Professional Documents
Culture Documents
Dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học:
Dàn ý chung phần thân bài như sau:
Thao tác Nội dung Mức độ tư duy:
1. Mở bài: Tùy theo yêu cầu của đề để có những hướng tiếp cận mở bài khác
nhau.
2. Thân bài:
2.1. Giải thích:
– Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình ảnh khó hiểu trong nhận định.
– Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở đây là gì? (Đọc – Hiểu)
22. Bàn luận:
– Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải vấn đề nghị luận.
– Trả lời cho câu hỏi “vì sao?” (Vận dụng Tổng hợp)
2.3. Chứng minh:
– Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các biểu hiện của vấn đề nghị luận.
(Phân tích)
+Luận điểm 1:
+Luận điểm 2:
+Luận điểm 3:
…………
2.4. Đánh giá:
– Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.
– Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có) (Đánh giá)
2.5. Liên hệ:
3. Kết bài.
Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình vận dụng sáng tác và bạn đọc trong
quá trình tiếp nhận.
Khi làm bài, cần vận dụng linh hoạt các bước trên nhưng nhất thiết phải có đầy
đủ các thao tác này để bài viết không bị mất điểm.
Ví dụ:
Câu 2 (12 điểm)
Bàn về thơ có ý kiến: Bài thơ hay là bữa tiệc ngôn từ. Trong khi đó lại có ý
kiến cho rằng: Gốc của thơ là tình cảm.
Hãy bình luận và làm sáng tỏ những nhận định trên qua bài thơ “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính”
+Thành công đầu tiên của Phạm Tiến Duật trong Bài thơ về tiểu đội xe không
kính là đã xây dựng được một hệ thống ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu sôi nổi, chất
liệu thơ chân thực, gần gũi, gợi cảm. Ngôn ngữ của bài thơ gần gũi với lời nói thường,
mang tính khẩu ngữ, tự nhiên, sinh động và khỏe khoắn:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
“Không có kính, ừ thì có bụi”
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
+Giọng điệu tự nhiên, trẻ trung, có vẻ tinh nghịch pha một chút ngang tàng, rất
phù hợp với những đối tượng miêu tả:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
=>Ngôn ngữ và giọng điệu ấy rất phù hợp với việc khắc họa hình ảnh những
chiến sĩ lái xe trẻ trung hiên ngang, bất chấp nguy hiểm, khó khăn. Đó là những người
lính tươi trẻ, yêu cuộc đời, yêu đất nước, tinh thần tràn đầy niềm tin tưởng, quyết
chiến đấu, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
+Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của
các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự
nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Phạm Tiến Duật đã không hề cầu kì hay thi vị
hóa đơn điệu hình ảnh những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe.
Bởi với ông, cuộc đời ấy đã quá đẹp, rất thơ, rất mạnh mẽ, không cần tô vẽ gì mà vẫn
tỏa sáng.
+Tác giả còn kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu
thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. và linh hoạt trong nghệ thuật biểu hiện. Những
yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh
người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.
+Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ
nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng,
tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
=>Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang
tàn, hóm hỉnh. Cấu trúc:“không có…”; “ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các
từ ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của
người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Ở
họ, những trở ngại của thiên nhiên và điều kiện chiến đấu không thể làm họ sờn lòng.
Ngược lại, nó càng làm cho họ thêm hứng thú, quyết tâm vươn lên hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ. Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ
nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ“nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai.
Lời thơ nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe.
Cuộc sống chiến đấu của người lính tràn đầy niềm vui ngay trong hoàn cảnh
khắc nghiệt, hiểm nguy.
=>Qua nghệ thuật biểu hiện, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất
thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi,
khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
Luận điểm2. Gốc của thơ là tình cảm, trong bài thơ về tiểu đội xe không
kính còn thể hiện ở sự ngợi ca ngợi những vẻ đẹp tâm hồn người lính.
_ Tư thế ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, tự tin:
+ Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính
chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao
khó khăn nguy hiểm: nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường
chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như
sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi,
thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong
buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ
thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
+ Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ
không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần
các anh vẫn vững vàng.... “ung dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung
dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ
trên những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn”
cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của
người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với
“Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía
trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với
những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả
thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm
trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe
với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư
thế như vậy.
⇒ Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những
người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung,
hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc
chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn
lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe
vun vút chạy trên đường.
-Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc
quan hồn nhiên, yêu đời của người lính trẻ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử
thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ
thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi,
mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện
cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
+ Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các
anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc
nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận
tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu
thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi,
ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp
nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ
hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần
của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem
hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết
tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc
câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh
xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng
gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất
thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hoà trong những hình
ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên
đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy
thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ
đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống
trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm
tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một
hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải
chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ
gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng
của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét
rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư,
khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy
rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những
con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
Tác phẩm đích thực là sự kết hợp của hai yếu tố trên {bữa tiệc ngôn từ và tình
cảm} mới có thể tạo nên sự xuất thần cho thơ.Nhà thơ không ngừng trải nghiệm lắng
nghe rung cảm của đời để tạo được cái gốc tình cảm cho thơ, và không ngừng mài dũa
để thực sự trở thành bậc thầy về ngôn từ.Người tiếp nhận phải sáng suốt linh hoạt,
không nên cực đoan trong tiếp nhận một quan niệm mà đi đến phủ nhận những quan
điểm còn lại.
*Đáng giá tổng hợp.
- Mỗi ý kiến trên đều xác đáng nhưng chưa toàn diện,chưa khái quát hết được
đặc trưng thơ ca của một tác phẩm tuy nhiên bài thơ về tiểu đội xe không kính đã đáp
ứng được hai yếu tố trên.
- Bài học đối với người cầm bút:nhà thơ là nhà thư kí trung thành của trái tim,
thời đại nên không ngừng trải nghiệm, lắng nghe, rung cảm để tạo nên gốc tình cảm
của thơ ca, không ngừng học hỏi để trau dồi ngôn từ.
- Bài học đối với người tiếp nhận:hiểu hơn về hoàn cảnh của cuộc kháng chiến,
vẻ đẹp của người lính, niềm tự hào……
Kết bài: Khẳng định, đánh giá lại ý kiến
1.Kiến thức lí luận văn học nằm ở đâu trong bài làm nghị luận văn học?
Có thể tạm chia các đề NLVH thường gặp hiện nay thành ba cấp độ:
Yêu cầu đề Đề minh họa:
Cấp độ 1:
Phân tích các yếu tố cơ bản trong một tác phẩm văn học.
Ví dụ:
– Phân tích nhân vật Ông Hai trong tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân.
– Cảm nhận về nhân vật …
Cấp độ 2:
Ví dụ:
Phân tích các yếu tố trong tác phẩm văn học để làm rõ một yêu cầu nào đó.
–Phân tích giá trị nhân đạo
–Phân tích chất thơ trong truyện ngắn
Cấp độ 3:
Ví dụ:
– Bình luận về ý kiến của nhà thơ Tố Hữu: “Thơ nhận định lí luận văn học. chỉ
bật ra trong
tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”.
– Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự tôn vinh con người bằng cách hình
thức nghệ thuật độc đáo. Bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên.
DÀN Ý CHUNG
1.Dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học:(làm sáng tỏ
một nhận định, ý kiến..)
Dàn ý chung phần thân bài như sau:
Thao tác Nội dung Mức độ tư duy:
1. Mở bài: Tùy theo yêu cầu của đề để có những hướng tiếp cận mở bài khác
nhau.
2. Thân bài:
2.1. Giải thích:
– Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình ảnh khó hiểu trong nhận định.
– Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở đây là gì? (Đọc – Hiểu)
22. Bàn luận:
– Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải vấn đề nghị luận.
– Trả lời cho câu hỏi “vì sao?” (Vận dụng Tổng hợp)
2.3. Chứng minh:
– Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các biểu hiện của vấn đề nghị luận.
(Phân tích)
+Luận điểm 1:
+Luận điểm 2:
+Luận điểm 3:
…………
2.4. Đánh giá:
– Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.
– Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có) (Đánh giá)
2.5. Liên hệ:
3. Kết bài.
Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình vận dụng sáng tác và bạn đọc trong
quá trình tiếp nhận.
Khi làm bài, cần vận dụng linh hoạt các bước trên nhưng nhất thiết phải có đầy
đủ các thao tác này để bài viết không bị mất điểm.
2. Dàn ý bài văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm văn học
Mở bài :
Dẫn dắt vấn đề: giới thiệu đôi nét về tác giả (phong cach, sự đóng góp,một chi
tiết trong cuộc đời có liên quan đén việc sáng tác…)và đôi nét về tác phẩm (hoàn cảnh
ra đời, vị trí của tác phẩm trong toàn bộ sáng tác…)
Giới thiệu khái quát đặc điểm của nhân vật….
