghệ thuật to lớn.
HS thực hiện nhiệm vụ + Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia
HS trình bày kết quả, nhận cảnh của Thuý Kiều, đặc biệt miêu tả tài sắc của Thuý Kiều và
xét, bổ sung Thuý Vân.
Chú ý: 2, Thân bài
_ nhận xét về cách lập dàn a, Bốn câu đầu giới thiệu về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân
ý cho dạng bài nghị luận – Ngắn gọn: là hai con gái đầu lòng, Thúy Kiều là chị cả,
về một đoạn thơ. Thúy Vân là em.
_ Nhận xét hệ thống luận – Tác giả dùng từ “tố nga” để khẳng định đây là hai cô gái
điểm, luận cứ của bài đẹp; “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” nói về nhân cách, phẩm
GV nhận xét bổ hạnh trong sáng, thuần khiết.
sung. ⇒Khẳng định: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
b, Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân (4 câu tiếp)
– Câu thơ đầu: giới thiệu và khái quát đặc điểm của nhân vật
+ “Trang trọng”: nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý
Vân.
– Tác giả so sánh vẻ đẹp của Thúy Vân với trăng, hoa, ngọc,
mây, tuyết: những hình ảnh đẹp trong thiên nhiên.
⇒Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ
đẹp của Thuý Vân, lấy chuẩn mực thiên nhiên đo vẻ đẹp con
người.
– Từ ngữ “thua”, “nhường” cùng chân dung được miêu tả đầy
đặn, đoan trang: tác giả báo trước tính cách số phận của Thúy
Vân êm đềm, hoà hợp, suôn sẻ.
c, Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều (12 câu tiếp)
– Câu thơ đầu khái quát tài sắc của Thuý Kiều: “càng sắc sảo,
mặn mà”
⇒Vẻ đẹp trưởng thành, tinh anh, thông tuệ, có tài có sắc.
– Tác giả tiếp tục dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu
tả vẻ đẹp của Thuý Kiều: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu.
⇒Tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: đôi mắt là “cửa sổ tâm
hồn”, thể hiện hết vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của nhân vật.
– Tả tài năng, tâm hồn Thúy Kiều:
+ Tinh thông cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), đặc
biệt ca ngợi tài chơi đàn “ăn đứt hồ cầm một trương”.
+ Tâm hồn đa sầu, đa cảm: “thiên bạc mệnh” mà Kiều tự
sáng tác cho thấy tâm hồn nhạy cảm, thương người, thương đời
của Kiều.
⇒Thúy Kiều đẹp toàn diện cả sắc, tài, tình, đẹp “nghiêng nước
nghiêng thành”
– Miêu tả Thuý Kiều, tác giả dùng những từ chỉ mức độ:
ghen, hờn ⇒thiên nhiên phải ghen tị, hờn giận trước vẻ đẹp và
tài năng, tâm hồn của Thúy Kiều, từ đó báo hiệu một cuộc đời
nhiều gian nan, sóng gió.
d, Nhận xét về nghệ thuật:
– Thủ pháp ước lệ tượng trưng: lấy từ chỉ thiên nhiên tả vẻ
đẹp con người. Đây là thủ pháp thường thấy trong văn học
Trung đại.
– Thủ pháp đòn bẩy: tác giả tả Thúy Vân trước, chỉ dùng bốn
câu thơ để tả vẻ đẹp của Thúy Vân, dùng mười hai câu thơ tả
cả tài sắc và tâm hồn Thúy Kiều nên càng làm tăng thêm vẻ
đẹp toàn diện của Thúy Kiều.
– Sử dụng từ ngữ có tính chất tiên đoán số phận: tiên đoán số
phận Thúy Vân êm đềm qua hình ảnh thiên nhiên “thua,
nhường”, số phận Thúy Kiều trắc trở qua hình ảnh thiên nhiên
“ghen, hờn”.
3, Kết bài
Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
– Đoạn trích miêu tả tài sắc chị em Thuý Kiều cho thấy
Nguyễn Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Lòng
thương cảm bộc lộ ngay từ những dự đoán số phận nhân vật.
– Ngôn ngữ giàu cảm xúc, vận dụng một cách linh hoạt các
biện pháp nghệ thuật ước lệ, so sánh, ẩn dụ.
*Ghi nhớ:
- Nội dung, nghệ thuật đoạn trích
- Cách lập dàn ý cho bài văn nghị luận về một đoạn thơ
để tưởng nhớ người thân, tổ tiên đã khuất “Thoi vàng vó rắc, tro
tiền giấy bay”. Hội là đạp thanh: vui chơi chốn đồng quê, đạp
lên những thảm cỏ xanh, là cuộc sống tại và có thể tìm đến
những sợi tơ hồng của mai sau,… Như vậy, trong tiết thanh
mình vừa có hồi ức, tưởng niệm về quá khứ, cũng vừa khát
khao, hoài vọng về phía trước cuộc đời. Lễ và hội trong tiết
thanh minh là sự giao hòa độc đáo giữa quá khứ và hiện tại; giữa
cái đã qua cái sắp tới, chứng tỏ nhà thơ rất hiểu và trân trọng và
trân trọng những giá trị truyền thống văn hóa của dan tộc.
+ Bốn câu thơ sau là ngôn ngữ tự sự tả bức tranh của lễ hội. Một
hệ thống danh từ, động từ, tính từ: gần xa, yến anh, chị em, tài
tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngựa xe, áo quần, như
nước, như nêm,… biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo
nức, yươi vui của mọi người đi lễ hội. Đặc biệt là lớp nam thanh
nữ tú, tài tử giai nhân, ngựa xe, áo quần màu sắc rực rỡ, đông
đúc,chen chúc xuôi ngược như nước như nêm. Lễ viếng thăm
xen kẽ ngày hội giai ngộ khiến cảnh mùa xuân càng thêm tưng
bừng, nhộn nhịp, vui tươi, ấm áp, người cảnh quyện hòa. Dường
như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả
nhân gian, trong đó có ba chị em họ Vương. Thông qua việc du
xuân của họ, nhà thơ khắc họa một truyền thống văn hóa xã hội
xa xưa thật đẹp và sống động.
– Sáu câu cuối, cảnh chị em du xuân trở về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghènh bắc ngang.
Khác với đoạn thơ trên, không còn cái không khí vui tươi, hồ
hởi, nô nức nữa, âm điệu của đoạn này giường như trầm buồn
bởi hội đã tan, cảnh sắc mùa xuân đã đổi thay. Sáng tiết trời
trong trẻo, tươi sáng, chiều Tà tà bóng ngả về tây, bầu trời nắng
đã nhạt, khe nước nhỏ một nhịp cầu bắc ngang, bước chân thơ
thẩn đầy tâm trạng có gì như tiếc nuối, nhìn dòng nước uốn
quanh thấy nao nao lòng. Cảnh vật lúc này đã nhuốm màu tâm
trạng. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân
đang còn mà linh cảm về điều sắp tới đã xuất hiện. Có gì đó vui
buồn lẫn lộn và đúng như thế, buồn vì gặp mộ Đạm Tiên ngay
sau đó “Sè sè nắm đất bên đàng/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa
xanh” cùng giấc mộng Tiền Đường; gặp chàng thư sinh Kim
Trọng “Phong thư tài mạo tót vời”. Giai nhân kì ngộ, gặp gỡ,
yêu mãnh liệt rồi tan vỡ.
Kết bài Dường như mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện
Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong bức tranh thiên nhiên
Cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến màu theo cảnh
vật: sáng – chiều, đầu hội – cuối hội và những linh cảm về tương
lai. Đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du mà
thi sĩ cùng thời khôn sánh
GV: giao nhiệm vụ cho * Nhóm HS khá – Giỏi:
HS: Đề ra: “Đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” là bức tranh thiên nhiên,
1, Lập dàn ý cho đề bài lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ,
sau. bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du”.
2, Tiến hành luyện viết Qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (Trích Truyện Kiều,
các đoạn văn: mở bài, Nguyễn Du), em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
thân bài, kết bài. Dàn ý chi tiết tham khảo:
HS thực hiện nhiệm vụ Mở bài:
1. _ Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề nghị luận:
HS trình bày kết quả, HS Nền văn học Việt Nam tuy chưa phải là một nền văn học lớn
khác góp ý bổ sung trên thế giới nhưng người Việt hoàn toàn có thể tự hào trước bạn
GV chốt kiến thức. bè quốc tế với những kiệt tác của mình, trong đó trước hết phải
kể đến “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Nhiều đoạn
trích tiêu biểu trong truyện thơ này đã được đưa vào chương
trình sách giáo khoa Ngữ Văn như đại diện nổi bật của tinh hoa
văn học nước nhà. Trong đó, "Cảnh ngày xuân" là một đoạn
trích hấp dẫn bởi Nguyễn Du đã phác họa bức tranh thiên nhiên
và lễ hội mùa xuân tươi đẹp qua từ ngữ, bút pháp miêu tả đầy
chất tạo hình.
HS tiếp tục thực hiện Thân bài:
nhiệm vụ 2: luyện viết _ Giới thiệu khái quát nội dung đoạn thơ:
các đoạn văn. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nằm trong phần đầu "Gặp gỡ và
HS trình bày kết quả, HS đính ước", ngay sau khi giới thiệu về gia cảnh Vương viên ngoại
khác góp ý, bổ sung và chị em Thúy Kiều. Đoạn thơ miêu tả cảnh vật khi chị em
GV nhận xét, góp Kiều đi chơi xuân và chính tại đây, Kiều gặp Kim Trọng. Nằm
ý. trong quãng đời tươi đẹp nhất của Thúy Kiều, đoạn trích cũng là
mùa xuân tươi đẹp nhất trong cuộc đời nàng. Mùa xuân ấy được
miêu tả với khung cảnh ngày xuân, khung cảnh lễ hội và khung
cảnh chiều xuân chị em trở về.
_ Triển khai vấn đề thành các luận điểm, luận cứ cụ thể:
+ Khung cảnh ngày xuân mở ra từ hai dòng thơ đầu với cả
và cũng trở nên man mác trong tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
+ Nhưng tạm lắng xuống niềm suy tư ấy, cảnh vật xiết bao tươi
đẹp và giàu sức sống:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Cỏ non trải dải mênh mông đến tận cuối chân trời! Đó cũng là
sức lan tỏa mạnh mẽ, tràn trề của sức sống mùa xuân. Trên
không gian tràn đầy màu vẻ non tơ, mướt mát của cỏ xanh, thiên
nhiên khéo vẽ "cành lê trắng điểm". Sắc trắng tinh khôi của hoa
lê càng đậm khi thi nhân dùng biện pháp đảo ngữ, không phải
những bông hoa lê trắng nở trên cành lê mà chính cành lê tự tô
vẽ cho mình, tự "trắng điểm một vài bông hoa". Tính từ "trắng
điểm" cũng bởi thế mang sắc thái của động từ, là hành động của
"cành lê" tự điểm tô cho mình. Không đường đột, vội vàng để
sắc trắng bừng sáng cả một vùng trời, sắc trắng của hoa lê thanh
thoát, nhẹ nhàng chẳng nở rộ cùng một lúc mà chỉ thoáng hiện
trên cành và nổi bật trên nền cỏ xanh non. Màu xanh của cỏ hài
hòa cùng sắc trắng của hoa lê gợi sự êm đềm, trẻ trung, thuần
khiết của cảnh và cũng là của người.
+ Hài hòa và gắn liền với bức tranh thiên nhiên tươi đẹp là lễ
hội xuân trong khung cảnh tiết thanh minh và hội đạp thanh:
"Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh".
Bút pháp tiểu đối giúp nhà thơ khắc họa sống động hai hoạt
động diễn ra trong ngày xuân: "Lễ là tảo mộ" – "hội là đạp
thanh", việc tách từ “lễ hội” tạo thành "lễ là…" và "hội là…" là
một ý tứ thú vị gợi nhiều truyền thống tốt đẹp trong đời sống
văn hóa của dân ta. "Lễ tảo mộ" là sự tri ân của con cháu, của
người còn sống với ông bà, tổ tiên, với quá khứ; "hội đạp thanh"
là ngày hội vui vẻ, náo nức, thanh tân của mùa xuân, mỗi bước
chân trên cỏ xanh tạo duyên gặp gỡ, kết giao bè bạn. Không khí
của lễ và hội ấy được gợi ra bằng những câu thơ gợi được cả âm
thanh và hành động:
"Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm".
Những từ ghép "gần xa", "yến anh", "chị em", "giai nhân",
"ngựa xe", "áo quần" cùng những từ láy "nô nức", "sắm sửa",
"dập dìu" ngay lập tức thể hiện không khí sôi nổi, tâm trạng tươi
vui, khung cảnh đông đúc, rộn ràng của ngày hội. Không chỉ kết
hợp ngôn ngữ tài tình, thi nhân còn tái hiện không khí lễ hội
xuân trong những hình ảnh ẩn dụ. Hình ảnh "Nô nức yến anh"
thật giàu chất tạo hình, đó là phác họa về chim yến, chim oanh
ríu rít bay từng đàn khi xuân về gợi không khí tập nập, rộn ràng
của từng đoàn người đi chơi xuân; gợi thanh âm những cuộc
chuyện trò xôn xao giữa họ; gợi cả những náo nức, tình tứ của
những đôi uyên ương trong ngày xuân. Với hình ảnh này, mùa
xuân không chỉ tươi vui mà còn trẻ trung, tình tứ!
Nhà thơ có những so sánh khá thú vị "Ngựa xe như nước", "áo
quần như nêm". Lấy cái vô cùng, bất tận là "nước" để so sánh
với "ngựa xe” vừa giúp miêu tả cảnh tượng đông đúc, tấp nập
vừa gợi chuyển động của dòng xe, đoàn người. “Áo quần như
nêm” miêu tả cảnh người người chen nhau, ken kín cả không
gian hội hè.
