You are on page 1of 10

TRƯỜNG THPT HOÀNG HOA THÁM

LỚP 11B5

BÀI THU HOẠCH LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VỚI CHỦ ĐỀ


“GIỚI THIỆU MỘT LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở KHÁNH
HÒA”

Diên Khánh ngày 12 tháng 4 năm 2020

Người thực hiện: Lê Thanh Phong


I. Giới thiệu:
- Khánh Hòa là vùng đất có nền văn hóa - lịch sử lâu đời.
- Các thế hệ cư dân Khánh Hòa từ miền xuôi đến miền ngược, từ nông thôn đến hải
đảo, từ tộc người Chăm, Rag-lai đến Kinh, Hoa,…, trong suốt quá trình hình thành
và phát triển đã tạo dựng nên một diện mạo văn hóa Khánh Hòa vừa có nét chung
của văn hóa miền Trung nước ta, vừa có bản sắc riêng. Điều đó được phản ánh qua
các lễ hội truyền thống.
- Lễ hội của ngư dân vùng biển, ngoài Thành hoàng làng, còn có thêm tục thờ cá
voi (Ông Nam Hải), loài cá thường cứu giúp người bị nạn ngoài biển khơi những
khi sóng to gió lớn, đồng thời cho ngư dân được mùa biển.
- Đặc biệt, trong quá trình chung sống, người Việt đã tiếp thu nhiều lễ hội của cư
dân bản địa tạo ra các lễ hội văn hóa Chăm - Việt đặc sắc như lễ hội Am Chúa, lễ
hội Tháp Bà với tục thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na.
- Cư dân Khánh Hòa còn tổ chức lễ tế tại các miếu, đền để tưởng nhớ những người
có công với nước như Trịnh Phong, Trần Quí Cáp.... Ngoài ra, họ còn làm lễ thờ
vọng Hùng Vương vào ngày 10 – 3, Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) vào tháng
Tám Âm lịch hàng năm.
- Theo thống kê của Sở văn hóa – Thể thao và Du lịch, tính đến năm 2010, Khánh
Hòa có 494 di sản lễ hội lớn, nhỏ của người Kinh. Trong đó, lễ hội đình làng: 237;
lễ hội miếu, lăng: 121; lễ hội chùa: 136.
- Lễ hội ở Khánh Hòa có nhiều nét độc đáo, mang đậm tính dân gian. Các lễ hội
đều xuất phát từ lao động, từ phong tục tập quán, không chỉ thuần túy mang yếu tố
tín ngưỡng mà còn là hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, thể hiện truyền thống
tôn kính tổ tiên, “uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ người có công xây dựng, bảo
vệ quê hương, đất nước.
- Lễ hội là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại. Các sự tích, câu chuyện trong mỗi lễ
hội được truyền lại đã góp phần lưu giữ bản sắc văn hóa của vùng đất Khánh Hòa.
Tự hào về truyền thống quê hương, mỗi người chúng ta phải có trách nhiệm bảo
tồn và phát huy những yếu tố tích cực của lễ hội.
II. Nội dung
- Một trong các lễ hội đặc sắc được đông đảo người dân hưởng ứng là lễ hội Cầu
Ngư
1. Qúa trình ra đời và tồn tại: Lễ hội Cầu Ngư bắt nguồn từ tục thờ Ông Nam Hải –
là tập tục lâu đời của cư dân vùng biển từ Quảng Bình trở vào, trong đó đậm đặc
nhất là vùng Nam Trung bộ. Ông Nam Hải, thực ra là loài cá Voi – loài cá có thân
hình to lớn, nhưng bản tính lại hiền hoà, thường cứu giúp những ngư dân mỗi khi
gặp nạn trên biển được ngư dân các tỉnh phía Nam gọi cá ‘Đức Ông’,‘Cá Ông’ hay
‘Ông Nam Hải’. Khi Cá Ông chết, trôi dạt vào bờ thuộc địa phận của làng biển
nào, thì làng biển ấy phải tổ chức lễ tang long trọng và lập Lăng thờ phụng và cúng
tế rất nghiêm cẩn. Lễ tế Ông Nam Hải ngày nay thường được gọi là Lễ hội Cầu
Ngư.
