You are on page 1of 29

PHẦN 1 : ÔN TẬP TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

Tác Thể loại


phẩm - và Năm sáng tác Nội dung Nghệ thuật
Tác giả PTBĐ

Xây dựng cốt


truyện tâm lí, tình
- Năm 1948. Thời Qua tâm trạng đau xót, huống truyện đặc
kì đầu của cuộc tủi hổ của ông Hai ở nơi sắc; miêu tả tâm lí
- Truyện
kháng chiến tản cư khi nghe tin đồn nhân vật sâu sắc,
ngắn
chống thực dân làng mình theo giặc, tinh tế; ngôn ngữ
Làng - - Tự sự,
Pháp. truyện thể hiện tình yêu nhân vật sinh
Kim Lân miêu tả,
- Tác phẩm được làng quê sâu sắc thống động, giàu tính
biểu
rút từ tập truyện nhất với lòng yêu nước khẩu ngữ, thể hiện
cảm
cùng tên của Kim và tinh thần kháng chiến cá tính của nhân
Lân của người nông dân. vật; cách trần
thuật linh hoạt, tự
nhiên.

- Sáng tác năm Truyện xây dựng


Cuộc gặp gỡ tình cờ của
1970, là kết quả tình huống hợp lí,
ông hoạ sĩ, cô kĩ sư mới
- Truyện của chuyến thực cách kể chuyện
ra trường với người
ngắn tế ở Lào Cai của hợp lí, tự nhiên;
Lặng lẽ thanh niên làm việc một
- Tự sự, tác giả, khi miền miêu tả nhân vật
Sa Pa - mình tại trạm khí tượng
miêu tả, Bắc tiến lên xây từ nhiều điểm
Nguyễn trên núi cao Sa Pa. Qua
biểu dựng CNXH, xây nhìn; ngôn ngữ
Thành đó, truyện ca ngợi
cảm, dựng cuộc sống chân thực giàu
Long những người lao động
nghị mới. Rút từ tập chất thơ và chất
thầm lặng, có cách sống
luận. truyện “Giữa hoạ; có sự kết hợp
đẹp, cống hiến sức mình
trong xanh” giữa tự sự, trữ tình
cho đất nước.
(1972). với bình luận.

Chiếc - Truyện - Sáng tác năm Câu chuyện éo le và Nghệ thuật miêu
lược ngắn. 1966, khi tác giả cảm động về tình cảm tả tâm lí, tính cách
ngà- - Tự sự, đang hoạt động ở của hai cha con: ông nhân vật, đặc biệt
Nguyễn miêu tả, chiến trường Nam Sáu và bé Thu trong lần là nhân vật trẻ em;
Quang biểu Bộ, tác phẩm ông về thăm nhà và ở xây dựng tình
Sáng cảm, được đưa vào tập khu căn cứ. Qua đó huống truyện bất
nghị truyện cùng tên. truyện ca ngợi tình cha ngờ mà tự nhiên.
luận. - Tác phẩm được con thắm thiết trong
rút từ truyện ngắn hoàn cảnh chiến tranh.
cùng tên của
Nguyễn Quang
Sáng.

- Sáng tác năm Cuộc sống chiến đấu


1971, khi cuộc của 3 cô gái thanh niên
kháng chiến xung phong trên một
Sử dụng vai kể là
chống Mĩ của dân cao điểm ở tuyến đường
nhân vật chính;
- Truyện tộc đang diễn ra Trường Sơn trong
Những cách kể chuyện tự
ngắn. ác liệt trên tuyến những năm chiến tranh
ngôi sao nhiên, ngôn ngữ
- Tự sự, dường Trườn chống Mĩ cứu nước.
xa xôi - sinh động trẻ
miêu tả, Sơn. Truyện làm nổi bật tâm
Lê Minh trung; nghệ thuật
biểu - Tác phẩm được hồn trong sáng, giàu mơ
Khuê miêu tả tâm lí
cảm. in trong tập mộng, tinh thần dũng
nhân vật sắc tinh
truyện ngắn của cảm, cuộc sống chiến
tế, sắc sảo.
Lê Minh Khuê, đấu đầy gian khổ, hi
NXB Kim Đồng, sinh nhưng rất hồn
Hà Nội 2001. nhiên lạc quan của họ.
2. MỘT SỐ ĐỀ BÀI THAM KHẢO

ĐỀ 1. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng
chiến chống Pháp?

Dàn ý:

A. Mở bài : Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc.
Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân.
Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang
bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình
ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập
tròng lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Đọc truyện ngăn này ta
nhận ra những chuyển biến mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời
kháng chiến chống Pháp.

B .Thân bài:

1. Khái quát về tác phẩm:

Truyện Làng được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp.Truyện thành công không chỉ bởi tài năng truyện ngắn của ông mà còn do sự am
hiểu người nông dân cùng thời kì lịch sử lúc bấy giờ. Nhà văn đã có lần tâm sự: " cái
không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã vào làng. Lúc ấy Tây còn đóng ở cầu
Đuống, tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu". Truyện
hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt
cùng với cách viết đơn giản, ngôn ngữ mộc mạc dân dã .

2. Chứng minh nhận định

Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất có tính truyền thống.
Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng của mình vốn là tâm lý rất quen thuộc có tính
gốc rễ. Và ông Hai trong truyện ngắn này cũng không phải là ngoại lệ.

a. Tình cảm của ông Hai với làng khi đi tản cư

- Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu
thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng
nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một
miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng. Ở nơi tản cư, lòng
ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.

- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham
gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

- Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được
nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức,
bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.

b. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc: (Nhưng khi nghe
tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên
biến thành những nỗi lo âu, dằn vặt)

- Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng
hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại
được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành
rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào
về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng
đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông
mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.

- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi
ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về.
Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra
giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn
về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại,
dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước
theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình
bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông
cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang
bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là
ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”

- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ
hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào
một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương
đáng yêu, đang tự hào... Nhưng giờ đây.... dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai
đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng
ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm
thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng
“vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến,
bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng
làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt
đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.

- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là
cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm
lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ
cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.

+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”,
nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ ừ
đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác
ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn
khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ ? Tâm sự
với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông
nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với
kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “ Cái lòng bố con
ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.

c. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng kháng chiến (Niềm vui của
ông Hai khi tin đồn được cải chính.
- Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui
mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi
người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ
nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết
cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự
của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của
người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt.
Tình yêu làng của ông Hai thật là sâu sắc và cảm động.

- So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng
tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm
hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của
Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau
nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành,
chất phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho
mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm
chủ cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình
yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng
cháy. => Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống Pháp, bảo
vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của
mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con
người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.

- Văn hào I- li- a Ê- ren- bua có nói: …” Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở
nên lòng yêu tổ quốc.” Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của
ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.

3. Đánh giá:

Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người
nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân
vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt
Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu
sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách
sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê
hương đất nước.

C. Kết bài : Khẳng định lại vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam và tấm lòng của
nhà văn đối với họ.
- Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc
động tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống
Pháp.
- Tác giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự đồng cảm từ người
đọc.

Đề 2 : Phân tích diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong đoạn trích truyện
Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

A.Mở bài
+ Giới thiệu tác giả, giới thiệu văn bản.
+ Nêu vấn đề nghị luận
Tham khảo
Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương,
khiến cho bao gia đình tan nát vì chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy
nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến cho đời sống tình cảm
của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết,
về tình đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những
tác phẩm hay nhất viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của
nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Truyện đã thể hiện những diễn biến tâm lí tinh tế và tình
cảm sâu sắc, mạnh mẽ mà bé Thu dành cho cha.

B. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Truyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu
để từ đó khẳng định rằng: Chiến tranh có thể cướp đi tất cả, thậm chí là cả mạng sống của
con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.
2. Phân tích: Lần lượt đi đưa ra các luận điểm và chứng minh.

a. Cảnh ngộ của bé Thu


Bé Thu sinh và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ba em lên đường
đánh giặc khi em chưa tròn một tuổi, em chỉ được gặp ba trong những ngày ba về phép
ngắn ngủi. Tình cảm cha con của Thu được đặt trong tình thế éo le, trắc trở của chiến
tranh nên càng xúc động lòng người.

b. Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu
- Tình huống: gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông
Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con.
- Diễn biến tâm lí của bé Thu:
+ Hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét khi mới gặp ông Sáu.
+ Gọi trống không với ông Sáu mà không chịu gọi cha.
+ Nhất định không chịu nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm to đang sôi, hắt cái trứng
có mà ông gắp cho.
+ Khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bò về nhà bà ngoại, khi xuống xuống
còn cố ý khua dây cột xuống kêu rổn rảng thật to.
Thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngớ vực, lảng tránh,
xa cách. Sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa
cách và trắc trở của chiến tranh., nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tinh tế
khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng chưa kịp chuẩn bị cho nó đón nhận
những khả năng bất thường. Nó không tin ông Sáu là ba chỉ vì mặt ông có vết sẹo, khác
với hình ba mà nó được biết. Qua những diễn biến tâm lí, Bé Thu thể hiện cá tính mạnh
mẽ và tình cảm sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba.

c. Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra ông sáu là cha.
- Trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành
động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi : ba” và
tiếng kêu như tiếng xé, rồi “ nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy
thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “ Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,
hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “ Hai tay nó siết chặt lấy
cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nói, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy
ba nó, và đôi vai bó nhỏ của nó run run”.
- Sau khi được bà ngoại giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Thu
dường như đã ân hận, hối tiếc. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi
mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ, hối
hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận.
Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của một
đứa trẻ cá tính, hồn nhiên, ngây thơ.

3. Đánh giá:
- Truyện đặt nhân vật bé Thu vào tình huống gặp ba nhưng không nhận ra, khi
nhận ba lại vào đúng lúc chia tay để bộc lộ diễn biến tâm lý và tình cảm sâu sắc bé Thu
dành cho ba. Từ đó, nhân vật bé Thu hiện ra thật có tình, yêu ghét rõ ràng, nhưng cũng
thật hồn nhiên, trong sáng.
- Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí bé
trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

C. Kết bài :
- Truyện đã khơi gợi trong em những tình cảm gì?
- Em rút ra đượng bài học gì?

Đề 3: Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn Chiếc lược ngà của Nguyễn
Quang Sáng.

A.Mở bài
+ Giới thiệu tác giả, giới thiệu văn bản.
+ Nêu vấn đề nghị luận
Tham khảo
Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương,
khiến cho bao gia đình tan nát vì chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy
nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến cho đời sống tình cảm
của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết,
về tình đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những
tác phẩm hay nhất viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của
nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Truyện đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn
của nhân vật ông Sáu – một người lính cách mạng dũng cảm, một người cha yêu thương
con mãnh liệt.
B.Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Truyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu
để từ đó khẳng định rằng: Chiến tranh có thể cướp đi tất cả, thậm chí là cả mạng sống của
con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.

2. Cảm nhận về ông Sáu

a. Ông Sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm


- Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp 7-8 năm chưa một lần về thăm nhà mặc dù
nhớ nhà, nhớ vợ con khôn xiết. Người chiến sĩ ấy đã luôn đặt nhiệm vụ đối với Tổ quốc,
với kháng chiến lên trên tình cảm riêng tư.
- Trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã bị thương, vết sẹo làm khuôn mặt không
giống như trước.
- Sau đợt nghỉ phép, ông Sáu cùng đồng đội trở lại chiến trường miền Đông tiếp
tục chiến đấu.
- Một ngày cuối năm năm mươi tám, trong một trận càn lớn của quân Mĩ- ngụy
ông Sáu đã bị thương nặng và hi sinh.
Như vậy, ông Sáu là người chiến sĩ có lòng yêu nước, dũng cảm, luôn biết hi sinh
vì độc lập dân tộc. Đó cũng là vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, của con người Việt
Nam trong những năm chiến tranh đau thương mà anh dũng.

b. Ông Sáu là người cha rất yêu thương con


* Tình huống thứ nhất : Ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp sau 7-8 năm được về
nhà thăm nhưng bé Thu lại không nhận ba.
- Nỗi khao khát gặp con của ông Sáu.
+ Hai cha con không hề biết mặt nhau, chỉ biết qua tấm ảnh cách đó bảy năm. Vì
vậy, ông Sáu hồi hộp và mong chờ được gặp con bằng tất cả tình cảm yêu thương mà ông
đã dồn nén trong xa cách.
+ Bằng linh cảm của người cham, ông đã nhận ra con – đứa bé độ tám tuổi đang
chơi dưới bóng cây xoài trước nhà, ông chạy ngay đến chỗ con. Nhưng bất ngờ. Nhưng
bất ngờ Thu hoảng sợ bỏ chạy, không chịu nhìn nhận cha mình. Lúc đ, “ Anh đứng sững
lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai
tay buông xuống như bị gãy”. Ông Sáu hụt hẫng, đau đớn khi đứa con không nhận ra
mình.
- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.
+ Ông Sáu tranh thủ ba ngày phép ngắn ngủi để chăm chút, bù đắp cho con cả vật
chất lẫn tinh thần “ suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”. Ông tìm mọi
cách để gần gũi để trò chuyện với con nhưng dù phải mới ba ăn cơm hay nhờ chắt nước
nồi cơm. Thu đều lảng tránh không gọi một tiếng “ ba”. Vui vì gặp lại gia đình, vợ con,
nhưng ông Sáu đau khổ lắm, những lúc con lảng tránh, ông chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc
đầu vừa cười”, cười “ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được”.
+ Bị con đối xử lạnh nhạt, ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi, mong con nhận ra và
gọi tiếng “ Ba” âu yếm. Bé Thu đã từ chối sự quan tâm của ông Sáu, bé “hắt đổ miếng
trứng cá khỏi chén cơm” khiến ông sáu nổi nóng đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân hận
mãi. Tình tiết này cho thấy sự tức giận, thất vọng của ông Sáu khi không làm thế nào để
con nhận ba và cũng thể hiện niềm khát khao của người cha muốn được cảm nhận tình
cảm của con.
- Giây phút cảm động khi bé Thu nhận cha:
+ Trước khi chia tay gia đình để vào chiến trường, ông Sáu đã rất buồn vì đứa con
không chịu nhận mặt cha, nỗi ân hận vì trót nóng nảy đánh con khiến đứa trẻ càng xa
cách. Nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông “ muốn ôm con, hôn con”, nhưng “ lại sợ
nó giãy lên lại bỏ chạy” nên ông Sáu chỉ đứng nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, khe
khẽ nói…
- Bất ngờ bé Thu cất tiếng gọi: “ Ba…a…a…ba!”, tiếng kêu như xé ruột vừa yêu
thương, kính trọng xen lẫn hối hận ( bé Thu đã biết “ ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị
thương”), rồi nó chạy thót lại, ôm lấy ba, “ hôn ba cùng khắp”, “ hôn cả vết thẹo dài trên
má”, nó dang cả hai tay xiết chặt lấy cổ, dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó để níu giữ.
Ông Sáu đã xúc động đến khóc, và “ không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một
tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Hai cha con
nhận ra nhau thật hạnh phúc, sung sướng nhưng cũng thật đớn đau bởi giây phút đó thật
ngắn ngủi. Tình cảm cha con thiêng liêng cao đẹp nhưng đặt trong một hoàn cảnh thật éo
le của cuộc chiến tranh với những chia li, xa cách.