+ Không khí của hội xuân đi vào lòng người với biết bao tưng
bừng, rộn rã thì không khí của ngày lễ xuân lại đem đến nốt
lặng trong tâm hồn:
"Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"
Đó là ngày con cháu thăm viếng, sửa sang phần mộ, đốt vàng
mã, tiền giấy cho người đã khuất. Ngày xuân đâu chỉ đẹp trong
những náo nức của ngày hội, nó còn đẹp trong đạo lí "uống nước
nhớ nguồn" và lối sống ân tình thủy chung. Bức tranh thiên
nhiên trong ngày xuân nhờ thế mang vẻ đẹp hài hòa giữa lễ và
hội, giữa cảnh và người, giữa quá khứ và hiện tại. Phải chăng
cũng vì vậy, Chế Lan Viên từng ca ngợi "Khi Nguyễn Du viết
Kiều, đất nước hóa thành văn".
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghếnh bắc ngang."
Hoàng hôn mùa xuân được họa bằng ánh sáng cuối ngày "tà tà
bóng ngả về tây". "Tà tà" đâu chỉ miêu tả cảnh mặt trời lặn, đó
còn là dáng đứng, bước đi của chị em Thúy Kiều "chị em thơ
thẩn dang tay ra về", khi lễ hội vãn dần trong bước đi chầm
chậm của thời gian. Trong không gian buồn vắng, tĩnh lặng, tâm
trạng con người càng bâng khuâng, tiếc nuối. Những bước chân
còn lưu luyến con đường "cỏ non xanh tận chân trời", lưu luyến
không khí vui tươi của ngày hội "nô nức yến anh". Cũng bởi sự
lưu luyến ấy, chị em nàng Kiều "bước dần theo ngọn tiểu khê".
Không gian mênh mông, khoáng đạt giờ dần thu hẹp lại, lắng
vào chiều sâu trong hình ảnh "tiểu khê" và "dịp cầu nho nhỏ".
Khung cảnh trở nên nhỏ bé, quạnh vắng nhưng cũng vô cùng
thân thuộc. Theo từng bước "lần xem phong cảnh", khung cảnh
chiều xuân hiện lên yên bình, tao nhã, gần gũi, thân thuộc trong
nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng "thơ thẩn", "thanh thanh", "nao
nao". Chính những từ láy giàu sức biểu cảm này khiến cảnh
cũng phảng phất nỗi buồn thi vị trong khoảnh khắc chuyển giao
giữa ngày và đêm, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa náo nhiệt và
tĩnh lặng.
Bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân được gợi lên qua
từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của thi nhân
dường như bồi đắp thêm trong mỗi chúng ta tình yêu thiên
nhiên và sự nhạy cảm trong tâm hồn. Vừa có nét tươi vui,
rộn rã, căng tràn nhựa sống vừa có nét đẹp thanh cao, tao
nhã, tĩnh lặng, yên bình. Cùng với thiên nhiên, bức tranh
lễ hội như lời gợi nhắc về những truyền thống quý báu tốt
lành mà mỗi người cần trân trọng. Tất cả cảnh sắc thiên
nhiên hay lễ hội đều trở thành bức phông nền tươi sáng và
bình yên cho các nhân vật mà Nguyễn Du yêu mến rong
chơi, thưởng ngoạn và cả suy tư, trầm lắng. Nó giống như
phản quang từ những ngày tháng đầu đời hạnh phúc, ấm
êm, trong lành và vẹn nguyên nhất của nàng Kiều.
Kết bài:
_ Đánh giá nhận xét chung:
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” chỉ dài mười tám dòng thơ nhưng
nhờ tài và tình của người viết trở thành bức họa và bài ca trong
trẻo, trữ tình, giàu cung bậc cảm xúc trong tâm trí người đọc.
Đằng sau bức tranh ấy là cả một thế giới thuần khiết, hạnh phúc
thuở đầu đời của người con gái bất hạnh Vương Thúy Kiều.
*Ghi nhớ:
- Nội dung, nghệ thuật đoạn trích
- Kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn văn cảm nhận, đoạn văn nghị
luận.
3.HS trình bày kết quả Phân tích 8 câu thơ cuối của đoạn trích để làm sáng tỏ
4.HS nhóm khác góp ý, bổ nhận xét trên.
sung Gợi ý tham khảo:
=> GV chốt kiến thức Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, đoạn trích
- Giới thiệu vấn đề nghị luận (trích ý kiến)
Thân bài: cần đảm bảo một số ý sau:
1, GV giao nhiệm vụ tiếp - Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn
theo: là bức tranh tâm trạng, đó chính là bút pháp nghệ thuật tả
? Dựa vào dàn ý, viết một số cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du
đoạn văn được thể hiện ở 8 câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu
2, Cá nhân HS thực hiện Ngưng Bích.
nhiệm vụ - Cảnh cửa bể chiều hôm gợi ra khoảng thời gian đã cuối
3, HS trình bày kết quả ngày rồi, khi đó cũng là lúc các gia đình quây quần bên
4, HS khác bổ sung, góp ý nhau, nhưng đối lập với đó, Kiều lại một mình cô đơn giữa
GV nhận xét, bổ sung không gian rừng núi, biển cả bao la. Lúc này, Kiều buồn tủi
biết mấy, nàng muốn theo những cánh buồn xa xa kia đi xa
mãi, xa mãi trở về với quê hương, gia đình yêu dấu của mình
mà không thể nào được, điều ước vẫn chỉ là điều ước mà
thôi. Nàng lại nhìn cánh hoa mỏng manh trôi man mác, cứ
nổi lên lại ngụp xuống giữa ngọn nước mới sa để rồi chợt lo
lắng cho số phận của mình liệu có như cánh hoa nhỏ bé kia
biết trôi dạt về đâu giữa bao sóng gió cuộc đời giữa cái chốn
lầu xanh dơ bẩn này. Và chính cuộc sống hiện tại khi biết
mình bị lừa làm gái lầu xanh, rồi còn bị Tú Bà giảm ở lầu
Ngưng Bích, chờ đợi được gả một tấm chồng theo lời hứa
của Tú Bà đã làm Kiều rất chán ghét.
- Cái màu xanh bàng bạc, gần như sắp lụi tàn héo úa của nội
cỏ rầu rầu đã thể hiện rất rõ tâm trạng này, dù hiện tại đã
buồn chán nhưng nhìn về tương lai của đám cỏ ấy cũng như
tương lai của Kiều càng tuyệt vọng , u ám hơn thế, nó chỉ là
một màu xanh xanh héo úa, ảm đạm bởi giờ đây nàng sống
không có mục đích, không có cả con đường tới tương lai thì
mới vô vọng làm sao!
- Rồi nàng chợt hốt hoảng giật mình bởi tiếng sóng ầm ầm,
đánh rất mạnh, càng làm chông chênh thêm vị trí của mình
đang ngồi. Tới đây nỗi lo lắng, sợ hãi của Kiều đã lên tới tột
cùng bởi tiếng sóng ấy có khác nào tiếng sóng dữ dội, ập tới
cuộc đời Kiều và báo trước tương lai đầy biến đọng của
nàng, mà như sau này ta đã biết là thanh lâu hai lượt, thanh y
hai lần đầy những sóng gió, gian nan vất vả.
=>Tóm lại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình ta hiểu được tâm
trạng cô đơn, buồn tủi và thấy thương xót cho thân phận của
Kiều và cảm nhận được tình yêu thương con người sâu sắc
của đại thi hào của Nguyễn Du.
Kết bài:
- Đánh giá lại nội dung, nghệ thuật 8 câu cuối.
- Khẳng định lại nội dung ý kiến trên
1.GV giao nhiệm vụ cho cá *Nhóm HS khá – giỏi:
nhân HS nhiệm vụ sau: Đề ra: Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn
? Lập dàn ý cho đề bài sau. miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện
2.HS thực hiện nhiệm vụ. Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Hãy
3.HS trình bày kết quả phân tích đoạn thơ để làm sáng tỏ nhận định trên?
4.HS nhóm khác góp ý, bổ Đề ra có định hướng về nội dung. Khi làm cần:
sung – Bám sát nội dung yêu cầu.
=> GV chốt kiến thức – Vận dụng kết hợp lập luận phân tích với chứng minh, bình
luận,… để làm sáng tỏ vấn đề, làm tăng tính thuyết phục cho
bài văn.
– Tư liệu: chủ yếu trong đoạn trích (văn bản)
Gợi ý:
Mở bài
– Nêu vị trí đoạn trích trong tác phẩm.
– Nêu vấn đề cần nghị luận (dựa vào đề bài): Đoạn thơ là
bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, đây là
một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công
nhất trong Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình
đầy xúc động.
Thân bài. Cần đạt được nội dung sau:
* Hoàn cảnh và tâm trang của Kiều (6 câu thơ đầu).
– Hai mươi hai dòng lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, man mác,
mênh mang nỗi buồn khởi phát từ lòng người rồi lan truyền
thấm vào cảnh vật, rồi từ cảnh vật lại xoáy vào lòng người.
Hầu như không dòng nào, câu nào, thậm chí từ nào, hình
ảnh, âm thanh nào trong đoạn thơ không ít nhiều thể hiện
tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tâm trạng ngổn ngang trăm
mối, ngơ ngác, bẽ bàng, ngẩn ngơ, buồn nhớ, lo lắng, tiếc
nuối đan dệt, giăng mắc trong Kiều khi nàng ngồi im lặng,
một mình trước lầu Ngưng Bích nhìn ra. Bốn câu đầu là bức
tranh thiên nhiên quanh lầu và cũng là bức tranh tâm trạng:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
có lỗi, tự dằn vặt “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”. Nàng
cho rằng mình đã bạc tình với chàng Kim, bội ước lời thề
non hẹn biển, không giữ được lòng thủy chung, nhất là sự
trinh trắng của người con gái. Tất cả những gì đẹp đẽ nhất
nàng muốn dành cho chàng nay đã bị hoen ố, chà đạp, biết
bao giờ mới gột rửa được vết nhơ? Bao nỗi dằn vặt, vò xéo
biết khi nào, bao giờ mới nguôi ngoai, phai mờ?
– Thương xót, nàng hướng về song thân:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nàng hình dung cha mẹ vẫn sớm hôm tựa cửa ngóng trông
tin tức của mình. Nguyễn Du rất tinh tế trong cách dùng từ,
với Kim Trọng, Kiều tưởng (nhớ), nhưng với cha mẹ, Kiều
không chỉ nhớ thương mà còn xót (xót xa , da diết) người đã
sinh thành, dưỡng dục mình. Tuy đã làm tròn bổn phận
“Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, “Liều đem tấc cỏ
quyết đền ba xuân”, bán mình chuộc cha và em nhưng Kiều
vẫn thấy mình chưa trọn đạo. Bản thân là người chị lớn trong
nhà, hai em còn nhỏ, cha mẹ đã già, lúc trái nắng trở trời…
ai người nâng giấc, chăm sóc bát cơm chén nước, quạt lồng
ấp lạnh? Nỗi day dứt không phụng dưỡng được cha mẹ lúc
tuổi già sức yếu đã thể hiện tấm lòng hiếu thảo nàng.
– Nét đặc sắc, độc đáo của đoạn thơ là Nguyễn Du đã thể
hiện một cách khách quan tâm cảnh Thúy Kiều, rất lôgíc về
tâm lí, biện chứng về tâm hồn, nhất là tuổi trẻ đang yêu.
Kiều nhìn vầng trăng nhớ người yêu, nhớ đêm thề nguyền
ngọt ngào, thiêng liêng và hạnh phúc cùng chàng Kim, rồi
mới nhớ thương, xót xa đến cha mẹ là điều hoàn toàn hợp lí.
Quả là một ngòi bút mô tả tâm lí bậc thầy: Cái thuở ban đầu
lưu luyến ấy Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên. (Thế Lữ)
* Sau những phút giây trở về với những người thân yêu,
Kiều trở lại với cảnh ngộ của chính mình (tám câu thơ cuối):
Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
cảnh vật mà là cái linh hồn, tâm trạng của nhân vật phủ lên
cảnh vật kia để làm nổi bật hình tượng một Thúy Kiều – cái
bẽ bàng, xót xa, thẫn thờ của người con gái tình nghĩa, hiếu
hạnh đang lâm vào cảnh ngộ bơ vơ, bế tắc, tương lai mờ mịt,
thân phận mong manh; thông qua đó, người đọc thấy hiện
lên tấm lòng thương cảm, sẻ chia, xót xa của đại thi hào đối
với người phụ nữ tài sắc bất hạnh. Đoạn trích mang giá trị
nhân đạo sâu sắc.
*Ghi nhớ:
- Nội dung, nghệ thuật đoạn trích
- Các làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ. Nghị luận một
ý kiến bàn về văn học
_ Cách lập dàn ý một đề văn 1. Cảm nhận về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong bài thơ
nghị luận dạng so sánh “Đồng chí”
=> GV nhận xét, bổ sung, - Tác giả Chính Hữu lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí,
chốt kiến thức đồng đội giữa những người lính
+ Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: “quê hương anh”, “làng
tôi”
+ Cùng chung lí tưởng chiến đấu: “Súng bên súng” gợi lên
sự tương đồng về lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu,“đầu sát bên
đầu” diễn tả ý chí quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp.
+ Tình cảm đồng chí được bồi đắp qua sự sẻ chia những gian
lao của cuộc chiến.
- Bức chân dung người lính còn được phác họa qua sức
mạnh của tình đồng chí, đồng đội
+ Đồng cam cộng khổ vượt qua mọi thiếu thốn: “Áo anh
rách vai”, “Quần tôi có vài mảnh vá”, “Chân không giày”.
