You are on page 1of 518

CÁCH LÀM BÀI ĐỌC HIỂU MÔN VĂN THI VÀO 10

I. CÁCH LÀM CÁC DẠNG ĐỀ ĐỌC HIỂU

1. Dạng 1: Nêu tên tác giả, tác phẩm, xác định phương thức biểu
đạt

- Các phương thức biểu đạt chính bao gồm: tự sự, miêu tả, nghị
luận, biểu cảm và thuyết minh, hành chính công vụ. Theo đó, học
sinh cần phân biệt giữa hai kiểu hỏi:

+ Phương thức biểu đạt chính: chỉ nêu lên DUY NHẤT 01 phương
thức biểu đạt chính.

+ Những phương thức biểu đạt: phải nêu tất cả các phương thức
biểu đạt của văn bản.

Ngoài ra có một số đề thi sẽ hỏi về thể thơ. Do đó, khi ôn thi vào lớp
10 môn văn học sinh chú ý phân biệt các thể thơ bốn chữ, năm chữ,
bảy chữ, lục bát, song thất lục bát, thơ tự do,… để xác định cho
chính xác

Ví dụ mẫu: Trích đề ôn thi vào lớp 10 môn văn trường THPT


Chuyên Nguyễn Huệ – Hà Nội
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước,


Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB. Giáo dục, 2014).

Đoạn thơ trên nằm trong tác phẩm nào? Giới thiệu ngắn gọn về tác
giả và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ấy?

Đáp án:

- Đoạn thơ nằm trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
(0,25đ)
- Tác giả: Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia
nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành
một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời
chống Mĩ cứu nước. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, tập
trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
(0,5đ)

- Bài thơ được sáng tác năm 1969 lúc cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt (0,25đ)

2. Dạng 2: Nêu nội dung chính/ chủ đề văn bản

- Trong câu hỏi tìm nội dung chính/ chủ đề văn bản đòi hỏi học sinh
phải xác định được nhanh nội dung đoạn văn nhắc tới là gì. Do đó,
để làm tốt câu hỏi này, học sinh hãy xác định nhanh câu chủ đề của
đoạn văn ở vị trí đầu hoặc cuối đoạn văn.

- Đối với các văn bản nghệ thuật ví dụ như thơ, truyện thì học sinh
hãy chú ý đến các từ ngữ, hình ảnh xuất hiện xuyên suốt ở trong nội
dung của văn bản đó. Vì đó là những từ ngữ, hình ảnh tập trung thể
hiện chủ đề của tác phẩm.
- Với những văn bản mà có nhiều đoạn văn, mỗi đoạn văn lại thể
hiện một chủ đề khá độc lập thì học sinh cần phải đặt các đoạn văn
cạnh nhau và suy nghĩ xem các chủ đề độc lập đó có liên quan gì với
nhau không. Khi đó, học sinh sẽ nhìn thấy một nội dung xuyên suốt
tác phẩm và tìm ra được chủ đề chỉnh của tác phẩm.

3. Dạng 3: Xác định và nêu ý nghĩa của các biện pháp tu từ

98% đề thi vào lớp 10 chắc chắn có dạng bài này đó, nên các em
nhớ ôn thật kỹ các biện pháp nghệ thuật chính hay gặp nhé. Bao
gồm so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ,… Sau đó làm theo 3 bước
xác định biện pháp tu từ sau

Bước 1: Nêu chính xác tên gọi của các biện pháp tu từ đó

Bước 2: Nêu lên các cụm từ, câu nói trong bài thể hiện biện pháp tu
từ

Bước 3: Nêu tác dụng, ý nghĩa của biện pháp tu từ đó đến toàn bộ
đoạn văn. Đây là bước mà học sinh thường quên, dẫn đến mất điểm
đáng tiếc, cần chú ý khi ôn thi vào lớp 10 môn văn nhé.

Ví dụ mẫu: Trích đề Chuyên Sư phạm


Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời


Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

(Ngữ văn 9, tập 2)

Chỉ ra các điệp từ và từ láy trong khổ thơ trên? (0,5 điểm)

Đáp án:

– Từ láy trong đoạn thơ trên: nho nhỏ, xao xuyến.

– Điệp từ: “ta”, “một”, “dù”.

4. Dạng 4: Giải thích ý nghĩa của từ ngữ, hình ảnh, lời nhận định,
quan điểm

- Khi giải thích các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết thì học sinh cần lưu ý
dựa vào nội dung văn bản để giải thích, áp dụng đúng vào văn cảnh
đề bài ra để trình bày đầy đủ các nét nghĩa thì các bạn học sinh sẽ
dễ được điểm tối đa.

- Để làm tốt dạng bài này cần chú ý đọc kỹ càng văn bản, sau đó liên
hệ cụm từ/hình ảnh/ quan điểm đó với nội dung văn bản. Thường
mỗi hình ảnh thơ hay quan điểm sẽ có từ 2 đến 3 lớp ý nghĩa bao
gồm ý nghĩa chính. Học sinh cần phải khai thác đầy đủ các lớp nghĩa
này mới có thể đạt được điểm tối đa. Nhưng chú ý khi ôn thi vào lớp
10 môn văn không đi sâu vào phân tích lan man, dài dòng.

Ví dụ mẫu: Trích thi thử vào lớp 10 môn Ngữ văn THPT
Chuyên Nguyễn Huệ – Hà Nội (tiếp)
Tại sao nói hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc
đáo của Phạm Tiến Duật?

Đáp án:
Hình ảnh những chiếc xe không kính rất độc đáo vì:

Đó là những chiếc xe có thực trên tuyến đường Trường Sơn trong


thời kì chống Mĩ và đã đi vào thơ Phạm Tiến Duật cũng rất thực,
không một chút thi vị hóa. (0,5đ)

Hình ảnh ấy vừa nói lên cái khốc liệt của chiến tranh vừa làm nổi bật
chân dung tinh thần của người lính; thể hiện phong cách thơ của
Phạm Tiến Duật: nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch, yêu thích
cái lạ (0,5đ)

5. Dạng 5: Xác định phép liên kết câu, thành phần câu, kiểu câu

- Phép liên kết câu


Trong chương trình môn Ngữ văn phổ thông, học sinh được
học 2 kiểu liên kết câu. Bao gồm liên kết câu theo nội dung và liên
kết câu theo hình thức.

Trong đó, liên kết hình thức là loại liên kết được thể hiện ngay ở
trong câu, từ của văn bản. Do đó, khi ôn thi vào lớp 10 môn
văn học sinh có thể dễ dàng xác định được các phép liên kết này
thông qua việc quan sát các từ lặp, từ nối ngay trong văn bản. Nhưng
liên kết câu theo nội dung lại khó hơn, đòi hỏi học sinh phải nắm
được nội dung của văn bản.

- Thành phần câu và kiểu câu


Muốn xác định được các thành phần câu chính xác thì khi ôn thi vào
lớp 10 môn văn học sinh cần phải nhớ được khái niệm của các
thành phần câu. Còn đối với việc xác định các kiểu câu thì có thể
phân chia dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Trong đó, khó nhất là
việc phân biệt câu rút gọn và câu đặc biệt. Tips làm bài như sau
+ Câu rút gọn là câu lược bỏ đi các thành phần nòng cốt như chủ
ngữ, vị ngữ nhưng căn cứ theo ngữ cảnh thì vẫn có thể khôi phục lại
được cấu trúc đầy đủ của câu rút ngọn.

+ Câu đặc biệt thì không mang cấu trúc của câu có chủ ngữ và vị
ngữ, bên cạnh đó kiểu câu này sẽ không thể khôi phục lại câu dạng
có đủ cả chủ ngữ và vị ngữ.

Ví dụ mẫu: Trích đề thi Sở Giáo dục Đào tạo Hà Nội


Cho đoạn trích:

“Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai, mặt
nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Còn anh, anh
đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại
trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. (Ngữ văn
9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr.196)

Xác định thành phần khởi ngữ trong câu: “Còn anh, anh đứng sững
lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật
đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

Đáp án:

Thành phần khởi ngữ: Còn anh, anh (0,5 điểm)

6. Dạng 6: Câu hỏi vận dụng cao

Đây là câu hỏi cuối cùng của đề đọc hiểu. Gồm 3 dạng chính

+ Dạng 1: Viết đoạn văn ngắn từ 4 cho đến 6 dòng. Học sinh sẽ trình
bày về quan điểm của mình (không đồng ý hay đồng ý) về một vấn
đề cụ thể

+ Dạng 2 câu hỏi vận dụng cao ôn thi vào lớp 10 môn văn: Viết
đoạn văn ngắn từ 4 cho đến 6 dòng nêu lên ý kiến và giải pháp của
em cho một thực trạng hay vấn đề còn tồn tại trong văn bản được đề
bài đưa ra. Đây chính là dạng đề nghị luận xã hội thường gặp. Để
làm tốt đề này, học sinh cần có được kiến thức xã hội khá tốt. Bên
cạnh đó, đoạn văn cũng cần được viết chuẩn cấu trúc tổng phân hợp

+ Dạng 3: Từ văn bản của đề bài, học sinh nêu lên bài học hoặc
thông điệp có ý nghĩa với bản thân hay xã hội.

Ví dụ mẫu:
Ví dụ 1: Trích đề ôn thi vào lớp 10 môn văn THPT Chuyên
Nguyễn Huệ – Hà Nội (tiếp)

Từ việc cảm nhận phẩm chất của những người lính trong bài thơ trên
và những hiểu biết xã hội của bản thân, em hãy trình bày suy nghĩ
(khoảng nửa trang giấy thi) về lòng dũng cảm.

Nội dung gợi ý ôn thi vào lớp 10 môn văn: Từ việc cảm nhận lòng
dũng cảm của những người lính lái xe trong bài thơ, bày tỏ được
những suy nghĩ về lòng dũng cảm: Thế nào là dũng cảm? Những
biểu hiện của lòng dũng cảm trong cuộc sống? Vì sao có thể khẳng
định đây là phẩm chất cao quý của con người? Em sẽ rèn luyện như
thế nào để trở thành người dũng cảm?

Ví dụ 2: Trích đề ôn thi vào lớp 10 môn văn Chuyên Sư phạm


(tiếp)

Từ ngữ liệu trên, hãy viết đoạn văn ngắn khoảng 200 từ về lẽ sống
của thanh niên trong trong thời đại ngày nay

Đáp án

Dưới đây là một số gợi ý cơ bản cho đề ôn thi vào lớp 10 môn văn

– Dâng cho đời là lẽ sống biết cống hiến một cách tự nguyện, chân
thành những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chung.
– Đó là lẽ sống có ý nghĩa tích cực, mang lại niềm hạnh phúc cho
chính mình, cho xã hội, xuất phát từ ý thức trách nhiệm, từ tình yêu
với cuộc đời. Nhiều bạn trẻ ngày nay có lối sống đẹp đẽ ấy. (nêu một
vài dẫn chứng)

– Xác định nhận thức, hành động đúng cho mọi người. Sống cho đời
nhưng không cần ồn ào, phô trương; không nên làm mất đi bản sắc
riêng của mình thì mới thực sự có ý nghĩa.

II. TUYỂN TẬP CÁC BỘ ĐỀ ĐỌC HIỂU MỚI NHẤT

ĐỀ SỐ 1:
PHẦN 1: Đọc- hiểu văn bản (4,0 điểm)

Đọc đoạn thơ sau và thực hiện yêu cầu bên dưới

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

(Ngữ văn 9, tập 2, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam)

Câu 1 (1,0 điểm): Đoạn thơ trên trích trong tác phẩm nào? Của ai?
Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ ấy.

Câu 2 (1,0 điểm): Chỉ và nêu tác dụng của phép tu từ được sử dụng
trong đoạn thơ trên.

Câu 3 (2,0 điểm): Viết đoạn văn ngắn (khoảng 10 đến 12 câu) phát
biểu cảm nhận của em về đoạn thơ trên.

Đáp án
Câu 1:

– Đoạn thơ trên trích trong bài thơ “Viếng lăng Bác”

– Tác giả: Viễn Phương

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1976, sau khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất. Lăng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc,
vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác trong
dịp đó và in trong tập thơ Như mây mùa xuân (1978)

Câu 2:

– Phép tu từ: Ẩn dụ (cây tre)

– Tác dụng: Biểu tượng sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc
Việt Nam

Câu 3:

* Về hình thức: Yêu câu viết được đoạn văn khoảng 10 đến 12 diễn
dạt lưu loát, văn phong trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính
tả, chữ viết đẹp, dùng từ, đặt câu đúng. Đảm bảo yêu cầu của đoạn
văn.

* Về nội dung: HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng
cần đạt những nội dung sau:

– Câu thơ thật giản dị thân quen với cách xưng hô “con- Bác” → gần
gũi, thân thiết, ấm áp.

– Dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” → giảm nhẹ được nỗi đau
thương, mất mát.

– Hình ảnh hàng tre: (ẩn dụ) → biểu tượng sức sống bền bỉ….. của
dân tộc
– Cảm xúc: tự hào

ĐỀ SỐ 2:
PHẦN 1: Đọc – Hiểu văn bản (4,0 điểm)

Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì
đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai
người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian! rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai
người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam
này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán
nước…Lại còn bao nhiêu người làng tan tác mỗi người một phương
nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?”

(Trích Ngữ văn 9 – tập 1)

Câu 1: Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Tác giả là ai? (0,5
điểm)

Câu 2: Nêu ý nghĩa nhan đề của tác phẩm? (0,5 điểm)

Câu 3: Tìm một câu rút gọn có trong đoạn văn và chỉ rõ cách rút
gọn? (1,0 điểm)

Câu 4: Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày cảm nhận của em về
đoạn trích trên? (2,0 điểm)

Đáp án
Câu 1: Đoạn trích nằm trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim
Lân

Câu 2: Nhan đề đã thể hiện sâu sắc chủ để của tác phẩm là viết về
lòng yêu nước của người nông dân, Làng là nơi gần gũi gắn bó với
người nông dân, bởi người ta không thể yêu nước nếu không yêu
làng.

Câu 3: Câu rút gọn trong đoạn văn: Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra
sao?

– Bộ phận chủ ngữ được rút gọn.

Câu 4:

Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu sau:

– Về hình thức: Đảm bảo kết cấu một đoạn văn, không mắc lỗi diễn
đạt, dùng từ, ngữ pháp

– Về nội dung: Trình bày được cảm nhận về tâm trạng của nhân vật
ông Hai. Đó là sự nửa tin, nửa ngờ của ông Hai khi nghe tin làng
Chợ Dầu theo giặc. Buộc phải tin đó là sự thật nên ông Hai lo sợ cho
tương lai của những người làng Chợ Dầu đang tản cư ở khắp nơi.

