Professional Documents
Culture Documents
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
---***---
Đồ án môn học chuyên ngành Công nghệ thực phẩm
Nội dung thiết kế
Thiết kế hệ thống cô đặc hai nồi xuôi chiều thiết bị cô đặc tuần hoàn
phòng đốt ngoài dùng cho cô đặc dung dịch đường saccharoze.
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.................................................................................................................
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại công nghiệp hiện nay, công nghệ thực phẩm đóng một vai
trò quan trọng trong việc chế biến và sản xuất các sản phẩm thực phẩm đa dạng.
Quá trình cô đặc dung dịch saccharose là một phần không thể thiếu trong quá
trình sản xuất các loại đường, mật ong và nhiều sản phẩm thực phẩm khác. Sự
hiệu quả và tiết kiệm trong việc cô đặc saccharose có thể đóng góp đáng kể vào
tăng cường năng suất và giảm chi phí sản xuất. Đồ án này tập trung vào việc
thiết kế hệ thống cô đặc 2 nồi xuôi chiều, sử dụng thiết bị cô đặc cưỡng bức.
Phương pháp cô đặc cưỡng bức là một phương pháp hiệu quả và tiết kiệm năng
lượng, sử dụng áp lực và nhiệt độ để tăng cường quá trình cô đặc. Điều này giúp
rút ngắn thời gian cô đặc và giảm lượng năng lượng tiêu thụ so với các phương
pháp truyền thống.
Trong đồ án môn học này của em được chia thành 5 nội dung chính:
Do hạn chế về thời gian, chiều sâu và kiến thực, hạn chế về tài liệu, kinh nghiệm
thực tế và nhiều mặt khác nên không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thiết
kế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, xem xét và chỉ dẫn thêm của thầy cô
giáo và các bạn để đồ án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Phan Thị Quyên đã hướng dẫn em hoàn thành đồ
án này.
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
Trong công nghiệp sản xuất hóa chất và thực phẩm và các ngành công
nghiệp khác nói chung thường phải làm việc với các hệ dung dịch lỏng chứa
chất tan không bay hơi, để làm tăng nồng độ của chất tan người ta thường làm
bay hơi một phần dung môi dựa trên nguyên lý truyền nhiệt, ở nhiệt độ sôi,
phương pháp này gọi là phương pháp cô đặc.
Cô đặc là một phương pháp quan trọng trong công nghiệp sản xuất hóachất,
nó làm tăng nồng độ chất tan, tách chất rắn hòa tan ở dạng tinh thể, thu dung
môi ở dạng nguyên chất. dung dịch được chuyển đi không mất nhiều công sức
mà vẫn đảm bảo được yêu cầu. thiết bị dùng để cô đặc gồm nhiều loại như: thiết
bị cô đặc có ống tuần hoàn trung tâm, thiết bị cô đặc buồng đốt treo, thiết bị cô
đặc loại màng, thiết bị cô đặc có vành dẫn chất lỏng, thiết bị cô đặc phòng đốt
ngoài,thiết bị cô đặc tuần hoàn cưỡng bức,thiết bị cô đặc ống tuần hoàn trung
tâm…..
Tùy từng sản phẩm năng suất khác nhau mà người ta thiết kế thiết bị cô đặc
phù hợp với điều kiện cho năng suất được cao, và tạo ra được sản phẩm như
mong muốn,giảm tổn thất trong quá trình sản xuất.
Quá trình cô đặc của dung dịch mà giữa các cấu tử có chênh lệch nhiệt độ
sôi rất cao thì thường được tiến hành bằng cách tách một phần dung môi. Tuy
nhiên, tùy theo tính chất của cấu tử khó bay hơi ( hay không bay hơi trong quá
trình đó) mà ta có thể tách một phần dung môi (hay cấu tử khó bay hơi) bằng
phương pháp nhiệt hay phương pháp lạnh.
- Phương pháp nhiệt: Dưới tác dụng của nhiệt (do đun nóng) dung môi
chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi khi dung dịch sôi. Để cô đặc các
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
dung dịch không chịu được nhiệt độ ( như dung dịch đường) đòi hỏi cô đặc ở
nhiệt độ thấp, thường là chân không. Đó là phương pháp cô đặc chân không.