2. Những truyền thuyết về tục thờ Cá Voi
- Tục thờ Cá Ông ra đời từ bao giờ và đâu là nơi phát tích đến nay vẫn chưa thể
khẳng định chính xác. Để giải thích cho tục thờ Cá Voi có nhiều truyền thuyết,
trong đó một số truyện thuyết, chuyện kể vẫn còn được lưu truyền cho đến hôm
nay:
- Trong thần thoại Chăm kể lại: Sau thời gian rèn luyện phép thuật vì nôn nóng trở
về xứ sở, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy tự ý biến thành cá voi, ra sông lớn mà đi nên
sau đó đã bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng
Biển), cũng có lúc hoá thân thành thiên nga, trở thành ân nhân của những người bị
đắm thuyền.
- Truyền thuyết Phật giáo kể rằng: Ngày xưa, Đức Phật Bà Nam Hải Quan Âm, khi
đi tuần du Nam Hải, Ngài rất đau xót khi mỗi mùa biển động, bão tố, nhiều thuyền
nhân và ngư dân bị đắm thuyền và chết trôi trên biển cả. Để cứu giúp những sanh
linh, Ngài liền lấy chiếc áo cà sa đang mặc và xé ra làm ngàn mảnh nhỏ ném xuống
biển khơi, rồi hoá phép thành loài cá Voi có thân hình to lớn, lại ban cho cả “Phép
thâu đường”để bơi thật nhanh nhằm kịp đến cứu giúp ngưòi bị nạn. Từ đó, loài cá
Voi luôn là trợ thủ đắc lực trong việc cứu giúp người bị nạn trên biển. Do vậy,
người dân miền biển các tỉnh phía Nam nước ta xem loài cá Voi là vị thần linh của
biển khơi
- Chính quyền phong kiến trước kia quy định rằng: Làng nào bắt gặp cá ông chết
thì lý trưởng phải báo cho phủ, huyện để quan khám định, cấp tiền tuất, hương đèn,
vải đỏ quấn đủ bảy vòng và cho khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa
để thờ cúng. Sau 3 năm thì cải táng, lấy xương xếp vào quách, khạp, đưa vào lăng,
đình, vạn, đền, miếu xây sẵn để thờ tùy địa phương. Mỗi làng đều có người trông
coi hương khói và một hội đồng quản lý làng.
- Từ tập tục trên, ở Khánh Hòa người thấy xác cá Ông đầu tiên phải có nhiệm vụ
kéo cá vào bờ biển để tổ chức lễ tống táng. Bấy giờ họ trở thành người con trai
trưởng của cá Ông và phải chịu tang 3 năm chứ không chỉ chịu tang 100 ngày như
các tỉnh trong vùng. Sau khi mãn tang, hàng năm cứ vào ngày Ông “lụy” (tức là
ngày cá Voi chết), bà con ngư dân long trọng tổ chức Lễ Tế Ông Nam Hải – còn
gọi là Lễ hội Cầu Ngư với đầy đủ các nghi thức. Người dân miền biển tin rằng, tổ
chức tế lễ càng chu đáo bao nhiêu, nghi thức càng đầy đủ bao nhiêu, thì ân đức của
Ngài sẽ ban lại cho ngư dân được mùa tôm, cá, đời sống no ấm, sung túc bấy
nhiêu.
3. Tiến trình của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa
Nếu lễ hội ở vùng đồng bằng Khánh Hòa thiên về sự trang nghiêm, thành kính thì
Lễ hội Cầu Ngư lại thiên về sự tưng bừng, náo nức và tràn trề sức sống như những
đợt sóng triều. Cũng không như các lễ hội truyền thồng khác, không gian Lễ hội
thường chỉ khoanh lại trong một phạm vi điện thờ; không gian Lễ hội Cầu Ngư lại
được mở rộng ra toàn làng và ngoài biển khơi mà Lăng Ông chỉ là tâm điểm.