ĐỀ SỐ 3:
PHẦN 1: Đọc – Hiểu văn bản (4,0 điểm)

Đọc kĩ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Giữa năm 2015, bà Lê Thị Thảo, mẹ của Hòa, quyết định tặng thận…

[…] Tháng 3-2016, Hòa lên bàn mổ để tặng một quả thận cho một
người phụ nữ trạc tuổi mẹ mình. Người được nhận thận quê ở Hà
Nam, đã bị suy thận nhiều năm và cần được ghép thận để tiếp tục
được sống.

[…] Để tặng được quả thận, từ khi quyết định hiến tặng đến khi
lên bàn mổ, bà Thảo đã phải hơn 10 lần một mình một xe máy từ Bắc
Ninh ra bệnh viện Việt Đức ở Hà Nội để làm các xét nghiệm. Con gái
bà Thảo cũng vậy, và cuối năm 2016 khi mẹ con bà được mời lên
truyền hình để nói về ý nghĩa của việc hiến tặng mô tạng, hai mẹ con
lại chở nhau bằng xe máy từ Bắc Ninh lên Hà Nội rồi vội vã trở về
ngay trong đêm… Nếu có ai hỏi về chuyện hiến thận đã qua, bà chỉ
phẩy tay cười: “Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường với nhau đi, bây
giờ tôi chẳng đang rất khỏe là gì…”

Và nhờ cái “bình thường” của mẹ con bà Thảo, giờ đây có thêm
hai gia đình được hạnh phúc vì người thân của họ được khỏe mạnh
trở lại. Ở Bắc Ninh, gia đình bà Thảo cũng đang rất vui vẻ. Nỗi đau
đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng hai mẹ con là
hai vết sẹo dài, như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc
sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.

Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kì lạ, nhưng khi gặp
họ và trò chuyện, chúng tôi mới thấy mẹ con bà Thảo không kì lạ
chút nào, họ chỉ muốn tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ
hạnh phúc tinh thần nào đó mà tôi không thể nào định danh được!

(Trích Hai mẹ con cùng hiến thận, Lan Anh, Báo Tuổi trẻ, ngày
31/5/2018)

Câu 1: (0.5 điểm)

Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2: (0.5 điểm)

Chỉ ra lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 3: (1.0 điểm)

Nỗi đau đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng
hai mẹ con là hai vết sẹo dài, như chứng nhân về quyết định rất đỗi
lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân
thể của mình.
a. Xét về mặt cấu trúc, câu trên thuộc kiểu câu gì?

b. Xác định và nêu tác dụng của phép tu từ được sử dụng trong câu
trên.

Câu 4: (1.0 điểm)

Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kì lạ, nhưng khi gặp
họ và trò chuyện, chúng tôi mới thấy mẹ con bà Thảo không kì lạ
chút nào, họ chỉ muốn tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ
hạnh phúc tinh thần nào đó mà tôi không thể nào định danh được!

a. Xác định thành phần biệt lập có trong câu trên.

b. Theo em, thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào
định danh được là gì?

Đáp án
Câu 1:

Phương thức biểu đạt chính: Tự sự

Câu 2:

Lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích: “Cứ nghĩ bình
thường đi, bình thường với nhau đi, bây giờ tôi chẳng đang rất khỏe
là gì…”

Câu 3:

a. Câu ghép

b. Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn trên là biện pháp so
sánh. Hai vết sẹo dài trên bụng hai mẹ con (bà Thảo và Hòa) được
so sánh như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn
sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
- Tác dụng của biện pháp so sánh:

+ Khẳng định giá trị của những vết thương mà hai mẹ con phải chịu
đựng.

+ Hai vết sẹo ấy là bằng chứng sáng rõ nhất của tinh thần làm việc
thiện, sẵn sàng cho đi một phần thân thể của mình mà không cần
đáp lại.

⟹ Khẳng định tinh thần hiến dâng, biết sống vì người khác của hai
mẹ con.

Câu 4:

a. Thành phần biệt lập trong câu văn trên là: Có lẽ - thành phần biệt
lập tình thái.

b. Thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh
được là niềm hạnh phúc của việc cho đi, của tinh thần sẻ chia, biết
sống vì người khác, biết yêu thương với những số phận bất hạnh
trong cuộc đời.

ĐỀ SỐ 4:
PHẦN 1: Đọc – Hiểu văn bản (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:

Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho
tinh, đọc cho kĩ. Nếu đọc được 10 quyển sách không quan trọng,
không bằng đem thời gian, sức lực đọc 10 quyển ấy mà đọc một
quyển thật sự có giá trị. Nếu đọc được mười quyển sách mà chỉ lướt
qua, không bằng chỉ lấy một quyển mà đọc mười lần. “Sách cũ trăm
lần xem chẳng chán – Thuộc lòng, ngẫm kĩ một mình hay”, hai câu
thơ đó đáng làm lời răn cho mỗi người đọc sách. Đọc sách vốn có ích
riêng cho mình, đọc nhiều không thể coi là vinh dự, đọc ít cũng không
phải là xấu hổ. Đọc ít mà đọc kĩ, thì sẽ tập thành nếp suy nghĩ sâu xa,
trầm ngâm tích lũy, tưởng tượng tự do đến mức làm đổi thay khí chất;
đọc nhiều mà không chịu nghĩ sâu, như cưỡi ngựa qua chợ, tuy châu
báu phơi đầy, chỉ tổ làm cho mắt hoa ý loạn, tay không mà về.

(Ngữ Văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2016, trang 4, 5)

Câu 1. (1 điểm) Nhận biết

Nêu xuất xứ của đoạn trích trên. Xác định nội dung chính của đoạn
trích.

Câu 2. (1 điểm) Thông hiểu

Chỉ ra và nêu tác dụng của một nét nghệ thuật đặc sắc trong câu văn
sau: “Nếu đọc được mười quyển sách mà chỉ lướt qua, không bằng
chỉ lấy một quyển mà đọc mười lần”.

Câu 3. (2 điểm) Vận dụng cao

Từ tinh thần của đoạn trích trên, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng
½ trang) theo kiểu Tổng – phân – hợp, trình bày suy nghĩ của bản
thân về phương pháp đọc sách sao cho hiệu quả.

Đáp án
Câu 1.

Phương pháp: căn cứ bài Bàn về đọc sách

Cách giải:

- Đoạn trích nằm trong văn bản Bàn về đọc sách của Chu Quang
Tiềm.

- Nội dung chính của đoạn trích: Đọc sách không cốt nhiều mà quan
trọng là chọn tinh, đọc kĩ.
Câu 2.

Phương pháp: căn cứ bài So sánh

Cách giải:

Trong câu: “Nếu đọc được mười quyển sách mà chỉ lướt qua, không
bằng chỉ lấy một quyển mà đọc mười lần” sử dụng biện pháp so
sánh nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đọc sách cho kĩ để
tiếp thu được hết những tinh hoa chứa đựng trong một quyển sách.

Câu 3.

Phương pháp: phân tích, tổng hợp

Cách giải:

Yêu cầu về hình thức:

- Viết đúng đoạn tổng phân hợp và dung lượng mà đề bài yêu cầu.

- Diễn đạt trôi chảy, luận điểm sáng rõ.

Yêu cầu về nội dung:

a. Thế nào đọc sách có hiệu quả?

- Đọc sách có hiệu quả là khả năng tích lũy được những tri thức, rút
ra được điều gì cho riêng mình, có ích đối với bản thân trong quá
trình đọc sách.

- Mục đích và vai trò của việc có phương pháp đọc sách hiệu quả: Để
đọc sách có hiệu quả thì bản thân mỗi người cần phải có phương
pháp và xây dựng được chiến lược đọc sách cho riêng mình. Mỗi
người phù hợp với một phương pháp riêng. Việc tìm được và vận
dụng phương pháp đọc sách phù hợp sẽ nâng cao khả năng đọc và
tiếp thu vốn tri thức mà sách mang lại.
b. Phương pháp đọc sách sao cho hiệu quả:

* Cần xác định được các bước đọc sách:

- Bước 1: Xác định mục đích đọc sách

- Bước 2: Tìm hiểu địa chỉ và review về cuốn sách, lời giới thiệu, lời
tựa, lời nói đầu của cuốn sách.

- Bước 3: Đọc một vài đoạn.

- Bước 4: Đọc thực sự (đọc sâu): Một vài kĩ năng: Đọc lướt qua, Đọc
có trọng điểm, Đọc toàn bộ nhưng không nghiền ngẫm kĩ; Đọc
nghiền ngẫm nội dung cuốn sách; Đọc thụ động; Đọc chủ động; Đọc
nông; Đọc sâu,…

* Tích cực tư duy khi đọc.

* Tập trung chú ý cao độ khi đọc sách.

* Rèn luyện khả năng đọc và có kĩ thuật đọc hợp lí: Chọn loại sách
phù hợp, không gian đọc, tư thế đọc và chuẩn bị một quyển sổ để ghi
chép những điều đáng lưu tâm vừa đọc được.

* Ghi chép một cách khoa học những điều đã đọc.

- Bản thân Lê-nin là người có trí nhớ tuyệt vời nhưng luôn ghi chép
đầy đủ những điều đã đọc, đã nghĩ.

- Mendelev nói: “Ý nghĩ không được ghi chép lại chỉ là một kho báu bị
giấu biệt”.

=> Ghi chép sau khi đọc là quá trình tái hiện và tái tạo tri thức, giúp
người đọc có khả năng hệ thống lại, nghiền ngẫm, thậm chí là vận
dụng để tạo ra những tri thức mới.
c. Liên hệ bản thân: Bản thân em đã đọc sách có hiệu quả chưa?
Phương pháp mà em đã dùng để đọc sách có hiệu quả là gì?...

ĐỀ SỐ 5:
PHẦN 1: Đọc – Hiểu văn bản (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

1. Thể loại

Truyền kì là một thể văn xuôi tự sự thời trung đại mà khi viết tác
giả thường đưa vào những yếu tố hoang đường, kì lạ. Qua câu
chuyện về thánh thần, ma quỷ, truyện truyền kì thường phản ánh
hiện thực, thể hiện tư tưởng và thái độ của người viết về cuộc sống
và con người.

2. Tác giả

Nguyễn Dữ (? -?), sống vào khoảng thế kỉ XVI, người xã Đỗ Tùng,


huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông
xuất thân trong gia đình khoa bảng (cha đỗ Tiến sĩ đời Lê Thánh
Tông), là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học của Phùng
Khắc Khoan, từng đi thi và đã ra làm quan nhưng không bao lâu thì
từ quan về ở ẩn. Với Truyền kì mạn lục, ông đã đóng góp rất quan
trọng cho sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam.

3. Tác phẩm

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là câu chuyện có pha nhiều
yếu tố hoang đường. Đó là câu chuyện về một người tên là Ngô Tử
Văn, tính tình ngay thẳng, ghét sự gian tà. Trước sự tác oai tác quái
của linh hồn tên tướng phương Bắc bại trận, Tử Văn đã đốt đền. Tử
Văn về gặp Diêm Vương được xử không có tội, đòi lại được ngôi đền
cho Thổ thần. Tử Văn sống lại nhưng một tháng sau lại đột ngột qua
đời và được trở thành quan phán sự.

( Trích Đọc hiểu văn bản ngữ văn 10, Nguyễn Trọng Hoàn)

Câu 1: Nêu nội dung chính của văn bản trên?

Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt của văn bản ?

Câu 3: Truyện truyền kì khác thần thoại, truyện cổ tích và truyền


thuyết ở điểm nào ?

Câu 4: Qua văn bản, viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy
nghĩ về lối sống ngay thẳng, ghét sự gian tà trong cuộc sống hôm
nay.

Đáp án
Câu 1: Nội dung chính của văn bản trên:

- Giới thiệu đặc điểm thể loại truyền kì;

- Giới thiệu khái quát về cuộc đời nhà văn Nguyễn Dữ;

- Tóm tắt truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Câu 2: Phương thức biểu đạt của văn bản: thuyết minh

Câu 3: Truyện truyền kì khác thần thoại, truyện cổ tích và truyền


thuyết ở chỗ:

- Truyện truyền kì cũng có thể bắt nguồn từ truyện thần kì của


dân gian nhưng nó đã có tác giả, có sự đầu tư của cấu trúc, chọn lọc
chi tiết và hơn hết, mỗi truyện truyền kì là một bài học làm người trọn
vẹn.
- Truyện truyền kì có dung lượng lớn hơn những truyện dân
gian, ngôn ngữ kể chuyện đã có màu sắc của phong cách, nhân vật
của truyện có đời sống, có cá tính. Đặc biệt các tình huống của
truyện đầy những bất ngờ, hấp dẫn bởi kịch tính cao.

- Truyện truyền kì thông thường là sáng tạo của người nghệ sĩ,
mỗi truyện là một vấn đề của cuộc sống. Nó không mang tính chức
năng trong nội dung phản ánh và tính mô tip về hình thức của truyện.

Câu 4: Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :

- Hình thức : đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng,
không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc
chân thành ;

- Nội dung : Từ vẻ đẹp của nhân vật Ngô Tử Văn, thí sinh liên
hệ đến lối sống ngay thẳng, ghét sự gian tà trong cuộc sống hôm
nay. Cụ thể :

+ Giải thích : Sống ngay thẳng là sống đúng với con người thật
của mình, biết đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu. Ghét sự gian tà là
căm phẫn trước sự lộng hành của cái ác

+ Ý nghĩa của lối sống : thể hiện bản lĩnh của con người chính
trực, góp phần đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người, mọi nhà

+ Phê phán lối sống dối trá, đạo đức giả

+ bài học nhận thức và hành động cho bản thân : hiểu được ý
nghĩa của lối sống thẳng thắn, biết đấu tranh phê bình và tự phê
bình, tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.
Các đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ hay thi vào lớp 10
10 đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ ôn thi vào lớp 10 hay thi nhất
được VietJack sưu tầm, biên soạn và đăng tải. Đây hứa hẹn sẽ là tài
liệu hữu ích giúp các em học sinh ôn tập, rèn luyện chuẩn bị tốt cho
kì thi vào lớp 10 sắp tới. Mời các em tham khảo:

1. Viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ bàn luận về “thói quen
xấu”

“Trong cuộc sống, bên cạnh nhiều tập quán, thói quen tốt còn
có những tập quán, thói quen xấu gây hại cho con người và xã hội.
Một số thói quen xấu, có thể kể tới như: cờ bạc, thuốc lá, ma túy,
rượu hoặc băng đĩa có nội dung độc hại,… Nếu như giới trẻ chúng ta
không kiên định với lập trường tự chủ, dần dần sẽ bị nó ràng buộc,
chi phối và trở thành nô lệ của những thói quen xấu. Cờ bạc, thuốc
lá, ma túy… là những thói hư tật xấu gây ra tác hại ghê gớm cho bản
thân, gia đình và xã hội về nhiều mặt như: tư tưởng, đạo đức, sức
khỏe, kinh tế, nòi giống… đây cũng là mối nguy cơ trước mắt và lâu
dài của đất nước, dân tộc. Tóm lại, tất cả những tập quán xấu, thói
quen xấu có ma lực cuốn hút con người. Thế nên, giới trẻ của chúng
ta hiện nay, để không bị biến thành nạn nhân của nó, mỗi chúng ta
phải tự rèn luyện, tu dưỡng không ngừng trong học tập, trong lao
động và phải nâng cao nhận thức về tác hại của các tệ nạn trong xã
hội”.

2. Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ hay nhất về “tình bạn”

Tình bạn là mối quan hệ không thể thiếu trong đời sống của tất
cả chúng ta. Vậy tình bạn là gì? Thiếu nó, cuộc sống của chúng ta sẽ
ra sao? Trong cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có những tình bạn, đó
là sự gắn bó giữa hai hoặc nhiều người trên cơ sở tương đồng về sở
thích, tính cách hay lí tưởng. Một tình bạn trở nên đẹp đẽ và cao quý
khi ta dành cho đối phương sự tôn trọng, đồng cảm và sẻ chia;
không quản ngại hi sinh, vất vả để giúp đỡ lẫn nhau. Giữa dòng đời
với biết bao bon chen, xô đẩy, có được một tình bạn chân thành là
điều vô cùng may mắn. Bởi đó là niềm vui, là chỗ dựa lớn lao đem
đến cho ta sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Đồng thời,
“học thầy không tày học bạn”, từ họ ta có thể nhìn ra thiếu sót của
bản thân, từ đó mà phấn đấu, nỗ lực để hoàn thiện hơn. Tuy nhiên,
không phải ai cũng tìm được cho riêng mình những người tri âm tri kỉ
như Lưu Bình & Dương Lễ, Bá Nha & Tử Kì, Nguyễn Khuyến &
Dương Khuê… Một chút tham lam ích kỉ hay ghen ghét đố kị cũng có
thể khiến người gọi là “bạn” kia lợi dụng hay phản bội hòng trục lợi từ
ta. Thêm nữa, là bạn tốt không đồng nghĩa với việc bao che, đồng
tình với những hành động sai trái của đối phương mà phải mạnh dạn
thẳng thắn giúp bạn nhận ra sai lầm và quay lại với con đường đúng
đắn. Vì vậy, tất cả chúng ta cần đối xử với những người bạn của
mình bằng tất cả sự chân thành và không ngừng giúp đỡ nhau vươn
lên trong cuộc sống. Bởi đúng như Ralph Waldo Emerson từng nói:
“Cách duy nhất để có một người bạn là hãy làm một người bạn”.

3. Bài văn mẫu nghị luận xã hội 200 chữ về “lòng hiếu thảo”

Đạo làm con là phải hết lòng phụng dưỡng, báo đáp mẹ cha, vì
thế hiếu thảo là tình cảm tự nhiên và cũng là đạo đức của con người.
Người con hiếu thảo là người con luôn biết kính trọng và yêu thương
cha mẹ của mình. Cha mẹ nuôi con không bao giờ mong được đền
đáp lại công lao ấy nhưng nghĩa vụ của mỗi người con là phụng
dưỡng khi cha mẹ tuổi già sức yếu. Lòng hiếu thảo luôn mang lại
hạnh phúc cho gia đình, làm cho gia đình yên ấm. Hiếu thảo cũng
mang lại một xã hội tốt đẹp văn minh. Bởi gia đình vốn là tế bào của
xã hội. Nếu mỗi gia đình là những tấm gương hiếu thảo thì xã hội này
sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều. Muốn vậy ta cần phê phán những kẻ bất
hiếu, không vâng lời cha mẹ, ngược đãi cha mẹ, luôn khiến cho cha
mẹ phải đau lòng. Đúng như đức nhân Khổng Tử đã từng nói: “Tội ác
lớn nhất của con người chính là tội bất hiếu”. Tóm lại, bổn phận làm
con phải biết giữu tròn chữ hiếu với đấng sinh thành. Ngày nay,
không chỉ hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu còn được mở rộng ý nghĩa
như trong lời Bác hồ dạy: “Trung với nước, hiếu với dân”.

4. Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ về “tiết kiệm”

Tiết kiệm là đức tính cần có của tất cả chúng ta. Vậy bản chất
của tiết kiệm là gì? Tại sao nó lại quan trọng với con người đến vậy?
Tiết kiệm là sử dụng hợp lí, không lãng phí hay bừa bãi các giá trị vật
chất. Ai cũng hiểu tài nguyên trên Trái Đất không gì là vô tận. Nước,
than, dầu mỏ, khí đốt… dẫu có nhiều đến đâu mà không được sử
dụng đúng cách chắn chắn sẽ sớm cạn kiệt. Tương tự, khả năng tích
lũy của con người cũng là có hạn. Nếu không có dự tính lâu dài, ăn
tiêu phung phí, chẳng mấy chốc ta rơi vào cảnh nghèo túng nợ nần.
Bởi vậy, có thể khẳng định, tiết kiệm chính là nền tảng đảm bảo cho
sự phát triển lâu dài, bền vững của mỗi cá nhân nói riêng cũng như
xã hội nói chung. Vậy nhưng, ngày nay, vẫn còn không ít kẻ sử dụng
phung phí, thậm chí là tận thu tận diệt sản vật tự nhiên, không có ý
thức giữ gìn, nâng niu tài sản chung của bản thân và nhân loại. Đồng
thời, cũng có những người nhầm lẫn giữa tiết kiệm với ki bo, bủn xỉn,
không biết cách cho đi dù chỉ một đồng. Là thế hệ trẻ nắm giữ tương
lai của đất nước, chúng ta cần nói không với các hiện tượng tiêu cực
này và bắt đầu thực hành tiết kiệm từ những điều nhỏ nhất như: tắt
đèn khi ra khỏi phòng, vặn vòi nước thật chặt nếu không sử dụng…
Bởi đúng như Beniamin Frankmin đã nói: “Hãy cẩn thận với những
chi phí nhỏ. Một lỗ rò bé có thể làm đắm cả con tàu”.

5. Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ cực hay về “lòng yêu
nước”

Đất nước kết tinh, hóa tinh trong mỗi con người. Con người
phải có tinh thần cống hiến, hi sinh, có tinh thần trách nhiệm đối với
sự trường tồn của quê hương xứ sở. Đúng như Nguyễn Khoa Điểm
đã viết “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” – đó là lời thơ dung dị về
tình yêu đất nước trong mỗi con người. Đất Nước là nơi ta sinh ra,
nơi ta lớn lên, nơi ta được đến trường, được yêu thương và được
làm người. Vì vậy, tình yêu đất nước là tình cảm thường trực trong
mỗi con người chúng ta. Tôi còn nhớ đến một câu nói nổi tiếng của
một cố tổng thống Mỹ “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà phải
hỏi bạn đã làm gì cho Tổ quốc”. Đó là câu hỏi đặt ra với tất cả mọi
người chúng ta. Đất nước – dân tộc là thiêng liêng , là sự hòa kết
giữa nhiều tế bào sống. Vì vậy, sự tồn tại của các nhân chỉ có ý
nghĩa khi hòa nhập vào cộng đồng. Có như vậy mới đem lại sự thành
công trong sự nghiệp chung. Bên cạnh đó chúng ta cần phải phê
phán những người có lối sống ích kỉ, chỉ nghĩa cho bản thân mình.
Lòng yêu nước là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng, mỗi con người
chúng ta cần nhận thức được tình cảm cao đẹp ấy để sống cho ra
cuộc sống con người.

6. Viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ về sự “lạc quan”

Lạc quan là một thái độ sống tích cực góp phần tạo nên một
cuộc sống tốt đẹp đối với tất cả mọi người. Lạc quan có nghĩa là
không lo lắng thái quá, tinh thần luôn trong trạng thái thoải mái dù có
ở trong hoàn cảnh như thế nào. Trong cuộc sống, lạc quan luôn là
người bạn đồng hành của mỗi chúng ta để đưa chúng ta vượt qua
những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Làm việc gì, dù khó
khăn tới đâu thì người lạc quan vẫn tin vào những điều tốt đẹp ở phía
trước. Khi gặp khó khăn hay thậm chí thất bại họ vẫn không bỏ cuộc,
không chán nản mà ngược lại với tinh thần lạc quan, họ có thể làm
tăng cơ hội thành công. Lạc quan là kẻ thù của sự ủy mị, yếu đuối thì
chắc chắn sự lạc quan chính là bạn hành trình của con người trên
con đường tới tương lai. Hãy loại bỏ mọi nguồn tin mang tính tiêu
cực. Hãy tránh xa những người thường xuyên kêu ca phàn nàn. Hãy
đón nhận những tin tích cực để luôn có suy nghĩ tích cực. Như vậy,
lạc quan đã góp phần tăng giá trị cho bản thân và xã hội.
7. Viết đoạn văn nghị luận xã hội bàn về “thói vô trách nhiệm”

Như một thứ axit vô hình, thói vô trách nhiệm có thể ăn mòn cả
xã hội của chúng ta. Thật vậy, trách nhiệm là có ý thức, có tính tự
giác, làm tròn bổn phận của mình với những công việc được giao.
Còn vô trách nhiệm là vô tâm, cẩu thả, không quan tâm đến đúng sai,
phải trái. Bởi thế, thói vô trách nhiệm để lại những haaij quả nghiêm
trọng. Thói vô trách nhiệm làm chậm sự tiến bộ của xã hội và gây ra
những thất thoát, lãng phí. Kẻ vô trách nhiệm không hoàn thành
nhiệm vụ dẫn đến mất lòng tin của mọi người. Đôi khi sự vô trách
nhiệm của bản thân cũng mang đến những thất bại ê chề. May mắn
thay, thói vô trách nhiệm ấy chỉ là một bộ phận nhỏ, còn bên cạnh đó
là cả một dân tộc với những con người luôn đề cao trách nhiệm và
sống hết mình vì những nhiệm vụ cao cả. Vì vậy, chúng ta cần rút ra
bài học cho riêng mình: cần phải có trách nhiệm với bản thân, với gia
đình và xã hội, đừng để sau này chúng ta phải hối hận vì hành động
vô trách nhiệm của mình.

8. Viết đoạn văn nghị luận xã hội “suy nghĩ về hai chữ thất bại”

“Thất bại là mẹ thành công” – bạn có đồng ý với quan điểm


này? Mới nghe qua có vẻ vô lí vì thất bại là sự đối lập của thành
công, vậy tại sao lại là “mẹ” của thành công được? Thành công là
trạng thái mà con người đạt được mục đích mà họ mong muốn. Còn
thất bại thì ngược lại đó là khi chúng ta không đạt được điều mình
muốn. Trong câu nói này ý chỉ rằng thất bại chính là tiền đề để tạo
nên sự thành công. Khi bạn thất bại bạn sẽ có kinh nghiệm hơn về
việc đó để rồi sau này có thể hạn chế được mặt tiêu cực và đạt được
sự thành công. Sau thất bại bạn sẽ có động lực để vực daayh, sửa
đổi mặt yếu kém. Cứ nhưu thế thành công sẽ chào đón bạn. Các nhà
khoa học đã phải thất bại rất nhiều trước khi có những phát minh có
thể thay đổi cả thế giới. Nhưng nếu khi bạn thất bại mà chán nản, bỏ
cuộc để rồi bạn sẽ không bao giờ đạt được thành công mà bạn mong
muốn. Chúng ta cần có ý thức, nghị lực để khắc phục thất bại và biến
nó thành thành công. Thất bại chưa là dấu chấm hết, nó thực sự kết
thúc khi bạn không có nghị lực sống để giải quyết thất bại. Cánh cửa
thành công luôn chào đón bạn, vậy tại sao bạn không tự đứng lên để
Bắt Đầu.

9. Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ “bàn về thành công”

Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà có những người bỏ


ra cả cuộc đời để theo đuổi? Phải chăng, đó là sự hoàn hảo trong
công việc, là cuộc sống giàu sang, được nhiều người nể phục? Thực
ra thành công đơn giản và gần gũi hơn rất nhiều. Đó là khi bạn nấu
được một bữa cơm ngon, giải một bài toán khó hay giúp mẹ một vài
việc vặt… Những dẫu được định nghĩa thế nào chăng nữa, thành
công vẫn phải là kết quả của quá trình không ngừng cố gắng, nỗ lực,
dám chấp nhận và vượt qua thất bại. Và, tuyệt đối đừng biến con
đường theo đuổi thành công trở thành bi kịch bởi cố gắng không
đồng nghĩa với bất chấp tất cả để đạt được điều mình mong muốn.
Thành công cũng giống như con người, chỉ bền vững khi được tạo
nên từ chính sức lực của mình với một cái tâm trong sáng. Vậy nên,
mối chúng ta đừng ủ rũ mà cho rằng mình là kẻ thua cuộc, hãy cứ vui
lên và bước tiếp trên con đường đã chọn.

10. Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ: Đừng sống theo điều
ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể
Con người sinh ra ai cũng có ước mơ, khát khao của riêng
mình, tuy nhiên không phải bất cứ ai cũng chạm được đến cái đích
của riêng mình. Câu ngạn ngữ “Đừng sống theo điều ta ước muốn.
Hãy sống theo điều ta có thể” là một câu châm ngôn sống đầy kinh
nghiệm để giúp con người lựa chọn cách sống của cá nhân. “Điều ta
ước muốn” là những khát vọng, đam mê, ước mơ của bản thân mà
con người luôn nỗ lực để đạt được, còn “điều ta có thể” là những
việc trong khả năng mà con người có thể làm được. Có lẽ, chúng ta
ai cũng ấp ủ với những giấc mơ của riêng mình, với những đam mê
và khát vọng đã dần trở thành mục đích sống của chúng ta. Thế
nhưng, đôi khi chính những khát vọng ấy lại đối lập với “điều ta có
thể”. Có những ước mơ dường như xa vời mà chúng ta không thể
chạm tới được, khiến ta trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, mất niềm tin
vào bản thân. Đam mê và sự nỗ lực là hai yếu tố không thể thiếu trên
hành trình đi tìm ước mơ của mỗi người, nhưng chỉ có vậy thì chưa
bao giờ là đủ. Hãy giả sử, nếu chúng ta mơ ước trở thành một ca sĩ
nổi tiếng, vậy mà giọng hát của chúng ta không được hay, không
được thiện cảm thì chúng ta liệu có thể làm được không? Trong khi
đó, khi làm những việc phù hợp với khả năng, chúng ta sẽ có cơ hội
phát huy thế mạnh của bản thân và cống hiến nhiều hơn cho xã hội.
Vậy nên câu nói là bài học nhắn nhủ con người cần phải có những
ước mơ phù hợp với khả năng của bản thân. Tuy nhiên, nếu cứ mãi
ở trong vùng giới hạn của bản thân, liệu cuộc sống của chúng ta có
còn ý nghĩa? Liệu chúng ta có thể hiểu được bản thân nếu không có
sự trải nghiệm và thử thách hay không? Dù biết rằng đôi khi ước mơ
chỉ là những hoài bão xa vời, nhưng nó vẫn là động lực thúc đẩy
chúng ta, để ta có niềm tin vào chính mình và vững bước trên con
đường đời đầy chông gai này. Hơn nữa, chính những giấc mơ ấy là
động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, để con người không
ngừng nỗ lực nghiên cứu, học hỏi và sáng tạo để nâng cao chất
lượng cuộc sống. Chúng ta có thể thấy trong cuộc sống không thiếu
những tấm gương đã vượt qua được những điều không thể của bản
thân, để chạm tới ước mơ dường như quá xa xôi và khó khăn với họ.
Beethoven- nhà soạn nhạc thiên tài người Đức- người đã không may
mắn mất đi khả năng thính giác của mình, vậy mà nhờ có niềm đam
mê mãnh liệt với âm nhạc, ông đã vượt qua giới hạn của bản thân để
trở thành biểu tượng của nền âm nhạc cổ điển mà không ai trong
chúng ta không biết tới. Nếu luôn hài lòng và thỏa mãn với bản thân,
thì trên thế giới sẽ không có những tác phẩm kiệt xuất, không có
những thành tựu tiến bộ để thế giới phát triển như lúc này. Và việc
trải nghiệm, thử thách bản thân để thực hiện đam mê cũng là cơ hội
đặc biệt để giúp chúng ta khám phá con người thật của mình. Cuộc
sống là một bức tranh được tạo nên bởi những mảnh ghép đa sắc
màu, có lẽ một vài mảnh ghép ta chỉ có thể ngắm nhìn, nhưng cái cứ
để nó song song tồn tại với những điều có thể của ta để cuộc sống
của ta đa dạng hơn. Và đừng ngại với những ước mơ xa vời mà hãy
luôn nỗ lực phấn đấu với con đường mà chính mình đã lựa chọn, bởi
không ai có quyền đánh thuế giấc mơ của chúng ta, và biết đâu một
ngày nào đó, chúng ta lại có thể thực hiện được nó, như biết bao
người đã từng thành công trên chặng đường đi tìm giấc mơ đầy thú
vị này.

Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn phần Văn bản nhật dụng
năm 2023
Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn bên cạnh phần thơ và truyện
thì phần Văn bản nhật dụng cũng rất quan trọng và cần được lưu ý.
Bộ tài liệu này sẽ giới thiệu tới các em nội dung chính, những vấn đề
cơ bản trọng tâm nhất của các văn bản nhật dụng ấy. Các em học
sinh sẽ ôn tập và củng cố kiến thức hiệu quả môn Ngữ văn 9, từ đó
chuẩn bị tốt nhất cho kì thi vào lớp 10 sắp tới. Mời các em tham
khảo:

A. NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM

I. Khái niệm văn bản nhật dụng

Văn bản nhật dụng không phải là kiểu văn bản. Trong chương
trình đã học 6 phương thức biểu đạt, ứng với sáu kiểu văn bản là: Tự
sự, biểu cảm, miêu tả, nghị luận, thuyết minh, hành chính – công vụ.
Văn bản nhật dụng chỉ tính chất cập nhật, gần gũi, bức thiết đối với
đời sống. Đó là những vấn đề thường được nhắc đến trên báo chí,
các phương tiện truyền thông hằng ngày. Ví dụ như tệ nạn xã hội,
các quyền trẻ em, vấn đề môi trường, …Văn bản nhật dụng do đó
bao gồm nhiều kiểu văn bản, nhiều thể loại khác nhau: Truyện, kí,
thơ, văn nghị luận.

II. Danh mục các văn bản nhật dụng đã học

STT Tên văn bản

1 Phong cách Hồ Chí Minh

2 Đấu tranh cho một thế giới hòa bình

Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ
3
em

4 Bàn về đọc sách

5 Tiếng nói của văn nghệ

III. Hình thức văn bản nhật dụng

- Trình bày dưới dạng hình thức văn bản đa dạng:

+ Tác phẩm văn chương có ít nhiều hư cấu

+ Thư

+ Bút kí, hồi kí

+ Thông báo, công bố, xã luận

- Một số văn bản có sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương thức biểu
đạt

+ Tự sự với miêu tả

+ Thuyết minh với miêu tả


+ Tự sự, miêu tả với biểu cảm

+ Nghị luận với biểu cảm

+ Thuyết minh, nghị luận với biểu cảm

IV. Phương pháp học văn bản nhật dụng

- Bên cạnh việc đọc sách chú thích về nghĩa của từ, cần lưu ý đặc
biệt đến các loại chú thích về sự kiện

- Tạo thói quen liên hệ với vấn đề được đặt ra trong cuộc sống

- Mỗi học sinh cần có kiến giải riêng, quan điểm riêng, và mỗi trường
hợp cụ thể, còn có những đề xuất những kiến nghị và giải pháp

- Hình thức văn bản nhật dụng đa dạng, căn cứ vào đặc điểm hình
thức của văn bản và phương pháp biểu đạt.

B. NỘI DUNG

Văn bản 1: Phong cách Hồ Chí Minh

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Lê Anh Trà (1927 - 1999), quê ở xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, tỉnh
Quảng Ngãi.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- “Phong cách Hồ Chí Minh” được trích từ bài viết “Phong cách Hồ
Chí Minh cái vĩ đại gắn liền với cái giản dị” của tác giả Lê Anh Trà.
- Tác phẩm được in trong tập “Hồ Chí Minh và văn hóa Việt
Nam” năm 1990.

b. Văn bản nhật dụng và phương thức biểu đạt

- “Văn bản nhật dụng là loại văn bản đề cập, bàn luận, thuyết minh,
tường thuật, miêu tả, đánh giá,... về những vấn đề, hiện tượng gần
gũi, bức xúc với cuộc sống con người và cộng đồng”.

- Phương thức biểu đạt của văn bản nhật dụng khá phong phú và đa
dạng. Trong một văn bản, nó có sự kết hợp nhiều phương thức biểu
đạt.

c. Phương thức biểu đạt

- Văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh” có sự kết hợp giữa yếu tố nghị
luận và thuyết minh.

d. Bố cục: Hai phần

- Phần một: Từ đầu đến “rất hiện đại”: Quá trình hình thành phong
cách văn hóa Hồ Chí Minh.

- Phần hai: Còn lại: Những biểu hiện cụ thể của phong cách văn
hóa Hồ Chí Minh.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Quá trình hình thành phong cách văn hóa Hồ Chí Minh

- Ngay ở luận điểm đầu tiên, tác giả Lê Anh Trà đã khẳng định vốn tri
thức, văn hóa sâu rộng của Người: “Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại
am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hóa thế giới
sâu sắc như Hồ Chí Minh”.

- Cách thức để Người tiếp xúc và tiếp thu các nền văn hóa:
+ Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đi nhiều
nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa.

Chân lí “đi một ngày đàng, học một sàng khôn" của ông cha ta như
được Người khẳng định và chứng minh là luôn luôn đúng.

+ Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng nước ngoài, cụ thể là:
Anh, Pháp, Hoa, Nga,…

Ngôn ngữ chính là công cụ giao tiếp quan trọng bậc nhất, là chìa
khóa vạn năng để mở ra cánh cửa của các nền văn hóa trên thế giới.

+ Làm nhiều nghề khác nhau.

Những lăn lộn từ thực tiễn lao động đã giúp Người học hỏi được
vô vàn những điều quý báu mà không một sách vở nào có được.

- Kết quả mà Người có được:

+ “Học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên
thâm”.

Uyên thâm ở Người là học hỏi, tìm hiểu đến mức am hiểu sâu sắc
mọi vấn đề.

+ “Chịu ảnh hưởng của nền văn hóa, tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay”.

Tiếp thu cái hay, cái đẹp tức là Người đã tiếp thu một cách có
chọn lọc.

+ “Phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản”.

Là một người đầy bản lĩnh, Người đã dám chỉ ra những mặt sai,
phê phán những mặt hạn chế của kẻ thù.

- Nhưng kì lạ là những ảnh hưởng quốc tế (phương Tây) đó đã nhào


nặn với cái gốc văn hóa dân tộc (phương Đông) để trở thành một
nhân cách rất Việt Nam. (Các em hãy quan sát bảng so sánh sau
đây, để thấy được những điểm khác biệt cơ bản giữa hai nền văn
hóa phương Đông và phương Tây):

Phương Tây
Phương Đông
(Anh, Pháp, Nga,
(Trung Quốc)
Đức...)

Văn hóa Nông nghiệp Công nghiệp

Mối quan hệ cộng đồng Tập thể Cá nhân

Mối quan hệ tự nhiên Làm chủ Hòa đồng

Giải quyết Mềm mỏng, khéo léo Thẳng thắn

Trên nền tảng văn hóa dân tộc Người đã tiếp thu một cách có
chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó chính là sự kết hợp
một cách khéo léo giữa cái truyền thống và hiện đại, giữa phương
Đông và phương Tây, xưa và nay, dân tộc và quốc tế. Đó chính là
nghệ thuật đối lập mà Lê Anh Trà đã sử dụng để cụ thể quá trình
hình thành phong cách văn hóa Hồ Chí Minh.

2. Những biểu hiện cụ thể của phong cách văn hóa Hồ Chí Minh

- Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, nhưng
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại rất giản dị và đời thường, điều đó được
thể hiện trên nhiều phương diện:

+ Nơi ở và nơi làm việc: “Chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh
chiếc ao làm “cung điện” của mình”. “Chiếc nhà sàn đó cũng chỉ vẻn
vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính Trị, làm việc và ngủ”. Đó
không phải là tam cung lục viện, nguy nga, tráng lệ như các vị lãnh
tụ, hay các bậc vua chúa thời xưa.
+ Trang phục: Hết sức giản dị với bộ quần áo bà ba, chiếc áo trấn
thủ, đôi dép lốp cộng với tư trang ít ỏi,...

+ Ăn uống: “rất đạm bạc" với những món ăn đậm chất dân tộc và
không chút cầu kì: Cá kho, rau luộc, cà ghém, cà muối, cháo hoa.

Bác có quyền được hưởng những cao lương mĩ vị, sơn hào hải vị;
có quyền được hưởng một cuộc sống đầy đủ và sang trọng nhưng vì
nước, thương dân, bác đã hy sinh quyền lợi, sống như người dân
bình thường. Tấm gương đó khiến người người ngưỡng mộ và kính
phục.

Lê Anh Trà đã đưa ra những dẫn chứng tiêu biểu, kết hợp lời kể
với bình luận một cách tự nhiên, cộng với nghệ thuật đối lập đã làm
nổi bật những nét đẹp trong lối sống giản dị và thanh cao của Bác.

- Đặc biệt, tác giả đã sử dụng lối viết so sánh khi so sánh Bác với
các nhà nho nổi tiếng trước đây (Nguyễn Trãi, Nguyền Bỉnh Khiêm)
để làm nổi bật nét đẹp trong lối sống rất dân tộc, rất Việt Nam.

+ “Không phải lủ một cách tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời,
hơn đời”.

+ Đây cũng không phải là lối sống khắc khổ của những con người tự
vui trong cảnh nghèo khó.

+ Đây là một cách sống có văn hóa đà trở thành một quan điểm thẩm
mĩ: Cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên.

- Tại sao Lê Anh Trà lại so sánh Người với Nguyễn Trãi và Nguyễn
Bỉnh Khiêm?

Vì hai vị đó là những nhà hiền triết có lối sống giản dị, thanh cao.

+ Giống nhau: Đều tự cho rằng sống giản dị là sống sung sướng,
hạnh phúc.
+ Khác nhau: Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm về với thú lâm
tuyền để lánh đời. Còn Bác thì cuộc đời hoạt động cách mạng gắn
liền với lối sống bình dị, thanh cao rất đời thường.

Qua những biểu hiện cụ thể của phong cách văn hóa Hồ Chí Minh,
chúng ta cảm nhận được một cách sâu sắc những nét đẹp trong lối
sống giản dị mà thanh cao của Người. Bên cạnh đó còn giúp người
đọc có một sự liên tưởng để thấy được sự gần gũi giữa Bác Hồ với
các vị hiền triết của dân tộc.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Phong cách Hồ Chí Minh là sự giản dị trong lối sống, sinh hoạt hằng
ngày, là cách di dưỡng tinh thần để từ đó thể hiện một quan niệm
thẩm mĩ cao đẹp.

2. Nghệ thuật

- Sử dụng ngôn ngữ trong sáng, trang trọng.

-Vận dụng, kết hợp một cách khéo léo các phương thức biểu đạt: tự
sự, biểu cảm, lập luận.

-Vận dụng một cách tài tình lối nói so sánh và các biện pháp nghệ
thuật đối lập.

Văn bản 2: Đấu tranh cho một thế giới hòa bình

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nhà văn G.G Mác - két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm 1928

- Quê quán : Nhà văn người Cô - lôm - bi - a


- Sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1936, tốt nghiệp tú tài, ông học ngành Luật tại trường đại
học Tổng hợp Bô-gô - ta và viết những truyện ngắn đầu tay

+ Các tác phẩm nổi tiếng : Trăm năm cô đơn (1976)

+ Ông được nhận giải thưởng Nô-ben cao quý về văn học năm
1982, đây là giải thưởng xứng đáng cho những cống hiến của ông
cho nèn văn học Cô - lôm - bi - a nói riêng và nền văn học thế giới
nói chung

- Phong cách sáng tác :

+ Ông thương viết nhiều tiểu thuyết theo khuynh hướng hiện thực
huyền ảo nổi tiếng

+ Toàn bộ những sáng tác của G.G Mác - két xoay quanh các chủ
đề chính như: sự cô đơn - mặt trái của tình đoàn kết, lòng yêu
thương giữa con người…Tất cả đều mang đậm giá trị hiện thực
nhưng giàu tính nhân văn sâu sắc.

