Professional Documents
Culture Documents
Trong suốt chiều dài lịch sử cũng như chiều dài của sự hình thành các nền
văn minh thì yếu tố con người không thể thiếu trong việc góp phần tạo nên bức
tượng đài văn minh huy hoàng cho ngày nay. Ở thời kỳ nào con người cũng có
vai trò vô cùng to lớn trong việc xây dựng và hình thành lên những thành tựu mà
còn lưu truyền tới ngày nay. Nhưng đặc biệt đáng chú ý là trong thời kỳ Phục
Hưng, vai trò của con người lại càng được thể hiện rõ ràng hơn mà người ta
thường ví con người trong thời kỳ này là thước đo của vạn vật.
2. “Con người là thước đo vạn vật trong thời kì Phục hưng” – dẫn chứng
làm sáng tỏ luận điểm.
Với sự đóng góp to lớn đó nên thời kỳ Phục hưng đã trở nên huy hoàng và rực
rỡ hơn bao giờ hết. Bao trùm từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII, thời kỳ này đã để
lại cho nhân loại những thành tựu to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần.
Là một bước tiến dài về văn hóa, văn hóa phong trào Phục hưng đã đạt được
nhiều thành tựu về mọi mặt, đặc biệt là về văn học và nghệ thuật.
Nền văn học Phục hưng về cả 3 thể loại thơ, tiểu thuyết và kịch đều có những
tác phẩm có giá trị gắn liền với tên tuổi nhiều tác giả nổi tiếng.
Trước hết là thơ. Nhà thơ nổi tiếng nhất đồng thời là người mở đầu cho phong
trào Văn hóa Phục hưng là Đantê (1265-1321) với những tác phẩm nổi tiếng như
“ cuộc đời mới”, “thần khúc”... Đante xuất thân trong một gia đình kỵ sỹ suy tàn
ở Phirenxe, cha ông là một luật sư. Đante không chống tôn giáo nhưng căm ghét
giáo hội và giáo hoàng, mong muốn nước Ý được thống nhất.
Tác phẩm trong thời kì đầu của ông là cuộc đời mới. Đây là tác phẩm Đante
viết để tưởng nhớ người bạn gái thời thơ ấu của ông là Bêatơrít (Beatrix).
Beatrix là một cô gái ngây thơ xinh đẹp mà ngay từ hồi 9 tuổi ông đã đem lòng
yêu mến, nhưng về sau vì sự rụt rè, nàng tưởng ông không yêu nên đi lấy chồng
và chẳng may chết sớm. Ông hết sức ân hận và thương xót nên viết tác phẩm
này.
Tác phẩm lớn nhất của Đante là Thần khúc ( La Divine comédie). Tác phẩm
này ông đã viết trong suốt 20 năm sống lưu vong và cho đến khi chết cũng chưa
hoàn thành trọn vẹn. Toàn bộ tập thơ gồm 100 chương, ngoài chương lời tựa,
nội dung chính chia làm 3 phần là điạ ngục, tĩnh giới (nơi rửa tội) và thiên
đường, mỗi phần gồm 33 chương.
Nội dung tác phẩm kể về một giấc mộng trong đó tác giả được nhà thơ nổi
tiếng của La Mã cổ đại là Viếcgiliut dẫn đi xem địa ngục và tĩnh giới, tiếp đó
được Beatrix dẫn đi xem thiên đường. Về hình thức (Thần khúc) giống như một
tập trường ca kiểu cũ, trong đó dùng thiên đường và địa ngục làm bối cảnh và
dùng nhiều điển tích thần học nhưng nội dung tư tưởng hoàn toàn mới.
Tập thơ đã vạch mặt, tố cáo tội ác của bọn giáo hoàng, giáo hội, đồng thời thể
hiện khát vọng tự do trong con người.
Ngoài Đante còn có nhà thơ trữ tình Pêtơraca (1304-1374). Thơ phẩm của ông
tập thơ ca ngợi tình yêu tặng nàng Lôra, người mà ông yêu suốt đời và trở thành
bất tử trong thơ của ông. Tập thơ này được coi là mẫu mực trong thơ trữ tình Ý.
