Professional Documents
Culture Documents
● Một tâm thế nhàn, thả lỏng, thảnh thơi: tựa gối buông cần lâu chẳng được (đi câu cốt không để kiếm cá
ăn)
● Cá đâu đớp động dưới chân bèo: có 2 cách hiểu chữ đâu:
1. đâu đó (quanh đây): tính chất khẳng định, có cá đớp nhưng tiếng động rất nhỏ khó phát hiện
2. đâu mang nghĩa phủ định, đâu có cá, làm gì có cá đớp quanh đây.
→ Thủ pháp lấy động nói tĩnh không phá vỡ cái tĩnh lặng, mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch
của cảnh vật
* Trong bức tranh, con người dường như ẩn kín sau cảnh vật, hòa tan vào thiên nhiên, đất trời. Giống như trong
bài thơ Uống rượu mùa thu, chỉ tả ngôi nhà chứ không kể người ngồi trong nhà
Năm gian nhà nhỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Ở bài thơ này cũng vậy, chỉ thấy chiếc thuyền câu bé nhỏ chứ không nhắc đến người ngồi thuyền, chỉ nói đến
hành động “tựa gối buông cần” mà không nhắc đến ai ngồi câu.
Dù theo cách nào cũng thấy nhà thơ về ở ẩn ở quê nhà để giữ trọn vẹn nhân cách của mình nhg tấm lòng ông
vẫn cứ canh cánh một mối bận tâm (người câu cá bận lòng về thời cuộc, về ứng xử đạo đức trong bối cảnh đất
nước mất tự do; trong Thu vịnh nhà thơ cũng đã viết Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào)
Nguyễn Khuyến có một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước nhưng cũng chất chứa một nỗi cô quạnh,
uẩn khúc của một con người yêu nước thầm kín mà sâu sắc.
C. Bài Thương vợ - Tú Xương
1.Hai câu đề: Kể về công việc làm ăn và gánh nặng mà bà Tù phải đảm đương
- Quanh năm: Cách tính thời gian vất vả, triền miên, hết năm này sang năm khác
- Mom sông: Phần đất ở bờ sông nhô ra phía lòng sông → địa điểm làm ăn nguy hiểm, chênh vênh, bấp bênh,
không ổn định, gian nan, khó nhọc
- Nuôi đủ 5 con với 1 chồng:
+ Nuôi đủ: không thiếu cũng chẳng thừa
+ 5 con với 1 chồng: Bà Tú nuôi 6 miệng ăn, ở đây, cách đếm khác với cách đếm thông thường, ý đặt ngang
hàng đàn con đông đúc chưa đỡ đần gì được cho mẹ với ông chồng vô tích sự không giúp gì đc cho vợ
→ Nhấn mạnh vai trò trụ cột của bà Tú trong gia đình.
Công lao to lớn cũng như sự đảm đang, tháo vát, chu đáo, khéo vun vén của bà Tú đối với chồng con. Hai câu
thơ còn là nụ cười tự trào của ông Tú. Ông Tú hiểu tình thế của mình nên tự coi mình là một đứa con đặc biệt
cần được bà Tú nuôi và chăm sóc, tự nhận thấy sự bất tài vô dụng của mình.
2. Hai câu thực: Đặc tả cuộc sống tảo tần, buôn bán ngược xuôi của bà Tú
- Câu 1: Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của bà Tú, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về nỗi
vất vả của bà Tú.
+ Thân cò: NT ẩn dụ cho thân phận vất vả, đơn chiếc khi kiếm ăn.
+ Khi quãng vắng: Cảnh kiếm sống chứa đầy những lo âu, nguy hiểm (so sánh với nơi quãng vắng: không thấy
được sự rợn ngợp của thời gian và không gian)
+ Đảo ngữ lặn lội lên đầu
- Câu 2: Sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
+ Eo sèo là từ tượng thanh, nghĩa là có nhiều người nói ồn ào, gợi âm thanh xô bồ → Eo sèo mặt nước: cảnh
chen chúc, xô đẩy, giành giật, lời qua tiếng lại của những người buôn bán trên sông nước, là bức tranh thủ nhỏ
của cuộc đời
+ Buổi đò đông: không chỉ có những lời phàn nàn, những chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc
- Nghệ thuật đối và đảo ngữ: nhấn mạnh sự vất vả, sự hi sinh lớn lao của bà Tú đối với gia đình
- Cách ngắt nhịp 4/3 cho thấy tất tả, vội vã, nặng nhọc trong công việc của bà Tú
Hai câu thơ nói thực cảnh của bà Tú nhưng cũng cho thấy thực tình của ông Tú: nỗi xót thương da diết, thấm
đẫm tình yêu thương, thấu hiểu cho sự vất vả ấy nhưng không giúp đỡ được gì.
* Thân cò và đò đông là những hình tượng nghệ thuật của văn học dân gian truyền thống.