- Phương pháp lạnh: Khi hạ nhiệt độ đến một mức độ yêu cầu nào đó thì
một cấu tử sẽ tách ra dưới dạng tinh thể đơn chất tinh khiết – thường là kết tinh
dung môi để tăng nồng độ chất tan. Tùy theo tính chất của các cấu tử - nhất là
kết tinh dung môi, và điều kiện bên ngoài tác dụng lên dung dịch mà quá trình
kết tinh đó có thể xảy ra ở nhiệt độ cao hay thấp và có khi phải dùng đến máy
lạnh.
Cô đặc là quá trình làm bay hơi một phần dung môi của dung dịch chứa
chất tan không bay hơi, ở nhiệt độ sôi với mục đích :
Cô đặc thường được tiến hành ở nhiệt độ sôi dưới mọi áp suất (áp suất chân
không, áp suất thường hoặc áp suất dư), trong hệ thống một hoặc nhiều thiết bị
cô đặc (nồi). Quá trình có thể gián đoạn hoặc liên tục. Hơi bay ra trong quá trình
cô đặc gọi là hơi thứ, thường có nhiệt độ cao, ẩm nhiệt hóa hơi lớn, có thể dùng
làm hơi đốt trong các nồi cô khác. Nếu hơi thứ được sử dụng ngoài hệ thống cô
đặc thì gọi là hơi phụ.
- Cô đặc chân không áp dụng cho các dung dịch có nhiệt độ sôi cao và
dung dịch dễ bị phân hủy bởi nhiệt, ngoài ra còn làm tăng hiệu số nhiệt độ của
hơi đốt và nhiệt độ sôi của dung dịch (gọi là hiệu số nhiệt độ hữu ích). Mặt khác,
cô đặc chân không thì nhiệt độ sôi của dung dịch thấp nên có thể tận dụng hơi
thứ hoặc nhiệt thừa của các quá trình sản xuất khác cho quá trình cô đặc.
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
- Cô đặc ở áp suất cao hơn áp suất khí quyển thường dùng cho các dung
dịch không bị phân hủy ở nhiệt độ cao như các muối vô cơ để sử dụng hơi thứ
cho cô đặc hoặc cho các quá trình đun nóng khác.
- Cô đặc ở áp suất khí quyển hơi thứ không được sử dụng mà được thải ra
ngoài không khí. Đây là phương pháp tuy đơn giản nhưng không kinh tế.
Trong công nghiệp hóa chất và thực phẩm thường làm tăng nồng độ dung
dịch nhờ đun sôi gọi là quá trình cô đặc.
Đặc điểm của quá trình cô đặc là dung môi được tách khỏi dung dịch ở
dạng hơi, còn dùng chất hòa tan trong dung dịch không bay hơi, do đó nồng độ
của dung dịch sẽ tăng dần lên, khác với quá trình chưng cất, trong quá trình
chưng cất các cấu tử trong hỗn hợp cùng bay hơi chỉ khác nhau về nồng độ trong
hỗn hợp.
Hơi của dung môi được tách ra trong quá trình cô đặc gọi là hơi thứ, hơi
thứ ở nhiệt độ cao có thể dùng để đun nóng một thiết bị khác, nếu dùng hơi thứ
đung nóng một thiết bị ngoài hệ thống cô đặc thì ta gọi hơi đó là hơi phụ.
Quá trình cô đặc có thể tiến hành trong thiết bị một nồi hoặc nhiều nồi,làm
việc gián đoạn hoặc liên tục. Quá trình cô đặc có thể thực hiện ở các áp suất
khác nhau tùy theo yêu cầu kỹ thuật, khi làm việc ở áp suất thường (áp suất khí
quyển) thì có thể dùng thiết bị hở; còn làm việc ở các áp suất khác thì dùng thiết
bị kín cô đặc trong chân không (áp suất thấp) vì có ưu điểm là: khi áp suất giảm
thì nhiệt độ sôi của dung dịch cũng giảm, do đó hiệu số nhiệt độ giữa hơi đốt và
dung dịch tăng, nghĩa là có thể giảm được bề mặt truyền nhiệt.