* Tình huống thứ 2: ông Sáu làm cây lược tặng con nhưng chưa kịp tặng thì ông
đã hi sinh. Tình huống này đã bộc lộ tình yêu con sâu nặng của người cha.
- Ở chiến khu, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông luôn suốt nhiều ngày sau khi chia
tay với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận.
- Lời dặn của đứa con “ Ba về! Ba mua cho con một cây Lược nghe Ba!”, đã thúc
đẩy ông nghĩa đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Khi tìm được khúc ngà ông
vô cùng vui mừng, sung sướng, rồi đánh hết tâm trí, công sức vào việc vào việc làm cây
lược: “ những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược , thận trọng, ti mỉ và cố công như
người thợ bạc”.
- Ông làm cây lược bằng tất cả tình yêu thương con, trên sống có khắc một hành
chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn, khắc từng nét: “ Yêu nhớ tặng Thu con của Ba”.
Những đêm nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm
bóng, thêm mượt. Mỗi lần chải tóc như vậy là mỗi lầm ông Sáu gửi gắm yêu thương vào
chiếc lược nhỏ xinh. Chiếc lược ngà đã trở thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông
Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương,
mong đợi của người cha với đứa con xa cách.
- Nhưng trong một trận chiến đấu, ông đã bị thương nặng. Trước lúc hi sinh,
không thể trăng trổi được điều gì, ông có trao cây lược cho người đồng đội và chỉ đến khi
tin rằng chiếc lược đó sẽ đến tận tay bé Thu ông mới nhắm mắt. Qua ánh mắt nhìn đồng
đội lúc lâm chung, bác Ba hiểu không chỉ mang cây lược về cho Thu mà còn trao lại một
tình cha con thiêng liêng cao đẹp. Một tình cha con không bao giờ chết!
- Sau nhiều lần tìm Thu không gặp, tình cờ bác Ba gặp Thu, bấy giờ là môt cô giao
liên trên một tuyến đường bí mật. Bác trao cho Thu cây lược ngà mà người cha yêu quý
nhất đã tự tay mình làm và gửi tặng con gái “ Cây lược như đánh thức kỉ niệm ngày chia
tay…”
Như vậy, cả cuộc đời người cha đã dành cho con một tình cảm yêu thương sâu
nặng.

3. Đánh giá
- Xây dựng nhân vật ông sáu, tác giả đã đặt nhân vật vào các tình huống éo le để
khai thác những diễn biến tâm lí, tình cảm; ngôn ngữ lời thoại nhân vật có sự chọn lọc,
chi tiết cụ thể giàu biểu cảm…
- Truyện đã ca ngợi ông sáu là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và là người cha
có tình thương con sâu nặng và cao đẹp. Qua đó, tác giả khẳng định tình cảm cha con là
thứ tình cảm nhân bản bền vững, có thể tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh nào; đồng thời
cũng cho thấy những nỗi đau thương, mất mát mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con
người.

C.Kết bài
- Truyện đã khơi gợi trong em những tình cảm gì?
- Em rút ra đượng bài học gì?

Đề 4: Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc
lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.

A.Mở bài
+ Giới thiệu tác giả, giới thiệu văn bản.
+ Nêu vấn đề nghị luận
Tham khảo
Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương,
khiến cho bao gia đình tan nát vì chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy
nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến cho đời sống tình cảm
của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết,
về tình đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những
tác phẩm hay nhất viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của
nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm cha
con sâu nặng giữa bé Thu và ông Sáu trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất.

B.Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
Tác phẩm Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Truyện kể về tình cảnh éo le của cha con ông Sáu
để từ đó khẳng định rằng: Chiến tranh có thể cướp đi tất cả, thậm chí là cả mạng sống của
con người nhưng tình cảm gia đình thì không gì có thể giết chết được.

2. Tình cha con trong hoàn ảnh éo le của chiến tranh

a. Chiến tranh đã khiến cho gia đình ông sáu cũng như bao gia đình Việt Nam phải
lâm vào cảnh ngộ chia li.
- Theo tiếng gọi của non sông, ông Sáu cũng như bao người dân Nam Bộ sẵn sàng
rời xa gia đình lên đường đi kháng chiến khi bé Thu, con gái ông, chưa đầy một tuổi.
Suốt những tháng ngày xa cách, con ông chỉ biết cha qua tấm ảnh, qua lời kể của người
mẹ.
- Kháng chiến chưa kết thúc, cha con, gia đình gặp nhau, đoàn tụ chỉ có ba ngày để
bù lại tám năm ròng xa cách. Nhưng trong những ngày phép ngắn ngủi ấy, họ chưa kịp
nhận ra nhau, khi nhận ra nhau lại là lúc phải tiếp tục chia xa.
- Cuộc chia tay lần thứ hai của cha con ông Sáu là chi li mãi mãi. Ông Sáu tiếp
tục đi chiến đấu và mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, hai cha con chẳng bao giờ được
gặp lại, được ở bên nhau nữa.

b. Chiến tranh không thể chia cắt nổi tình cảm gia đình, tình cha con.
Tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu dành cho nhau trong cảnh ngộ éo le, trắc
trở của chiến tranh được thể hiện vô cùng cảm động.
- Bé thu thể hiện tình yêu ba theo cách thật đặc biệt
+ Thu xa cách, ngờ vực, lạnh nhạt ngay từ giây phút đầu tiên gặp ba.
- Tỏ ra ương ngạnh, hỗn xược với ông Sáu trong suốt ba ngày ông nghỉ phép, Thu
từ chối mọi sự chăm chút, vỗ về của ông sáu; cố tình lảnh tránh tiếng “ba” để bảo vệ
người cha trẻ đẹp trong tấm ảnh chụp trung với má của em.
Hành động, phản ứng của bé Thu rất cá tính, có phần ương ngạnh nhưng xuất phát
từ tình yêu thương ba một cách ngây thơ, trong sáng, chân thật. Thu chỉ yêu, chỉ nhận
người cha giống với bức hình trong tấm ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ông Sáu
như thế là cách em yêu thương ba mình nồng cháy, yêu thương đến mực tôn thờ, yêu đến
mức chỉ khắc ghi bóng một người ba duy nhất trong tim, không ai có thể thay thế được.
+ Được bà ngoại giải thích: Thu hiểu ra mọi sự nhầm lẫn của mình từ vết sẹo trên
má của Ba, Thu đã chủ động bày tỏ tình cảm sâu sắc, mãnh liệt với ông Sáu trong tiếng
gọi “ Ba” như tiếng xé, trong những cử chỉ vồ vập, hối hả thể hiện tình cảm yêu ba chân
thành, sâu sắc mãnh liệt.
- Ông Sáu dành cho con tình yêu thương vô bờ nhưng hết sức thầm lặng,
+ Xa con, ông luôn nhớ con, ngắm con qua ảnh, háo hức được trở về thăm nhà,
thăm con. Hạnh phúc làm cha trào dâng, không kìm nổi xúc động khi gặp lại con
+ Tranh thủ ba ngày phép ngắn ngủi để chăm chút, bù đắp cho con cả vật chất lẫn
tinh thần. Bị con đối xử lạnh nhạt. Ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi, mong con nhận ra
và gọi tiếng “ba” âu yếm, Khi không thể nào kìm chế được sự tức giận. Vì thất vọng
không làm thế nào để con nhận ba, ông đã đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân hận mãi.
+ Hạnh phúc đến rơi lệ khi con nhận ra ông, khi nghe tiếng gọi “ ba” từ miệng
con.
+ Xa con, sống trong gian khổ, hiểm nguy luôn rình rập, ông luôn nhớ lời con dặn
về canh cánh bên lòng về món quà con dặn. Ông dồn hết tình thương, nỗi nhớ vào việc
làm cho con một chiếc lược bằng ngà voi trong những lúc rảnh rỗi. Chiếc lược ngà là cầu
nối tình cảm cha con ông,, chiếc lược ngà mang bóng hình đứa con gái bé bỏng, xoa dịu
trong ông Sáu nỗi đau xa cách con. Tiếp cho ông niềm tin, sức mạnh trên mỗi ngả chiến
trường. Chiếc lược ngà là minh chứng cho tình cha sâu nặng ông Sáu dành cho con, là kì
vật mộc mạc, thiêng liêng của tình phụ tử.
+ Biết không thể trở về trao chiếc lược cho con, ngay cả trong giờ phút hấp hối
ông sáu vẫn không quên lời dặn của con lúc chia tay. Ông đã dồn tất cả sinh lực cuối
cùng vào cử chỉ móc chiếc lược ngà để trao cho đồng đội để cậy nhờ, ủy thác cho bác Ba
thay ông đem cây lược về trao tận tay cho con gái. Ông Sáu đã vĩnh viễn ra đi, chiến
tranh, bom đạn kẻ thù đã cướp đi sinh mạng ông nhưng chiếc lược ngà vẫn ngày ngày
theo bác Ba dõi tìm Thu trên mỗi ngả chiến trường.
Tình cha con của ông Sáu không bao giờ chết, nó sống mãi trong chiếc lược ngà
giản dị mà thiêng liêng.