Chuyển ý….
Thân bài :
Trước khi đi vào phân tích đặc điểm của nhân vật, ta có thể giới thiệu đôi nét
hoàn cảnh xuất hiện của nhân vật.
Lần lượt phân tích từng đặc điểm của nhân vật. Ta có thể sắp xếp theo một trình tự
sau :
1/ Nêu đặc điểm 1 của nhân vật (luận điểm 1)
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
2/ Nêu đặc điểm 2 của nhân vật (luận điểm 2)
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
3/ Nêu đặc điểm 3 của nhân vật (luận điểm 3)
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Ta cứ tiến hành tuần tự như vậy cho đến hết các đặc điểm của nhân vật …
Đánh giá chung về nhân vật : (hs có thể lồng vào trong quá trình phân tích trên)
Gợi ý đánh giá nhân vật:
Nhân vật ấy tiêu biểu cho lớp người nào trong xã hội ? tốt hay xấu… cao thượng hay
thấp hèn?…
Bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ xoay quanh những đăc điểm của nhân vật…
Có thể nêu một vài cảm nghĩ của bản thân về tác giả trong việc xây dựng nhân vật
Đánh giá về nghệ thuật :
Gợi ý : hs có thể đánh giá, cảm nhận về nghệ thuật xây dựng tính cách nhân
vật, cách miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ nhân vật….
Kết bài:
Khẳng định lại đặc điểm của nhân vật…
Ví dụ:Dàn bài gợi ý: Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Phương Định:
Mở bài:
Lê Minh Khuê là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất cảu nền văn học
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tác phẩm những ngôi sao xa xôi là tác phẩm xuất
sắc nhất của nhà văn, viết năm 1971, lúc cuộc chiến chống Mỹ cứu nước đang ở trong
giai đoạn quyết liệt nhất. Nổi bậc trong tác phẩm là nhân vật Phương Định, một nữ
thanh niên xung phong xinh đẹp, giàu mơ mộng, với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của thế
hệ thanh niên Việt Nam anh hùng thời kháng Mỹ cứu nước.
Thân bài:
Luận điểm 1:
Phương Định là một cô gái có ngoại hình xinh đẹp:
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Luận điểm 2:
Phương định có tam hồn nhạy cảm, giàu mơ mộng:
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Luận điểm 3:Phương Định mang trong mình lý tưởng cao đẹp của thế hệ
tuổi trẻ Việt Nam quyết chiến đáu hi sinh vì tổ quốc:
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Đánh giá:
Nội dung:
Qua nhân vật Phương Định và các cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã
có cái nhìn thật đẹp, thật lãng mạn về cuộc sống chiến tranh, về con người trong chiến
tranh. Chiến tranh là đau thương mất mát song chiến tranh không thể hủy diệt được vẻ
đẹp tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ, của con người. Chính từ những nơi gian lao,
quyết liệt ta lại thấy ngời sáng vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng
Việt Nam.
Nghệ thuật:
–Lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên.
–Nghệ thuật xây dựng nhân vật chân thực, sinh động, nhất là miêu tả tâm lí.
–Ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình.
–Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiến trường.
Kết bài:
Khẳng định: Tác phẩm là bản anh hừng ca ca ngợi cuộc sống, chiến đấu của
thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn
CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM
VĂN XUÔI HIỆU QUẢ
Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại tuy rất khác nhau nhưng vẫn mang
đặc điểm chung là có cốt truyện, nhân vật, lời kể… Khi đọc hiểu tiểu thuyết và truyện
ngắn, cần chú ý các yếu tố sau:
I. Phân tích nhân vật
Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu của truyện ngắn và tiểu thuyết. Tùy
theo tiêu chí, sẽ có các loại nhân vật sau: nhân vật chính và nhân vật phụ, nhân vật
chính diện và nhân vật phản diện… Để nắm bắt, khái quát tính cách, bản chất của
nhân vật, cần căn cứ vào những phương tiện cơ bản mà nhà văn thường sử dụng để
khắc họa nhân vật như:
Phân tích ngoại hình nhân vật:
Ngoại hình nhân vật không chỉ giúp người đọc hình dung dáng vẻ bề ngoài của
nhân vật mà còn thể hiện một phần tính cách và cả những biến cố, những đổi thay
trong cuộc đời của nhân vật ấy
Ví dụ:
Các chi tiết miêu tả ngoại hình
Phân tích ngôn ngữ nhân vật:
Ngôn ngữ nhân vật (bao gồm hình thức đối thoại và độc thoại) thường được
nhà văn cá thể hóa bằng nhiều cách: ghép từ, đặt câu, lặp đi lặp lại những từ, những
câu nói
Phân tích hành động của nhân vật:
Phân tích nội tâm của nhân vật:
Nội tâm là thế giới tinh thần của nhân vật với những cảm xúc, suy nghĩ, quá
trình diễn biến tâm lí… Đây là yếu tố có khả năng bộc lộ rõ nhất chiều sâu tâm hồn
nhân vật, thể hiện sự thấu hiểu con người và tài nghệ của nhà văn.