Cô đặc được ứng dụng trong các nhà máy sản xuất hóa chất và thực phẩm,
ví dụ: cô đặc các muối vô cơ,dung dịch kiềm.
Quá trình cô đặc có thể thực hiện trong thiết bị cô đặc một nồi hay thiết bị
cô đặc nhiều nồi, nhưng cô đặc một nồi gây lãng phí nhiên liệu,hiệu quả kinh tế
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
không cao chỉ thích hợp trong quá trình sản xuất đơn giản,nên người ta thường
chọn cô đặc nhiều nồi.
Các thiết bị cô đặc rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên ta có thể phân
loại theo 1 số đặc điểm sau:
- Theo nguyên lý làm việc: Có 2 loại thiết bị cô đặc làm việc theo chu kỳ
và làm việc liên tục.
- Theo áp suất làm việc bên trong thiết bị: Chia ra 3 loại: Thiết bị làm việc
ở Pdư, Pck…
- Bộ phận nhận nhiệt: Ở thiết bị đốt nóng bằng hơi nước, bộ phận nhận
nhiệt là dàn ống gồm nhiều ống nhỏ trong đó hơi nước ngưng tụ ở bên ngoài các
ống, truyền nhiệt cho dung dịch chuyển động bên trong các ống.
- Không gian để phân ly: Hơi dung môi tạo ra còn chứa cả dung dịch nên
phải có không gian lớn để tách các dung dịch rơi trở lại bộ phận nhiệt.
- Bộ phận phân ly: Để tác các giọt dung dịch còn lại trong hơi.
Cấu tạo của một thiết bị cô đặc cần đạt các yêu cầu sau:
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
- Thích ứng được các tính chất đặc biệt của dung dịch cần cô đặc như: Độ
nhớt cao, khả năng tạo bọt lớn, tính ăn mòn kim loại.
- Bào đảm tách các khí không ngưng còn lại sau khi ngưng tụ hơi đốt.
Cô đặc nhiều nồi là quá trình sử dụng hơi thứ thay hơi đốt, do đó có ý
nghĩa về mặt sử dụng nhiệt.
Nguyên tắc cô đặc nhiều nồi có thể tóm tắt như sau:
Nồi thứ nhất dung dịch được đun bằng hơi đốt; hơi thứ nhất của nồi này
vào đun nồi thứ hai. Hơi thứ của nồi thứ hai được đưa vào nồi thứ ba, ..., hơi thứ
của nồi cuối cùng được đưa vào thiết bị ngưng tụ. Dung dịch đi vào lần lượt từ
nồi nọ sang nồi kia, qua mỗi nồi dung môi được bốc hơi một phần, nồng độ của
dung dịch tăng dần lên.
Điều kiện cần thiết để truyền nhiệt trong các nồi là phải có chênh lệch nhiệt
độ giữa hơi đốt và dung dịch sôi, hay nói một cách khác là phải có chênh lệch áp
suất giữa hơi đốt và hơi thứ trong các nồi. Nghĩa là, áp suất làm việc trong các
nồi phải giảm dần vì hơi thứ của nồi trước làm hơi đốt của nồi sau. Thông
thường thì nồi đầu làm việc ở áp suất dư, còn nồi cuối cùng làm việc ở áp suất
chân không.
Cô đặc nhiều nồi có hiệu quả kinh tế cao về sử dụng hơi đốt so với một nồi.
Vì nếu ra giả thiết rằng cứ một kg hơi đưa vào đốt nóng thì làm bay hơi được
một kg hơi thứ. Như vậy, cứ một kg hơi đốt đưa vào nồi đầu sẽ làm bốc hơi
được số kg thứ tương ứng với số nồi trong hệ thống cô đặc nhiều nồi, hay nói
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
một cách khác là lượng hơi đốt làm bốc hơi một kg hơi thứ tỷ lệ nghịch với số
nồi. Dưới đây là số liệu về lượng tiêu hao hơi đốt theo 1kg hơi thứ:
Qua số liệu này cho thấy, lượng hơi đốt giảm đi theo số nồi tăng nhưng
không giảm theo tỉ lệ bậc 1 mà từ nồi 1 lên nồi 2 giảm 50%, còn từ nồi 4 lên nồi
5 giảm đi 10%, thực tế từ nồi 10 lên nồi 11 giảm đi không quá 1% nghĩa là xét
về mặt hơi đốt hệ thống cô đặc nhiều nồi không thể quá 10 nồi.