Trong không gian mở ấy, rất nhiều nghi thức được diễn ra trong ba ngày đêm,
trong đó có những nghi thức riêng có như: Lễ Nghinh Ông (Lễ Nghinh thủy triều),
trò diễn Hò Bá trạo – những nghi thức lễ nhưng đầy tính chất hội hè ấy, đã tạo nên
đặc trưng cho Lễ hội Cầu ngư của vùng Nam Trung bộ nói chung và Khánh Hòa
nói riêng.
3.1. Lễ Rước sắc
Ở Khánh Hòa, các sắc phong Ông Nam Hải thường không đặt tại Lăng mà được
cất giữ tại Nhà Tiền hiền hoặc giao cho một hào lão có uy tín trong làng gìn giữ
gọi là ‘Thủ sắc’, khi có lễ hội thì mới rước sắc về Lăng tổ chức bái tế. Do vậy, Lễ
Rước sắc được xem như nghi thức mở đầu của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa.
Lễ Rước sắc được bắt đầu vào sáng ngày đầu tiên của Lễ hội. Đúng giờ quy định,
Ban Tế lễ, các vị hào lão, những người phụng sự lễ hội và dân làng lễ phục trang
nghiêm, tề tựu đầy đủ tại Nhà Tiền hiền để chuẩn bị vào cuộc lễ. Lễ gồm ba nghi
thức:
– Thỉnh sắc: Được thực hiện trang trọng trước chánh điện của Nhà Tiền hiền. Ban
Tế lễ thay mặt dân làng dâng hương xin với Thành hoàng và các vị Tiền Hậu hiền
được thỉnh sắc Ông Nam Hải về Lăng bái tế. Ở một số nơi, Lễ Thỉnh sắc cũng
chính là Lễ Tế Tiền hiền.
– Rước sắc: Được thực hiện theo hình thức đám rước long trọng. Một đám rước
được tổ chức bài bản gây ấn tượng lớn cho mọi người, thu hút đông đảo dân làng
tham dự và tạo nên không khí vừa thiêng liêng, vừa gần gũi – trang trọng mà là rất
nhộn nhịp, tưng bừng.
– Khai sắc: Khi đám rước về đến Lăng, Ban Tế lễ đưa Long đình vào Chánh điện.
Sau khi nhập Long đình vào Lăng, vị Chánh tế sẽ mang sắc phong đặt lên bàn thờ
để làm Lễ Khai sắc và mở đầu cho Lễ hội Cầu Ngư.
Ngày nay, do xu hướng giản lược các nghi thức cổ truyền trong lễ hội, một số làng
biển đã sáp nhập Đình làng và Lăng Ông làm một trong thờ tự và cả bái tế. Cũng
từ đó, nhiều nơi đã không còn giữ được Lễ Rước sắc theo nghi thức cổ truyền mà
chỉ giữ lại phần Lễ Khai sắc – một nghi thức bắt buộc trước khi vào lễ hội.
3.2. Lễ Nghinh Ông
Nếu như Lễ Rước sắc là nghi thức được sử dụng chung cho nhiều lễ hội mà nơi tổ
chức hoặc vị Thần chủ được bái tế trong lễ hội ấy có sắc phong vua ban, thì Lễ
Nghinh Ông là nghi thức riêng có của Lễ hội Cầu Ngư.
Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa thường được tổ chức vào giờ thủy triều lên nên còn
gọi là ‘Lễ nghinh thủy triều’. Lễ được thực hiện nhằm mục đích rước hồn Ông
Nam Hải từ biển khơi về Lăng trước khi Tế chánh. Vì vậy, nghi thức này còn được
gọi là ‘Phụng nghinh hồi đình’. Do Lễ hội Cầu Ngư ở các làng không trùng nhau
về thời gian mà theo tập tục lễ nghinh Ông phải tùy theo con nước lên, nên giờ tiến
hành lễ của mỗi làng cũng mỗi khác. Nhưng đa phần Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa
đều được tổ chức vào sáng sớm – là thời điểm mặt trời lên cũng như nước triều lên.