+ Luôn sẵn sàng yêu thương, sẻ chia: “thương nhau tay nắm
lấy bàn tay”
- Hình ảnh người lính được phác họa trong sự quyện hòa
giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn qua hình ảnh
“Đầu súng trăng treo”
2. Cảm nhận về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong tác
phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
- Vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả tái hiện thông qua
sự song hành, sóng đôi với hình ảnh “những chiếc xe không
kính”:
+ Gợi hiện thực tàn khốc của cuộc chiến
+ Miêu tả chân thực con đường ra mặt trận đầy hiểm nguy
- Vẻ đẹp của người lính được thể hiện qua sự tư thế ung
dung, hiên ngang, bất chấp mọi hiểm nguy
+ Họ chấp nhận những gian khổ bằng tinh thần coi thường,
bất chấp mọi hiểm nguy: “Ung dung buồng lái ta ngồi”
+ Họ đối diện với sự khắc nghiệt, tàn khốc của cuộc
chiến:“gió vào xoa mắt đắng”, “sao trời”, “cánh chim” đột
ngột như “sa”, “ùa” vào buồng lái.
1, GV giao nhiệm vụ tiếp - Vẻ đẹp của người lính được thể hiện qua tình cảm đồng đội
theo: và trái tim yêu nước:
? Dựa vào dàn ý, viết một số + Hình ảnh chân thực “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” đã gợi ra
đoạn văn sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc giữa những người lính
2, Cá nhân HS thực hiện + Cách nói hình ảnh “vì miền Nam phía trước” đã thể hiện
nhiệm vụ niềm tin, tinh thần lạc quan của người lính
3, HS trình bày kết quả + Hình ảnh hoán dụ “một trái tim” đã làm nổi bật “trái tim
4, HS khác bổ sung, góp ý: cầm lái” luôn rực cháy ngọn lửa yêu nước và tinh thần chiến
tập trung vào cách dùng từ, đấu bất khuất, kiên cường của người lính.
đặt câu 3. Cảm nhận về vẻ đẹp chung và riêng của hình ảnh người
GV nhận xét, bổ sung lính trong hai bài thơ
- Vẻ đẹp chung:
+ Lí tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc
+ Tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt
+ Sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua
những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
- Vẻ đẹp riêng:
+ Ở bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu khắc họa vẻ đẹp
của người nông dân mặc áo lính thông qua sự mộc mạc,
chân chất và sự quyện hòa giữa chất hiện thực - lãng mạn;
+ Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, bức chân dung
người chiến sĩ lái xe hiện lên qua sự trẻ trung, sôi nổi, ngang
tàn.
III. Kết bài
Khái quát về giá trị của hình tượng người lính qua hai tác
phẩm
*Ghi nhớ:
- Vẻ đẹp hình tượng người lính (thời chống Pháp, chống Mĩ)
- Cách lập dàn ý, viết đoạn, bài văn nghị luận
B3: Các cặp đôi trình bày kết - Làm nổi bật hình ảnh toàn bài: những chiếc xe không
quả thảo luận kính.
B4: Các cặp đôi khác góp ý, - Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách
bổ sung khai thác hiện thực của tác giả muốn nói về chất thơ của hiện
B5: GV nhận xét, góp ý và thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên
chốt kiến thức ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ hiểm nguy
của thời chiến.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính gây sự chú ý khác lạ
được đưa ra thực đến trần trụi vẫn băng băng ra chiến
trường:
a. Xưa nay, hình ảnh tàu xe vào thơ thường được mỹ lệ hoá,
lãng mạn hoá nhưng Phạm Tiến Duật đưa một hình ảnh thực
đến trần trụi “những chiếc xe không kính”. Tác giả giải thích
nguyên nhân cũng rất thực bằng 2 câu thơ rất gần với văn
xuôi lại có giọng thản nhiên:
“Không có kính không phải xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó.
b. Câu thơ thứ 2 nhắc lại hai lần chữ “bom” với những động
từ mạnh “giật”, “rung” khiến cho “kính vỡ đi rồi” càng tăng
gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu.
c. Bom đạn chiến tranh còn làm chúng biến dạng thêm, trần
trụi hơn.
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước”,
d. Hình ảnh này không hiếm trong chiến tranh nhưng phải có
hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích
cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa vào
thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống
Mỹ.
3. Giọng điệu và ngôn ngữ: Giọng thơ rất gần với lời nói
thường, có những câu như văn xuôi tưởng như khó chấp
B1: GV giao nhiệm vụ cho nhận trong một bài thơ “Không có kính không phải vì xe
HS. không có kính” “Không có kính, ừ thì cói bụi”, “Chung bát
Lập dàn ý cho đề bài sau: đũa nghĩa là gia đình đấy”… Nhưng đây lại chính là nét độc
Phân tích vẻ đẹp của người đáo tạo nên một giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, sôi nổi,
lính qua hai bài thơ: “Đồng tinh ngịch, tự nhiên, thể hiện cái hiên ngang, bất chấp mọi
chí” và “Tiểu đội xe không khó khăn, nguy hiểm của các anh lính lái xe Trường Sơn.
kính”. Bài tập 3: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ:
B2: cá nhân HS thực hiện “Đồng chí” và “Tiểu đội xe không kính”.
vẻ vang với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa
được bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những
người con của quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh
chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong
trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật ngang
tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút,
các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội
của bom đạn quân thù hằng ngày trút xuống con đường và
nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt
hiện hình trong hình ảnh những chiếc xe không kính rồi
không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo mó. Gian
khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái chết như
kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta
ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực
hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go
nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những
chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực
hiện nhiệm vụ thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe
tưởng chừng như không thể sử dụng được vậy mà nó vẫn
tiến lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất
nghịch ngợm của những anh lái xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một
nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng nên hình ảnh những
chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì
phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời
thách thức của họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh thứ nhất,
còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn
băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh
mẽ và dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những
trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền Nam phía trước với
là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất
đất nước:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3. Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt
nhận ra sự gần gũi, thân quen giữa những người lính qua
các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống
Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời
chống Mĩ trong thơ PTD đều có chung một nét đẹp truyền
thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc
quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời
chống Mĩ đã được trau rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa
và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã vững vàng nay
lại vững vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với
những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống người lính
nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu
riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm
hứng của Chính Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí,
đồng đội của người lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi
bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi
khó khăn và bom đạn kẻ thù của những người lính lái xe.
B1: GV giao nhiệm vụ cho III, Kết bài:
HS. _ Khẳng định lại vấn đề ( có thể nêu cảm nghĩ)
Tìm ý cho đề bài sau: Vẻ đẹp Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài
hình tượng người lính lái xe thơ về người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm
trên tuyến đường Trường xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên
Sơn thời chống Mĩ trong Bài bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những
thơ tiểu đội xe không kính trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển
B2: HS thực hiện nhiệm vụ đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải
theo nhóm tổ. phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi
B3: HS các nhóm trình bày trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh
kết quả thảo luận mẽ.
B4: HS nhóm khác góp ý, * Nhóm HS Khá – Giỏi:
bổ sung Bài tập 1. Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trên tuyến
B5: GV nhận xét, góp ý và đường Trường Sơn thời chống Mĩ trong Bài thơ tiểu đội xe
chốt kiến thức không kính.
– Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe Trường Sơn gắn liền
với hình tượng những chiếc xe vận tải độc đáo. Những chiếc
xe thực chất chỉ là vật vô tri vô giác nếu không có sự tác
động của con người. Chính con người đã truyền cho nó một
hồn sống khiến nó trở nên sinh động, hấp dẫn. Người lính lái
xe trẻ trung, năng động, dũng cảm, lạc quan yêu đời đã
truyền qua chiếc vô lăng khí thế hiên ngang, bất khuất, tính
ngang tàng, dũng mãnh, quả cảm bất chấp mọi gian nguy,
– Niềm vui gia đình của người lính chính là tình đồng đội,
xung quanh họ đều là những con người lạc quan, yêu đời gắn
bó: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành
tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát
đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe
chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Sự khốc liệt của chiến
tranh đã tạo nên những tiểu đội xe không kính, đã gắn bó
những con người có tinh thần sắt lửa lại với nhau như anh
em, bè bạn cùng chung nhiệm vụ. Những cái bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi thật hồn nhiênvui tươi như một sự hưởng thụ tự
nhiên, không cần phải nhiêu khê mở của, cứ việc thò tay qua
ô cửa bắt tay chào nhau trong tiếng cười ha ha rồi lại hối hả
ra mặt trận. Chính nhà thơ cũng rất khoái khi viết câu: “Bắt
tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”, “không phải mở cửa mà có
thể thò tay thì sướng quá” thể hiện nét hồn nhiên, tinh
nghịch, phớt đời của người lính. Niềm vui bè bạn như niềm
vui gia đình, cái định nghĩa về gia đình của người lính – thi
sĩ cũng rất lính, tếu táo mà tình cảm chân tình, sâu sắc:
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Họ gắn bó với nhau
trong chiến đấu, trong đời thường, trong bữa ăn giấc ngủ tạm
bợ vội vã trên đường, để rồi lại đi, lại đi trời xanh thêm. Câu
thơ diễn tả cái điệp khúc lên đường của đoàn xe, phơi phới
niềm tin lạc quan, yêu đời của lính trẻ Trường Sơn. – Điều
làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn gian khổ
chính là tình yêu đất nước, là lòng nhiệt tình cách mạng của
tuổi trẻ, quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước: Không có kính, rồi xe không có đèn, Không
có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía
trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Kết thúc bài thơ, vẫn
giọng thơ nói mộc mạc như văn xuôi, vậy mà nhạc điệu,
hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ. Cảm hứng và suy tưởng
vừa thực vừa bay bổng đề hoàn thiện vẻ đẹp chân dung
người lính lái xe Trường Sơn những năm đánh Mĩ. Bốn dòng
thơ dựng lại hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ, thú vị
giữa người và xe; giữa vật chất và tình thần; giữa cái không
và có… làm nổi bật cái gia góc, khốc liệt của cuộc chiến và
chất anh hùng, bất khuất, đẹp đẽ của con người. Điệp ngữ
B1: GV giao nhiệm vụ cho “không có” nhấn lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách;
HS. ngôn ngữ trong hai dòng thơ được ngắt làm bốn nhịp như
Lập dàn ý cho đề bài sau: bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu. Nhưng hai câu sau, âm
Cảm nghĩ của em về hình điệu lại nhẹ nhàng, phóng khoáng bởi hình hài những chiếc
tượng người lính trong cuộc xe có thể bị bom giặc làm cho biến dạng, nhưng với xe còn
kháng chiến chống Pháp và cỗ máy thì còn chạy, với con người còn trái tim thì còn tình
chống Mĩ qua hai bài thơ yêu Tổ quốc. Trái tim tuổi trẻ giàu nhiệt huyết, giàu tình yêu
Đồng chí (Chính Hữu), Bài thương và lòng căm thù giặc sẽ bất chấp tất để chiến đấu và
thơ về tiểu đội xe không kính chiến thắng. Tác giả đã nói về tác phẩm của mình: “Thực ra,
(Phạm Tiến Duật). tôic hỉ lấy cái ô tô làm cớ. Con người cũng như cái xe ấy, có
B2: cá nhân HS thực hiện thiếu mọi thứ […] nhưng cái không thể thiếu được là trái tim
nhiệm vụ anh chiến sĩ lái xe dũng cảm. Bài thơ được tôi chăm sóc khá
B3: HS trình bày kết quả kĩ lưỡng về chũ nghĩa. Nhưng với tôi, cái mà tôi ưng ý chưa
thảo luận phải là chữ nghĩa mà là cái khoảng vang của tâm hồn, của
B4: HS khác góp ý, bổ sung thanh khí toàn bài phủ lên tác phẩm”. Đúng vậy! Cái âm
B5: GV nhận xét, góp ý và vang tâm hồn, cái thanh khí của toàn bài thơ mà tác giả
chốt kiến thức muốn nói đến đó là những giá trị hiện thực lớn lao, vừa
mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời, vừa
mang tầm vóc lịch sử. Đôi khi bài thơ vượt qua khỏi phạm
trù cái đẹp văn chương thuần túy để nói tiếng nói của cuộc
sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của
con người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống
của thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng thời đánh Mĩ: khó khăn,
gian khổ, hi sinh nhưng bất khuất, kiên cường, kiêu hùng và
lãng mạn.
Bài tập 2: Cảm nghĩ của em về hình tượng người lính
trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ qua hai
bài thơ Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe
không kính (Phạm Tiến Duật).
Đây là bài tập khó, HS cần nắm chắc hai tác phẩm và có cái
nhìn tổng quát về hai cuộc kháng chiến qua thơ ca để có
những nhận xét, đánh giá chính xác, thấy được những nét
chung và riêng ở người lính qua hai thời kì kháng chiến.
Gợi ý:
Mở bài. Dẫn dắt và giới thiệu đối tượng nghị luận:
– Văn học 1945 – 1975 tập trung viết về ba đối tượng chính:
công, nông, binh. Vì vậy, đề tài viết về người lính trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là đề tài thu hút
nhiều bút lực. Bởi đó là những con người anh hùng sẵn sàng
quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
– Biết bao nhà thơ đã viết về họ, trong đó có nhà thơ Chính
Hữu với tác phẩm: Đồng Chí, Phạm Tiến Duật với Bài thơ
về tiểu đội xe không kính. Đây là những thi phẩm xuất sắc
viết về người lính trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân
tộc.