Khi nhắc đến tiểu thuyết, trước hết phải kể đến Bôcaxiô (1313-1373), nhà văn
Ý được đặt ngang hàng với hai nhà thơ Đante và Pêtơraca và được gọi chung là
“ba tác giả lỗi lạc”. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện ngắn mười ngày
(decameron).
Sau khi văn hóa Phục hưng lan rộng sang các nước Tây Âu khác, ở Pháp và
Tây Ban Nha xuất hiện hai nhà văn nổi tiếng, đó là Rabơle và Xécvăngtét
Rabơle (Francois Rabelais 1494-1553) lúc còn nhỏ đi tu, sau ra khỏi tu viện
học ngành y và khoa học tự nhiên, đã từng làm thầy thuốc. Ông còn tinh thông
về các mặt văn học, triết học, pháp luật, thực vật học, kiến trúc. Tác phẩm chủ
yếu của ông là tiểu thuyết trào phúng Gácgăngchuya và Păngtagruyen nội dung
như sau:
Gácgăngchuya là một người khổng lồ. Vừa mới lọt lòng mẹ đã đòi “uống”.
Người ta phải lấy sữa của 170.913 con bò cho uống mới đủ. Con của
Gácgăngchuya là Păngtagruyen cũng là một người khổng lồ. Anh có một người
bạn tên là Panuyếcgiơ. Sau khi đôi bạn này đi đánh thắng giặc ngoại xâm trở
về, Panuyếcgiơ có một băn khoăn là có nên lấy vợ hay không. Không ai giải đáp
được thắc mắc đó, hai người phải đi đến xứ Cate (Trung Quốc) để hỏi lọ nước
thần
Chính trong cuộc hành trình ấy họ đã đặt chân đến nhiều sứ xở kỳ lạ như đến
hòn đảo của những người chuyên giơ lưng chịu đấm để đòi tiền bồi thường, đến
hòn đảo của loài chim chỉ biết hót và ăn cho béo, lại đến hòn đảo của loài mèo
xồm chuyên gia ăn hối lộ... Cuối cùng họ đến được ngôi đền “Lọ nước thần” và
được nghe phán một tiếng “uống!”
Về bề ngoài, tác phẩm này có vẻ hoang đường, nhưng nội dung lại nói về
những người thực, việc thực trong xã hội lúc bấy giờ, đó là giáo hoàng, giáo sĩ,
vua, quan, là cuộc sống lười biếng ăn bám, là những việc làm xấu xa đầy rẫy
trong cuộc sống hàng ngày... Vì vậy đây là một tác phẩm hiện thực phê phán rất
có giá trị.
Xécvăngtét (Miguel de cervantes 1547-1616) là một nhà văn lớn và là người
đặt nền móng cho nền văn học mới ở Tây Ban Nha. Xécvăngtét xuất thân từ một
gia đình quý tộc sa sút, thời trẻ tính thích mạo hiểm, đã tham gia đánh quân Thổ
Nhĩ Ký trong trận Lêpăngtơ ở Hy Lạp (năm 1571). Vì bị thương , ông bị bọn
giặc biển bắt làm tù binh. Sau 5 năm ông trốn thoát được về quê hương, nhưng
từ đó ông ngày càng nghèo túng, phải ra làm một chức quan nhỏ.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đồng thời cũng là một kiệt tác của văn học
thế giới là Đông kisốt (Don Quichotte). Nội dung như sau:
Ông Kixana là một quý tộc nhỏ sa sút, người cao gầy, 50 tuổi vẫn chưa có vợ.
Thế nhưng vì chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết, ông quyết định mình phải trở
thành một hiệp sỹ đi ngao du khắp thiên hạ để dẹp mọi sự bất bình.
Để chuẩn bị lên đường, Kixana tự đặt cho mình một cái tên thật kêu là Đông
Kisốt xứ Măngsơ, lại dụ giỗ được Măngsô một nông dân chất phác làm giám
mã cho mình.