Lễ Nghinh Ông thường kéo dài trong khoảng hai giờ. Đoàn thuyền tham dự Lễ
Nghinh Ông ở Khánh Hòa phải là những chiếc thuyền đánh cá đích thực và được
bố trí như sau:
– Ghe lễ: Để tạo thêm diện tích cho không gian hành lễ, nhiều nơi đã cho ghép hai
chiếc thuyền nhỏ hơn vào ghe chính tạo thành ghe lễ. Ghe chính được trang hoàng
lộng lẫy với cờ, lọng, ở giữa ghe có một cột cờ chính treo lá cờ đại. Long đình
được đặt ở mũi thuyền, phía trước có bàn hương án để đặt lễ vật bái tế. Ban Tế lễ
và đội nhạc đều ngồi ở ghe chính. Hai ghe ghép cũng được trang trí cờ hoa và dành
cho trống chiêng và các người phục vụ lễ.
– Ghe Bá trạo: Gồm 2 chếc đi hai bên Ghe lễ, cũng được trang trí cờ hoa nhưng
giản đơn hơn Ghe lễ. Một ghe chở một nhóm Bá trạo và Tổng Lái, ghe kia chở một
nhóm Bá trạo cùng Tổng Mũi, Tổng Khoang (Tổng Thương). Đội Bá trạo phải
đứng chèo hầu trong suốt quá trình hành lễ trên biển.
– Ghe dắt: Là chiếc ghe nhỏ chở đội Lân, ghe này phải nối với Ghe lễ một sợi dây
và có nhiệm vụ dẫn đầu đám rước. Nhiều nơi không tổ chức ghe dắt thì đội Lân sẽ
ở trên Ghe lễ.
Ngoài số ghe quy định trên, còn có nhiều ghe của ngư dân hoặc khách tham quan
cũng đi theo dự lễ, tạo nên không khí tưng bừng và sắc màu cho Lễ Nghinh Ông.
Khi ra khơi, chiếc Ghe dắt chở đội Lân dẫn đầu đoàn thuyền hành lễ; Ghe Lễ đi
chính giữa, hai Ghe Bá trạo đi hai bên và lui về phía sau nửa thân Ghe Lễ. Đội Bá
trạo và Lân múa nhẹ nhàng theo nhịp thuyền đi nhưng không hát và không sử dụng
nhạc. Ra đến cửa biển thì dừng lại và cử hành tế lễ. Sau đó, đoàn thuyền quay về
trong rạng rỡ nắng mai. Ghe Lễ vẫn đi giữa, hai Ghe Bá trạo sóng đôi và đổi vị trí
cho nhau để mô phỏng cách lội của Cá Ông khi dạt vào bờ tìm chỗ lụy. Tiếng
chiêng, tiếng trống điểm nhịp cho đội Bá trạo hát ‘Phụng nghinh hồi đình’ trên
suốt chặng đường về để rước hồn Ông nhập Lăng bái tế. Cặp bến, mũi ghe phải
hướng về phía Lăng, đoàn tế lễ đưa Long đình xuống rồi cùng với dân làng rước
hồn Ông nhập điện. Đến đây thì đội Siêu sẽ múa trước điện thờ để mừng Ông, sau
đó đội Bá trạo lại trình diễn một lần nữa và lần này được diễn ngay trước điện thờ
để mừng Ông về với cháu con.
3.3. Hò Bá Trạo
Hò Bá trạo là một trò diễn dân gian vùng Nam Trung bộ mang tính tổng thể
nguyên hợp đậm nét. Với hình thức biểu diễn tổng hợp mang tính chất sân khấu
dân gian như múa, hát, nói… Là trò diễn nhưng lại được xem là một nghi lễ bắt
buộc chỉ riêng có trong Lễ hội Cầu Ngư ở Nam trung bộ và Khánh Hòa.