3. Đánh giá
- Đánh giá sức hấp dẫn trong nghệ thuật kể chuyện: Cách tạo tình huống truyện
bất ngờ, hợp lí, lựa chọn ngôi kể thích hợp, ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên đậm sắc màu
Nam Bộ, cách miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế.
- Khẳng định và liên hệ: Câu chuyện chiếc lược ngà còn âm vang mãi trong lòng
người đọc bởi nó là bài ca bất diệt về tình phụ tử thắm thiết, sâu nặng.

C. Kết bài:
“Chiếc lược ngà” của nhà văn NQS đã giúp người đọc có những suy ngẫm và thấm thía
hơn về quá khứ đau thương của dân tộc, thấm thía nỗi đau thương, mất mát, éo le do
chiến tranh gây ra khiến bao gia đình phải chịu cảnh tan nát, chia lìa. Đồng thời cũng
giúp mỗi người biết trân trọng, nâng niu hạnh phúc gia đình mình đang có.

ĐỀ 5: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Sapa trong truyện
ngắn “Lặng lẽ Sapa” của nhà văn Nguyễn Thành Long

A. MB: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
Mỗi một tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng. Có tác phẩm vừa cất tiếng
chào đời đã chết yểu đáng thương. Có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời rồi bị độc
giả quên lãng với thời gian. Nhưng cũng cả những bài thơ, quyển truyện có một sức sống
lâu bền trong lòng bạn đọc, có một sức hút lạ kì. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn
Thành Long là một truyện đặc sắc, để lại trong lòng mỗi chúng ta nhiều rung cảm đẹp đẽ.
Truyện đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người của vùng
đất Sapa.

B. TB
1. Khái quát
Lặng lẽ Sa Pa là kết quả của chuyến công tác ở Lào Cai trong mùa hè năm 1970, sau này
được in trong tập Giữa trong xanh ( 1972). Đây là truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về
cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Truyện kể về cuộc gặp
gỡ bất ngờ giữa nhân vật anh thanh niên với cô kĩ sư và bác họa sĩ để từ đó ca ngợi những
con người những công việc thầm lặng.

2. Thiên nhiên và con người Sapa

2.1.Thiên nhiên Sapa


-Thiên nhiên sapa được tác giả miêu tả ở phần đầu và phần cuối của tác phẩm
+Nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo…
+Cây hoa tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng.
+Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống
đường cái, luồn cả vào gầm xe.
=> bằng vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, sosánh ->Tác giả đã khắc
họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức
tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét,hình
khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về
thiên nhiên đất nước.

2.2. Vẻ đẹp con người Sapa

a. Nhân vật anh thanh niên:


Đây là nhân vật chính của truyện.Tuy nhiên tác giả không cho nhân vật xuất hiện ngay từ
đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới thiệu rất ấn tượng của bác lái xe ( rằng anh ta là “một
trong những người cô độc nhất thế gian”,rằng anh ta rất “thèm người” và nếu họa sĩ đến
gặp thì thế nào “cũng thích vẽ”; sau đó xuất hiện trực tiếp qua cuộc gặp gỡ, trò chuyện
với các nhân vật khác trong khoảng thời gian ngắn ngủi ( ba mươi phút). Chỉ 30 phút
nhưng cũng đủ để những người tiếp xúc kịp ghi một ấn tượng – kịp để ông họa sĩ thực
hiện bức kí họa chân dung, kịp để cô kỹ sư bàng hoàng và có những cái gì đó như hàm ơn
về anh.Rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn
thuở của núi cao Sa Pa. Và mọi người thấm thía điều mà nhà văn muốn nói: Trong cái im
lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã
nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.
-> Với cách dựng truyện như thế, anh thanh niên được hiện ra qua sự nhìn nhận, đánh giá
của các nhân vật khác: bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư. Qua cách nhìn nhận và cảm xúc
của mỗi người, nhân vật anh thanh niên càng thêm rõ nét và đáng mến hơn.

a.1: Hoàn cảnh sống và làm việc:


- Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi sống và làm
việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ.
- Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu . Công việc của anh là “đo gió, đo mưa,
đo nắng,tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày để phục vụ sản
xuất và phục vụ chiến đấu”. Một công việc gian khó nhưng đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ và
tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải
trở dậy ra ngoài trời làm việc”.
- Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có
phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao
trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải
vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người.
Cô đơn đến mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để được
gặp gỡ, trò chuyện.
- Và anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp,giản dị mà sâu sắc.

a.2. Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên.


* Lòng yêu nghề,tinh thần trách nhiệm với công việc:
- Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung
của đất nước, của mọi người.
- Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát,thúc giục anh vẫn luôn tự
giác, tận tụy. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp”đúng giờ. Phải ghi và báo về nhà
trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không ngần ngại.
- Và anh đã sống thật hạnh phúc khi được biết do kịp thời phát hiện đám mây khô mà anh
đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng.
- Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào.Với anh, công
việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe anh tâm sự với ông họa sĩ:“[…] khi ta làm việc, ta
với công việc là đôi,sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền
với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất
nó đi, cháu buồn đến chết mất". Qua lời anh kể và lời bộc bạch này, ta hiểu rằng anh đã
thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm lặng giữa Sa Pa và sương
mù bao phủ.
* Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng:
- Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống
ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ
đàm”.Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con,một
chiếc bàn học, một giá sách”.
- Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị,
phong phú về vật chất và tinh thần.
- Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh
coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối
với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. (khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh“mừng quýnh”
như bắt được vàng)
* Sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách:
- Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn.Nhưng anh
thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người”,lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự
quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
- Biểu hiện:
+ Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới
ốm dậy.
+ Vui sướng cuống cuồng khi có khách đến thăm nhà.
+ Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo : hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng
người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tựnhiên như với một người bạn đã
quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái,và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”, pha
nước chè cho ông họa sĩ.
+ Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc sống của mình,
của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ.
+ Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.
+ Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay
ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”
-> Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện
sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
* Sự khiêm tốn, chân thành
Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu
nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ
bé, anh vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trường đánh giặc.
Khi ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung,anh từ chối, e ngại và nhiệt tình giới thiệu những người
khác đáng vẽ hơn anh nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ
sét...)
=>Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc
của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp
về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công
việc.
=> Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con
người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

* Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất
hiện gián tiếp qua câu chuyện kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề
của tác phẩm. Đó là:
- Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnh Phan-xi-păng cao 3142 mét.
- Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lòng với công việc. Kiên trì, bền bỉ, làm việc trong âm
thầm lặng lẽ “ngày này sang ngàykhác”. Ông ngồi im trong vườn su hào rình xem cách
ong lấy phấn, thụ phận chohoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng cây su hào để củ
su hào nhân dântoàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ sư làm cho anh thanh
niên cảmthấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ những con người nơimảnh
đất Sa Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.
- Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Anh luôn ởtrong tư thế sẵn sằng suốt ngày chờ sét
“nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghesét là choáng choàng chạy ra”. Anh đã hi sinh
hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mêcông việc để khai thác “của chìm nông, của chìm sâu”
dưới lòng đất làm giàu choTổ quốc.
-> Dù không xuấthiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh
niên,song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ lànhững
người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sànghi sinh tuổi
thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. Cuộc sống của họ lặnglẽ và nhân ái biết bao.