Hơn nữa, để cho đầy đủ tiêu chuẩn của một kị sỹ, ông tôn thờ một cô thôn nữ
làng bên mà ông chưa quen biết làm “bà chúa của lòng mình” và gọi nàng một
cái tên duyên dáng Đuxinê xứ Tôbôxô.
Với bộ trang phục kị sỹ do tổ tiên để lại, Đông kisốt cưỡi một con ngựa gầy
cùng với Xăngsô béo lùn cưỡi một con lừa thấp lè tè bắt đầu bước vào con
đường giang hồ. Từ đó, Đông Kisốt có nhiều hành động vừa buồn cười vừa
đáng thương, như chiến đấu với cối xay gió vì tưởng đó là ma quỷ khổng lồ,
đánh đoàn cừu đang gặm cỏ vì tưởng đó là đoàn quân của tà giáo..., và tất
nhiên Đông Kisốt đều phải trả giá. Cuối cùng, vì đấu kiếm thua hiệp sĩ Vừng
Trăng, và theo lời cam kết ban đầu, Đông Kisốt buộc phải trở về quê cũ, chấm
dứt cuộc đời giang hồ với những việc làm điên rồ của mình.
Trong tác phẩm này, Đông Kisốt được miêu tả thành một người có phẩm chất
cao quý, là kẻ bảo vệ tự do và chính nghĩa. Người nông dân Măngsô cũng được
khắc họa thành người tuy có vẻ ngoài ngây ngô nhưng lại thông minh lanh lợi,
chí công vô tư. Xây dựng người nông dân thành một trong hai nhân vật chính
của tác phẩm và gán cho nhân vật ấy những lời chất tốt đẹp như vậy, đó là điều
hiếm lúc bấy giờ.
Một hình thức khác nữa của văn học đó chính là kịch. Tác giả tiêu biểu của
nghệ thuật kịch thời Phục hưng, đồng thời là người tiêu biểu cho nền văn hóa
Anh thời kì này là Sếchxpia (William Shakespeare, 1564-1616). Trước Sếchxpia
việc diễn kịch trong dân gian ở nước Anh đã rất thịnh hành. Từ năm 1580 về
sau, nghệ thuật kịch nói của Anh ngày càng phát triển. Lúc bấy giờ, ở Luân Đôn
chỉ có 20 vạn người mà có đến 8 rạp kịch.
Kế thừa truyền thống cuả đất nước và tinh hoa của kịch Hy Lạp và La Mã cổ
đại, Sếchxpia đã đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh. Trong 20 năm hoạt động
sáng tác (1592-1612) Sếchxpia đã để lại 36 vở kịch gồm hài kịch (như các vở
Đêm thứ mười hai, Theo đuổi tình yêu vô hiệu, Người lái buôn thành Vênêxia),
bi kịch (như các vở Rômêô và Giuliét, Hămlét, Ôtenlô, Vua Lia, Mácbét...), kịch
sử như Risớt II, Risớt III, Henri IV...
Trong các tác phẩm của mình, Sếchxpia đưa lên sân khấu các nhân vật thuộc
tất cả các tầng lớp trong xã hội từ vua, quan, tướng lĩnh, thương nhân cho đến
con sen, thằng nhỏ... và đã đề cập đến nhiều mặt, nhiều mâu thuẫn phức tạp
trong cuộc sống xã hội vào giai đoạn chế độ phong kiến đang suy tàn và chủ
nghĩa tư bản bắt đầu xuất hiện.
Ngoài văn học ở thời kì này con người còn có nhiều đóng góp trong nghệ thuật.
Cũng như văn học, Ý mà trước hết là Phirenxê là nơi xuất phát đầu tiên của nền
nghệ thuật Phục hưng. Trong hai thế kỉ XIV và XV, nền nghệ thuật ở đây găn
liền với tên tuổi của các họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng như Giốttô (1266-
1337), Maxasiô (1401-1428), Đônatenlô (1386-1466), Vêrôsiô (1435-1488),
Bốttixenli (1444-1510)...