Hò Bá trạo trong Lễ hội Cầu Ngư
Theo cổ lệ, mỗi làng có Lăng Ông đều thành lập đội Hò Bá trạo để phục vụ cho lễ
hội làng mình. Trước ngày lễ hội, làng chọn từ 15 đến 19 thanh niên khỏe mạnh để
tập trò Hò Bá trạo. Trong thời gian luyện tập ấy họ phải ăn chay nằm đất, tránh sát
sinh và không được quan hệ với phụ nữ nhằm giữ cho thân tâm trong sáng để
phụng sự Đức Ông. Về sau cổ lệ này được gia giảm, đồng thời do nhu cầu nâng
cao chất lượng phục vụ lễ hội mà đã hình thành nên các đội Hò Bá trạo bán chuyên
và chuyên nghiệp. Từ đó, các làng biển mất dần các đội Hò Bá trạo hoặc chỉ còn
giữ lại những trạo phu còn các vai chủ chốt như Tông Lái, Tổng Mũi, Tổng
Thương thì phải nhờ những người chuyên nghiệp thủ diễn.
Do xuất phát điểm của trò diễn Hò Bá Trạo là nhằm cúng tế Ông Nam Hải nên cho
dù theo thời gian trò diễn đã được chuyên nghiệp hóa từng phần, được bổ sung
nhiều mặt nhưng nó vẫn giữ được phong vị và tính chất như thời kỳ đầu và chỉ
được dùng riêng trong Lễ hội Cầu Ngư hay những ngày tế lễ có liên quan đến Ông
Nam Hải của cư dân miền biển Nam Trung bộ và Khánh Hòa, góp phần tạo nên
bản sắc cho một vùng đất.
3.4. Lễ Tỉnh sanh
Lễ Tỉnh sanh là một nghi thức trước khi vào Tế chánh. Ở Khánh Hòa khi tế các
nhiên thần hoặc thiên thần thì trong lễ vật phải đủ tam sanh, trong đó nhất định
phải có heo sống nguyên con. Lễ Tỉnh sanh thực chất là nghi thức lễ xin với Thần
linh được giết vật hiến tế. Con heo được chọn làm vật hiến tế phải là heo toàn sinh,
toàn sắc (nghĩa là loại heo chỉ có một màu và để nguyên con).
Trong khi diễn ra Lễ Nghinh Ông trên biển, những chấp sự được phân công ở nhà
sẽ tiến hành Lễ Tỉnh sanh.
3.5. Tế chánh
Trong bất kỳ lễ hội nào, Tế chánh bao giờ cũng là giờ phút thiêng liêng nhất, là
nghi thức lễ quan trọng nhất. Trong Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa, lễ Tế chánh
được diễn ra sau khi đội Bá Trạo đã hoàn thành xong nghi thức của mình trước
điện thờ Ông Nam Hải và ban chấp sự cũng đã chuẩn bị xong những điều cần thiết
cho buổi tế lễ quan trọng này. Thông thường Lễ Tế chánh Ông Nam Hải được diễn
ra vào tầm 10 giờ sáng và kéo dài sang 11 giờ – tức đầu giờ Ngọ. Người ta tin
rằng cuộc tế lễ càng trang nghiêm, long trọng bao nhiêu thì sẽ nhận được bấy nhiêu
sự độ trì Ông Nam Hải. Vì vậy mà trong Tế chánh không được để xảy ra bất cứ sai
sót nào cả. Cuối lễ Tế chánh Đội Bá trạo lại múa lạy Ông Nam Hải để hạ ban.
3.6. Thứ lễ và Tôn vương
– Thứ lễ là nghi thức tiếp theo sau Tế chánh được tiến hành bằng hình thức hát
cúng thần. Thứ lễ là nghi thức không phải lúc nào cũng có trong Lễ hội Cầu Ngư.
Thông thường cứ 3 năm một lần, vào ngày Lễ hội Cầu Ngư các làng biển lại mời
đoàn hát bội biểu diễn trước là để cúng Ông, sau là để giúp vui cho dân làng sau
một năm dài làm ăn vất vả. Và chỉ năm nào làng mời đoàn hát bộ về hát cúng Ông
thì lúc đó mới tổ chức Thứ lễ và Tôn vương.
Sân khấu để tổ chức hát bộ trong Lễ hội Cầu Ngư được đặt tại Võ ca (hoặc sân
Lăng) và hướng vào án thờ Ông mà diễn. Khán giả đứng và ngồi xem cả ba mặt.