4. Đánh giá
Như vậy bằng cách kể chuyện tự nhiên, chân thực, truyện ngắn “LLSP” cuả nhà văn
NTL đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Sapa.Thiên
nhiên sapa thì hữu tình thơ mộng còn con người nơi ấy đang thầm lặng cống hiến hết
mình vì đất nước. Dù anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, nhưng bằng cách
đặt nhân vật vào tình huống gặp gỡ tình cờ, qua cảm xúc và đánh giá của mọi người xung
quanh , những chi tiết tiêu biểu… tác giả đã phác họa chân dung nhân vật với những nét
đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa công
việc.
C.Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm

- Cảm xúc của bản thân khi đọc tác phẩm

- Tác phẩm đem đến cho em bài học gì?

Đề 6: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi
sao xa xôi của Lê Minh Khuê.

Dàn ý:
I.Mở bài: Giới thiệu
Lê Minh Khuê là cây bút nữ chuyên viết về truyện ngắn. Truyện của bà thường viết về
cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. ” Những ngôi sao xa xôi”
là tác phẩm đầu tay của bà được sáng tác năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ
đang diễn ra rất ác liệt. Truyện ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của các cô thanh niên xung phong
tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường Trường Sơn. Nổi bật
trong số đó là Phương Định, một cô gái trẻ mơ mộng yêu đời có tinh thần chiến đấu dũng
cảm. Cô đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

II. Thân bài: Phân tích về nhân vật Trương Định


1. Giới thiệu tác phẩm Những ngôi sao xa xôi:
 Tác phẩm nói về 3 cô thanh niên xung phong
 Nhiệm vụ của các cô là phá bom trong thời kỳ chống Mỹ
 Dù công việc của họ rất khó khăn nguy hiểm nhưng họ vẫn lạc quan và yêu đời
 Nêu cao tình thần đồng đội và yêu nước
2. Nhân vật Phương Định trong truyện:

a. Nữ thanh niên xung phong mang phẩm chất anh hùng:


- Phương Định đảm nhiệm một nhiệm vụ vô cùng vất vả và nguy hiểm: Cô thuộc tổ trinh
sát mặt đường trên tuyến đường Trường Sơn; “Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng
đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.
- Quả cảm, kiên cường và giàu lòng yêu nước: Ba năm đảm nhiệm trên tuyến đường
Trường Sơn, phải đảm nhận một công việc mà dẫu đã làm bao nhiêu lần cũng không thể
quen, vẫn luôn thấy căng thẳn đến mức “thần kinh căng như chão” và “tim đập bất chấp
cả nhịp điệu”.
- Phẩm chất anh hùng của Phương Định được Lê Minh Khuê thử thách trong một lần phá
bom nổ chậm. Cô đã thể hiện:
+ Có tinh thần trách nhiệm, quên mình vì công việc: “Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng một
cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không
thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”
+ Bình tĩnh, tự tin chiến thắng nỗi sợ hãi của mình: Khi đến gần quả bom, cô không cúi
khom mà đi thẳng người như một sự thách thức.
+ Dũng cảm, gan dạ đối đầu với những nguy hiểm: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào
quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt”, nhưng cô không hề bỏ
cuộc.
Phương Định là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng, quả cảm, kiên cường của thế hệ nữ
thanh niên xung phong thời chống Mĩ.

b. Một cô gái xinh đẹp, nhạy cảm, lãng mạn:


-Những tưởng bom đạn, chiến tranh khiến cho tâm hồn, cảm xúc của những thanh niên
xung phong trở nên chai sạn, thô ráp. Nhưng Phương Định vẫn hiện lên mang những nét
đẹp trẻ trung và đầy nữ tính.
+ Cô quan tâm tới hình thức bên ngoài: Luôn chăm chút cho ngoại hình và rất tự hào về
một đôi mắt có cái nhình sao mà xa xăm.
+ Cô rất tự tin và tự hào về nét riêng của mình: Cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn
và tự đánh giá về ngoại hình của mình, thấy bản thân mình là một cô gái khá
+ Cô thích làm duyên và đắm mình trong những cảm xúc riêng tư: Thích ngắm mình
trong gương và làm điệu trước mặt các anh bộ đội.
- Cô cũng hồn nhiên, yêu đời và mang một tâm hồn thơ mộng:
+ Trong những khoảng thời gian không làm nhiệm vụ, cô thích hát để quên đi những
căng thẳng và thêm yêu đời: Cứ thuộc một nhịp điệu nào đó thì cô lại tự bịa ra lời bài hát
để ngân nga.
+ Hồn nhiên, vui thích cuống cuồng trước một cơn mưa đá bất ngờ giữa rừng.
+ Thả hồn trong những kỉ niệm xa xôi: Cô nhớ về những căn nhà nhỏ bên quảng trường
thành phố; những khung cửa sổ, những ngôi sao trên bầu trời Hà Nội,… Những kỉ niệm
này đã nuôi dưỡng, sưởi ấm tâm hồn cô trong cuộc chiến gian khổ và khốc liệt.
Phương Định vào chiến trường ba năm, hàng ngày phải đối mặt với khó khăn gian khổ
nhưng cô vẫn giữ gìn vẹn nguyên thế giới tâm hồn mình. Đó chính là biểu hiện của sức
sống mãnh liệt của cô gái trẻ đất Hà Thành.

c. Gắn bó, yêu thương với tất cả đồng đội.


+ Luôn quan tâm, lo lắng cho đồng đội: Khi đồng đội ở trên cao điểm, còn Phương Định
trong hang để trực điện đài cô đã gắt với đội trưởng; sốt ruột chạy ra ngoài một tí;…
+ Yêu thương, chăm sóc chu đáo cho đồng đội như đứa em trong nhà: Cô bóc kẹo cho
Nho ăn; khi Nho bị thương thì lo lắng, chăm sóc tận tình cho Nho và cảm thấy đau đớn
như chính mình bị thương; chỉ muốn bế Nho ở trên tay.
+ Cô rất thấu hiểu những cảm xúc, tâm trạng chị Thao khi Nho bị thương, và coi chị như
người chị cả trong gia đình.
=>Lê Minh Khuê đã xây dựng thành công nhân vật Phương Định, một người thiếu nữ trẻ
trung, mỏ mộng giữa chiến tranh khốc liệt vẫn trsns đầy niềm tin yêu. Cô xứng đáng trở
thành biểu tượng nữ anh hùng trong văn xuôi chống Mĩ.
3. Kết bài
- Ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật sinh động, tác giả đã làm hiện lên cô nữ thanh niên
xung phong vô cùng đáng yêu, trẻ trung và đầy nhiệt huyết, hào hùng.
- Ca ngợi những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xôi mãi lung
linh, tỏa sáng.

PHẦN 2: ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI


Dạng 1 : ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÝ

1. Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, quan điểm nhân sinh (như các vấn đề về nhận thức, về tâm hồn nhân
cách, về các quan hệ gia đình, xã hội, cách ứng xử, lối sống của con người trong xã
hội…).