Mặt khác số nồi tăng thì hiệu số nhiệt độ có ích giảm đi rất nhanh do đó bề
mặt đun nóng của các nồi sẽ tăng.
Vì vậy, cần lựa chọn số nồi thích hợp cho hệ thống cô đặc nhiều nồi.
Quá trình cô đặc saccharose là quá trình loại bỏ một phần nước từ dung dịch
saccharose để tăng nồng độ đường. Quá trình này thường được áp dụng trong ngành
công nghiệp thực phẩm để sản xuất các sản phẩm như đường, kẹo, mật ong và nhiều
loại thực phẩm khác.
Phản ứng cô đặc saccharose diễn ra thông qua quá trình hơi hóa nước từ dung dịch
saccharose. Khi áp dụng nhiệt và áp suất, nhiệt độ của dung dịch tăng và nước bên
trong dung dịch bắt đầu chuyển từ trạng thái lỏng sang hơi. Quá trình này được thực
hiện trong các thiết bị cô đặc như nồi cô đặc hoặc thiết bị cô đặc cưỡng bức.
Trong thiết bị cô đặc cưỡng bức, áp suất cao và nhiệt độ được áp dụng để tăng cường
quá trình cô đặc. Áp suất cao giúp nước trong dung dịch saccharose chuyển từ trạng
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
thái lỏng sang hơi ở nhiệt độ cao hơn so với áp suất không khí thông thường. Điều này
giúp tăng tốc quá trình cô đặc và giảm thời gian cần thiết để đạt được nồng độ đường
mong muốn.
Khi nước trong dung dịch saccharose bốc hơi, nồng độ saccharose trong dung dịch
tăng lên theo thời gian. Quá trình cô đặc tiếp tục cho đến khi đạt được nồng độ đường
mong muốn hoặc khi đạt được mức cô đặc cần thiết cho quá trình sản xuất sản phẩm
thực phẩm cụ thể.
Các đại lượng tăng: khối lượng riêng dung dịch, độ nhớt, tổn
thất nhiệt do nồng độ, nhiệt độ sôi.
b. Biến đổi tính chất hoá học:
Thay đổi pH môi trường: thường là giảm pH do các phản ứng phân
hủy amit (Vd: asparagin) của các cấu tử tạo thành các acid.
Đóng cặn dơ: do trong dung dịch chứa một số muối Ca2+ ít hoà tan ở
nồng độ cao, phân hủy muối hữu cơ tạo kết tủa.
Phân hủy chất cô đặc.
Tăng màu do caramen hoá đường, phân hủy đường khử, tác dụng
tương hỗ giữa các sản phẩm phân hủy và các amino acid.
Phân hủy một số vitamin.
c. Biến đổi sinh học:
Tiêu diệt vi sinh vật (ở nhiệt độ cao).
Hạn chế khả năng hoạt động của các vi sinh vật ở nồng độ cao.
Yêu cầu chất lượng sản phẩm và giá trị sinh hóa:
Thực hiện một chế độ hết sức nghiêm ngặt để:
Đảm bảo các cấu tử quý trong sản phẩm có mùi, vị đặc trưng
được giữ nguyên.
Đạt nồng độ và độ tinh khiết yêu cầu.
Thành phần hoá học chủ yếu không thay đổi.