Thân bài. Cần đạt được các ý chính sau:
* Nét chung của người lính trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ qua hai bài thơ Đồng chí và Bài
thơ tiểu đội xe không kính, đó là lòng yêu nước, dũng cảm,
kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc; sẵn sàng
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn để chiến đấu,
chiến thắng; sống lạc quan, yêu đời, đoàn kết, yêu thương
đồng chí, đồng đội, đồng cam cộng khổ, sẻ chia buồn vui
trong đời sống chiến đấu.
* Nét riêng
– Tuy nhiên, mỗi bài thơ hình tượng người lính lại được
khai thác ở những nét riêng:
+ Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, hình tượng người lính
xuất thân từ nông dân. Những con người nghèo khổ từ
những vùng quê nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, đầu
trần, chân đất bước vào đời lính. Cuộc sống kháng chiến đầy
khó khăn gian khổ: đói rét, bệnh tật, đầu không mũ, chân
không giày, áo vá, quần rách, đứng chờ giặc trong rừng
hoang sương muối… nhưng tinh thần vẫn kiên định, vượt
qua mọi khó khăn để chiến đấu và chiến thắng bởi có tình
đồng chí đồng đội “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp nhất là những năm đầu
kháng chiến, cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ nên đời sống
vật chất, tinh thần của người lính cũng quy định bản chất anh
bộ đội cụ Hồ: hiền lành, chất phác, giản dị, chân thật, dũng
cảm, kiên cường, luôn mang trong trái tim mình tình yêu đất
nước và tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
+ Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, hình tượng người
lính đi vào cuộc chiến đấu đã có bước phát triển vượt bậc về
đời sống cơ sở vật chất và tinh thần so với đời sống của
người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu ở bài
thơ Đồng chí nói về người lính bộ binh ở Điện Biên Phủ thì
Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nói về người lính thuộc
binh chủng lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời đánh
Mĩ. Họ không còn áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân
không giày, nhưng họ lại gặp những khó khăn khác: bom
giặc đã hủy diệt sự sống, phá hủy những chiếc xe – phương
tiện vận tải của họ, biến những chiếc xe trở nên kì dị: không
kính, không đèn, thùng xe xướt xát. song bất chất hiểm
nguy, xe và người vẫn ung dung, hiên ngang ngày đêm lao ra
chiến trường đánh Mĩ. Ở họ luôn phơi phới một tinh thần lạc
quan cách mạng, trẻ trung, yêu đời, dũng cảm, kiên định rất
phù hợp với chất lính lái xe Trường Sơn. Thế hệ của họ “Xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương
lai”, “Đi chiến trường như chyả hội mùa xuân”, “Mưa bom
bão đạn lòng thanh thản”. Họ rất tự hào là thế hệ trẻ Việt
Nam trong thời điểm lịch sử quyết liệt nhất, đối mặt với kẻ
thù mạnh nhất thế giới, vũ khí tối tân nhất thế giới, khẳng
định chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên cường, bất khuất
của một dân tộc anh hùng.
Kết bài. Nâng cao, mở rộng vấn đề
Đã đi qua hơn nửa thế kỉ, nhưng những bài thơ viết về đề tài
chiến tranh – người lính vẫn mãi mãi khắc sâu trong tâm hồn
người Việt Nam về hình tượng người lính bất tử. Hình tượng
ấy ở cuộc chiến tranh nào cũng đều bi tráng, hào hùng lãng
mạn. Vẻ đẹp ấy không chỉ có riêng trong Đồng chí của
Chính Hữu, ở người lính lái xe của Phạm Tiến Duật, mà còn
là tinh thần, vẻ đẹp chung của hình tượng người lính trong
suốt hai cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại của dân tộc
*Ghi nhớ:
- Vẻ đẹp độc đáo của bài thơ
- Vẻ đẹp của hình tượng người lính thời chống Mĩ
- Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài văn nghị luận
+ Từ "lại" → Nhấn mạnh đến nhịp công việc quen thuộc, lặp
lại hàng ngày của người dân làng chài.
+ "Câu hát" cùng "gió khơi" và con người với thiên nhiên như
đang hòa làm một.
→ Khổ thơ thứ nhất với sự vui tươi cùng hình ảnh thiên nhiên
tráng lệ đã thật sự mở ra một bức tranh, một hành trình ra
khơi mới
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ
Mục tiêu: Bài tập 2: Đặc sắc nghệ thuật trong khổ thơ đầu và cuối bài
+ Củng cố kiến thức khổ Đoàn thuyền đánh cá
đầu, khổ cuối Mở bài:
+ Rèn kĩ năng phân tích -Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề:
nghệ thuật thơ, kĩ năng làm Tham khảo:
văn nghị luận về đoạn thơ Sau năm 1945, văn học Việt Nam bước sang thời kì văn
Cách tổ chức: chương Cách mạng mang đậm âm hưởng anh hùng ca bi
B1: GV giao nhiệm vụ cho tráng, oai hùng nhằm tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu
HS và xây dựng đất nước. Thoát ra khỏi cái tôi u sầu của mình
? Lập dàn ý cho đề bài sau trong thời kì Thơ mới, Huy Cận thổi vào hồn văn của mình sự
B2: HS thực hiện nhiệm vụ vui tươi, phấn chấn về thiên nhiên, con người hăng say lao
theo hình thứ cá nhân động kiến thiết nước nhà. Đoàn thuyền đánh cá là một trong
B3: HS trình bày dàn ý số những tác phẩm "thay máu" của ông, lấy cảm hứng từ
B4: HS khác góp ý người dân miền biển và vẻ đẹp biển khơi phóng khoáng năng
B5: GV nhận xét, chốt kiến động. Trong bài thơ, hai khổ thơ đầu và cuối có sự liên kết về
thức cần đạt. nội dung và hình ảnh, mở ra khoảng thời gian trước và sau khi
( GV có thể cho HS viết các đoàn thuyền ra khơi đánh cá gây ấn tượng đặc sắc cho người
đoạn mở, thân , kết sau khi đọc.
lập xong dàn ý) Thân bài:
_ Hoàn cảnh ra đời bài thơ
Ra đời sau chuyến đi thực tế dài ngày của tác giả tới vùng mỏ
Quảng Ninh, bài thơ được ví như một bức tranh tả thực cảnh
đoàn thuyền của những người dân chài lưới ra khơi đánh cá
trên nền trời thăm thẳm. Hình ảnh tráng lệ, đẹp đẽ cùng con
người lao động tươi vui thể hiện sự tin tưởng, hi vọng và tự
hào của nhà thơ với công cuộc đổi mới đất nước. Khổ thơ đầu
của bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, khổ thơ cuối
lại là cảnh đoàn thuyền trở về với chuyến thu hoạch thắng lợi.
Những hình ảnh, cảnh tượng lặp lại trong hai khổ thơ mang
đến suy nghĩ và liên tưởng về sự lặp vòng, vần xoay của vũ
trụ cũng như hoạt động của con người. Thời gian tuần hoàn,
từ hoàng hôn tới bình minh cũng giống như con người luôn
luôn cố gắng phát triển sự nghiệp, cải tạo nước nhà.
_ Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật trong khổ đầu:
+ Mở đầu bài thơ bằng cảnh hoàng hôn, khi đoàn thuyền đánh
cá chuẩn bị nhổ neo căng buồm ra khơi:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi".
Đứng trên bờ để quan sát cảnh tượng hoàng hôn kì vĩ, phóng
tầm mắt ra xa, thu vào trong ống kính của nhà thơ là hình ảnh
mặt trời đỏ ối "như hòn lửa". Mặt trời, biểu tượng của sự sống
luôn rực rỡ và tráng lệ, nhất là khi được quan sát giữa không
gian rộng lớn. "Mặt trời xuống biển", người đọc có thể hình
dung ra đường chân trời, nơi giao thoa giữa ánh sáng chói
chang và mặt nước in hằn sắc đỏ cam kì vĩ. "Sóng đã cài then,
đêm sập cửa", với người dân chài quanh năm bám biển, biển
chính là nhà, là nơi để về, là nơi cho họ thức ăn, nguồn sống.
Sóng "cài then", con sóng trở nên hiền hòa và êm dịu dưới
màn đêm yên tĩnh, "đêm sập cửa", cả bầu trời tối đen sau khi
mặt trời tắt nắng. Ở đây, tác giả dùng từ "cài then", "sập cửa",
cũng giống như một ngôi nhà khi màn đêm buông xuống đều
cửa đóng then cài, chuẩn bị cho một giấc ngủ sâu sau ngày dài
làm việc vất vả. Thiên nhiên đối với người dân lao động thật
gần gũi, giống như mái ấm chở che, nuôi dưỡng họ trưởng
thành. Trong thời khắc vạn vật chìm vào giấc mộng như thế,
những người dân vạn chài lại bắt đầu công việc thường nhật
của mình:
"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi"
Phép tu từ ẩn dụ "đoàn thuyền đánh cá" chính là những người
dân chài khỏe mạnh, giàu sức sống. Cùng với con thuyền - kế
sinh nhai, người dân biển đi theo đoàn ra khơi đánh bắt cá.
Tuy làm việc vào ban đêm, nhưng dường như, ta vẫn cảm
nhận được rõ ràng cái khí thế hừng hực như đoàn quân ra trận.
"Câu hát căng buồm cùng gió khơi', ẩn dụ khí phách của
người lao động với câu hát mạnh mẽ, mang tầm vóc vũ trụ
"cùng gió khơi". Câu hát hay là sức mạnh của người lao động
giúp con thuyền căng mới buồm, xứng đáng đứng cạnh thiên
nhiên mênh mông vĩ đại. Tác giả khéo léo lồng ghép sự tự
hào, tự tin đặt ngang con người sánh vai với vũ trụ, "cùng gió
khơi" đưa thuyền ra xa, tìm về vùng đất nơi có nhiều hải sản
quý giá. Con người làm chủ thiên nhiên, khai thác thiên nhiên
để phục vụ cho đời sống kinh tế, hình ảnh con người chế ngự
thiên nhiên vẫn luôn là khao khát và mục tiêu, nhất là trong
thời kì đổi mới, xây dựng đất nước đương thời
=>Đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ này là ở những hình ảnh
không gian, con người hòa quyện làm một. Gói gọn trong một
vài câu từ, khoảng thời gian từ lúc mặt trời lặn cho đến khi
màn đêm bao phủ đều được miêu tả bao quát. Trên cái nền
hùng vĩ ấy của thiên nhiên điểm xuyết hình ảnh con người,
nhưng con người không hề bé nhỏ, lạc lõng mà là đoàn người
ra khơi, vẻ oai hùng ngang hàng với năm châu bốn bể. Cảnh
ra khơi huy hoàng, con người chinh phục thiên nhiên gây ấn
tượng mạnh cho người đọc ngay từ đầu tác phẩm.
_ Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật trong khổ cuối:
Cảnh tượng đặc sắc, ngạo nghễ ở khổ đầu còn được tiếp tục
lặp lại ở khổ thứ ba, miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
nay đã trở về thắng lợi.
"Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi"
Hình ảnh "câu hát căng buồm với gió khơi" lặp lại ở khổ thơ
đầu, khúc hát hào hùng từ khi bắt đầu cuộc đi biển tới khi
đoàn thuyền trở về, câu hát vui vẻ, phấn chấn tiếp thêm sức
mạnh cho những người dân chài đối diện với gian khó. m
hưởng ngân vang của bài ca thắng lợi, khi đi là những câu hát
mang niềm kì vọng, khát khao về một buổi ra khơi thành
công, khi về là khúc hát, là lời reo hò mừng vui khôn xiết cho
những thành quả lao động đã gặt hái được. Và một lần nữa,
hình ảnh mặt trời lại xuất hiện trong câu thơ, nhưng thay vì là
"mặt trời xuống biển" thì ở đây là "mặt trời đội biển", mặt trời
lên, một ngày mới, một sức sống mãnh liệt mới. Sau một đêm
lao động vất vả, lênh đênh ngoài biển khơi, giờ đây, những
người dân chài được đền đáp không chỉ bằng lưới cá đầy
khoang mà còn là ánh bình minh rực rỡ, ánh sáng mang lại sự
sung túc ấm no. "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi", biểu
tượng của sự no đủ. Cá được mùa, mặt trời ấm áp, báo hiệu
một cuộc sống không phải chật vật cơm áo gạo tiền. Có lẽ, đối
với người lao động chân tay thuần túy, không có gì quý giá
hơn sóng yên biển lặng, tay lưới trĩu nặng vì cá tôm. Người
dân chài giống như những tráng sĩ trở về với chiến công hiển
hách, vang dội, nhấn mạnh nét đẹp lao động, nét đẹp của
những cơ bắp dạn dày gió sương và những đôi tay khéo léo
làm việc không quản gian nan.
=>Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ phải kể đến câu thơ "Đoàn
thuyền chạy đua cùng mặt trời". Được ví như nhãn tự của tác
phẩm, Huy Cận nâng tầm con người lên với tầm của vũ trụ.
Quả cầu lửa của nhân loại, mặt trời lộng lẫy chói chang, giờ
đây, đoàn thuyền với những người lao động cũng có thể sánh
ngang với mặt trời. Trải dài từ đầu đến cuối bài thơ là giọng
điệu tự hào, trân trọng những con người cống hiến, làm việc
và sinh sống giữa thiên nhiên xoay vần, biến chuyển không
ngừng nhưng không hề xuất hiện sự bé nhỏ, sợ hãi. Tư thế của
những người dân vạn chài luôn hướng về cuộc sống mới, nơi
có ánh sáng rạng rỡ, "chạy đua cùng mặt trời". Sau một đêm
lao động vất vả, họ vẫn dồi dào năng lượng, cũng giống như
đất nước và con người Việt Nam, chìm trong chiến tranh, đạn
bom loạn lạc, nhưng khi tổ quốc bước vào thời kì xây dựng,
người dân vẫn luôn sẵn sàng tiên phong, đi theo tiếng gọi của
Tổ quốc.