2. Cách làm:
- Mở đoạn: Giới thiệu khái quát tư tưởng, đạo lý cần nghị luận. Nêu ý chính (vấn đề)
hoặc câu nói về tư tưởng, đạo lý mà đề bài đưa ra.
- Thân đoạn: có nhiều luận điểm. Tuy nhiên cần đảm bảo:
+ Luận điểm 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lý. Bao gồm:
· Giải thích các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen/nghĩa bóng (nếu có)
· Rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng, đạo lý
Thực chất là đi trả lời cho câu hỏi LÀ GÌ?
+ Luận điểm 2: Phân tích, chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý. Dùng dẫn
chứng để chứng minh. Từ đó, chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với
đời sống xã hội.
Thực chất là đi trả lời cho câu hỏi TẠI SAO? NHƯ THẾ NÀO?
+ Luận điểm 3: Bình luận, mở rộng vấn đề, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan
đến tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng, đạo lý đúng trong thời đại này nhưng hạn chế
trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh này nhưng chưa đúng trong hoàn cảnh khác.
Dùng dẫn chứng minh họa.
Thực chất của luận điểm này là trả lời một số câu hỏi nhằm lật ngược vấn đề, nhìn nhận
vấn đề trong nhiều chiều, nhiều góc độ, thấu đáo hơn, tránh áp đặt khiên cưỡng (VD: các
câu hỏi như: có ngoại lệ hay không? Vấn đề có thể đúng/sai trong những hoàn cảnh khác
nhau như thế nào?...)
+ Luận điểm 4: Rút ra bài học nhận thức (đúng hay sai?) và hành động (cần làm gì?).
Đây là một luận điểm nhỏ nhưng là vấn đề cơ bản của nghị luận xã hội bởi mục đích của
việc nghị luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người đọc.
- Kết đoạn: Liên hệ bản thân, đánh giá chung về vấn đề.

3. Cấu trúc của đoạn văn nghị luận:


a. Mở đoạn : Giới thiệu vấn đề cần nghị luận/trích dẫn nhận định (nếu có)
b. Thân đoạn:
Luận điểm Cách làm
1/Giải thích: Nghĩa - Dùng các từ gần nghĩa, cùng trường nghĩa để giải thích
của từ/cụm từ/cả câu - Dùng các từ trái nghĩa đề giải thích
(nghĩa đen, nghĩa hàm - Giải thích bằng cách nêu VD
ẩn) LÀ GÌ?
2/Lý giải vấn đề (TẠI - Để ý vào các từ ngữ trong đề bài, đặt câu hỏi (tại sao?) sẽ tìm
SAO?) được ý bình luận cho riêng mình.
- Lí giải kết hợp với chứng minh. Lưu ý, nên lấy những dẫn chứng
xã hội, người thật việc thật, không nên lấy dẫn chứng xã hội vì dễ
rơi vào xa hoặc lạc đề.
3/ Biểu hiện/hiện Đề cập hai phương diện:
trạng: Vấn đề được - Tích cực: như thế nào?
biểu hiện hoặc đang - Tiêu cực: Tuy nhiên, bên cạnh đó có những biểu hiện, tư tưởng
diễn ra như thế nào trái ngược ntn? Phê phán.
trong đời sống xã hội?
4/ Đánh giá, luận bàn Trả lời một số câu hỏi nhằm lật ngược vấn đề, nhìn nhận vấn đề
vấn đề. trong nhiều chiều, nhiều góc độ, thấu đáo hơn, tránh áp đặt khiên
cưỡng (VD, các câu hỏi như: có ngoại lệ hay không? Vấn đề có
thể đúng/sai trong những hoàn cảnh khác nhau như thế nào?...)
Đây là phần thể hiện bản lĩnh, độ sắc, nhạy của người viết.
5/ Rút ra bài học: Phần này gần với việc đề xuất các giải pháp:
- BH nhận thức + Cá nhân (mỗi người tự ý thức ra sao? Tu dưỡng phẩm chất, đạo
- BH hành động đức?...)
+ Gia đình?
+ Nhà trường?
+ Xã hội (tuyên truyền, tham gia các hoạt động xã hội…)
Lưu ý: - Dẫn chứng phải thuyết phục, thường là NHÂN VẬT – SỰ KIỆN, không dùng dẫn
chứng chung chung.
c. Kết đoạn: Kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động

VD: Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Nguyễn Duy viết:
“ Ta đi trọn kiếp con người
Vẫn không đi hết những lời mẹ ru”.
Câu thơ trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về tình mẫu tử?

Mở đoạn: Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng cao quý trong cuộc đời mỗi
con người, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng mỗi người chúng ta lớn khôn
và trưởng thành. Tình cảm ấy đã được Nguyễn Duy đúc kết thành hai
câu thơ: “ Ta đi trọn kiếp con người
Vẫn không đi hết những lời mẹ ru”.
Hai câu thơ gợi cho ta suy ngẫm về tình mẫu tử trong cuộc đời mỗi
người.
Thân 1. Phân tích và lí giải
đoạn: a. Ý nghĩa của lời mẹ ru: không chỉ là lời ca và giai điệu để dỗ dành trẻ
nhỏ ngủ ngon mà còn là sự thể hiện tâm hồn, tấm lòng người hát ru.
Tiếng ru của mẹ là tình cảm, là ước mong, là lời gửi gắm tâm tình của
người mẹ với con mình. Nó chứa đựng trong đó cả một thể giới tinh
thần mà người mẹ có được và muốn xây dựng cho đứa con:
- Là lời yêu thương: chứa đựng tình yêu vô bờ bến của mẹ dành cho
con. Trong tình yêu ấy, con là tài sản quý giá nhất, là niềm tự hào lớn
đẹp nhất, là cả cuộc sống của người mẹ.
- Là lời cầu nguyện, ước mong: lời ru là sự gửi gắm mong ước về tương
lai của con với sự trưởng thành về thể chất và tâm hồn, sự thành công
trong cuộc sống.
- Là lời nhắn nhủ, khuyên răn, dạy bảo: Chứa đựng trải nghiệm của
cuộc đời người mẹ, sự hiểu biết, khát vọng truyền thụ hiểu biết, kinh
nghiệm của mẹ cho con, sự hiểu biết và kinh nghiệm về đạo làm người,
về lẽ sống ở đời, về lẽ phải cần phải tuân theo, về những giới hạn cần
biết dừng lại, về những cạm bẫy nguy hiểm nên tránh, về những bước
đường mỗi người phải đi qua…
Cho dù là lời yêu thương, lời cầu nguyện hay lời nhắn nhủ thì cũng
là chuẩn bị của người mẹ cho những đứa con trên con đường đời hiện
tại và sau này của nó, sự chuẩn bị không chỉ bằng kiến thức kinh
nghiệm mà bằng cả tấm lòng và tình yêu. Lẽ tự nhiên, trong mỗi người
mẹ luôn bao gồm cả một nhà giáo dục và một phương pháp giáo dục
của trái tim thấm đẫm yêu thương.
b. Không đi hết: Không thấy hết, không dùng hết, không thể hiểu biết
hết, không sống hết những gì mẹ đã chuẩn bị cho con qua lời ru ấy:
- Tấm lòng bao dung vô bờ của mẹ.
- Sự che chở, nâng đỡ, dìu dắt trọn đời của mẹ qua những lời ru.
- Cảm giác thấm thía của người con qua trải nghiệm cuộc đời khi nhìn
nhận lại, cảm nhận lại những gì có được từ lời ru và tình yêu của người
mẹ.
Lời tri ân của người con với mẹ là lời ca ngợi sự vô giá, vô bờ bến
của tình mẫu tử mẹ dành cho con. Câu thơ đọc lên giản dị và thấm thía
đủ để mỗi con người được ngồi lại trong yên tĩnh để cảm động, suy
nghĩ.
2.Bình luận, đánh giá:
a. Vai trò của tình mẫu tử:
- Là môi trường tốt nhất cho sự phát triển của tâm hồn và thậm chí cả trí
tuệ của đứa con.
- Là điểm tựa cho lòng tin, sức mạnh của đứa con trong cuộc sống.
- Là cái gốc thiện, nguồn nuôi dưỡng lương tri, nhân phẩm của con
người trong cuộc đời; có ý nghĩa cảnh giới con người khi đứng trước bờ
vực của lầm lỡ và tội ác.
- Là nơi xuất phát và cũng là chốn về sau cùng của con người trong
cuộc sống đầy bất trắc, hiểm nguy.
b. Biểu hiện của tình mẫu tử: Vô cùng đa dạng phong phú song đều
hướng tới cái đích cuối cùng là cho con, vì con.
c. Thái độ cần có đối với tình mẫu tử: Không chỉ là đón nhận và cần
sống, trải nghiệm và tự điều chỉnh bản thân để góp phần làm toả sáng
giá trị thiêng liêng của tình mẹ trong chính cái kết tinh của tình mẹ
thiêng liêng ấy là tâm hồn và sự sống của bản thân mình.
Kết đoạn: Khẳng định ý nghĩa tầm quan trọng của tình mẫu tử trong cuộc đời mỗi
người và đưa ra lời khuyên thông điệp.