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
2. Sơ đồ hệ thống:
Hình 1.1: Sơ đồ thiết bị cô đặc hai nồi xuôi chiều tuần hoàn cưỡng bức
Chú thích:
- 2. Bơm
- 3. Thùng cao vị
- 4. Lưu lượng kế
- 6. Thiết bị cô đặc
- 7. Thiết bị cô đặc
Hệ thống cô đặc xuôi chiều ( hơi đốt và dung dịch đi cùng chiều với nhau từ
nồi nọ sang nồi kia ) được dùng khá phổ biến trong công nghiệp hóa chất.Loại
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
này có ưu điểm là dung dịch tự chảy từ nồi trước sang nồi sau nhờ sự chênh lệch
áp suất giữa các nồi. Nhiệt độ sôi của nồi trước sang nồi sau , do đó , dung dịch
đi vào mỗi nồi ( trừ nồi 1 ) đều có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ sôi , kết quả là dung
dịch đi vào sẽ được làm lạnh đi và lượng nhiệt sẽ bốc hơi thêm một lượng hơi
nước gọi là quá trình tự bốc hơi.Nhưng khi dung dịch vòa nồi đầu có nhiệt độ
thấp hơn nhiệt độ sôi của dung dịch , thì cần phải đun nongd dung dịch , do đó
tiêu tốn thêm một lượng hơi đốt .Vì vậy , khi cô đặc xuôi chiều , dung dịch trước
khi vào nồi nấu cần được đun nóng sơ bộ bằng hơi phụ hoặc nước ngưng tụ.
Thiết kế phân xưởng cô đặc 2 nồi xuôi chiều thiết bị cô đặc tuần hoàn cưỡng bức
xd 13 ,5
W¿ Gđ(1- ) = 10322( 1- ) ¿ 6352 kg/h
xC 35 ,1
lượng hơi thứ bốc ra ở mỗi nồi bằng cách giả thiết mức phân phối lượng hơi
thứ bốc ra ở các nồi.
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
w1 1 ,1 11 11w2
Giả sử W1¿1,1 ; W2¿1,15 thì = = => W1¿ (1)
w2 1, 15 11, 5 11.5
W¿ W1 + W2 ¿ 6352 (2)
Ở nồi 1: W1 ¿ 3502,783
nồng độ cuối của dung dịch trong mỗi nồi theo công thức:
xd
8
Ở nồi 1: x1¿ Gđ G −∑ w ¿ 10260 =12,147 %
d j 10260−3502,783
J=1
xd Gđ ⋅ x đ
Ở nồi 2 : x2¿ Gđ G −∑ w = Gđ −(W 1 +W 2 ) =27,956%
d j
J=2
chênh lệch áp suất chung của hệ thống ∆ P (là hiệu số giữa áp suất hơi đốt sơ
cấp p1 ở nồi 1 và áp suất hơi đốt thứ trong thiết bị ngưng tụ pnt)
xđ
x i=Gđ . i
(%)
G đ −∑ W j
j=1
G đ ×x đ 2870×0,135
x 1=
G đ −W 1 2870−883,1
Nồi 1: = = 19,5 %
Gđ ×x đ 2870×0,135
x 2=
Gđ −(W 1 +W 2 ) 2870−(883 ,1+883 ,1)
Nồi 2: = = 35,1 %
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
Trong đó :
ΔP 1 2 , 6
= ⇒ ΔP 1=2, 6 ΔP 2
ΔP 2 1
Ta có :
Nồi 1 : P1 = 4 (at)
Nồi 2 : P2 = P1 - ΔP1 = 4 – 2,6793 = 1,3207 (at)
P1=4 at ⇒t 1=142,9° C
P2=1,3207 at ⇒t 2=106,92° C
Pnt =0,29at ⇒t nt=67,8° C
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
Nhận xét: Hơi thứ của nồi 1 được dẫn sang nồi 2 và trở thành hơi đốt của
nồi 2, hơi thứ của nồi 2 đi sang thiết bị ngưng tụ.Quá trình này sẽ chịu tổn thất về nhiệt
độ do trở lực học trên ống dẫn gây ra.
Do đó :
- Nhiệt độ của hơi đốt nồi sau bằng nhiệt độ của hơi thứ nồi trước trừ đi
1℃.
- Nhiệt độ hơi thứ nồi cuối cùng bằng nhiệt độ hơi ngưng tụ của thiết bị
baromet cộng thêm 1℃.
Gọi:
Dựa vào nhiệt hơi thứ, tra bảng (I.251 – ST1- T.314), ta được :
Dựa vào các dữ kiện trên và tra sổ tay quá trình thiết bị tập 1 ta có bảng sau:
Nhận xét: Tổn thất nhiệt độ trong thiết bị cô đặc bằng tổn thất nhiệt độ do
nồng độ dung dịch tăng cao, do áp suất thủy tĩnh và do trở lực thủy lực trong
ống dẫn của các nồi.