2. Tác phẩm Đấu tranh cho một thế giới hòa bình

a. Hoàn cảnh sáng tác

Tác phẩm được trích từ bài tham luận của G.G Mác - két trong
buổi gặp gỡ lần thứ hai vào tháng 8 năm 1986 giữa nguyên thủ 6
nước Ấn Độ, Mê-hi-cô, Thụy Điển, Ác-hen-ti-na, Hi Lạp, Tan-da-ni-a
tại Mê-hi-cô để cùng đưa ra một bản tuyên bố kêu gọi chấm dứt chạy
đua vũ trang, thủ tiêu vũ khí hạt nhân để bảo vệ an ninh và hòa bình
thế giới

b. Bố cục : 3 đoạn
- Đoạn 1 (Từ đầu đến “mất đi khả năng sống tốt đẹp hơn”) : Chiến
tranh hạt nhân là mối nguy hại khủng khiếp đe dọa đến loài người và
mọi sinh vật sinh sống trên Trái đất

- Đoạn 2 (Từ tiếp đến “trở lại điểm xuất phát của nó”: Chạy đua vũ
trang giữa các nước làm mất khả năng để con người được sống tốt
đẹp hơn, chiến tranh hạt nhân đi ngược lại lí trí của loài người và quy
luật tự nhiên

- Đoạn 3 (Từ tiếp đến hết): Nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn chiến
tranh hạt nhân, hướng đến một thế giới hòa bình, văn minh.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Chiến tranh hạt nhân là mối nguy hại khủng khiếp đe dọa đến
loài người và mọi sinh vật sinh sống trên Trái đất

- Với thời gian hết sức cụ thể, số liệu cụ thể (hơn 50000 đầu đạn hạt
nhân) cùng một phép tính hết sức đơn giản ⇒ mỗi người trên Trái đất
đang ngồi trên 4 tấn thuốc nổ, nết tất cả nổ tung sẽ làm biến hết thảy
12 lần sự sống trên hành tinh này

⇒ Tính chất khốc liệt và sự khủng khiếp của chiến tranh hạt
nhân

- Mác - két đã đưa ra những tính toán lí thuyết: với kho vũ khí đó nó
có thể tiêu diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời cộng
với bốn hành tinh nữa ⇒ phá hủy thế thăng bằng của hệ mặt trời

⇒ Vào đề trực tiếp với chứng cớ cụ thể, xác thực ⇒ gây chú ý
và giúp mỗi người nhận ra hiểm họa khủng khiếp của chiến tranh hạt
nhân
2. Chạy đua vũ trang giữa các nước làm mất khả năng để con
người được sống tốt đẹp hơn, chiến tranh hạt nhân đi ngược lại
lí trí của loài người và quy luật tự nhiên

a. Chạy đua vũ trang giữa các nước làm mất khả năng để con
người được sống tốt đẹp hơn

- Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng với số liệu cụ thể:

+ Số tiền 100 tỉ đô la bỏ ra cho 100 máy bay Mĩ và gần 7000 tên


lửa có thể cải thiện cuộc sống cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất
thế giới

+ Gía 10 chiếc tàu sân bay Ni-mít đủ để thực hiện chương trình
phòng bệnh trong 14 năm cho hơn 1 tỉ người và cứu hơn 14 triệu trẻ
em châu Phi...

+ Chỉ 2 chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xóa mù
chữ cho toàn thế giới...

⇒ Số liệu cụ thể trên các lĩnh vực xã hội, y tế, tiếp tế thực phẩm,
giáo dục, những mặt thiết yếu trong đời sống....⇒ làm nổi bật sự tốn
kém ghê gớm và tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ trang

⇒ Lập luận xác đáng, dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục

b. Chiến tranh hạt nhân đi ngược lại lí trí của loài người và quy
luật tự nhiên

- Chiến tranh hạt nhân không nhừn tiêu diệt toàn bộ loài người mà
còn phá hủy mọi sự sống trên Trái đất ⇒ đi ngược lại quy luật tiến
hóa, quy luật tự nhiên

- Tác giả đã đưa ra những chứng cứ khoa học địa chất:

+ trải qua 380 triệu năm thì con bướm mới biết bay
+ 180 triệu năm bông hồng mới nở

+ Trải qua 4 kỉ địa chất con người mới hát hay hơn chim và mới
chết vì yêu...

⇒ nhưng chỉ cần “bấm nút” tất cả quá trình vĩ đại đó sẽ quay trở
về điểm xuất phát của nó

⇒ Chiến tranh hạt nhân đẩy lùi quá trình tiến hóa, tiêu hủy mọi
thành quả của quá trình tiến hóa

3. Nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, hướng
đến một thế giới hòa bình, văn minh

- Mác két kêu gọi mọi người chống lại cuộc chạy đua vũ trang, kêu
gọi mọi người “hãy tham gia vào bản đồng ca của những người đòi
hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình, công
bằng...”

- Ông đề nghị mở một nhà băng lưu trữ trí nhớ, có thể tồn tại được
sau tai họa hạt nhân, để nhân loại tương lai biết rằng có sự sống đã
từng tồn tại

⇒ Cách diễn đạt đặc sắc, độc đáo, những thông điệp Mác - két
đưa ra là những thông điệp có ý nghĩa cấp thiết và thực sự quan
trọng

III. Tổng kết

1. Nội dung

Tác phẩm đề cập đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe dọa
toàn bộ sự sống trên Trái đất và nhiệm vụ của con người đó chính là
phải ngăn chặn nguy cơ đó, là đáu tranh cho một thế giới hòa bình.

2. Nghệ thuật
Đây là một văn bản nghị luận rất giàu tính thuyết phục; tất cả các
luận điểm và hệ thông luận cứ vô cùng rõ ràng , các chứng cứ đưa ra
rất xác đáng, cụ thể; lập luận chặt chẽ giàu thuyết phục.

Văn bản 3: Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo
vệ và phát triển của trẻ em

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Văn bản “Tuyên bố thế giới về sự phát triển, quyền được bảo vệ và
phát triển của trẻ em” trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới
về trẻ em họp tại Liên hợp quốc ngày 30-9-1990, in trong cuốn Việt
Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em.

2. Bố cục

- Đoạn 1 (Từ đầu đến “những kinh nghiệm mới”): khẳng định quyền
được sống, quyền được phát triển của mọi trẻ em trên Trái đất, kêu
gọi nhân loại hãy quan tâm nhiều hơn đến điều này

- Đoạn 2 ( Sự thách thức): những thách thức cho sự phát triển của
nhiều trẻ em trên thế giới

- Đoạn 3 ( Cơ hội): Những điều kiện thuận lợi để thế giới có thể đẩy
mạnh việc quan tâm, chăm sóc trẻ em

- Đoạn 4 (Nhiệm vụ): Nhiệm vụ cụ thể từng quốc gia vè cả cộng đồng
cần làm vì sự sống còn, quyền được bảo về và phát triển của trẻ em

II. Trọng tâm kiến thức

1. Sự khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của
mọi trẻ em trên Trái đất, kêu gọi nhân loại hãy quan tâm nhiều
hơn đến điều này
- Giới thiệu hoàn cảnh của lời kêu gọi, đây là một “lời kêu gọi khẩn
thiết hướng tới toàn thể nhân loại” vì mục đích: hãy đảm bảo cho trẻ
em một tương lai tốt đẹp hơn”

- Nêu đặc điểm của trẻ em : “trong trắng, dễ bị tổn thương và còn
phụ thuộc”

- Khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của tất cả các
trẻ em trên toàn thế giới: “phải được sống trong vui tươi, thanh bình,
được chơi, được học và phát triển...”

⇒ Cách nêu vấn đề trực tiếp, rõ ràng

2. Những thách thức cho sự phát triển của nhiều trẻ em trên thế
giới

- Phản ánh thực trạng của trẻ em trên toàn thế giới:

+ Trở thành những nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, của sự
phân biệt chủng tộc, sự xâm lược, chiếm đóng và thôn tính của nước
ngoài

+ Phải sống trong thảm họa đói nghèo, khủng hoảng kinh tế

+ Tình trạng vô gia cư, dịch bệnh, môi trường xuống cấp...

+ Rất nhiều trẻ em phải bỏ mạng mỗi ngày do suy dinh dưỡng và
bệnh tật

3. Những điều kiện thuận lợi để thế giới có thể đẩy mạnh việc
quan tâm, chăm sóc trẻ em

- Bên cạnh những khó khăn, tuyên bố cũng đưa ra những cơ hội cho
việc chăm sóc, hướng tới sự phát triển của trẻ em:
+ Sự liên kết giứa các nước và “công ước về quyền trẻ em”đã tạo
ra những quyền và phúc lợi mới cho trẻ em, chúng sẽ “được sự tôn
trọng” ở khắp nơi trên thế giới

+ Bầu không khí chính trị quốc tế đang được cải thiện, cụ thể cuộc
chiến tranh lạnh đã chấm dứt, sự hợp tác liên kết quốc tế được tăng
cường, phong trào giả trừ quân bị được đẩy mạnh...

⇒ Tạo điều kiện cho một số tài nguyên to lớn có thể chuyển
sang phục vụ các mục tiêu kinh tế, tăng cường phúc lợi xã hội

⇒ Có thể tạo ra nhiều hơn nữa những kết quả tốt đẹp cho sự
phát triển của trẻ em

4. Nhiệm vụ cụ thể từng quốc gia về cả cộng đồng cần làm vì sự


sống còn, quyền được bảo về và phát triển của trẻ em

- Tuyên bố đã đưa ra những nhiệm vụ cấp thiết cho cộng đồng quốc
tế và từng quốc gia:

+ Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dường của trẻ em

+ Chăm sóc nhiều hơn đối với trẻ em bị tàn tật và có hoàn cảnh
sống đặc biệt khó khăn

+ Tăng cường vai trò phụ nữ và bình đẳng nam nữ

+ Bảo đảm sự phát triển giáo dục cho trẻ em

+ Bảo đảm an toàn cho phụ nữ mang thai

+ Tạo môi trường sống tốt đẹp cho trẻ em

+ Khôi phục sự phát triển kinh tế

⇒ Những nhiệm vụ mang tính cấp thiết này nếu được thực hiện
sẽ ,ở ra một tương lai tốt đẹp hơn cho trẻ em trên toàn thế giới.
III. Tổng kết

1. Nội dung

Văn bản phần nào cho ta thấy được thực trạng về cuộc sống của
trẻ em trên thế giới hiện nay và tầm quan trọng của việc bảo vệ và
chăm sóc trẻ em.

2. Nghệ thuật

Văn bản được trình bày chặt chẽ khoa học và vô cùng hợp lí, toàn
diện về các vấn đề được nêu ra.

Văn bản 4: Bàn về đọc sách

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chu Quang Tiềm (1897 — 1986), là nhà mĩ học, nhà lí luận học nổi
tiếng của Trung Quốc.

- Ông là nhà văn hóa lớn, có học vấn uyên thâm và là tác giả của
nhiều bài chính luận nổi tiếng.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- “Bàn về đọc sách” trích trong cuốn “Danh nhân Trung Quốc bàn về
niềm vui nỗi buồn của việc đọc sách” - Bắc Kinh, 1995.

b. Người dịch: Giáo sư Trần Đình Sử.

c. Phương thức biểu đạt: Nghị luận.

d. Bố cục: Ba phần
- Phần một: Từ đầu đến “nhằm phát hiện thế giới mới”: Tầm quan
trọng và ý nghĩa của việc đọc sách.

- Phần hai: Tiếp theo đến “tự tiêu hao lực lượng”: Những khó khăn và
thiên hướng sai lệch của việc đọc sách hiện nay.

- Phần ba: Còn lại: Bàn về các phương pháp chọn sách và đọc sách.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đọc sách

a. Tầm quan trọng

- Sách là kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại.

- Là những cột mốc trên con đường tiến hóa học thuật.

- Thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ.

b. Ý nghĩa của việc đọc sách

- Đọc sách là con đường tích lũy, nâng cao vốn tri thức. Đó chính
cách để chúng ta khẳng định và nâng tầm bản thân.

- Đọc sách chính là sự chuẩn bị trên con đường trường chinh vạn
dặm để phát hiện thế giới mới.

- Chúng ta không thể thu được các thành tựu mới trên con đường
học thuật nếu như không biết kế thừa thành tựu của các thời đã
qua.

- Lấy thành quả của nhân loại trong quá khứ làm xuất phát điểm để
phát hiện cái mới của thời đại ngày nay là điều vô cùng quan
trọng. “Nếu xóa bỏ được hết các thành tựu của nhân loại đã đạt được
trong quá khứ thì chưa biết chừng chúng ta đã lùi điểm xuất phát về
đến mấy trăm năm, thậm chí là mấy ngàn năm trước...”
Đọc sách chính là trả món nợ với thành quả của nhân loại trong
quá khứ và ôn lại kinh nghiệm, tư tưởng của nhân loại tích lũy suốt
mấy nghìn năm.

Đọc sách còn là sự hưởng thụ các kiến thức, thành quả của bao
người đã khổ công tìm kiếm mới thu nhận được.

2. Những khó khăn và thiên hướng sai lệch của việc đọc sách

Tác giả đã nêu ra hai khó khăn cơ bản:

a. Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu, dễ sa vào lối ăn


tươi, nuốt sống.

- Những học giả xưa bên Trung Quốc: “một đời đến bạc đầu mới đọc
hết một quyển kinh... đọc quyển nào ra quyển ấy, miệng đọc, tâm
ghi, nghiền ngẫm đến thuộc lòng, thấm vào xương tủy, biến thành
một nguồn động lực tinh thần, cả đời dùng mãi không cạn”.

- Học giả ngày nay: “đọc hàng vạn cuốn sách... giống như ăn uống,
các thứ không tiêu hóa được...”.

Cách đọc của người xưa là đọc kỹ, đọc nghiền ngẫm, đối lập với
lối đọc nhanh vội, chỉ làng phí thời gian, công sức. Lối so sánh cụ thể
này không chỉ là một sự chứng minh thông minh mà còn là lời bàn
luận triết lý sâu sắc.

b. Sách nhiều khiến người ta khó chọn lựa, dẫn đến lãng phí
thời gian và sức lực với những cuốn sách không có ích.

- Tác giả đã so sánh việc chọn những cuốn sách giá trị: “giống như
đánh trận, cần phải đánh vào thành trì kiên cố, đánh bại quần địch
tinh nhuệ, chiếm cứ mặt trận xung yếu”.
- Việc đọc tham, đọc nhiều giống như đánh giặc mà “mục tiêu quá
nhiều, che lấp mất vị trí kiên cố, chỉ đá bên đông, đấm bên tây, hóa
ra thành lối đánh tự tiêu hao lực lượng”.