Với hình thức tổ chức sân khấu như trên thì khán giả chủ yếu của buổi diễn Thứ lễ
chính là các vị thần linh, còn nhân dân chỉ là khán giả xem nhờ. Cũng bởi vì cách
diễn hướng mặt vào án thờ ấy mà nhân dân Khánh Hòa còn gọi hát bộ ở Lễ hội
Cầu Ngư là ‘‘hát án’’.
– Tôn vương là nghi thức kết thúc lễ, cũng do đoàn hát bộ thực hiện. Theo truyền
thống, sau phần hát Thứ lễ, Ban tổ chức sẽ cho dừng lại trong giây lát để cho dân
làng và khách hành bưu (khách nơi khác đến dự lễ) vào lăng dâng hương; sau đó
thông báo cho những người đang có tang chế, những người bị khuyết tật, những
người phụ nữ đang mang thai, tạm thời rời khỏi nơi đang diễn lễ rồi đóng cổng
Lăng để tiến hành Tôn vương.Bạn hát bội ở Khánh Hòa có câu: ‘‘Nhất Thứ lễ, nhị
Tôn vương’’ để nhắc nhở nhau phải cẩn trọng vì Tôn vương cũng là nghi thức quan
trong trong Lễ hội Cầu Ngư nên không được khinh suất.
Thông thường trong Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa hát bội được tổ chức liên tục
suốt cả ngày lẫn đêm, có nơi còn kéo dài đến vài ba mươi giờ liền, tạo nên không
khí hội hè thâu đêm suốt sáng.
3.7. Lễ Tống Na: Lễ Tống na là lễ cúng cô hồn biển. Địa điểm hành lễ được thiết
lập ở một góc sân Lăng, quay về hướng đông. Cũng như các buổi cúng cô hồn
khác, người ta không lập bàn hương án trịnh trọng mà chỉ kê một chiếc bàn nhỏ.
Phía trước bàn thờ đặt một chiếc ghe mô hình làm bằng nan, mô phỏng giống như
chiếc thuyền đánh cá cỡ lớn.
Sau khi lễ tất, những vật tế được chọn mỗi thứ một ít đưa lên chiếc thuyền nan để
đưa ra thả trên biển. Đoàn đi Tống na gồm hai người cầm cờ hội, bốn người khiêng
thuyền, đi hai bên là hai người cầm siêu, theo sau là hai người cầm nhang vừa đi
vừa cắm dọc đường từ Lăng Ông cho đến tận bãi biển. Đến bãi biển, người ta
chuyển chiếc thuyền nan lên một chiếc ghe để đưa ra khơi hạ thủy như tiễn các
vong hồn về với biển thẳm và gửi chút lòng của người dân biển đến những vong
hồn không đến được với Lễ hội Cầu Ngư. Sau đó tất cả quay lại Lăng để làm lễ
hoàn mãn.
4. Gía trị di sản văn hóa
- Lễ hội Cầu Ngư là lễ hội dân gian với nhiều nét đặc thù, hội đủ những giá trị văn
hóa và có tác động mảnh liệt đến đời sống tinh thần cũng như tín ngưỡng của cư
dân vùng biển các tỉnh phía Nam và Khánh Hòa. Vì vậy, bảo tồn và phát huy lễ hội
Cầu Ngư ở Khánh Hòa là bảo tồn các giá trị văn hóa đã được nhân dân miền biển
Khánh Hòa dày công bồi đắp, giữ gìn qua nhiều thế hệ.
- Lễ hội Cầu Ngư – ngày hội làng biển: Là vùng đất mới khai cơ nên làng ở Khánh
Hòa không có đầy đủ những đặc điểm của một làng cổ Việt Nam, song cây đa, bến
nước, sân đình…vẫn là những hình ảnh thân thương trong lòng người Khánh Hòa.