Phân tích mối quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác và hoàn cảnh xung
quanh cũng có tác dụng bộc lộ địa vị, tính cách và số phận của nhân vật.
Ví dụ:
II. Phân tích cốt truyện và tình huống truyện:
Cốt truyện là hệ thống sự kiện được nhà văn tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và
nghệ thuật nhất định. Cốt truyện là phương tiện vừa có khả năng bộc lộ tính cách nhân
vật vừa phản ánh những xung đột xã hội. Vì vậy, nắm vững cốt truyện sẽ giúp người
đọc hiểu đúng nội dung tác phẩm.
Tình huống là một yếu tố then chốt, thậm chí được coi là “hạt nhân” của
truyện ngắn. Đó là “một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”,
“khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, thậm chí cả một đời nhân loại” (Nguyễn
Minh Châu).
Có ba loại tình huống truyện cơ bản:
+ Tình huống hành động
+ Tình huống tâm trạng
+ Tình huống nhận thức
Đọc hiểu tình huống truyện là “nắm được chiếc chìa khóa quan trọng nhất để
mở vào thế giới bí ẩn của truyện ngắn” (Chu Văn Sơn).
III. Phân tích Kết cấu truyện
Kết cấu truyện là cách tổ chức tác phẩm. Do dung lượng, nêu tiểu thuyết và
truyện ngắn có kết cấu rất khác nhau song vẫn có những điểm chung: sự phối hợp
giữa phần mở đầu và kết thúc, sự lựa chọn và sắp xếp các chi tiết, đoạn, chương.
Ví dụ:
+ Chi tiết chiếc bóng với tác dụng thắt nút và mở nút trong Chuyện người con
gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)
IV. Phân tích lời kể, lời dẫn chuyện
Lời kể, lời dẫn là ngôn ngữ của người kể chuyện. Đọc kĩ lời kể không chỉ giúp
người đọc hiểu bức tranh đời sống mà còn nắm được điểm nhìn của người kể khi tái
hiện bức tranh đời sống ấy. Điểm nhìn được thể hiện qua cách dùng từ ngữ xưng hô,
cách miêu tả, cách diễn đạt, giọng kể…
3. DÀN Ý PHÂN TÍCH MỘT ĐOẠN THƠ HOẶC MỘT BÀI THƠ
1.Mở bài:
Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề
sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn
học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.
Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của
đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn)
còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả.
2.Thân bài:
– Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ
thơ, bài thơ
– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình
ảnh, biện pháp tu từ, v.v. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp
người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật cảu bài
thơ.
Lưu ý: nên phân tích từ nghệ thuật đến nội dung, khi phân tích phải dựa vào từ
ngữ có trong bài thơ, hoàn cảnh ra đời, phong cách sáng tác của tác giả để tránh suy
diễn miên man, không chính xác, cụ thể:
– Phân tích khổ thơ thứ nhất:
+ Nêu nội dung chính của khổ thơ thứ nhất:
(Trích thơ)
+ Áp dụng các thủ pháp phân tích thơ để phân tích những hình ảnh, từ ngữ, biện pháp
nghệ thuật tu từ, nhịp điệu, v.v. trong từng câu thơ; giải mã những từ ngữ, hình ảnh đó
có ý nghĩa gì, nó hay, đặc sắc ở chỗ nào.
+ Chuyển sang khổ thứ hai.
– Phân tích khổ thơ thứ hai:
+ Cách làm bốn bước tương tự khổ thứ nhất.
+ Rồi cứ tiếp tục như thế đến hết bài.