Kết bài:
_ Đánh giá lại nét đặc sắc nghệ thuật của 2 đoạn thơ:
Với lời thơ dứt khoát, mạnh mẽ cùng âm hưởng bản anh hùng
ca, hình ảnh thơ lặp lại, tương xứng ở khổ đầu và khổ cuối,
tác giả đã mang đến một nức họa với những khối màu vừa hài
hòa, giao thoa vừa đối lập, tương phản. Đặc sắc nghệ thuật
của hai khổ thơ chính là ở chỗ, dùng những hình ảnh cũ
nhưng nội dung lại nói về cái mới, tạo nên sự hô ứng giữa
không gian và thời gian. Không gian tuần hoàn, thời gian
ngày đêm lặp vòng cũng giống như những người lao động
luôn làm việc hăng say, hết mình cho sự nghiệp lớn lao của
dân tộc.
Mục tiêu: * Nhóm HS Khá – Giỏi:
+ Củng cố kiến thức về bài Bài tập: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận.
thơ 1. Mở bài :
+ Rèn kĩ năng phân tích – Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Sau
thơ, kĩ năng làm văn nghị CM thơ Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống
luận về bài thơ. mới.
Cách tổ chức: -Thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy
B1: GV giao nhiệm vụ cho Cận và nó mang những nét đẹp riêng.
HS – Một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích nhất là
? Lập dàn ý cho đề bài sau bài “ Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958 tại vùng biển
B2: HS thực hiện nhiệm vụ Quảng Ninh. Với bút pháp lãng mạn kết hợp hiện thực và
theo hình thứ cá nhân nhiều hình ảnh kì vĩ, tráng lệ ,bài thơ đã ca ngợi thiên nhiên
B3: HS trình bày dàn ý vũ trụ và con người lao động trong cuộc sống mới ở miền Bắc
B4: HS khác góp ý thời kỳ xây dụng chủ nghĩa xã hội.
B5: GV nhận xét, chốt kiến 2. Thân bài
thức cần đạt. 1.1 Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con người.
(GV có thể cho HS viết các a. Cảnh hoàng hôn trên biển.
đoạn thân bài) – Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
– Nghệ thuật so sánh nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn
vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lử
khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng
này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là
tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cửa. Chi tiết Mặt
trời xuống biển có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc vì bài
thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở
bờ biển nước ta, trừ vùng Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt
trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống
biển. Thực ra hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ
trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc
hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển thì vẫn có
thể thấy như là mặt trời xuống biển. Với sự quan sát tinh tế
nhà thơ đã miêu tả rất thực chuyển đổi thời khắc giữa ngày và
đêm.
b. Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người
bắt đầu làm việc
“ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”
– Đoàn thuyền chứ không phải chỉ con thuyền ra khơi đã tạo
ra sự tấp nập trên biển. Chữ “Lại” vừa khẳng định nhịp điệu
lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, vừa thể hiện
sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự làm việc của
con người.
– Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết
3 sự vật và hiện tượng: Câu hát, cánh buồm và gió khơi.
Người đánh cá căng buồm và cất câu hát lên nhà thơ có cảm
giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát
mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở
thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con
thuyền lướt sóng ra khơi.
– Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp
phần thể hiện một hiện thực : Đó là niềm vui phơi phới, tinh
thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm trạng
đầy hứng khởi vì học tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu
biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu
cho Tổ quốc.
– Câu hát của người lao động còn mang theo niềm mong mỏi
tha thiết vừa hiện thực vừa lãng mạn “ Hát rằng : cá bạc biển
đông lặn…
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng đến biển như một
tấm lụa lớn mà đoàn cá là “ đoàn thoi” đang vung vẩy qua lại.
Người dân chài hát khúc hát ca ngợi sự giàu có của biển cả,
họ hát bài ca gọi cá vào lưới và mong muốn công việc đánh cá
thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
1.2.Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.
a. Cảnh đoàn thuyền trở về
- Câu đầu tác giả lặp lại ở khổ thơ 1: “Câu hát căng buồm với
gió khơi”
+ Có từ “với” là khác, có lẽ tác giả tránh sự lặp lại ở câu thơ
trước => làm cho khổ thơ cuối giống như điệp khúc của một
bài hát, tạo cảm giác tuần hoàn về thời gian, về công việc lao
động; nhấn mạnh khí thế tâm trạng của những người dân.
Đoàn thuyền ra đi hào hứng sôi nổi, nay trở về cũng với tinh
thần ấy rất khẩn trương. Câu hát đưa thuyền đi nay câu hát lại
đưa thuyền về.
+ Bằng biện pháp khoa trương và hình ảnh nhân hóc” Đoàn
thuyền chạy đua cùng mặt trời:cho thấy con người và vũ trụ
chạy đua trong cuốc vận hành vô tận, con người đã mang tầm
vóc lớn lao của thiên nhiên vũ trụ trong cuộc chạy đua này và
con người đã chiến thắng.Có thể nói Huy Cận đã lấy tình yêu
của mình đối với cuộc sống mới của nhân dân khám phá ra vẻ
đẹp hùng vĩ. Thay vào không gian vũ trụ buồn hiu hắt của thơ
ông trước cách mạng tháng Tám.
b. Bình minh trên biển
– Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn, kết thúc bài thơ là cảnh
bình minh” Mặt trời đội biển nhô màu mới”. Ánh mặt trời
sáng rực, từ từ nhô lên ở phía chân trời xa cảm giác như mặt
trời đội biển. Câu thơ với ẩn dụ táo bạo cho thấy sự tuần hoàn
của thời gian, của vũ trụ.
- H/ả “ mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi nhiều liên
tưởng như những mặt trời nhỏ bé đang tỏa rạng niềm vui
trước thành quả lao động mà con người đã giành được sau
một đêm lao động trên biển. => đó là cảnh tượng đẹp huy
hoàng giữa bầu tròi và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành
quả lao động.
III, Kết luận chung
- Bài thơ tạo được âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại vừa
phơi phới, bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng ấy là các
yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần. Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như
khúc hát say mê, hào hứng, phơi phới (4 lần điệp từ “hát”).
Cách gieo vần trong bài thơ biến hóa, linh hoạt, các vần trắc
xen lẫn vần bằng, vần liền xen với vần cách. Các vần trắc tạo
sức dội, sức mạnh, các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng, tạo
nên những vần thơ khoáng đạt, kì vĩ, phơi phới niềm vui.
- Bài thơ là những bức tranh đẹp, rộng lớn kế tiếp nhau về
hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền đánh cá. Thiên nhiên như
một người bạn thân thiết, đồng hành cùng cuốc sống của con
người. Hình ảnh người lao động trong bài thơ được sáng tạo
với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui trước
cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay, thể
hiện rõ nét sự thay đổi của hồn thơ Huy Cận sau Cách Mạng.
– Lãng mạn hơn, công việc lao động nặng nhọc của người
đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên
nhiên.
*Ghi nhớ:
_ Nội dung, nghệ thuật bài thơ
_ Cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
ông gần gũi với cuộc sống, mang hương vị thân thương,
giản dị và đằm thắm. Một trong những tác phẩm nổi tiếng
của Nguyễn Duy là tác phẩm Ánh trăng, tác phẩm rất đỗi
gần gũi và giản dị. Tác phẩm đã mang lại cho chúng ta
cảm giác chân thực và vô cùng sâu sắc.
b) Thân bài: Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
* Khái quát về bài thơ
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Bài thơ ra đời vào năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh
- nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những
người từ trận đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến
gian khổ mà nghĩa tình.
+ In trong tập thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy - tập thơ
đạt giải A của Hội nhà Văn Việt Nam năm 1984.
- Mạch cảm xúc: Bài thơ mượn đề tài thiên nhiên để nói
tới suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ và con người,
cuộc đời theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại
gắn với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người.
* Vầng trăng trong quá khứ:
- Hồi nhỏ sống:
+ với đồng.
+ với sông
+ với bể.
-> Tác giả nhớ đến kỉ niệm của mình với trăng lúc nhỏ:
gắn bó với đồng, với sông, với bể,…
=> Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự
gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những
tươi đẹp của tuổi thơ.
- “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ,
ác liệt thời chiến tranh,“vầng trăng thành tri kỉ” -> Nghệ
thuật nhân hóa
-> Tác giả nhớ đến hồi khi chiến tranh mình và trăng đã ở
trong rừng cùng nhau, trăng là người bạn thân thiết, tri âm
tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến
trận với người lính – nhà thơ.
+ Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai
ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo,
những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính
đều có vầng trăng bên cạnh.
+ Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi
đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm, phản ánh một sự
thực trong xã hội thời hiện đại.
- Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất
ngờ:
+ Tình huống: mất điện, phòng tối om.
+ “Vội bật tung”: vội vàng, khẩn trương đi tìm nguồn
sáng
-> Phép đảo ngữ từ láy “thình lình”, “đột ngột" được đưa
lên đầu câu: nhấn mạnh sự việc bất ngờ là mất điện.
+ Ngay lúc đó trăng hiện ra “đột ngột” khiến con người
bàng hoàng xúc động.
=> Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ
ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình.
* Cảm xúc của tác giả về trăng với con người:
- Tâm trạng, cử chỉ của con người khi đối diện với vầng
trăng
+ Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt”: là tư thế trực tiếp đối
mặt
+ Phép nhân hóa, từ mặt thứ hai chỉ vầng trăng tròn, đó
là thiên nhiên hồn nhiên tươi mát, đó còn là quá khứ bạn
bè tươi đẹp.
+ So sánh, liệt kê, điệp ngữ, lặp cấu tứ “như là đồng là
bể - như là sông là rừng”: diễn tả dòng hoài niệm ùa về và
con người thấy trăng là thấy người bạn tri kỉ ngày nào.
=> Cảm xúc chừng như nén lại nhưng cứ trào ra thổn
thức.
+ Trăng tròn đầy vành vạnh có hai lớp nghĩa: nghĩa tả
thực về sự tròn đầy lung linh của trăng, thiên nhiên vũ trụ
vĩnh hằng, gợi quá khứ bạn bè tươi đẹp chẳng thể phai mờ
+ Trăng còn được nhân hóa “kể chi người vô tình - ánh
trăng im phăng phắc” gợi thái độ bao dung, nhân hậu
+ Trăng tròn vành vạnh - con người vô tình, trăng im
phăng phắc - con người vô tình.
=> Câu thơ cuối mang ý nghĩa nhân văn, cái giật mình
thức tỉnh của con người từng bội bạc trở nên đáng trân
trọng bởi nhớ quên là lẽ thường tình, quan trọng là biết
thức tỉnh lương tâm
* Đánh giá về nghệ thuật
- Thể thơ 5 chữ, nhịp thơ linh hoạt theo mạch cảm xúc
- Phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình.
giọng thơ thì thầm như đang trò chuyện, giãi bày tâm sự,
lời thơ trữ tình, sâu lắng, qua đó tác giả đã thể hiện những
cảm xúc hết sức chân thành. Nhịp thơ chậm, những chữ
đầu câu thơ không viết hoa diễn tả dòng suy nghĩ miên
man của nhà thơ.
c. Khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm
chuyển mạch cảm nghĩ của tác giả:
- Lãng quên vô tình có thể là mãi mãi nếu không có một
bất ngờ. Hoàn cảnh bài thơ được đẩy đến bước ngoặt mới
khi “thình lình đèn điện tắt - phòng buyn-đinh tối om”.
Đây là một tình huống rất quen thuộc, rất thực nhưng
cũng tình huống ấy đã tạo nên bước ngoặt để tác giả bộc
lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn"
- Bốn câu thơ với hai từ "thình lình, đột ngột” được đảo
trật tự, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhấn mạnh sự việc bất
thường: “đèn điện tắt, phòng tối om” > < "Vầng trăng
tròn" toả sáng. Tình huống bất ngờ đã tạo nên sự đối lập
giữa ánh sáng và bóng tối. Nơi thành phố hiện đại với ánh
điện, cửa gương khiến người ta chẳng mấy khi cần và ít
chú ý đến ánh trăng, chỉ đến khi tắt điện thì mới lại có dịp
đối diện với "vầng trăng tròn". Và trong khoảnh khắc bất
ngờ từ bóng tối bước ra ánh sáng, người ta không khỏi
ngỡ ngàng, bàng hoàng khi nhận ra vầng trăng vẫn tròn
như xưa, đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên không mảy may sứt
mẻ. Việc "bật tung cửa sổ" chỉ là một việc làm theo thói
quen. Nhưng khi người và trăng mặt nhìn mặt thì tình xưa
nghĩa cũ dâng trào lên trọn vẹn, đủ đầy - một sự tình cờ
mà như được sắp đặt. Dường như vầng trăng "tròn vành
vạnh" vẫn luôn đứng bên cửa sổ chờ đợi. Trăng xuất hiện
đột ngột đã có sức rung động mạnh mẽ làm thức tỉnh
những cảm xúc và đánh thức lương tâm con người.
- Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính
cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong
mạch cảm xúc của nhà thơ.
- Trăng thiên nhiên không phải chỉ khi đèn tắt mưới "đột
ngột" xuất hiện. "Đột ngột" diễn tả trạng thái cảm xúc
thảng thốt, bất ngờ của nhà thơ khi nhận ra trăng vẫn tròn,
vẫn toả sáng, vẫn đồng hành cùng con người.
2. Hình tượng vầng trăng và cảm xúc, suy ngẫm của nhà
thơ
a. Khổ thơ thứ năm diễn tả sự xúc động mãnh liệt của nhà
thơ.
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng về bể
như là sông là rừng”
- Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có
phần thành kính: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối
câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng nghĩa của ý
thơ.
+ Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỷ mình
đã lãng quên, vầng trăng đối diện với con người hay nói
cách là quá khứ đối diện với hiện tại; thuỷ chung tình
nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình và lãng quên để tự thú
về sự bội bạc của mình.
+ Đối diện với trăng nhà thơ làm thức tỉnh tình cảm,
lương tâm con người: như nhìn thấy cả mặt trong đó và tư
vấn lương tâm, hổ thẹn, ân hận về sự thay đổi của mình.
- Cuộc sống đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã
làm nhà thơ “rưng rưng” xúc động vì quá khứ vất vả gian
lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với thiên
nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa về trong nỗi
nhớ. “rưng rưng” nhưng muốn khóc mà cứ nghẹn ngào…
- Cuộc sống hiện tại như ngừng lại để con người soi vào
quá khứ, vào một thời họ đã lãng quên - soi vào chính
mình. Có quá khứ xa và gần, đất nước và quê hương, thiên
nhiên và cuộc sống, lao động và chiến đấu, tập thể và cá
nhân. Trăng còn gợi lên hình ảnh của hiện tại, sự giàu đẹp,
nỗi gian lao vất vả còn phải phấn đấu, niềm tin và hy
vọng, sự hùng vĩ của thiên nhiên và sức mạnh của con
người trong cuộc sống thông qua một loạt các điệp từ
“như là” cùng nhịp thơ dồn dập, các hình ảnh liệt kê: “như
là đồng là bể – như là sông là rừng”. Tất cả làm cho người
đọc thực sự xúc động và hoà chung cảm xúc với trữ tình
của bài thơ.
b. Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc và triết
lý nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng trăng.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
- Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có
sự đối lập. Trưng đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến,
vĩnh hằng không thay đổi. “Trăng cứ tròn vành vạnh” biểu
tượng cho sự tròn đầy, thuỷ chung, trọn vẹn của thiên
nhiên, quá khứ, dù cho con người đổi thay “vô tình”.
- Ánh trăng còn được nhân hoá “im phăng phắc” không
một lời trách cứ, gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc
mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ chung, tình
nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có
thể vô tình quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì
luôn tròn đầy, bất diệt.
- Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm
của những người đồng chí đồng đội, của đồng bào, của
nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ “giật mình” thức
tỉnh, cái “giật mình” của lương tâm nhà thơ thật đáng trân
trọng, nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với
chính mình để sống tốt hơn. Giật mình để không chìm vào
lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con
người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của
nhân cách trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
- Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối
ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên
ám ảnh, day dứt.
- Qua đó Ngutyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc
nhở về lẽ sống, về đạo lý ân nghĩa thuỷ chung.
Kết bài:
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi
cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời nhắc
nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất
ngờ mới lạ.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi
cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời nhắc
nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất
ngờ mới lạ.
“Ánh trăng” có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn nhủ
không chỉ dành riêng cho những người lính chống Mỹ mà
nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có
Mục tiêu: chúng ta
+ Nâng cao kĩ năng nắm bắt, Bài tập nhanh:Tính chất triết lý và chiều sâu suy ngẫm
cảm nhận thơ. của bài thơ thể hiện rõ nhất ở đoạn thơ nào?Vì sao em
Cách tổ chức: khẳng định như vậy?
B1: GV giao nhiệm vụ cho Gợi ý:
nhóm HS Khổ thơ cuối thể hiện rõ nhất tính triết lý và chiều sâu suy
B2: Các nhóm thực hiện nhiệm ngẫm của nhà thơ:
vụ theo hình thứ cá nhân + “Trăng cứ tròn vành vạnh” : Thể hiện sự trong
B3: Đại diện nhóm trình bày sáng,tròn đầy,thuỷ chung.
B4: Các nhóm khác góp ý + “Ánh trăng im phăng phắc”: Đó là sự im lặng nghiêm
B5: GV nhận xét, chốt kiến khắc mà nhân hậu,bao dung.
thức cần đạt. + “Đủ cho ta giật mình”: Giật mình vì trăng đầy đặn
nghĩa tình,mà mình lại có lúc quên trăng;giật mình vì
trăng bao dung,nhân hậu,mà mình lại là kẻ vô tình;giật
mình vì đã có lúc mình quên bạn bè,quên quá khứ.
Qua đây bài thơ nhắc nhở mọi người phải biết hướng về
quá khứ,phải thuỷ chung với quá khứ.
phân tích bài thơ Ánh trăng - Nguyễn Duy
*Ghi nhớ:
_ Nội dung , nghệ thuật bài thơ
_ Chất triết lí trong thơ Nguyễn Duy
_ Cách làm bài nghị luận về bài thơ/đoạn thơ
yêu nước và tinh thần kháng chiến đã bao chùm và chi phối tình
cảm quê hương ở ông Hai. Đồng thời làm bộc lộ sâu sắc và cảm
động tình yêu làng, yêu nước ở ông.
Mục tiêu: * Nhóm HS TB – Yếu:
+ Củng cố kiến thức về Đề ra : Tình yêu làng và lòng yêu quê hương, tinh thần kháng
truyện Làng chiến của người nông dân được thể hiện sâu sắc trong truyện
+Nâng cao kĩ năng phân ngắn Làng của Kim Lân. Hãy phân tích nhân vật ông Hai để
tích nhân vật, kĩ năng làm sáng tỏ điều đó.
làm văn nghị luận về tác A, Mở bài
phẩm truyện – Kim Lân được xem chính là nhà văn chuyên viết về cuộc sống
Cách tổ chức: nông thôn.
B1: GV giao nhiệm vụ – Có thể nói đuộc một trong những tác phẩm của ông là truyện
cho HS ngắn Làng với nhân vật chính là ông Hai – một người phải rời
? Lập dàn ý cho đề bài làng của mình để đến nơi tản cư.
sau B, Thân bài
B2: HS thực hiện nhiệm Luận điểm 1: Tình yêu làng của nhân vật ông Hai
vụ theo hình thức cá + Luận cứ 1: Tình yêu của ông Hai dường như thể hiện được
nhân niềm tự hào cũng như sự kiêu hãnh của ông hai về làng của
B3: HS trình bày dàn ý mình
B4: HS khác góp ý (chú – Dù đã rời làng nhưng ông Hai dường như vẫn:
ý hệ thống luận điểm, – Nghĩ về làng của mình, ông lại nghĩ về những buổi làm việc
luận cứ, cách lập luận) cùng anh em
B5: GV nhận xét, chốt – Lo lắng và lúc nào cũng nhớ đến làng: “Chao ôi! Ông lão nhớ
kiến thức cần đạt. cái làng này quá ”
(GV có thể cho HS viết + Luận cứ 2 : Tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng
các đoạn thân bài) Chợ Dầu đi theo giặc :
– Lúc này đây thì cổ ông nghẹn, giọng lạc hẳn đi.
– Lúc đầu ông Hai dường như cũng không tin nên hỏi lại.
– Ông Hai thật cảm thấy quá xấu hổ nên đã chép miệng, và đánh
trống lảng đi “Hà, nắng gớm, về nào…” thế rồi ông cứ rồi cúi
mặt mà đi.
– Cho đến khi về nhà, ông nằm vật ra gường. Người đọc như
nhận thấy được cũng chính tối hôm đó thì trằn trọc mà không
sao ngủ được khi biết làng chợ Dầu theo Tây.
– Ông Hai lúc này đây dường như cứ nhìn dám trẻ ngây thơ mà
bị mang tiếng việt gian rồi nước mắt cứ chan chứa.
– Ông Hai khi đã điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai
cũng có tinh thần cả nên ông dường như càng lại không tin lại có
ai làm điều nhục nhã ấy.
– Nhân vật ông Hai sợ sẽ bị bà chủ nhà đuổi vì ông biết rằng nơi
đây ai cũng khinh bỉ và đồng thời cũng không chứa chấp Việt
gian.
+Luận cứ 3: Tâm trạng ông Hai ngay sau khi nghe tin làng được
cải chính
– Mặt ông Hai lúc này đây lại như cứ vui tươi, rạng rỡ hẳn lên.
– Thế rồi khi về nhà, ông chia quà cho lũ trẻ xong liền chạy
khắp xóm để loan tin.
– Nhân vật ông Hai qua nhà bác Thứ và kể chuyện làng của
mình.
_Luận điểm 2: Tình yêu nước mạnh mẽ trong nhân vật ông Hai
– Người đọc như cũng nhận thấy được chính tình yêu làng là cơ
sở cho tình yêu nước.
– Các chi tiết trong truyện đã nê chứng tỏ tình yêu làng, yêu
nước của nhân vật khi nghe được tin làng theo Tây được cái
chính là “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” khi nghe
các tin dân ta đánh Tây từ phòng thông tin.
– Lúc này đây thì ông và con ông đều ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh
(cuộc đối thoại giữa 2 cha con gần cuối bài – đoạn chữ nhỏ trong
truyện).
C, Kết bài
– Nhân vật ông Hai là một người rất rất yêu làng và yêu nước
của mình thông qua câu chuyện “Làng” của nhà văn Kim Lân.
*Nhóm HS Khá – Giỏi:
Mục tiêu: Truyện ngắn “làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ
+ Củng cố kiến thức về gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông
truyện Làng dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp?
+ Nâng cao kĩ năng phân Dàn ý.
tích nhân vật, kĩ năng 1. Tìm hiểu đề.
làm văn nghị luận về tác – Yêu cầu cách thức nghị luận: suy nghĩ, bình luận
phẩm truyện – Yêu cầu về vấn đề nghị luận: Những chuyển biến mới trong
Cách tổ chức: tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến
B1: GV giao nhiệm vụ chống Pháp mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai.
cho HS 2. Dàn ý:
? Lập dàn ý cho đề bài A. MỞ BÀI
sau – Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người
B2: HS thực hiện nhiệm dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của
vụ theo hình thức cá ông thường viết về đề tài nông dân. Truyện ngắn “Làng” được
nhân ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng
B3: HS trình bày dàn ý nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện
B4: HS khác góp ý (chú thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và
ý hệ thống luận điểm, kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu
luận cứ, cách lập luận) nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai
B5: GV nhận xét, chốt trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.
kiến thức cần đạt. B.THÂN BÀI:
(GV có thể cho HS viết *Tình yêu làng nói chung:
các đoạn thân bài) – Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất
có tính truyền thống. Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng
của mình vốn là tâm lý rất quen thuộc có tính gốc rễ. Vậy người
nông dân thường tự hào, hãnh diện về làng:
Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư giang khúc như hình con long
Luận điểm bao trùm bài nghị luận : Ở nhân vật ông Hai, tình yêu
quê hương, yêu làng Dầu đã quyện chặt với lòng yêu nước. Đây
là vẻ đẹp đáng quý của nhân vật, cũng là điều tâm huyết nhất mà
nhà văn muốn nói với người đọc.
Luận điểm 1 : Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản
cư.
– Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một
quê hương để yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự
hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng nổ, người dân phải
dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến
một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải
xa làng. Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về
những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.
– Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó
đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân
tộc.
– Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót
một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay , những tin chiến thắng
của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý
nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin
làng theo giặc:
(Nhưng khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình
cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên biến thành những nỗi
lo âu, dằn vặt)
– Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức:
“cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi
tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào,
ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư
đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm
ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan
tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng
đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà
ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời
ông cũng như chết mất một nửa.
– Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm
chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng
tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng
chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông
nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão
cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm
tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại,
dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục
của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang
nỗi nhục ấy.
– Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà,
nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông
cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc
nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta
đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng
Tây, Việt gian, cam –nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.
Thôi lại chuyện ấy rồi!”
– Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai
lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn
vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống
phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê
hương đáng yêu, đang tự hào… Nhưng giờ đây…. dường như
mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu
quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông.
Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng.
Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng
da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ,
lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng
chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể
được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu,
cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.
– Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối
với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng
chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người
nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt
đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì
đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói:
“Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy
ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi,
ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông
dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê
hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương
rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự
với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ
Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ
Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách
mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con
ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao
giờ đám đơn sai”.
Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin
làng kháng chiến (Niềm vui của ông Hai khi tin đồn được cải
chính).
– Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là
làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến:
“Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt
ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà
là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả
loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác
ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình.
Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm
nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu
nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai
thật là sâu sắc và cảm động.
– So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam
Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có
những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm
và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng
của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có
những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm
chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất
phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem
đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ
phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm
chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho
tình yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền,
thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy.
=> Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến
chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu
đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu,
ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con
người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
– Văn hào I li a, E ren bua có nói: …” Lòng yêu nhà, yêu làng
xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là
một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó
với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu
nước.
Luận điểm 4: . Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai
– Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật
ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với
làng quê như máu thịt.
+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử
thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các
diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ.
Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh
mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.
VD1 (tâm trạng) : Khi nghe tin làng theo giặc thì bị dằn vặt, đau
khổ : « Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến
ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày
ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe
ngóng. …… thôi lại chuyện ấy rồi ». Khi tin đồn được cải chính
thì « cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên
».
VD2 : Miêu tả đúng các « phản ứng » bằng hành động của một
người nông dân hiền lành, chất phác và chưa đọc thông, viết
thạo : Khi muốn biết tin tức thì : « ông cứ đứng vờ vờ xem tranh
ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm ». Khi nghe tin làng theo
giặc thì « ông Hai cứ cúi gằm mặt xuống mà đi » rồi « nắm chặt
hai bàn tay mà rít lên : « chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì
vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã
thế này ». Khi tin đồn được cải chính thì « ông lão cứ múa tay
lên mà khoe cái tin đồn ấy với mọi người.
VD3 : Ngoài ra còn phải kể đến các hành động, lời nói, suy nghĩ
của nhân vật ông Hai trong mối quan hệ với các nhân vật khác
như : Bà Hai, các con, mụ chủ nhà….