Khác với các làng nông nghiệp, làng biển ở khánh Hòa thường được ven lạch
nước, cửa sông hay cồn cát, bãi triều và thường biệt lập với các làng khác. Trong
làng nhà cửa san sát nhau và đều quay mặt về hướng biển. Từ những đặc điểm ấy
đã tạo cho người dân làng biển ở Khánh Hòa có tính cố kết cộng đồng rất cao.
- Đi với biển là đi cùng với sóng gió, người xưa không có dụng cụ, phương tiện dự
báo thời tiết nên sự nguy hiểm trên biển là điều khó có thể lường trước được. Có lẽ
vì thế mà người xưa tin vào vận mệnh hơn là tin vào bản thân mình và yếu tố thần
linh phù trợ đã trở thành niềm tin, cứu cánh của ngư dân khi ra khơi bám biển.
Trong thực tế, chuyện cá voi cứu sống được nhiều người gặp nạn trên biển đồng
thời sự xuất hiện của cá voi còn là điềm báo cho ngư dân biết ở vùng biển ấy đang
có nhiều đàn cá nổi, giúp cho ngư dân có được mùa cá bội thu. Vì thế, nên ngư dân
các tỉnh phía Nam tôn cá voi là Đức Ngư, là Thần và luôn tri ân, sùng bái. Lễ hội
Cầu Ngư vì vậy luôn gắn liền với lao động sản xuất của ngư dân, nó hàm chứa
niềm tin sâu xa và tạo thành ý chí vượt lên gian khó để đạt đến hạnh phúc hằng
khao khát.
- Tóm lại, Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa là ngày hội làng biển ở Khánh Hòa, nó
giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, hướng về cội nguồn và tạo nên sự cố kết
cộng đồng bao đời nay của cư dân vùng biển. Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa thể
hiện niềm tin và ý chí vượt thắng gian lao để xây dựng cuộc sống tươi đẹp. Lễ hội
Cầu Ngư còn là bài ca lao động của cộng đồng cư dân vùng biển Khánh Hòa, được
tái hiện dưới hình thức tế lễ, trò diễn dân gian, các loại hình nghệ thuật truyền
thống và cũng từ đó nó trở thành chiếc nôi, nguồn sữa nuôi dưỡng vốn văn hóa dân
gian, truyền thống của miền đất Nam Trung bộ, góp phần tạo nên nền tảng để xây
dựng bản sắc văn hóa miền đất Khánh Hòa.
5. Hiện trạng di sản văn hóa Lễ hội Cầu Ngư tỉnh Khánh Hòa
- Hiện nay ở Khánh Hòa có 50 nơi thờ Ông Nam Hải ở các địa phương: Huyện
Vạn Ninh, thị xã Ninh Hòa, thành phố Nha Trang, thành phố Cam Ranh, huyện
Cam Lâm.
- Về nghi thức và tiến trình của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa là sự kế thừa và tích
hợp của Lễ hội Cầu Ngư các tỉnh Nam Trung bộ mà chủ yếu là của các tỉnh Bình
Định, Phú Yên. Những năm từ 1975 đến 1990, từ nhiều lý do khác nhau các lễ hội
truyền thống ở Khánh Hòa ít được quan tâm tổ chức, tuy nhiên các lễ thức tế tự của
Lễ hội Cầu Ngư vẫn được dân làng gìn giữ. Nhờ thế, khi có điều kiện thì các nghi
thức trong Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa vẫn được bảo lưu, truyền thừa nguyên
vẹn. Những năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương
cũng như ngành chức năng Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa ngày càng được tổ chức
chu đáo hơn và phát huy được hiệu quả xã hội trong đời sống đương đại. Lễ hội
Cầu Ngư đã dần được nhân dân trong tỉnh và du khách biết đến như một di sản văn
hóa đáng trân trọng, cần được giữ gìn và phát huy nhiều hơn nữa; Lễ hội Cầu Ngư
đang đi vào đời sống đương đại và góp phần tạo nên bản sắc riêng cho vùng đất
Khánh Hòa.
III. Liên hệ với bản thân
- Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường chúng ta cần phải:
+ Mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa
vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu.
+ Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến
cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Học sinh cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu.
+ Tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của tỉnh
mình nói riêng và nước nhà nói chung

You might also like