(lưu ý: đôi khi có thể phân tích hai khổ thơ cùng một lúc nếu hai khổ thơ cùng
một ý nghĩa)
– Nhận xét đánh giá bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài
thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói
thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn
lúc bấy giờ).
3.Kết bài:
+ Khẳng định lại toàn bộ gia trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
+ Liên hệ bản thân (nếu có).
CẤU TRÚC DÀN Ý BÀI VĂN PHÂN TÍCH
MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ:
Dạng 1: Hướng dẫn cách làm bài phân tích một bài thơ:
I.Mở bài: Giới thiệu tác giả dẫn vào bài thơ.
II. Thân bài:
1.Khái quát về bài thơ : Giới thiệu xuất xứ ( trích trong tập thơ nào?), hoàn
cảnh sáng tác ( sáng tác năm nào, gắn liền với sự kiện lịch sử gì nổi bật ?), tóm tắt nội
dung, bố cục bài thơ.
2.Phân tích nội dung, nghệ thuật bài thơ:
– Lần lượt làm rõ nội dung, nghệ thuật bài thơ. Chia bài thơ thành từng đoạn
nhỏ ( gồm những câu thơ có cùng nội dung hoặc liên quan mật thiết về nội dung) rồi
giới thiệu, trích thơ và phân tích dẫn chứng thơ. Cụ thể :
– Giới thiệu dẫn chứng : có 3 cách : Giới thiệu vị trí dẫn chứng, Giới thiệu nội dung
chính của dẫn chứng,Kết hợp nêu vị trí dẫn chứng với nội dung chính.
– Trích dẫn dẫn chứng : Phải trích nguyên văn và đặt dẫn chứng trong ngoặc kép. Viết
dẫn chứng thành đoạn riêng.
– Phân tích dẫn chứng : là dùng lời văn của mình để làm rõ nội dung ( nói cái gì? Nói
vậy là có ý gì?), nghệ thuật ( biện pháp nghệ thuật gì?) và ý nghĩa của dẫn chứng ( có
thể từ ngữ tiêu biểu hoặc cả câu thơ được trích dẫn ). Để phân tích được dẫn chứng
phải hiểu nghĩa của từ ngữ, vận dụng những hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác
bài thơ, những kiến thức đọc hiểu về văn bản, hiểu biết về văn học và đời sống; phải
liên tục sử dụng liên tưởng và tưởng tượng, nhận xét và suy luận.
Lưu ý : phân tích chứ không diễn xuôi đoạn thơ.
3. Đánh giá chung thành công về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
4. Giải quyết yêu cầu phụ ( nếu có )
III. Kết bài:
– Tóm lại, đoạn thơ nổi bật gì về nội dung và nghệ thuật?
– Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn ( thường nêu tác động của đoạn thơ đến tư
tưởng, tình cảm của người đọc hay đóng góp của đoạn thơ với văn học, với đời sống.
Có thể nêu ngắn gọn cảm nghĩ về tác giả, bài thơ, đoạn thơ.
DẠNG 2: HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI PHÂN TÍCH MỘT
HÌNH TƯỢNG, MỘT VẤN ĐỀ TRONG MỘT BÀI THƠ.
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả dẫn vào bài thơ. Nêu vấn đề : Giời thiệu hình
tượng hay vấn đề phân tích
II. Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ: Giới thiệu xuất xứ ( trích trong tập thơ nào?), hoàn
cảnh sáng tác ( sáng tác năm nào, gắn liền với sự kiện lịch sử gì nổi bật ?), tóm tắt nội
dung, bố cục bài thơ.
2. Phân tích hình tượng hay vấn đề: Lần lượt làm rõ từng đặc điểm của hình
tượng.
– Nêu đặc điểm của hình tượng.
– Đưa dẫn chứng thơ phù hợp với đặc điểm của hình tượng.
3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng hình tượng hay nghệ thuật thể hiện vấn đề.
4. Liên hệ, so sánh với nhân vật khác.
III. Kết bài:
– Tóm lại, hình tượng ( trong đề ra) có gì nổi bật gì về nội dung và nghệ thuật?
– Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn ( thường nêu tác động của hình tượng hay vấn
đề đến tư tưởng, tình cảm của người đọc hay đóng góp của hình tượng hay vấn đề với
văn học, với đời sống. Có thể nêu ngắn gọn cảm nghĩ về tác giả, bài thơ, đoạn thơ.