Bằng lối so sánh, phân tích rất độc đáo, thú vị này, tác giả đã chỉ
ra một cách thuyết phục những nguy hại của lối đọc sách sai lệch.

3. Bàn về các phương pháp chọn sách và đọc sách

a. Phương pháp chọn sách

+ Phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ những quyển nào thực sự có giá
trị, có lợi cho mình, chứ không cốt lấy nhiều.

+ Cần đọc kỹ các cuốn sách, tài liệu cơ bản thuộc lĩnh vực kiến thức
phổ thông và kiến thức chuyên sâu.

+ Chọn sách phải có mục đích, có định hướng rõ ràng, không nhất
thời tùy hứng.

+ Trong khi đọc tài liệu chuyên sâu, cũng không thể xem thường việc
đọc loại sách thường thức, loại sách ở lĩnh vực gần gũi, kế cận với
chuyên môn của mình để đảm bảo nguyên tắc “vừa chuyên vừa
rộng”.

Tác giả bài viết đã đi đến khẳng định: “Trên đời không có học vấn
nào là cô lập, tách rời các học vấn khác”. Vì thế, “không biết rộng thì
không thể chuyên”, “không thông thái thì không thể nắm gọn”. Đồng
thời, ý kiến này đã chứng tỏ được kinh nghiệm và sự từng trải của
một học giả lớn.

b. Phương pháp đọc sách

-Tác giả đã bàn rất cụ thể về phương pháp đọc sách.


+ Không nên đọc lướt qua, mà phải say mê, vừa đọc vừa “trầm
ngâm tích lũy”, “tương tượng tự do” nhất là đối với những cuốn sách
có giá trị.

+ Không nên đọc sách một cách tràn lan theo kiểu hứng thú cá
nhân mà cần đọc có kế hoạch và có hệ thống.

- Từ việc bàn luận về phương pháp đọc sách, tác giả đã đưa ra ý
nghĩa của việc đọc sách đối với việc rèn luyện nhân cách và tính
cách của con người.

+ Đọc sách là một công việc rèn luyện, một cuộc chơi âm thầm và
gian khổ cho tương lai đối với những người nuôi chí, lập nghiệp trong
một môn học vấn nào đó.

+ Đọc sách không chỉ là việc học tập tri thức mà còn là chuyện rèn
luyện tính cách, chuyện học làm người.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài viết của tác giả đã nêu ra những ý kiến xác đáng về việc chọn
sách và đọc sách, phương pháp đọc sách hiệu quả trong thời đại
ngày nay.

2. Nghệ thuật

- Bố cục chặt chẽ, hợp lí, ý kiến dẫn dắt tự nhiên.

- Cách viết giàu hình ảnh, ví von, cụ thể, sinh động.

Văn bản 5: Tiếng nói của văn nghệ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả
- Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003), quê ở Hà Nội.

- Ông không chỉ là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch mà còn là một
nhà soạn nhạc và lí luận văn học nổi tiếng.

- Nguyễn Đình Thi là một trong những gương mặt tiêu biểu và có
nhiều đóng góp cho sự đổi mới của nền văn học Việt Nam hiện đại.

+ Trước cách mạng, ông là thành viên của tổ chức Văn hóa – Cứu
quốc.

+ Sau cách mạng, ông được bầu làm Tổng thư kí hội văn hóa cứu
quốc; từ năm 1958 - 1989, ông làm Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt
Nam; từ năm 1995 ông là Chủ tịch ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội
văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- “Tiếng nói của văn nghệ” được viết vào năm 1948. Đây là giai đoạn
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt.

- Tác phẩm được in trong cuốn “Mấy vấn đề văn học” năm 1956.

b. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Từ đầu đến “của tâm hồn”: Nội dung phản ánh của văn
nghệ.

- Phần hai: Tiếp theo đến “tiếng nói của tình cảm”: Vai trò, ý nghĩa
của văn nghệ đối với đời sống con người.

- Phần ba: Còn lại: Con đường đến với văn nghệ và sức mạnh diệu
kì của nó.

II. Trọng tâm kiến thức


1. Nội dung phản ánh của văn nghệ

Tác phẩm nghệ thuật được xây dựng từ những chất liệu ở thực tại
đời sống khách quan nhưng không phải là sự sao chép giản đơn.
Khi sáng tạo một tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó một cách nhìn,
một lời nhắn nhủ của riêng mình:

- Nội dung của tác phẩm văn nghệ là tư tưởng, tấm lòng của người
nghệ sĩ gửi vào trong đó.

- Chứa đựng tất cả những vui buồn, yêu ghét, mơ mộng của nghệ sĩ
và mang đến cho ta bao rung động, ngỡ ngàng trước những điều
tưởng như bình thường, quen thuộc.

- Nội dung của văn nghệ còn là rung cảm và nhận thức của từng
người tiếp nhận. Nó sẽ được mở rộng, phát huy vô tận đến từng
thế hệ người đọc, người xem.

- Văn nghệ tập trung khám phá, thể hiện chiều sâu, tính cách, số
phận, tâm hồn của con người.

Nội dung chủ yếu của văn nghệ là hiện thực mang tính cụ thể, sinh
động, là đời sống tình cảm của con người qua cách nhìn và tình cảm
có tính cá nhân của người nghệ sĩ.

2. Vai trò, ý nghĩa của văn nghệ đối với đời sống con người

- Văn nghệ giúp cho chúng ta được sống đầy đủ hơn, phong phú
hơn với cuộc đời và với chính mình.

- Trong những trường họp con người bị ngăn cách bởi cuộc sống,
tiếng nói của văn nghệ chính là sợi dây vô hình nối liền và buộc
chặt họ với cuộc đời bên ngoài.
- Tiếng nói văn nghệ giúp cho những con người lam lũ, vất vả quên
đi những cơ cực hàng ngày và nuôi dưỡng trong tâm hồn họ ước
mơ và khát vọng vươn lên.

Những tác phẩm văn nghệ hay, giá trị luôn là những liều thuốc tinh
thần chữa lành những vết thương và nuôi dường đời sống tâm hồn,
tình cảm thêm phong phú.

3. Con đường đến với văn nghệ và sức mạnh diệu kì của nó

- Sức mạnh của văn nghệ xuất phát từ nội dung và con đường mà
nó đến với người đọc, người nghe.

- Tác phẩm văn nghệ đến với con người bằng tình cảm chân thành,
giản dị, gần gũi. Nó chứa đựng tình yêu, niềm vui, nồi buồn của con
người chúng ta trong đời sống sinh hoạt thường ngày.

- Tư tưởng của nghệ thuật không khô khan, trừu tượng mà lắng sâu,
làm lay động những cảm xúc, khai sáng nhận thức và tâm hồn con
người qua con đường tình cảm.

- Đến với tác phẩm văn nghệ, chúng ta được sống, được yêu, ghét,
vui buồn, đợi chờ,... cùng các nhân vật và người nghệ sĩ. “Nghệ thuật
không đứng ngoài trỏ vẽ ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong
lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên con đường ấy”.

Bằng nội dung và cách thức riêng, đặc biệt của mình, văn nghệ đã
góp phần giúp cho con người tự nhận thức về bản thân mình để
khẳng định mình. Như vậy, văn nghệ với một cách tự nhiên đã làm
nên những hiệu quả bền vững và sâu sắc.

III. Tổng kết

1. Nội dung
Văn nghệ nối sợi dây đồng cảm kì diệu giữa nghệ sĩ với bạn đọc
thông qua những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim. Văn nghệ
giúp con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân
cách, tâm hồn mình.

2. Nghệ thuật

- Bố cục chặt chẽ, họp lí, cách dẫn dắt tự nhiên.

- Giàu hình ảnh, có nhiều dần chứng về thơ văn, về đời sống thực tế
để khẳng định, thuyết phục các ý kiến, nhận định để tăng sức hấp
dẫn cho tác phẩm.

- Giọng văn toát lên lòng chân thành, niềm say sưa, đặc biệt nhiệt
hứng dâng cao ở phần cuối.

Tổng hợp đoạn văn nghị luận xã hội về COVID 19


siêu hay năm 2023
 Siêu sale 12-12 Shopee
Trang trước

Trang sau

Tổng hợp đoạn văn nghị luận xã hội về COVID 19 siêu hay
năm 2023
TỔNG HỢP ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VỀ COVID 19

Đoạn văn nghị luận xã hội liên quan đến dịch Covid-19 là dạng đề
thường xuyên xuất hiện trong các kì thi gần đây, bàn luận về nhiều
vấn đề trong cuộc sống khi đại dịch Covid-19 xảy ra như thực trạng
khẩu trang mùa dịch, tin giả, kỳ thị người vùng dịch, tinh thần đoàn
kết dân tộc, lòng nhân ái....
Tài liệu do VietJack tổng hợp bao gồm 16 bài văn mẫu vô cùng hữu
ích dành cho học sinh lớp 9 khi làm bài văn nghị luận xã hội liên quan
đến đại dịch Covid-19. Kính mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết
dưới đây.

Đề 1. Nghị luận về thực trạng khẩu trang mùa dịch Covid-19

Mẫu 1
Trước tình hình lây lan của Covid-19, rất nhiều người dân mang
tâm lý hoang mang, đổ xô đi mua khẩu trang y tế, nước sát khuẩn...
để phòng ngừa dịch bệnh. Lợi dụng tình trạng này, đã có không ít
tiểu thương tự ý tăng giá lên gấp 4 - 5 lần so với ngày thường. Tình
trạng lợi dụng bối cảnh xảy ra dịch bệnh nâng giá bán khẩu trang lên
gấp nhiều lần nhằm trục lợi là một thứ virus gây nguy hại cho môi
trường kinh doanh cần phải xử lý nghiêm. Hành vi như trên không chỉ
là vi phạm pháp luật mà còn vi phạm đạo đức kinh doanh. Nếu không
xử lý nghiêm, kịp thời có thể sẽ lây lan từ đối tượng này sang đối
tượng khác. Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã chỉ đạo: “Bất
cứ hiệu thuốc tăng giá khẩu trang, yêu cầu rút giấy phép kinh doanh”.
Sau khi triển khai quyết liệt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các
bộ, ngành, hiện tượng thu gom khẩu trang y tế và các sản phẩm sát
trùng đã giảm so với những ngày trước. Các cơ quan chức năng
cũng khuyến cáo tới người dân, tự nâng cao cảnh giác, nên chọn
mua, bán sản phẩm y tế tại các cơ sở, cửa hàng được cấp phép, có
uy tín để tránh mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng, không rõ
nguồn gốc xuất xứ. Là người dân chúng ta cần tin tưởng cơ quan
nhà nước, luôn cập nhật thông tin chính thống để có cho mình những
hiểu biết loại bỏ những hành vi xấu khỏi xã hội.

Mẫu 2
Trong lúc dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, người dân được Bộ
Y Tế khuyến cáo nên đeo khẩu trang khi ra đường và rửa tay thường
xuyên sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh. Được coi là nhu cầu thiết
yếu, khẩu trang và nước sát khuẩn nhanh chóng trở nên khan hiếm,
hết hàng. Lợi dụng việc này nhiều người đã trục lợi về cho bản thân,
tổ chức bằng việc tăng giá bán khẩu trang, nước sát khuẩn lên nhiều
lần. Đó là hành động cần lên án, cần được chấm dứt, bởi nó đang
làm cho hình ảnh con người, truyền thống tương thân tương ái của
dân tộc ta từ bao đời nay trở nên xấu đi. Hơn nữa nó ảnh hưởng trực
tiếp sức khỏe đến những người tiêu dùng bởi nếu họ sử dụng những
loại khẩu trang, dung dịch sát khuẩn kém chất lượng làm tăng nguy
cơ nhiễm bệnh và nhiều hệ lụy kéo theo. Tất cả có lẽ chỉ vì “Lợi
nhuận”, “Đồng tiền” mà ai đó đã bất chấp tất cả, bất chấp làm tổn hại
đến sức khỏe của người khác. Để chấm dứt việc này, trước hết mỗi
cá nhân cần nhận thức đúng về việc sử dụng các nhu yếu phẩm cần
thiết, tránh gây lãng phí và biết san sẻ với cộng đồng, để không xuất
hiện việc xếp hàng, chen lấn làm giảm cơ hội trục lợi từ người khác.
Đồng thời về phía cơ quan chức năng cần mạnh tay, xử lý dứt khoát
các trường hợp để những người có ý định cần phải bỏ ngay. Vì một
Việt Nam nói không với dịch bệnh, nói không với tăng giá, làm giả
chúng ta cần chung tay đẩy lùi bằng sức mạnh của đoàn kết.

Mẫu 3
“Từ giờ phút này trở đi, người dân có bằng chứng, hình ảnh bất
kỳ nhà thuốc nào tăng giá bán... Bộ Y tế rút giấy phép ngay lập tức
cửa hiệu đó, đây là vấn đề kỷ cương và đạo đức" - Phó thủ tướng
cho biết. Hiện nay nhu cầu về trang thiết bị phòng dịch, đặc biệt là
khẩu trang y tế, nước sát khuẩn vẫn tăng cao là thời điểm, hàng hóa
bị thổi giá gấp cả chục lần. Như lời Phó thủ tướng đây là vấn đề kỷ
cương và đạo đức, nó còn liên quan đến sức khỏe của con người do
đó cần ngăn chặn và có biện pháp phòng ngừa ngay. Những hành
động ấy được bắt nguồn từ sự thiếu ý thức, thiếu đạo đức chỉ vì lợi
ích cá nhân sẵn sàng trục lợi trên khó khăn của người khác, làm tha
hóa đạo đức và ảnh hưởng đến xã hội. Với sự vào cuộc mạnh tay
của nhà lãnh đạo, cơ quan chức năng, theo thông tin có được từ
Zing.vn, ngày 13/2 Công ty TNHH Đầu tư phát triển Thủy Tiên bị Cục
Quản lý thị trường tỉnh Đắk Lắk xử phạt 50 triệu đồng vì tăng giá bán
khẩu trang y tế gấp 3 lần trong mùa dịch hay theo báo Thanh Niên có
tới 85 cửa hàng trong một ngày bị xử phạt do tăng giá và bán sản
phẩm kém chất lượng. Để ngăn ngừa tình trạng này, người dân cần
ý thức được việc sử dụng khẩu trang và nước sát khuẩn hợp lí, gặp
các trường hợp nâng giá cần báo ngay cho cơ quan chức năng để
xử lý. Vì một Việt Nam vững mạnh.