+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại….)
Kết bài
– Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai.
– Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai.
VD:
Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình
tượng một người nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất
phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân vật ông Hai vừa phản
ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân
Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp,
vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc.
Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm
về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình
yêu quê hương đất nước
Mục tiêu: Hướng dẫn phân tích truyện Lặng lẽ Sa Pa
+ Củng cố kiến thức về 1. Tình huống truyện:
truyện Lặng lẽ Sa Pa – Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được xây dựng xoay quanh một
+ Nâng cao kĩ năng phân tình huống truyện khá đơn giản mà tự nhiên. Đó chính là cuộc
tích nhân vật, kĩ năng gặp gỡ tình cở của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa Pa
làm văn nghị luận về tác với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn.
phẩm truyện – Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc họa
Cách tổ chức: “bức chân dung” nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung,
B1: GV giao nhiệm vụ qua sự quan sát của các nhân vật khác và qua chính lời lẽ, hành
cho các nhóm HS động của anh. Đồng thời, qua “bức chân dung” ( cả cuộc sống
B2: HS thực hiện nhiệm và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của
vụ theo hình thức nhóm các nhân vật khác ( chủ yếu là ông họa sĩ) về anh và những
nhỏ: người như anh, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm:
Nhóm 1: Tìm hiểu về Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên
tình huống truyện người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang
N2: Tìm hiểu về cảnh ngày đêm làm việc miệt mài, say mê cho đất nước.
sắc thiên nhiên Sa Pa 2. Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa:
N3: Tìm hiểu nhân vật -Nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo…
anh thanh niên -Cây hoa tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên
N4: Tìm hiểu nhân vật màu xanh của rừng.
cô Kĩ sư, bác lái xe và -Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá
một số nhân vật phụ ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.
N5: Đánh giá nội dung, => Vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, sosánh -
nghệ thuật của truyện >Tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp
B3: Các nhóm HS trình trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên
bày dàn ý ngắn gọn bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường
B4: Các nhóm HS khác nét,hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu
góp ý mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước.
B5: GV nhận xét, chốt 3. Vẻ đẹp con người:
kiến thức cần đạt. a. Nhân vật anh thanh niên:
(GV có thể hệ thống Đây là nhân vật chính của truyện.Tuy nhiên tác giả không cho
bằng bản đồ tư duy để nhân vật xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới
HS dễ nhớ, dễ hiểu) thiệu rất ấn tượng của bác lái xe ( rằng anh ta là “một trong
những người cô độc nhất thế gian”,rằng anh ta rất “thèm người”
và nếu họa sĩ đến gặp thì thế nào “cũng thích vẽ”; sau đó xuất
hiện trực tiếp qua cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các nhân vật khác
trong khoảng thời gian ngắn ngủi ( ba mươi phút). Chỉ 30 phút
nhưng cũng đủ để những người tiếp xúc kịp ghi một ấn tượng –
kịp để ông họa sĩ thực hiện bức kí họa chân dung, kịp để cô kỹ
sư bàng hoàng và có những cái gì đó như hàm ơn về anh.Rồi
dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái
lặng lẽ muôn thuở của núi cao Sa Pa. Và mọi người thấm thía
điều mà nhà văn muốn nói: Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới
những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta
đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo
nghĩ như vậy cho đất nước.
-> Với cách dựng truyện như thế, anh thanh niên được hiện ra
qua sự nhìn nhận, đánh giá của các nhân vật khác: bác lái xe,
ông họa sĩ, cô kĩ sư. Qua cách nhìn nhận và cảm xúc của mỗi
người, nhân vật anh thanh niên càng thêm rõ nét và đáng mến
hơn.
a.1: Hoàn cảnh sống và làm việc:
– Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh
niên 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao
2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ.
– Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu . Công việc
của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng,tính mây và đo chấn động
mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày để phục vụ sản xuất và phục
vụ chiến đấu”. Một công việc gian khó nhưng đòi hỏi sự chính
xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm dù mưa tuyết,
gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm
việc”.
– Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ;
cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử
thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời
rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với
chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm
suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người. Cô đơn đến
mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường dừng xe khách qua
núi để được gặp gỡ, trò chuyện.
– Và anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất
đẹp,giản dị mà sâu sắc.
a.2. Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên.
* Lòng yêu nghề,tinh thần trách nhiệm với công việc:
– Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên
quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người.
– Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám
sát,thúc giục anh vẫn luôn tự giác, tận tụy. Suốt mấy năm ròng
rã ghi và báo “ốp”đúng giờ. Phải ghi và báo về nhà trong mưa
tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không
ngần ngại.
– Và anh đã sống thật hạnh phúc khi được biết do kịp thời phát
hiện đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của
không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng.
– Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa
và tự hào.Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe
anh tâm sự với ông họa sĩ:“[…] khi ta làm việc, ta với công việc
là đôi,sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu
gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc
của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết
mất”. Qua lời anh kể và lời bộc bạch này, ta hiểu rằng anh đã
thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm
lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ.
* Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng:
– Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho
mình một cuộc sống ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ,
với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.Cuộc sống
riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường
con,một chiếc bàn học, một giá sách”.
– Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc
sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần.
– Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn
vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế
giới nhộn nhịp bên ngoài. (khi bác lái xe đưa gói sách cho anh,
anh“mừng quýnh” như bắt được vàng)
* Sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách:
– Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại
trong nỗi cô đơn.Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi
“ thèm người”,lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm
đến người khác một cách chu đáo.
– Biểu hiện:
+ Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam
thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy.
+ Vui sướng cuống cuồng khi có khách đến thăm nhà.
+ Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo : hái một bó
hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh
con trai, rất tựnhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó
hoa đã cắt cho người con gái,và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”,
pha nước chè cho ông họa sĩ.
+ Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công
việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ.
+ Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý
báu.
+ Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải
“quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà,
không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”
+…
-> Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người
thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình
đáng quí.
* Sự khiêm tốn, thành thật:
Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc
và những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng
đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé, anh vẫn còn
thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trường
đánh giặc. Khi ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung,anh từ chối, e ngại
và nhiệt tình giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn anh nhiều
(ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ
sét…)
=>Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất
hiện trong khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ
được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần,
tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa
của công việc.
=> Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở
Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước.
b. Nhân vật ông họa sĩ:
– Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất nhưng hầu như
ngườikể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật
ông họa sĩ để quan sátvà miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân
vật chính của chuyện. Từ đó, gửi gắmsuy nghĩ về con người, về
nghệ thuật.
– Ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng
sựtừng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi
tìm đối tượng củanghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối.
– Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kíhọa
và “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc
quá”. Những xúccảm và suy tư của nhân vật ông họa sĩ về người
thanh niên và về những điều khácnữa được gợi lên từ câu
chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêmsáng đẹp
và tạo nên chiều sâu tư tưởng.
c.Nhân vật cô kĩ sư.
– Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tìnhđầu
nhạt nhẽo” để lên công tác ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất
ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể
về những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, “cô hiểu thêm
cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của ngườithanh niên,
về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con
đường cô đang đi tới”. Nhờ cái “bàng hoàng” ấy, cô mới nhận ra
mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc sống của
mình lâu naytầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ
bé biết bao ! Khoảnhkhắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy
của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khingười ta bắt gặp được
những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồnngười
khác.
– Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khótả dạt
lên trong lòng cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo
cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác
nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho
thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những
tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc
sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởng
của nhân vật anh thanh niên.
d, Bác lái xe:
– Bác lái xe là nhân vật xuất từ đầu truyện, nhưng cũng kịpthể
hiện những nét đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc,
suốt 30 năm trong nghề lái xe mà vẫn luôn giữ được tính cởi mở,
niềm nở có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm trước vẻ đẹp
của thiên nhiên và con người. Bác lái xe là cầu nối giữa anh
thanh niên và cuộc đời ( mua sách cho anh, dừng xe dưới
chânđồi để anh trò chuyện, giới thiệu những người bạn mới cho
anh). Bác lái xe cũnglà người dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò
của ông họa sĩ và cô kĩ sư về anhthanh niên – người cô độc nhất
thế gian, người rất “thèm người”
=> Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô
kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ
nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra
nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi
nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều
màu sắc.
e. Trong tác phẩm,còn có những nhân vật không xuất hiện trực
tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên
cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Đó là:
– Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnh Phan-xi-păng
cao 3142 mét.
– Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lòng với công việc. Kiên trì, bền
bỉ, làm việc trong âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngàykhác”.
Ông ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ
phận chohoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng cây su hào
để củ su hào nhân dântoàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn.
Ông kĩ sư làm cho anh thanh niên cảmthấy cuộc đời đẹp quá!
Công việc thầm lặng ấy chỉ những con người nơimảnh đất Sa
Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.
– Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Anh luôn ởtrong tư thế sẵn
sằng suốt ngày chờ sét “nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghe
sét là choáng choàng chạy ra”. Anh đã hi sinh hạnh phúc cá
nhân vì niềm đam mêcông việc để khai thác “của chìm nông,
của chìm sâu” dưới lòng đất làm giàu choTổ quốc.
– Ông bố anh thanh niên xung phong đi bộ đội.
-> Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp
qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét
tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ lànhững người say mê
công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi
sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. Cuộc sống
của họ lặng lẽ và nhân ái biết bao.
III. Tổng kết:
1. Nội dung: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công
hình ảnh những conngười lao động bình thường, mà tiêu biểu là
anh thanh niên làm công tác khítượng ở một mình trên đỉnh núi
cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của conngười lao động
và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
2. Nghệ thuật:
– Cốt truyện đơn giản, xoay quanh một tình huống đó là có cuộc
gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già,cô kĩ sư trẻ và một anh thanh
niên làmcông tác khí tượng. Cuộc gặp gỡ chỉ diễn ra trong chốc
lát nhưng đã để lại một ấn tượng gợi nhiều suy nghĩ và dẫn
chúng ta tới những nhân vật mới: kĩ sư vườn rau, nhà nghiên cứu
sét.
– Xây dựng nhân vật chân dung, nhân vật được ghi lại được
đánh giá qua những cảm nhận trực tiếp nhưng không hề nhạt
nhòa bởi được khắchọa qua nhiều điểm nhìn và miêu tả tinh tế.
– Chất thơ của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng phụ trợ đắc lực cho bài ca,
ca ngợi con người bình dị mà cao quý: trong tình huống trữ tình,
trong bức tranh thiên nhiên, trong lời đối thoại, nhưng quan
trọng nhất đó là những ý nghĩ, cảm xúc của người trong cuộc và
vẻ đẹp rất đỗi nên thơ, nên hoa, nên nhạc của lối sống mà nhân
vật chính gợi ra.
*Ghi nhớ :
- Nội dung, nghệ thuật truyện Làng, Lặng lẽ Sa Pa
- Vẻ đẹp người dân Việt Nam trong chiến tranh cũng như trong
cuộc sống đời thường
- Kĩ năng phân tích nhân vật trong truyện.
ông. Chính nó là nguyên nhân trong suốt ba ngày ngắn ngủi con
không nhận ra cha. Cha càng gần gũi, vồ vập – con càng lạnh
nhạt, xa lánh. Cha càng chiều thương – con càng cự nự. Đứa con
không thể hiểu nỗi đau do chiến tranh mang lại, không thể hiểu
nỗi khao khát trong suốt tám năm xa cách cha mong được gặp
con, được hạnh phúc khi nghe con kêu một tiếng ba giản dị mà
thiêng liêng nhất cuộc đời. Để rồi mãi đến phút cuối chia tay,
ông Sáu mới được hưởng chút hạn phúc mọn mằn trong tình cha
con. Tiếng ba buột thốt từ đáy lòng con mà như xé lòng ông, xé
lòng mọi người. Cha ôm con, con ôm cha ttrào tuôn nước mắt –
khổ đau mà hạnh phúc.
– Chẳng ngờ chút hạnh phúc nhỏ nhoi, ngắn ngủi ấy lại là lần
sinh li tửu biệt, vĩnh viễn cha lìa con. Ông Sáu ngã xuống trong
một trần càn của giặc, thầm lặng trong một lời trăng trối, không
nấm mồ, không bia mộ… Vì những ngày đen tối ấy, sống – chết
đều phải bí mật. Sống và hi sinh, khổ đau và lặng lẽ. Song người
cha – người chiến sĩ ngoan cường, trung thành với cách mạng,
gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội ấy không bao giờ
chết. Vì ông là người rất mực thương con. Ông mang lời hứa với
con gái vào chiến trường: “Ba về, ba mua cho con một cây lược
nghe ba”. Đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng và
cũng là lời hứa đầu tiên và duy nhất của cha dành cho con.
– Cây lược và nỗi nhớ cứ neo đậu trong ông suốt cuộc hành
trình đầy khói lửa chiến tranh. Nó cứ thôi thúc, khôn nguôi trong
lòng, làm sao để kiếm được cây lược cho con? Ông ngồi bật dậy,
lóe lên trong đầu một sáng kiến: tự tay làm cho con chiếc lược
bằng ngà voi, nó sẽ có ý nghĩa hơn nhiều khi tìm mua cho con
một cây lược giữa rừng rú chiến khu này. Hơn nữa, ngà voi là
thứ quý hiếm, chiếc lược dành cho con phải được làm bằng thứ
quý hiếm ấy, nó mới xứng với tình sâu nặng của cha dành cho
con.
– Khi kiếm được khúc ngà, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ
được quà”. Vậy đấy, khi người lớn hóa thành trẻ con cũng là lúc
bộc lộ tinh cảm cao quý nhất của người cha đối với con. Rồi ông
miệt mài “ngồi cưa từng chiếc răng lược, tỉ mỉ, thận trọng, khổ
công như một người thợ bạc”. Tâm huyết, tình yêu thương được
dồn vào từng chiếc răng lược, cứ thế mỗi ngày, cho đến khi
chiếc lược được hoàn thành, ông lại gò lưng, tie mẩn khắc từng
nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Cây lược nhỏ xinh chưa
chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào
nỗi buồn day dứt, ân hận khi ông đã lỡ đánh con lúc nóng giận.