Nhà thơ viết về một đề tài không có tiền lệ (việc buôn bán tần tảo của người vợ) nên không thể vay mượn điển
tích điển cố có sẵn của văn học truyền thống phương Đông (Nho giáo vốn coi khinh việc buôn bán) mà buộc
phải tìm đến truyền thống văn học dân gian.
3. Hai câu luận: Bà Tú là người giàu đức hi sinh
- Một duyên hai nợ:
+ Duyên: xuất phát từ quan niệm của đạo Phật, là yếu tố tiền định gắn kết giữa hai con người với nhau
→ Duyên thì ít mà nợ thì nhiều nghĩa là vì tình nghĩa vợ chồng mà bà Tú chấp nhận hi sinh
- Năm nắng mười mưa: nắng, mưa chỉ sự vất vả; số đến năm, mười mang tính chất phiếm chỉ, ý chỉ nhiều, được
tách ra tạo nên một thành ngữ đan chéo
- Cả hai cụm đặt trong thế đối với Âu đành phận, dám quản công: sự lặng lẽ cam chịu, chấp nhận sự vất vả vì
chồng con nói của bà Tú, không một lời phàn nàn, than thân, oán trách số phận
→ Cho thấy đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng con của bà Tú, cùng với đó ông Tú tự coi mình là
món nợ đời mà bà Tú phải gánh chịu, không dựa vào duyên số để dứt bỏ trách nhiệm
Sự quên mình vì chồng con của bà Tú là một phẩm chất đáng trân trọng của bà Tú nói riêng và của người phụ
nữ Việt Nam nói chung trong truyền thống thời xưa.
4. Hai câu kết: Nhân cách của tác giả qua lời tự trách
- Thói đời: tiếng xấu, tiền lệ xấu, thành kiến, dư luận, là nguyên nhân sâu xa khiến cho những nhà thơ như ông
trở thành những kẻ vô dụng khiến bà Tú phải khổ
→ Cha mẹ thói đời: Tú Xương chửi đời
- Bạc: bạc bẽo, ăn ở bạc: ăn ở đối xử với nhau tệ hại, k ra gì
→ Tú Xương tự chửi, tự rủa mạt mình ăn ở với vợ bạc bẽo không ra gì.
- Có chồng hờ hững cũng như không: lực bất tòng tâm, không giúp gì được cho vợ để vợ phải vất vả mưu sinh
nuôi cả gia đình, tự chửi cũng là một cách để chuộc lỗi với vợ.
Hai câu kết cho thấy sự ân tình mà chân thật của ông Tú dành cho bà Tú và sự bế tắc rơi vào bi kịch của những
nhà nho như ông không đủ bản lĩnh để vứt bỏ bút nghiên tàu mực để giúp vợ.
* Tiếng chửi của Tú Xương thể hiện nhân cách của ông, một người luôn biết nghĩ cho người khác cũng giống
như Thúy Kiều nào đâu có phụ bạc với Kim Trọng mà lại thốt ra Vì ta khăng khít cho người dở dang hay Thôi
thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
- Xã hội xưa trọng nam khinh nữ, Tú Xương là một nhà nho lại dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời,
dám tự thừa nhận mình là quan ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót mà còn dám tự nhận khiếm
khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.
* Cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ Trần Tế Xương rơi vào đúng giai đoạn có nhiều biến động, đau thương nhất
của lịch sử dân tộc và xã hội Việt Nam: mất Nam Kỳ, Bắc Kỳ rồi thực dân đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt
Nam; xã hội phong kiến mục ruỗng nhưng chưa chết hẳn lại manh nha một xã hội mới nhố nhăng hơn… Những
nỗi đau, buồn, phẫn uất riêng của Tú Xương đã hòa chung với nỗi đau của dân tộc, nhân dân thời bấy giờ. Và
thế là, cái xã hội ấy đã đi vào thơ Tú Xương hầu như nguyên vẹn cả hình hài, từ sự tha hóa của nhiều bộ phận xã
hội trước ma lực của đồng tiền đến “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” của tầng lớp nho sĩ cuối mùa, vừa muốn giữ vẻ oai
nghiêm, chững chạc vốn có, vừa lom khom chen lấn để có tí chút quyền lực và của cải. Cả đời, Tú Xương hầu
như làm thơ trào phúng về bao cái mới quái gở đó. Nhà thơ vạch trần, đả kích thẳng tay và khi cần gọi tên, điểm
mặt.
Tính khái quát của thơ trào phúng của Tú Xương cũng khá cao, vì thế cái xã hội cụ thể mà ông nói đến là xã hội
Vị Hoàng, Nam Định, song cũng là cái xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Bên cạnh phần lớn thơ trào phúng, Tú Xương còn để lại nhiều bài thơ trữ tình thắm thiết. Điều này phản ánh bản
chất, cốt cách của nhà thơ, một người giàu lòng yêu thương, luôn thao thức với đời và cũng hết sức chân thật khi
tự trách mình. Có người đã tôn Tú Xương là “nhà thơ thiên tài” Còn Xuân Diệu cho sự tồn tại của Tú Xương
trong văn chương dân tộc là vĩnh hằng.