Dạng 2 : ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT SỰ VIỆC HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

1. Khái niệm: Là bàn về một hiện tượng đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội,
mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người (như ô nhiễm môi trường, tai
nạn giao thông, bạo hành gia đình, bệnh vô cảm…). Đó có thể là hiện tượng tốt hoặc xấu,
đáng khen hoặc đáng chê.
2. Cách làm:
- Mở đoạn: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Thân đoạn:
+ Luận điểm 1: Giải thích sơ lược hiện tượng đời sống, làm rõ những từ ngữ, hình ảnh,
khái niệm có trong đề bài (nếu có).
+ Luận điểm 2: Nêu rõ thực trạng, biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng đời sống (thực
tế vấn đề đang diễn ra như thế nào? Có ảnh hưởng ra sao đối với đời sống ? Thái độ của
xã hội đối với vấn đề như thế nào?). Chú ý liên thực tế địa phương để đưa ra những dẫn
chứng sắc bén, thuyết phục. Từ đó, làm nổi bật tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề.
+ Luận điểm 3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng (nguyên nhân chủ quan, nguyên
nhân khách quan, nguyên nhân do thiên nhiên, do con người…).
+ Luận điểm 4: Đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng (chú ý, nguyên nhân nào thì
giải pháp đó). Cần chỉ rõ những việc cần làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi phải phối hợp
với những lực lượng nào?
+ Luận điểm 5: Rút ra 2 bài học: nhận thức và hành động (Nhận thức về vấn đề như thế
nào? Đúng hay sai? Cần phải làm gì?).
- Kết đoạn: Cần khái quát lại vấn đề đang nghị luận, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện
tượng đời sống.

3. Cấu trúc bài làm:


HIỆN TƯỢNG XẤU HIỆN TƯỢNG TỐT
MỞ Nêu vấn đề Nêu vấn đề
ĐOẠN
1. Giải thích hiện tượng 1. Giải thích hiện tượng

2. Nêu biểu hiện, thực trạng (diễn ra 2. Nêu biểu hiện (mô tả lại hiện tượng)
như thế nào? ở đâu?)
3. Nguyên nhân (tại sao?) 3. Nguyên nhân (tại sao?)
4. Tác hại (tác động tiêu cực gì? Chi 4. Tác dụng, ý nghĩa HT
phối như thế nào đến con người, xã
hội…)
THÂN
5. Luận bàn (nhìn nhận của xã hội về 5. Luận bàn: Phê phán hiện tượng trái
ĐOẠN
vấn đề đó như thế nào? Soi vấn đề ở ngược
nhiều góc nhìn, nhìn vấn đề ở tính biện
chứng – lịch sử?...)
6. Giải pháp (cá nhân?, gia đình, nhà 6. Biện pháp nhân rộng HT
trường, xã hội)
7. Rút ra bài học: 7. Rút ra bài học:
- BH nhận thức - BH nhận thức
- BH hành động - BH hành động
KẾT Đánh giá chung về hiện tượng Đánh giá chung về hiện tượng
ĐOẠN
MỘT SỐ ĐỀ BÀI THAM KHẢO
Đề 1: Đọc văn bản sau
CÁI KÉN BƯỚM
Một chàng trai nọ tìm thấy một cái kén bướm. Một hôm anh thấy cái kén hé một
cái lỗ nhỏ. Anh ta ngồi hàng giờ nhìn chú bướm nhỏ cố thoát mình ra khỏi cái lỗ nhỏ xíu.
Rồi anh ta thấy mọi việc không tiến triển gì thêm. Hình như chú bướm không thể cố gắng
hơn được nữa. Vì thế, anh ta quyết định giúp chú bướm nhỏ. Anh ta lấy kéo rạch cho cái
lỗ to thêm.
Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng thân mình nó sưng phồng lên đôi
cánh nhăn nhúm. Còn chàng thanh niên cứ ngồi quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào
đó thân mình chú bướm sẽ xẹp lại và đôi cánh xòe rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình chú.
Nhưng chẳng có gì thay đổi cả! Sự thật là chú bướm đã phải bò loanh quanh suốt
quãng đời còn lại với đôi cánh nhăng nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ
có thể bay được. Có một điều mà người thanh niên không thể hiểu: cái kén chật chội
khiến chú bướm phải nỗ lực mới chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là qui luật tự nhiên tác
động lên đôi cánh và cơ thể của bướm, giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài.
Đôi khi đấu tranh là rất cần thiết trong cuộc sống. Nếu ta quen sống một một cuộc
đời phẳng lặng, ta sẽ mất đi sức mạnh tiềm tàng mà bẩm sinh mỗi người đều có. Và
chẳng bao giờ ta có thể bay được. Vì thế, nếu bạn thấy mình đang phải vượt qua nhiều áp
lực và căng thẳng thì hãy tin rằng sau đó bạn sẽ trưởng thành hơn.
(Dẫn theo Quà tặng của cuộc sống, NXB Trẻ, 2007)
Hãy viết đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận của em về ý nghĩa của câu chuyện
trên.