Nó như hình bóng của con, như vật kỉ thiêng liêng vô giá, an ủi,
động viên, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến
đấu. Hằng đêm, ông vẫn nhìn ngắn chiếc lược cho nguôi ngoai
nỗi nhớ. Ông mài lên tóc mình cho chiếc lược thêm bóng đẹp.
Chiếc lược ngà là cầu nối, là biểu tượng bất diệt của tình cha con
trong chiến tranh, là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ nhưng
đằm thắm, diệu kì.
– Thật trớ trêu, chiếc lược ngà luôn được người cha nâng niu,
trân trọng ấy, chính ông lại không thể trao tận tay cho con gái.
Chiến tranh là thế, còn mất mong manh. Ông đã hi sinh, dù
không trăng trối được lời nào nhưng ánh mắt của ông nhìn người
bạn chiến đấu và cử chỉ cuối cùng trao cho người bạn chiếc lược
ngà như đã chuyển giao sự sống, chuyển giao nghĩa vụ làm cha,
hãy gìn giữa, tiếp nối tình cha con ruột thịt. Đúng như ông Ba –
người kể chuyện nói: “Chỉ có tình cha con là không thể chết
được!”. Nó sẽ sống và tiếp nối trong tình yêu thương của người
đồng chí già, nhất định ước nguyện của tình phụ tử sẽ được thực
hiện. Ánh mắt và cử chỉ của người sắp ra đi còn thiêng liêng hơn
cả bản di chúc bằng lời.
III. Kết bài
_ Nêu cảm nhận chung:
_ Gấp lại trang sách, câu chuyện về Chiếc lược ngà còn âm vang
mãi trong lòng người đọc. Nó không chỉ gây xúc động mạnh mẽ
về tình phụ tử thắm thiết, sâu nặng mà con gợi cho người đọc
suy ngẫm về một quá khứ đau thương của dân tộc. Căm ghét
chiến tranh và thấm thía nỗi đau thương, mất mát, éo le do chiến
tranh gây ra, biết bao gia đình, biết bao con người phải chịu cảnh
đau thương chia lìa như thế. Song đó cũng là niềm tự hào và
vinh quang của một dân tộc anh hùng. Nhà văn khẳng định và ca
ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu
sắc, nó càng cao đẹp trong cảnh ngộ khó khăn.
*Nhóm HS Khá – Giỏi:
Mục tiêu: Đề ra: Một truyện ngắn hay là truyện mà ở đó nhà văn sáng
+ Củng cố kiến thức về tạo được những chi tiết độc đáo. Em hãy chọn và phân tích
truyện Chiếc lược ngà. một chi tiết trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" của nhà văn
+ Nâng cao kiến thức lí Nguyễn Quang Sáng mà theo em là độc đáo và có nhiều ý
luận văn học: về tác nghĩa trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.
phẩm tự sự) Gợi ý:
+ Rèn kĩ năng làm bài
văn nghị luận về một ý Đây là một đề bài mở. HS được quyền lựa chọn một chi tiết
kiến bàn về văn học nghệ thuật trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" để nghị luận. Có thể
Cách tổ chức: là chi tiết chiếc lược ngà, chi tiết "vết thẹo" trên khuôn mặt của
B1: GV giao nhiệm vụ ông Sáu;...
cho HS theo nhóm Sau đây, sẽ chọn chi tiết "vết thẹo" trên khuôn mặt của ông Sáu,
? Lập dàn ý cho đề bài để giúp các em định hướng được các ý mà mình cần phải có
sau trong bài viết.
B2: HS thực hiện nhiệm Dàn ý Chi Tiết tham khảo:
vụ theo hình thức nhóm Mở bài:
B3: Các nhóm HS trình - Giới thiệu được tác giả Nguyễn Quang Sáng - Giới thiệu được
bày dàn ý tác phẩm "Chiếc lược ngà".
B4: Nhóm HS khác góp - Giới thiệu được vấn đề nghị luận: Chi tiết "vết thẹo" trên
ý (chú ý hệ thống luận khuôn mặt của ông Sáu.
điểm, luận cứ, cách lập Thân bài:
luận) *Vai trò của chi tiết trong truyện ngắn:
B5: GV nhận xét, chốt - Truyện ngắn là thể tài văn học gần gũi với đời sống hằng ngày,
kiến thức cần đạt. có tác dụng và ảnh hưởng to lớn đến đời sống và nhu cầu thẩm
(GV có thể cho HS viết mỹ của độc giả. Ngoài việc đảm bảo những yêu cầu khắt khe của
các đoạn thân bài) thể loại như: hình thức tự sự cỡ nhỏ, đảm bảo tính tình huống,
nhân vật điển hình, thì truyện ngắn luôn đòi hỏi sự có mặt của
các chi tiết nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu.
- Chi tiết là một trong những yếu tố nhỏ nhất tạo nên tác phẩm.
Để làm nên một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự
thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật.
- Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù: Tầm vóc của người nghệ
sỹ có thể được làm nên từ những yếu tố nhỏ nhất. Nhà văn lớn
có khả năng sáng tạo được những chi tiết nhỏ nhưng giàu giá trị
biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng
của tác phẩm, quan niệm nghệ thuật của mình.
=> Đánh giá giá trị của chi tiết “vết thẹo” trong truyện ngắn
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Phân tích:
Chi tiết “vết thẹo” xuất hiện 3 lần trong tác phẩm. Lần thứ nhất,
phút đầu bé Thu gặp ba; lần thứ hai, qua cuộc trò chuyện với bà
ngoại; lần thứ ba, Thu nhận ra ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết
thẹo.
Chi tiết này góp phần tạo sự hoàn chỉnh, chặt chẽ cho cốt truyện.
Vết thẹo trên mặt ông Sáu là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, nối kết
các tình tiết trong truyện, tạo nên nghệ thuật thắt nút, mở nút bất
ngờ, hợp lý:
vụ theo hình thức cá trong một ngôi nhà nhỏ giữa Tháp Mười mà xung quanh nước
nhân đã lên đầy…”. Người kể chuyện cho anh em nghe là “một đồng
B3: HS trình bày dàn ý chí già” – ông Ba, chiến sĩ lão thành từng trải trong cuộc kháng
B4: HS khác góp ý (chú chiến. Ông nói: “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng
ý hệ thống luận điểm, kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng tôi chưa bao giờ
luận cứ, cách lập luận) xúc động như lần ấy”. Lần ấy, chính là lần ông đã cùng ông Sáu
B5: GV nhận xét, chốt về thăm nhà để tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu mới. Ông đã
kiến thức cần đạt. chứng kiến cuộc gặp gỡ và chia tay đầy xúc động của hai cha
(GV có thể cho HS viết con (ông Sáu và bé Thu) trong ba ngày nghỉ phép. Diễn biến tâm
các đoạn thân bài) trạng của bé Thu dường như khó hiểu nhưng đó lại là tình cảm
yêu thương tha thiết mà bé dành cho người cha thân yêu của
mình.
II. Thân bài. Cần đạt được các nội dung sau:
– Bé Thu đang chơi nhà chòi dưới bòng cây xoài trước sân nhà
thì nghe tiếng gọi: “Thu! Con”. Thu giật mình, tròn mắt nhìn
vào chiếc thẹo nơi má của người đàn ông vừa gọi mình đang
giần giật đỏ ửng lên mà sợ hãi. Nghe ông kêu: “Ba đây con!”,
mặt Thu bỗng tái đi, rồi vụt chạy và thét lên: “Má! Má!” khiến
ông Sáu đứng sững lại, ngỡ ngàng. Nỗi đau đớn hiện ra mặt ông
trông thật đáng thương, hai tay buông thõng xuống như bị gãy.
– Ba ngày về phép ngắn ngủi, cha càng vồ vập, vỗ về thì Thu lại
cảng lảng tránh, xa cách, lạnh nhạt. Bé Thu không hiểu được nỗi
khát khao cháy lòng của cha sau tám năm xa cách biết bao mong
mỏi được trở về, được nghe con gọi một tiếng cha – bình dị mà
thiêng liêng nhất trong cuộc đời này. Mẹ nói Thu gọi cha vào ăn
cơm thì Thu nói trống không, Thu gọi cha là “người ta”. Sự xa
lánh, ương ngạnh của bé Thu như gáo nước lạnh dội xuống ngọn
lửa nồng nàn trong lòng cha. Có lúc tưởng chừng như không thể
chịu đựng được nữa, đó kà khi một mình Thu đối diện với nồi
cơm to đang sôi trào, tưởng chừng nó phải cuống lên, xuống
nước, đàu hàng, gọi một tiếng ba nhờ sự giúp đỡ. Nhưng không!
Thu kiên quyết lấy chiếc vá múc từng vá nước bỏ đi, quyết
không chịu cất lên một tiếng ba mà người cha mong đợi. Bướng
bỉnh, bất cần, không chịu nhượng bộ, không chịu thua cuộc, điều
đó khiến người cha càng thêm đau lòng và cũng không hiểu vì
sao Thu lại cự nự, chối bỏ tình cha như vậy?
– Song cái điều đáng trách, đáng ghét ấy của Thu lại là điều vô
cùng đáng quý của đứa con bé bỏng đối với cha. Thái độ ngang
ngạnh, quyết liệt ấy có lí do riêng của trẻ mà chưa ai hiểu được
và chưa ai tháo gỡ cho nó, mặc dù cả người bạn của cha, người
mẹ và tất cả mọi người đều xác nhận đó là cha của bé. Cái mầm
sâu kín thắc mắc trong lòng bởi người cha trong ảnh trẻ, đẹp,
không có vết thẹo ghê sợ trên má kia. Bé kiên quyết giữ vững
lập trường để bảo vệ người cha thân yêu của mình. Sự việc sẽ
không được giải tỏa nếu như Thu không hất cái trứng cá ra khỏi
bát cơm và bị cha la đánh. Thu bỏ ăn chèo thuyền sang bà ngoại.
Nhà văn cởi nút thật khéo léo, tự nhiên, hợp lí, nỗi khúc mắc
trong lòng bé Thu đã được bà ngoại tháo gỡ: chiến tranh, thời
gian, sự xa cách đã khiến ba già và xấu xí như thế. Khi đã vỡ lẽ
rồi thì lòng yêu cha của bé Thu càng nhân lên gấp bội nhưng quá
muộn, đúng lúc cha phải từ giã gia đình, bà con lên đường.
– Khi cha phải lo tiếp khách, Thu cảm giác như bị bỏ rơi, lúc bé
đứng vào góc nhà, lúc tựa của nhìn mọi người. Vẻ mặt không
còn cau có mà sẫm lại buồn rầu. Đôi mắt mở to vẻ nghĩ ngời sâu
xa. Chia tay Thu là người cuối cùng, đôi mắt mênh mông của nó
nhìn cha bỗng xôn xao. Tình cha con đột ngột trỗi dậy. Tiếng ba
vỡ òa từ sâu thẳm đáy lòng bao năm chờ đợi, nay buột thốt bất
ngờ. Và cái tiếng ba suốt chín năm, ba ngày đằng đẵng người
cha mong mỏi giờ mới được nghe. Đột ngột, sung sướng, yêu
thương và cả những éo le… trào cả dậy, không ai có thể ngờ tới:
“Ba… Ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé
cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba mà nó cố
đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy
lòng nó […]. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng
khóc:
– Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con! Ba bế nó lên. Nó
hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết
thẹo dài trên má của ba nữa” như muốn chuộc lỗi với ba. Xúc
động biết bao Thu hôn lên cả vết thẹo dài mà suốt mấy ngày bé
đã nghi kị, ghét bỏ. Đối với người cha ấy, đó là tiếng gọi ba đầu
tiên và cũng là tiếng cuối cùng ông nghe được từ con. Xúc động
quá nặng tràn, ông Sáu không kìm nổi nước mắt, vừa ôm con,
vừa lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con: “- Ba đi rồi ba về với
con. – Không! – Con bé hét lên, hai tay nó xiết chặt lấy cổ […],
nó dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó, và đôi vai của nó run
run”. Nhìn ảnh ấy, ai cũng nghẹn lòng làm sao cầm nổi nước
mắt. Còn nhân vật tôi “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm
lấy trái tim”. Lần cuối bé Thu được ôm cha, nó mếu máo và dặn
cha trong tiếng nấc : “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe
ba!”. Một ước muốn nhỏ bé, giản dị mà hàm chứa ý nghĩa sâu
xa. Cây lược ngà! Phải mười năm sau khi Thu đã trở thành cô
giao liên rắn rỏi, kiên cường mới được nhận, lúc đó người cha
thân yêu cũng không còn nữa.
III. Kết bài
_ Nhà văn không nhiều lời, chỉ qua một vài chi tiết, đủ cho
người đọc xúc động trước nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật bé
Thu. Đó là tình cảm thật trong trẻo, sâu sắc, mạnh mẽ những
cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cứng cỏi, ương ngạnh, yêu – ghét
đều thống nhất và hồn nhiên trong tâm trạng một đứa trẻ ngây
thơ, chứng tỏ nhà văn rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả thật
sinh động diẽn biến tấm lí với cả tấm lòng yêu thương và trân
trọng.
*Ghi nhớ:
_ Nội dung, nghệ thuật truyện
_ Những chi tiết chinh về nhân vật ông Sáu, nhân vật Bé Thu
_ Kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm truyện
_ Kĩ năng làm bài nghị luận văn học