Đề 2: Nghị luận về thực trạng tin giả trong thời điểm dịch Covid-
19

Mẫu 1
Cùng với tốc độ lây lan nhanh chóng của dịch Covid-19, tình
trạng thông tin thất thiệt xung quanh dịch bệnh này cũng được lan
truyền một cách rộng rãi trên mạng xã hội. Hành vi trên góp phần làm
gia tăng tâm lý sợ hãi, hoang mang cho người dân, tiềm ẩn nguy cơ
gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội. Từ những thần dược
cho đến những thuyết âm mưu, các tin giả về virus vùng dịch bệnh là
một phương tiện để kiếm tiền, hoặc gây hoang mang dư luận. Trên
mạng xã hội các dòng tin tức thật giả lẫn lộn về sự nguy hiểm của
virus Corona hay số người chết về dịch bệnh khiến cộng đồng thêm
phần hoang mang, sợ hãi. Lại có người vì lo lắng quá đà mà nảy sinh
tâm lý, lương thực, thực phẩm sẽ nhanh chóng cạn kiệt nên phải
mua để tích trữ sẵn. Có người lợi dụng sự nhẹ dạ của nhiều người
đã đưa tin giả, nhằm câu like, view để họ bán được mặt hàng nào đó.
Họ chọn cách tung ra những thông tin sai, chưa kiểm chứng để gây
hoang mang trong xã hội. Vì thế các đơn vị có liên quan phải có chế
tài xử phạt các trường hợp tung tin giả và tạo ra tin giả. Rõ ràng,
trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, cùng với sự vào cuộc
quyết liệt của các ngành chức năng để bảo vệ sức khỏe người dân,
chúng ta cần có sự chung sức, đồng lòng của toàn xã hội, thực hiện
tốt các chỉ đạo, khuyến cáo trong công tác phòng, chống dịch bệnh.

Mẫu 2
Theo dõi Trung tâm tin tức VTV24 những ngày qua, ta không
thể bỏ sót điểm tuần về nạn tin giả đang làm hoang mang dư luận
bên cạnh diễn biến phức tạp của dịch Covid-19. Phòng chống dịch
trên mặt trận tuyên truyền cũng là một cách. Tuy nhiên, khi đã thông
tin về dịch bệnh virus Covid-19 trên các phương tiện truyền thông nói
yếu tố tiên quyết là phải đúng sự thật. Song một số người muốn làm
“người hùng” trong dư luận bằng sự nhanh nhảu đoảng, vội vã hấp
tấp dễ gây ra hệ lụy cho mọi người. Trong khoảng 20 trường hợp đã
bị xử phạt do vi phạm hành chính theo Nghị định 15/2010/NĐ-CP đối
với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả
mạo, thông tin sai sự thật. Một số người đã lầm tưởng, ngộ nhận về
mình, tự sướng với việc mình đã “đưa tin nhanh hơn các báo” về các
trường hợp dịch bệnh COVID-19. Không ít trường hợp đưa những
thông tin chính xác theo các nguồn từ phương tiện thông tin đại
chúng đã đăng, nhưng kèm theo là những bình luận gây gợn nỗi lo
lắng, phập phồng cho người xem, người nghe. Thay vì chỉ ra những
biện pháp thì mỗi người cần tự nâng cao ý thức về phòng ngừa dịch
bệnh, nắm bắt thông tin từ những nguồn đảm bảo, tin cậy. Với những
thông tin về dịch bệnh COVID-19 hiện nay, sự tùy tiện và thiếu trách
nhiệm đó có thể dẫn đến hậu quả khó lường. Vì một mạng xã hội
không tin giả, hãy là người dùng có trách nhiệm và có chọn lọc.

Mẫu 3
Trong bối cảnh dịch bệnh Corona vẫn tiếp tục lan rộng, các tin
giả mọc lên như nấm gây nhiều hoang mang trên các mạng xã hội.
Liên tiếp nhiều ngày qua, lực lượng công an các tỉnh, thành như Hà
Nội, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Đắk Nông, Bà Rịa Vũng Tàu... đã xử phạt
nhiều trường hợp tung tin thất thiệt về virus Corona. Cùng với đó rất
nhiều thông tin về số người nhiễm, số người chết vì dịch virus
Corona tạo nên luồng thông tin hỗn loạn trên mạng xã hội và tác
động ngược tới đời sống thật. Thực tế cho thấy, mục đích của những
người tung tin thất thiệt thường là để thỏa mãn tính háo danh. Những
thông tin giả mạo được đăng tải khiến người đọc hoang mang nguy
cơ gây bất ổn xã hội. Rõ ràng, trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến
phức tạp, cùng với sự vào cuộc quyết liệt của các ngành chức năng
để bảo vệ sức khỏe người dân, rất cần có sự chung sức, đồng lòng
của toàn xã hội, thực hiện tốt các chỉ đạo, khuyến cáo trong công tác
phòng, chống dịch bệnh. Dịch bệnh sẽ không đáng lo ngại quá mức
nếu cộng đồng thật sự hiểu và chủ động biết cách phòng, chống
không hoang mang, lo lắng thái quá. Ngoài ra, bản thân mỗi người
cần hết sức bình tĩnh, sáng suốt trong tiếp nhận và xử lý thông tin,
theo dõi sát thông tin chính thống về tình hình dịch bệnh, không nghe
theo, không lan truyền thông tin không xác thực, kịp thời thông báo
đến cơ quan chức năng các trường hợp đăng thông tin bịa đặt, sai
sự thật.

Đề 3: Nghị luận về thực trạng kỳ thị người vùng dịch

Mẫu 1
Kỳ thị là cụm từ chẳng xa lạ với chúng ta, qua đài báo ta được
nghe về kỳ thị màu da, kỳ thị HIV... Giờ đây, trong tình hình bệnh
Covid-19 diễn biến phức tạp, ta nghe đâu đó những câu chuyện về
kỳ thị những người trở về từ vùng dịch hay tiếp xúc với người bị
bệnh. Một thực trạng đáng buồn và cần lên án xóa bỏ. Kỳ thị là xa
lánh, là định kiến không tốt về cá nhân, tập thể hay hành vi nào đó.
Có kỳ thị khi sự ích kỷ lên ngôi, sự thiếu hiểu biết của bản thân bộc lộ
rõ nhất. Tổn thương nhiều nhất vẫn là những người bị kỳ thị. Họ
không dám đối mặt với bệnh, không dám đối mặt với sự thật vậy sẽ
là nguyên nhân virus bùng phát mạnh hơn. Họ chịu nhiều sức ép của
định kiến tác động mạnh vào tâm lý dẫn đến nhiều hậu quả khó
lường. Với sự vào cuộc của cơ quan chức năng, chủ tịch UBND Hà
Nội nhấn mạnh cần xử phạt nặng những hành vi kỳ thị người từ vùng
dịch hay người tiếp xúc với người bệnh. Chúng ta cần nhận thức
đúng, hiểu rõ vấn đề và chung tay đoàn kết chống dịch như chống
giặc. Hơn thế nữa, chúng cần cần đặt niềm tin vào chính phủ, các cơ
quan chức năng và Bộ y tế bởi chỉ như vậy nước ta mới nhanh
chóng đẩy lùi được dịch bệnh, xóa bỏ định kiến và sự kỳ thị của xã
hội.

Mẫu 2
Có những thứ giết chết con người nhanh hơn cả dịch bệnh đó
là sự kỳ thị. Trong thời điểm dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp
hiện nay, với sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, khuyến cáo
từ Bộ Y Tế đã đưa ra các giải pháp nhằm làm giảm nguy cơ lây
nhiễm Covid nhưng vẫn còn một bộ phận người dân có thái độ kỳ thị
những người trở về từ vùng dịch hoặc người nhiễm bệnh. Tại sao có
sự xa lánh, kỳ thị này? Bản chất của kỳ thị thường gắn liền với
những căn bệnh nguy hiểm, khó chữa do vậy người sợ tránh xa,
hoặc do sự thiếu hiểu biết hoặc không đầy đủ về Covid-19. Để rồi họ
sẵn sàng buông những lời lẽ thô tục, những hành động thiếu đạo đức
làm tổn hại đến những người vô tội. Và rồi, người chịu nhiều thiệt
thòi nhất lại là những người cần tình yêu thương nhất. Thay vì kỳ thị
chúng ta nên cần hiểu rõ vấn đề, luôn tin tưởng vào các cơ quan
chức năng, đội ngũ bác sĩ của chúng ta. Đặc biệt, dành tình cảm, tình
yêu thương và sự quan tâm đến những người nhiễm và tiếp xúc với
người bệnh để họ có thể an tâm điều trị. Chỉ có vậy, nước ta mới có
thể đẩy lùi và chữa trị dứt điểm những trường hợp còn lại. Là những
người trẻ - chúng ta cần nhận thức đúng đắn về vấn đề đồng thời
tuyên truyền cho mọi người biết và hiểu về nó, đẩy lùi những hành
động xấu, dịch bệnh xấu khỏi Việt Nam và Thế giới.
Đề 4: Nghị luận về trách nhiệm của mỗi công dân trong đại dịch
Covid-19

Mẫu 1
Từ xa xưa, dịch bệnh không phải là điều hiếm gặp, và nó đã
từng xuất hiện thường xuyên trong lịch sử con người. Ta có thể kể
tên những đại dịch khiến cả thế giới đều e ngại như bệnh dịch hạch,
Ebola, SARS, .. và đến cuối năm 2019, ta một lần nữa chứng kiến
đại dịch của thế giới: Covid-19. Đó là một loại virus được xuất hiện
đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc, gây là bệnh viêm đường hô hấp cấp
ở con người. Đại dịch lây lan một cách nhanh chóng, tính đến đầu
tháng 4/2020, Covid-19 đã xuất hiện ở 206 quốc gia, hơn 1 triệu
người nhiễm bệnh, gần 60.000 ca tử vong. Thật đáng mừng rằng,
Việt Nam ta đã thực hiện vô cùng tốt trong công tác phòng chống
dịch, mọi thứ đều được thực hiện theo quy định, kiểm soát tình hình
dịch bệnh trong cả nước được nâng lên mức cao nhất. Vậy trách
nhiệm của mỗi công dân khi dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến
phức tạp là gì? Đầu tiên, ta cần phải tự ý thức được trách nhiệm góp
phần chung tay vào phòng chống dịch bệnh. Khi thấy bản thân có
những dấu hiệu như sốt, ho, khó thở... hay có tiếp xúc gần với các ca
lây nhiễm được công bố thì phải lập tức thông báo tới cơ sở y tế để
kiểm tra, và tiến hành cách ly an toàn. Mỗi người đều phải trang bị
đầy đủ khẩu trang, nước rửa tay khô mỗi khi ra đường, rửa thường
xuyên với dung dịch khử trùng mỗi khi tiếp xúc mới bề mặt cứng ở
ngoài. Không nên tụ tập đông người, vứt khẩu trang đúng nơi quy
định. Đặc biệt, chúng ta cần tuyên truyền, chia sẻ những thông tin
chính thống từ Chính phủ, Bộ Y tế cho người thân, bạn bè để cùng
nhau đẩy lùi dịch bệnh. Tất nhiên, vẫn còn tồn đọng những cá nhân
thiếu ý thức, ích kỷ và không tôn trọng sức khỏe của bản thân cũng
như của cả cộng đồng, việc này nhất định phải lên án, phê bình. Nếu
mỗi công dân đều chung tay, đồng lòng, quyết tâm thì việc chiến
thắng đại dịch Covid-19 là điều chắc chắn!
Mẫu 2
Đại dịch Covid-19 đã làm điêu đứng nhiều nền kinh tế lớn trên
thế giới. Trong khi đó, ở Việt Nam, chúng ta vẫn tự hào khi đã kiểm
soát được khá tốt dịch bệnh. Để có được điều đó, bên cạnh sự chỉ
đạo của các cấp lãnh đạo, còn phải kể đến ý thức trách nhiệm của
mỗi công dân. Đó là sự chấp hành nghiêm túc các quy định phòng
chống dịch bệnh như đeo khẩu trang khi đi đến nơi công cộng, giữ
khoảng cách tối thiểu là hai mét, thường xuyên rửa tay sát khuẩn…
Đặc biệt nhất phải kể đến đội ngũ y bác sĩ với tinh thần trách nhiệm
luôn sẵn sàng xung phong lên tuyến đầu, trực tiếp công tác tại các
bệnh viễn chữa trị cho bệnh nhân mắc Covid-19. Ngay cả những bác
sĩ đã về hưu, hay sinh viên y khoa còn đang ngồi trên ghế nhà
trường cũng luôn sẵn sàng góp sức mình vào “trận chiến” của đất
nước. Hay như hình ảnh những chiến sĩ bộ đội đã nhường nơi ở của
mình cho những người dân đang thực hiện cách ly, những chiến sĩ
bộ đội biên phòng đang ngày đêm trông coi khu vực biên giới… Thật
tự hào khi mọi người dân, từ người lớn đến trẻ nhỏ đều một lòng
quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có một bộ
phận không nhỏ thiếu đi tinh thần trách nhiệm. Thật đáng buồn về
trường hợp của cô gái trốn cách ly vẫn ngang nhiên quay video đăng
lên mạng để khoe khoang việc làm của mình, những người chỉ vì lợi
ích cá nhân mà sẵn sàng dẫn người nhập cảnh trái phép vào nước
ta… để lại nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh trong cộng đồng. Những
hành vi này đều đáng lên án, vì nó có thể phá hoại công sức của cả
một tập thể. Chính vì vậy, mỗi người dân Việt Nam hãy luôn ý thức
được trách nhiệm của cá nhân trong công cuộc phòng chống dịch
bệnh.

Đề 5: Nghị luận về tinh thần tự học trong mùa dịch Covid-19

Hiện nay, đại dịch Covid-19 diễn biến ngày một phức tạp, nó
khiến nền kinh tế trì trệ, cuộc sống con người hoàn toàn xáo trộn và
luôn ở trạng thái lo ngại... và cùng với đó chính là việc học sinh - sinh
viên không thể tới trường. Một trong những điều đáng lo ngại nhất
khi tình hình dịch bệnh không biết bao giờ mới ổn định. Có người cho
rằng, việc học sinh - sinh viên nghỉ dài có thể gây ra những lỗ hổng
kiến thức nhưng phần lớn phụ huynh đều đồng ý vì lo ngại sức khỏe
của con em mình và cộng đồng. Nói chung, việc cho học sinh - sinh
viên nghỉ học là điều tất yếu và thực sự cần thiết, nhưng ta càng phải
chú ý hơn về ý thức tự học. Nếu bạn muốn đảm đảm rằng kiến thức
của mình không có lỗ hổng đáng tiếc thì việc đó hoàn toàn tùy thuộc
vào ý thức tự học của chính bạn. Dù cho bạn có được đến trường
nhưng lại sự lười nhác, lơ đễnh, mải mê với những trò vui thì chắc
chắn kết quả học tập chẳng thể khả quan được. Bạn hãy coi đây là
“thời cơ tốt nhất” để bản thân tự ôn luyện lại kiến thức đã được hỏng,
tự rèn luyện để bù đắp những lỗ hổng đã có hoặc nâng cao khả năng
với các dạng bài, dạng đề thi khác nhau. Thực tế mà nói, các Sở
giáo dục và đào tạo đều triển khai các chương trình học trên sóng
truyền hình, thầy cô tạo bài giảng online, bạn toàn có thể học tập tại
nhà. Tự học thật tốt chính là một biện pháp đóng góp vào công tác
phòng chống dịch Covid-19, giúp giảm thiểu nguy cơ lây lan dịch
bệnh trong cộng đồng. Vậy nên, hãy tranh thủ thời gian để tự học, tự
rèn luyện, cùng chung tay đẩy lùi dịch bệnh bạn nhé!