Về điêu khắc, các bức tượng Đavít, Môidơ, Đêm, Người nô lệ bị trói... là
những tác phẩm tương đối tiêu biểu, đặc biệt tượng Đavít tác bằng đá cẩm thạch,
cao 5,30 m. Khác với thần thoại trong kinh thánh, Mikenlăngiơ không thể hiện
Đavít thành một thiếu niên mà thành một lực sĩ đầy sức mạnh. Vì vậy năm 1504,
tượng này được dựng ở Phirenxê để thể hiện tinh thần của kẻ thống trị phải anh
dũng bảo vệ thành phố.
Về kiến trúc, Mikenlăngiơ là người thiết kế đầu tiên nhà thờ Xanh Pie ở La
Mã. Tuy công trình kiến trúc này mãi đến năm 1626, tức là sau khi ông chết 62
năm, mới được hoàn thành, nhưng mái tròn của nhà thờ khác hẳn với mái nhọn
kiểu Gôtích truyền thống.
Raphaen (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài của Ý. Tuy ông chết tương
đối sớm (37 tuổi) nhưng ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Cô gái làm
vườn xinh đẹp, các bức tranh vẽ về thánh mẫu... ông là một họa sĩ có sở trường
về vẽ chân dung, đặc biệt là thể hiện được một cách sống động vẻ đẹp tươi tắn
của các cô gái, vẻ hiền hậu và dịu dàng của người mẹ và nét ngây thơ đáng yêu
của các em bé.
Ngoài Ý, từ thế kỉ XVI về sau, các nước Phlăngđrơ, Hà Lan, Đức, Pháp...cũng
có nhiều họa sĩ nổi tiếng như Mátxít (Quentin Matsys) người Phlăngđrơ, Lucát
đơ Lâyđơ người Hà Lan, Anbrết Đuyrê (Albrecht Diirer) người Đức, Lơ Nanh
người Pháp...đề tài của các tác phẩm của họ thường là những cảnh đẹp trong
thiên nhiên, những hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của những con người
bình thường mà bức tranh “Bữa ăn của những người nông dân” của Lơ Nanh là
một ví dụ tiêu biểu.
Không chỉ có văn học nghệ thuật mà thời kì này con có những thành tựu rực rỡ
về khoa học tự nhiên và triết học.
Thời Phục hưng, các ngành khoa học tự nhiên và triết học cũng có những thành
tựu lớn lao, trong đó đặc biệt quan trong là thiên văn học.
Nhà bác học mở đầu cho bước nhảy vọt trong thời kỳ này là Nicôla côpécních
(1473-1543). Ông vốn là một giáo sỹ người Ba Lan, nhưng qua nhiều năm
nghiên cứu, ông đã nêu ra một thuyết về vũ trụ chống lại thuyết của nhà thiên
văn học cổ đại Ptôlêmê đã ngự trị ở Châu Âu suốt 14 thế kỉ. Ptôlêmê cho rằng
trái đất đứng yên ở trung tâm vũ trụ, mặt trời và các hành tinh quay xung quanh
trái đất. Trái lại, Côpécních cho rằng trung tâm của vũ trụ không phải trái đất mà
là mặt trời, không phải mặt trời quay xung quanh trái đất mà trái đất tự quay
xung quanh nó và quay xung quanh mặt trời; thể tích của trái đất nhỏ hơn thể
tích của mặt trời rất nhiều. Phát hiện mới đó của ông được trình bày trong tác
phẩm Bàn về sự vận hành của các thiên thể. Tác phẩm này ông hoàn thành vào
khoảng năm 1536, nhưng vì sợ bị giáo hội kết tội dị đoan nên mái đến trước khi
chết mấy hôm ông mới công bố (1543).
Người tích cực hưởng ửng học thuyết của Côpécních là nhà tiên văn học và là
nhà triết học Ý Gioócđanô Brunô (1548-1600). Ông cũng vốn là một giáo sĩ,
nhưng khi trong giáo hội cấm lưu hành tác phẩm của Côpécních thì ông lại phát
triển thêm một bước mới cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời không phải là trung
tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ chúng ta, ngoài ra còn có
rất nhiều Thái dương hệ khác. Ông còn chứng minh rằng vật chất luôn vận động,
luôn luôn biến đổi và tồn tại vĩnh viễn.