1. Về kỹ năng: Biết viết đoạn văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý, kết hợp thuần
thục các thao tác lập luận. Văn viết mạch lạc, chặt chẽ. Không mắc những lỗi thông
thường về ngữ pháp, chính tả dùng từ.
2. Về kiến thức:
2.1. Trình bày được cảm nhận về vấn đề câu chuyện nêu ra
Từ câu chuyện Một chàng trai nọ tìm cách “giúp” chú bướm thoát khỏi cái kén bằng cách
khoét to thêm cái lỗ trên cái kén. Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi nhưng hậu quả thật ta
hại; Chú không bao giờ bay được nữa. Câu chuyện gợi lên những suy ngẫm về triết lý
cuộc sống: Đôi khi đấu tranh là rất cần thiết trong cuộc sống. Nếu ta quen sống một cuộc
đời phẳng lặng, ta sẽ mất đi sức mạnh tiềm tàng mà bẩm sinh mỗi người đều có. Và
chẳng bao giờ ta có thể bay được. Học sinh cần phân tích, dẫn chứng thực tế để làm rõ ý
nghĩa trên.
Đề 2: Đọc văn bản sau
Cơn gió và cây sồi
Một cơn gió dữ dội băng qua khu rừng già. Nó ngạo nghễ thổi tung tất cả các sinh
vật trong rừng, cuốn phăng những đám lá, quật gẫy các cành cây. Nó muốn mọi cây cối
đều phải ngã rạp trước sức mạnh của mình. Riêng một cây sồi già vẫn đứng hiên ngang,
không bị khuất phục trước cơn gió hung hăng. Như bị thách thức,cơn gió lồng lộn, điên
cuồng lật tung khu rừng một lần nữa. Cây sồi vẫn bám chặt đất, im lặng chịu đựng sự
giận giữ của cơn gió và không hề gục ngã. Cơn gió mệt mỏi, đành đầu hàng và hỏi:
- Cây sồi kia! Làm sao ngươi có thể đứng vững như thế?
Cây sồi già từ tốn trả lời:
- Tôi biết sức mạnh của ông có thể bẻ gãy hết các nhánh cây của tôi, cuốn sạch đám lá
của tôi và làm thân tôi lay động. Nhưng ông sẽ không bao giờ quật ngã được tôi. Bởi tôi
có những nhánh rễ vươn dài, bám sâu vào lòng đất. Đó chính là sức mạnh sâu thẳm nhất
của tôi. Càng ngày chúng sẽ phát triển càng mạnh mẽ, giúp tôi vững vàng hơn trước mọi
sức mạnh của kẻ thù. Nhưng tôi phải cám ơn ông, cơn gió ạ! Chính những cơn điên
cuồng của ông đã giúp tôi chứng tỏ được khả năng chịu đựng và sức mạnh của mình.
( Quang Kiệt- theo Viva Consulting – Hạt giống tâm hồn - Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ,
NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh)
Viết đoạn văn ( khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu chuyện trên.

1. Hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện:


- Cơn gió: Hình ảnh tượng trưng cho những khó khăn, thử thách, những nghịch cảnh
trong cuộc sống.
- Cây sồi: Hình ảnh tượng trưng cho lòng dũng cảm, dám đối đầu, không gục ngã trước
hoàn cảnh với niềm tin chiến thắng.
- Ý nghĩa của câu chuyện: Trong cuộc sống, con người cần có lòng dũng cảm, tự tin, nghị
lực và bản lĩnh vững vàng trước những khó khăn, trở ngại của cuộc sống.
2. Bức thông điệp từ câu chuyện:
Học sinh tự cảm nhận tìm ra điều tác giả muốn nhắn gửi theo cách hiểu của mình, miễn là
hợp lí. Sau đây là một số gợi ý:
- Trong cuộc sống, luôn tiềm ẩn những khó khăn, trở ngại, những nghịch cảnh khó lường
và chúng có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nếu không có lòng dũng cảm, dám đối mặt với khó
khăn, trở ngại thì khó hoặc không thể vượt qua được.
- Lòng dũng cảm, nghị lực và bản lĩnh vững vàng sẽ tiếp thêm sức mạnh giúp con người
tự tin trước khó khăn, trở ngại, những nghịch cảnh của cuộc đời.
- Dũng cảm dám đối mặt với thử thách, không gục ngã trước hoàn cảnh là chìa khóa của
thành công.
Lưu ý: Trong quá trình lập luận nên có những dẫn chứng về những tấm gương dũng cảm,
không gục ngã trước hoàn cảnh để cách lập luận thêm thuyết phục.
3. Bài học cho bản thân:
- Rèn luyện bản lĩnh, nghị lực vững vàng trước mọi hoàn cảnh.
- Bình tĩnh tìm ra giải pháp cần thiết để từng bước vượt qua khó khăn, trở ngại.
- Nuôi dưỡng niềm tin chiến thắng. Không nên tuyệt vọng, bi quan, chán nản, gục ngã
trước hoàn cảnh.
- Phê phán thái độ, hành động buông xuôi, thiếu ý chí, nghị lực, niềm tin.

Đề 3: Đọc câu chuyện sau:


Một chàng trai đang gặp nhiều khó khăn, anh bị tổn thương và trở nên mất niềm
tin vào cuộc sống. Anh đến hỏi một ông già thông thái. Nghe kể xong, ông chẳng nói lời
nào mà chỉ im lặng đặt chiếc nồi lên bếp, đổ vào nồi một ít nước và cho vào một củ cà
rốt, một cục muối và một quả trứng. Sau khi đun sôi, ông mở nắp và trầm ngâm im lặng
nhìn vào chàng trai. Sau một hồi ông bắt đầu nói:
- Ai sống trên đời cũng phải trải qua khó khăn, thử thách cả. Nhưng điều quan
trọng là sau đó mọi việc sẽ như thế nào?
Hãy nhìn xem cục muối với vẻ rắn chắc bên ngoài nhưng bỏ vào nước là tan, củ
cà rốt cứng cáp khi bị nóng cũng trở nên mềm đi. Còn quả trứng tuy mỏng manh nhưng
khi qua nước sôi nóng bỏng lại trở nên cứng cáp hơn.
(Hạt giống tâm hồn - Từ những điều bình dị, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2012).
Trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu chuyện trên bằng một đoạn văn
ngắn (khoảng nửa trang giấy thi).

- Bài viết có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cơ bản nêu được các ý
sau:
* Tóm tắt và nêu ý nghĩa câu chuyện:
- Tóm tắt: Một chàng trai gặp nhiều khó khăn, bị tổn thương và mất niềm tin vào cuộc
sống. Anh đến hỏi ông già thông thái và được ông cho lời khuyên qua việc được nhìn
thấy quả trứng trở nên cứng cáp sau khi luộc còn muối thì tan, củ cà rốt thì mềm nhũn.
- Ý nghĩa của câu chuyện: Động viên con người ý thức được rằng khó khăn, thử thách
của cuộc sống mới khiến cho con người trưởng thành hơn.

* Giải thích:
- Khó khăn, thử thách: là những trở ngại con người gặp phải trong học tập, trong công
việc. Những trở ngại ấy có khi vượt khả năng, sức lực mỗi người và người ta khó thực
hiện.
Cây chuyện nhắn nhủ mỗi người phải có nghị lực, ý chí để vượt qua những trở ngại mà
bản thân mình gặp phải. Vì không có ai thành công mà không phải đối mặt với khó khăn
trở ngại.

* Bàn luận, mở rộng vấn đề


Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân nhưng cần hợp lí, thuyết phục; dưới đây là
một hướng giải quyết:
- Khẳng định ý kiến hoàn toàn đúng:
+ Sinh ra và sống trong cuộc đời này ai cũng phải đối mặt với khó khăn, trở ngại.
Thành công không tự nhiên mà có - đó là một qui luật tất yếu.
+ Khó khăn của cuộc sống rất đa dạng: đó là những công việc vượt khả năng,
những tình huống nan giải cần con người phải giải quyết; là những thiếu thốn về vật chất;
những bất hạnh về tinh thần; những vấp ngã, thất bại trong học tập, trong công việc; …..
- Mở rộng vấn đề:
+ Có người may mắn sẽ gặp ít khó khăn trở ngại, người thiếu may mắn thì phải
đối mặt với khó khăn nhiều hơn. Tuy nhiên, không gặp trở ngại nào thì người ta không
thể thành công.
+ Hãy chuẩn bị những điều kiện tốt nhất như tri thức, đạo đức,… để có thể vượt
qua thử thách dễ dàng hơn.
+ Mỗi người hãy tiếp sức đồng nghiệp, bạn bè trong hoàn cảnh họ gặp khó khăn.
Có như thế, những khi bản thân ta gặp khó khăn, chúng ta cũng được tiếp sức từ những
người chung quanh.
* Bài học nhận thức và hành động
- Phải có ý chí và nghị lực vượt khó.
- Phải hiểu rằng: gian nan rèn luyện mới thành công.

You might also like