Nhiệt độ sôi của dung dịch phụ thuộc vào tính chất của dung môi chất tan,
đặc biệt là nồng độ chất tan. Nhiệt độ của dung dịch luôn lớn hơn nhiệt độ sôi
của dung môi nguyên chất ở cùng áp suất. Khi nồng độ của chất tan tăng thì
nhiệt độ sôi của dung dịch càng tăng.
Δ i’ là tổn thất nhiệt độ của dung dịch so với dung môi nguyên chất, trong cô
đặc thường được gọi đó là tổn thất nồng độ. Δi’ là thông số vật lý của dung dịch,
nó phụ thuộc vào nồng độ chất tan, nồng độ càng tăng thì Δ i’ càng tăng, nó còn
phụ thuộc vào bản chất chất tan và dung môi đồng thời Δi’ phụ thuộc vào áp
suất.
Δ i’ được tính theo công thức dần gần đúng của Tysenco:
Trong đó:
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
’o : tổn thất nhiệt độ do nhiệt độ sôi của dung dịch lớn hơn nhiệt độ sôi
của dung môi ở áp suất thường.
r’: nhiệt độ hóa hơi của dung môi nguyên chất ở áp suất làm việc, J/kg.
Tra bảng độ bão hòa của dung dịch tìm được N (I.219 ST1 – T268):
'
Δ 0=0 , 52.67 , 1=34,892
i 1=602 , 14
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
i 2=¿449,02
'
i 1=¿ 453,1
'
i 2=254 ,3
H ρs . g
Ptb =P ' i +(h1 + ). (at )
2 9 , 81.10 4
Trong đó:
h1: chiều cao của lớp dung dịch sôi kể từ miệng trên của ống truyền nhiệt
(m).
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
s =0.5 dd(20˚C) ( với dd là khối lượng riêng của dung dịch )
Khối lượng riêng của dung dịch đường ứng với mỗi nồng độ được xác định
theo bảng (I.22─ST1 – T58):
1054 , 64
s1= 2 = 527,32 (kg / m3)
1128 , 98
s2= 2 = 564,49 (kg / m3)
4 527 , 32
Ptb 1=1 ,37+(0 , 5+ ) . .9 ,81=1,5018(at )
2 9 , 81.1 04
4 564 , 49
Ptb 2=0,2104+(0 , 5+ ) . .9 ,81=0,3515(at)
2 9 , 81.1 04
Trong đó:
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
Thay số ta có:
Δ t h i = Δ t c h− ∑ Δ
Trong đó:
tch : hiệu số nhiệt độ chung giữa hiệu số nhiệt độ hơi đốt nồi 1 và nhiệt độ
ngưng ở thiết bị ngưng tụ.
Δ t h i=83 , 2−17,668=65,532 °C
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa
, , ,,
t s 2=t 2+ Δ2 + Δ 2
| || |
∆ t hi 65,532
∆ T 1− 31,907−
2 2
ε= = =2 ,62 % <5 %
∆ t hi 65,532
2 2
Qm1 Qm2
Dθ1Cn1 W1Cn2θ2
Trong đó:
i,i1,i2: lần lượt là hàm nhiệt của hơi đốt, hơi thứ nồi 1, hơi thứ nồi 2 ,(J/kg).
Cd: nhiệt dung riêng của dung dịch đầu ,(J/kg độ).
C1, C2: nhiệt dung riêng của dung dịch ra khỏi nồi 1 và nồi 2 , (J/kg độ).
Cn1, Cn2: nhiệt dung riêng của nước ngưng ở nồi 1 và nồi 2 ,(J/kg độ).
Nồi 2:
Nồi 1:
Nồi 2:
W 1 (i 1−C 1 t s 1 )+ Gd (C 1 t s 1−C d t s 0)
D=
0 , 95(i−C n1 θ1)
(5)
θ1=t 1=142 , 9 ° C
Trường ĐHCN Hà Nội Khoa Công nghệ Hóa