Một nhà thiên văn học Ý khác Galilê (1564-1642) tiếp tục phát triển quan của
Côpécních và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp
30 lần để quan sát bầu trời. ông đã chứng minh rằng mặt trăng cũng là một hành
tinh giống như quả đất, bề mặt của nó cũng có núi non gồ ghề chứ không phải
nhẵn bóng. Ông còn phát hiện được thiên hà do vô số vì sao tạo thành, giải thích
được cấu tạo của sao chổi. Ông cũng là người mở đầu cho ngành khoa học thực
ngiệm, phát hiện ra các định luật rơi thẳng đứng và dao động của các vật thể.
Đồng thời với Glilê, nhà thiên văn học người Đức Kêplơ (Kepler, 1571-1630)
đã phát minh ra ba quy luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung
quanh mặt trời.
Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lí học, toán học, y học… cũng có nhiều
thành tựu quan trọng gắn với tên tuổi nhiều nhà bác học nổi tiếng. Những phát
minh khoa học tương đối tiêu biểu trong đó là hình học giải tích của nhà toán
học Pháp Đêcáctơ (1596-1650), áp lực của chất lỏng của nhà vật lí học người Ý
Tôrixeli (1608-1647), thuật giải phẫu của nhà y học Nêđéclan Vêdalơ (Vésale,
1514-1564), sự tuần hoàn của máu của nhà y học Anh Havi (Havey, 1578-1657)
…
Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học tự nhiên về lĩnh vực triết học
cũng có một bước tiến quan trọng. Người mở đầu cho trường phái duy vật thời
Phục hưng là Phranxít Bâycơn (Francis Bacon 1561-1626) nhà triết học người
Anh. Ông rất đề cao nhà triết học duy vật người Hy Lạp cổ đại Đêmôcrít, trái lại
kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát và Platông, công kích triết học
công viện chỉ thích sùng bái quyền uy và tín ngưỡng ngẫu tượng...
Ăngghen viết :
“Sát cánh với các vĩ nhân người Ý, thủy tổ của triết học cận đại, khoa học tự
nhiên cũng đã phải cung cấp những người của nó cho cái lò thiêu và ngục tối
của tòa án Tôn giáo”
Là một phong trào cách mạng về văn hóa và tư tưởng, phong trào Văn hóa
phục hưng có những ý nghĩa rất quan trọng:
Bằng tinh thần đấu tranh dũng cảm bất chấp lò thiêu và ngục tối của toà án tôn
giáo, các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa thời Phục hưng đã đánh bại hệ tư tưởng
lỗi thời của phong kiến và giáo hội Thiên chúa, do đó đã giải phóng tư tưởng
tình cảm con người khỏi sự kìm hãm và trói buộc của giáo hội. Từ đó chủ nghĩa
nhân với các nội dung nhân quyền, nhân tính, cá tính ngày càng giữ vai trò chi
phối không những về văn học nghệ thuật mà cả trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Sau một nghìn năm chìm đắm, phong trào Văn hóa Phục hưng là một bước tiến
kì diệu trong lịch sử văn minh trong lịch sử văn minh ở Tây Âu. Các nhà văn
nghệ sĩ, các nhà khoa học, triết học đã đóng góp trí tuệ và tài năng tuyệt năng
của mình vào phong trào văn hóa đó bằng nhưng tác phẩm và công trình bất hủ,
do đó đã làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của nhân loại. Hơn nữa những
công trình văn hóa đó về nhiều mặt là chuẩn mực, là sự mở đầu cho đời sau noi
theo, chẳng hạn như việc khai thác đề tài cuộc sống hiện thực, chú ý đến vẻ đẹp
của con người nhất là phụ nữ trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, hoặc như việc
phát minh ra cách vẽ tranh sơn dầu, luật viễn cận, luật sáng tối trên lĩnh vực hội
họa, hoặc như những quan điểm mới về thiên văn học, những phát minh về y
học… Như vậy, với những dẫn chứng trên đã chứng tỏ vai trò của con người và
một lần nữa lại càng khẳng định rằng “ con người là thước đo vạn vật trong thời
kỳ Phục hưng”.