Đề 6: Nghị luận về tinh thần đoàn kết trước đại dịch Covid-19

Mẫu 1
Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống đoàn kết. Trong
quá khứ, nhân dân ta đã từng đoàn kết chống lại biết bao nhiêu kẻ
thù xâm lược để giành lại nền hòa bình. Đến hôm nay, tinh thần đoàn
kết ấy lại một nữa chứng tỏ sức mạnh to lớn của nó để giúp Việt
Nam chiến thắng đại dịch Covid-19. Ngay từ khi nước ta có ca nhiễm
đầu tiên cho đến thời điểm số người nhiễm bệnh lên tới hàng chục,
hàng trăm người. Cả chính quyền lẫn người dân đều thể hiện được
tinh thần đoàn kết một lòng. Những quy định nghiêm ngặt của Nhà
nước về việc phòng chống dịch bệnh lập tức được ban hành. Những
người dân từ người già đến trẻ nhỏ đều nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định: như đeo khẩu trang khi đi đến nơi công cộng, thường
xuyên rửa tay bằng nước sát khuẩn, hạn chế đi ra nơi đông người…
Đặc biệt, trong thời điểm cả nước thực hiện giãn cách xã hội, đa số
người dân đều nghiêm chỉnh chấp hành. Nhiều bác sĩ dù còn trẻ hay
đã về hưu đều sẵn sàng xung phong lên tuyến đầu chống dịch, thậm
chí còn có cả những sinh viên của ngành y cũng sẵn sàng giúp sức.
Những cây ATM gạo, thực phẩm, khẩu trang... được tạo ra không chỉ
chứng tỏ tấm lòng tương thân tương ái mà còn là sự đoàn kết của
toàn dân quyết đẩy lùi đại dịch… Tuy còn một bộ phận không nhỏ
những người vì lợi ích cá nhân mà bỏ qua lợi ích dân tộc. Nhưng tựu
chung lại, dân tộc Việt Nam vẫn thể hiện được một tinh thần đoàn
kết, trên dưới một lòng chống lại dịch bệnh Covid-19. Ai cũng hiểu
đây là một cuộc chiến dài ngày và cần phải có sự đoàn kết mới có
thể chiến thắng được trận chiến này.

Mẫu 2
Năm 2020 vừa qua, Việt Nam và thế giới đã phải trải qua
những ngày tháng khó khăn khi phải đối mặt với đại dịch Covid-19.
Khi nhiều nước lựa chọn kinh tế, thay vì an nguy của người dân mà
không có những biện pháp kiên quyết chống lại đại dịch. Thì chúng ta
cảm thấy thật tự hào khi Việt Nam là một đất nước dám đặt sự an
toàn của nhân dân lên trên lợi ích kinh tế. Nhưng điều khiến chúng ta
cảm thấy trân trọng và ngưỡng mộ nhất. Đó là bài học về tinh thần
đoàn kết của người dân Việt Nam. Đất nước ta vốn là một dân tộc có
truyền thống đoàn kết. Trong quá khứ, nhân dân ta đã từng đoàn kết
chống lại biết bao nhiêu kẻ thù xâm lược để giành lại nền hòa bình.
Đến hôm nay, tinh thần đoàn kết ấy lại một nữa chứng tỏ sức mạnh
to lớn của nó để giúp Việt Nam chiến thắng đại dịch Covid-19. Ngay
từ khi nước ta có ca nhiễm đầu tiên cho đến thời điểm số người
nhiễm bệnh lên tới hàng chục, hàng trăm người. Từ các cấp chính
quyền đến người dân đều thể hiện được tinh thần đoàn kết một lòng.
Những quy định nghiêm ngặt của Nhà nước về việc phòng chống
dịch bệnh lập tức được ban hành. Những người dân từ người già
đến trẻ nhỏ đều nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: như đeo khẩu
trang khi đi đến nơi công cộng, thường xuyên rửa tay bằng nước sát
khuẩn, hạn chế đi ra nơi đông người… Đặc biệt, trong thời điểm cả
nước thực hiện giãn cách xã hội, toàn dân đều nghiêm chỉnh chấp
hành. Nhiều bác sĩ dù còn trẻ hay đã về hưu đều sẵn sàng xung
phong lên tuyến đầu chống dịch, thậm chí còn có cả những sinh viên
của ngành y cũng sẵn sàng giúp sức. Những cây ATM gạo, ATM
khẩu trang hay địa điểm phát thực phẩm miễn phí... được tạo ra
không chỉ chứng tỏ tấm lòng tương thân tương ái mà còn là sự đoàn
kết của toàn dân quyết đẩy lùi đại dịch… Đại dịch đã giúp chúng ta
cũng nhận ra được những tình cảm thật tốt đẹp. “Không ai bị bỏ lại
phía sau” - đó là câu khẩu hiệu mà mọi người dân Việt Nam đều biết
đến.

Đề 7: Nghị luận về trân trọng cuộc sống trước đại dịch Covid-19

Mỗi người được sinh ra trong cuộc đời này đã là một điều vô
cùng may mắn. Chúng ta chỉ có một cuộc đời duy nhất để sống. Còn
thời gian lại giống như một mũi tên, đã phóng đi thì không thể quay
trở lại. Trong suốt khoảng thời gian được sống, con người phải đối
mặt với vô vàn những khó khăn. Đặc biệt, ở thời điểm hiện tại đó
chính là đại dịch Covid-19 đang diễn biến vô cùng phức tạp. Có lẽ,
khi đại dịch Covid-19 xảy ra, nhiều người mới bắt đầu cảm thấy cuộc
sống này thật đáng trân trọng. Tính đến thời điểm hiện tại, toàn thế
giới đã có hơn hai mươi triệu ca mắc với hàng trăm nghìn người tử
vong. Một con số thật đáng sợ! Căn bệnh này đã không chỉ cướp đi
mạng sống của biết bao nhiêu người. Nó còn làm cho nền kinh tế
của các nước phát triển trên thế giới phải điêu đứng. Nhiều đứa trẻ
không được đến trường học tập nhiều tháng. Mọi hoạt động vui chơi,
giải trí phải dừng lại. Con người luôn sống trong cảm giác sợ hãi
rằng một ngày kia tính mạng của bản thân và gia đình sẽ bị đe dọa.
Ngày hôm nay, khi bạn vẫn còn được sống và sống trong sự yên
bình và hạnh phúc. Bạn cần phải biết ơn và trân trọng cuộc sống mà
mình đang có được. Vì chẳng biết đến một lúc nào đó, một điều gì đó
sẽ xảy ra. Chính vì vậy trân trọng cuộc sống để sống hết mình và
sống thật có ý nghĩa ở hiện tại.

Đề 8: Nghị luận về bài học cuộc sống sau đại dịch Covid-19

Đại dịch Covid-19 xảy ra không chỉ để lại những thiệt hại về con
người và kinh tế. Nếu nhìn nhận theo cách tích cực, nó đã để lại cho
chúng ta rất nhiều bài học sâu sắc trong cuộc sống. Đầu tiên, đó là
việc nhìn nhận lại thái độ sống của mỗi người. Trong cuộc sống,
chắc hẳn nhiều người luôn lấy lý do rằng còn rất nhiều thời gian để
thực hiện việc này, việc kia để trì hoãn công việc mà mình muốn làm
lại. Chỉ khi đại dịch xảy ra và cướp đi tính mạng của quá nhiều người
trong phút chốc, con người mới nhận ra, sự sống thật ra quá ngắn
ngủi. Thời gian mà chúng ta cho rằng vẫn còn nhiều ấy rồi đến một
lúc nào đó sẽ chẳng còn. Từ đó, chúng ta biết trân trọng thời gian
hơn. Tiếp theo, có lẽ nhiều người trong thời điểm cách ly xã hội vừa
qua luôn cảm thấy bức bối và khó chịu khi phải ở trong nhà quá
nhiều. Họ bị mắc kẹt trong chính ngôi nhà của mình khi không biết
phải làm gì trong một ngày. Hoặc họ phải lặp đi lặp lại những công
việc giống nhau liên tiếp qua các ngày. Nếu nhìn nhận lại, khoảng
thời gian ấy sẽ vô cùng ý nghĩa khi bạn có thời gian để ở bên gia
đình, gần gũi hơn với những người thân mà lâu nay vì công việc bận
rộn không thể quan tâm đến họ. Nhiều người thậm chí còn khám phá
ra những tài năng mới bên trong con người mình: nấu ăn, làm bánh,
ca hát, sáng tác... Cách ly xã hội còn giúp bạn nhận ra rằng biết tận
hưởng cuộc sống, sống cho hiện tại là vô cùng quan trọng. Hạnh
phúc đôi khi cũng đến từ những điều giản đơn. Và tình cảm gia đình
là điều quan trọng nhất đối với con người. Cuối cùng, trong đại dịch,
con người cũng nhận ra được thực trạng thiên nhiên ở hiện tại.
Nhiều thành phố sau khi tiến hành giãn cách xã hội đã giảm thiểu
được lượng ô nhiễm không khí. Nhiều dòng sông cũng trở nên xanh
trong hơn. Quan trọng nhất, con người đã nhận thức được tầm quan
trọng của thiên nhiên và có ý thức bảo vệ hơn. Còn rất nhiều bài học
mà đại dịch Covid-19 mang lại cho con người. Nhưng hơn cả, đây
chính là những bài học quý giá nhất.

Đề 9: Nghị luận về lòng nhân ái trong đại dịch Covid-19

Có một câu nói rất hay rằng: “Chúng ta ai cũng muốn giúp
người khác, con người là thế. Chúng ta muốn sống hạnh phúc bên
nhau chứ không phải khổ sở cùng nhau. Đó chính là lòng nhân ái.”
Dịch bệnh Covid 19 đang hoành hành khắp các quốc gia, nhiều vùng
lãnh thổ khác nhau nhưng đó cũng chính là một phép thử cho chúng
ta về lòng nhân ái. Virus vốn dĩ sinh tồn theo kiểu bất chấp, tìm mọi
cách để sinh tồn mà không để ý đến sự thiệt hại của ai khác. Vậy con
người liệu có hành xử như những con virus hay không? Thực tế cho
thấy phần lớn con người đang sống trong cộng đồng đều đã và đang
nỗ lực hết mình để giảm thiểu, cải thiện dịch bệnh; đều thực hiện tốt
quy định, cách ly sau khi trở về từ vùng dịch. Thật cảm động biết mấy
trước hình ảnh người Nhật xếp hàng mua khẩu trang, đổ xăng nửa
bình để ai cũng được đổ. Đó là gì nếu chẳng phải lòng nhân ái của
con người? Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những cá nhân sống vị kỉ: trốn
cách ly, khai báo thiếu trung thực, tích trữ khẩu trang, lương thực…
Vì virus không có bất cứ kế hoạch nào nên tất cả phụ thuộc vào ý
thức con người. Chúng ta hãy chủ động đi kiểm tra sức khỏe của
mình, cách ly bằng tinh thần tự nguyện. Chúng ta muốn ngăn chặn
virus thì cần trung thực khai báo, không che giấu gây hoang mang,
trở ngại. Cả nhân loại đang cần tình người bộc lộ hơn bao giờ hết,
cần quay lại với sự bao dung để bao bọc, hi sinh cho nhau trong cơn
hoạn nạn. Chúng ta hãy cùng nhau chiến thắng đại dịch!
16 tác phẩm Thơ quan trọng ôn thi vào 10 môn Văn năm 2023
Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn phần thơ giới thiệu tới các
em nội dung chính, những kiến thức cơ bản trọng tâm nhất về của
các tác phẩm thơ thời kì trung đại và hiện đại. Hi vọng với tài liệu
Ngữ văn này sẽ giúp các em học sinh ôn tập và củng cố kiến thức
hiệu quả môn Ngữ văn 9 phần thơ, từ đó chuẩn bị tốt nhất cho kì thi
vào lớp 10 sắp tới.

A. Các văn bản thơ trọng tâm ôn thi vào lớp 10

THƠ

Truyện Kiều của Nguyễn Du

Cảnh ngày xuân


Trung
Chị em Thúy Kiều
đại
Kiều ở lầu Ngưng Bích

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Hiện đại Đồng chí

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Đoàn thuyền đánh cá

Bếp lửa

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

Ánh trăng

Con cò
Mùa xuân nho nhỏ

Viếng Lăng Bác

Sang thu

Nói với con

B. Nội dung

Văn bản 1: Truyện Kiều của Nguyễn Du

I. Những nét chính về tác giả Nguyễn Du

1. Thời đại

- Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại lịch sử (cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX) đầy những biến động dữ dội.

+ Chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội
trở nên gay gắt, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực dẫn
đến Lê - Trịnh suy tàn.

+ Phong trào nông dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, đã đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị và đánh tan
hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh.

+ Nhà Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ, nhà Nguyễn lên
trị vì.

Tất cả những biến động đó đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và con
người của Nguyễn Du.

2. Tác giả Nguyễn Du

a. Cuộc đời
- Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm
quan và có truyền thống hiếu học.

+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm tể tướng 15 năm.

+ Anh trai cùng cha khác mẹ - Nguyễn Khản cũng làm đến chức
Tham Tụng (ngang với Tể Tướng).

- Ông sinh ra và lớn lên ở kinh đô Thăng Long sầm uất, phồn hoa,
đô thị.

Ngay từ rất sớm Nguyễn Du đã được tiếp nhận một nền giáo
dục tiến bộ của thời đại, cũng như kế thừa được truyền thống văn
hóa thi thư của gia đình.

- Song tuổi thơ của Nguyền Du không hẳn là bình yên, êm ả mà trái
qua khá nhiều những thăng trầm, mất mát.

+ Năm 10 tuổi ông mồ côi cha.

+ Năm 12 tuổi ông tuổi mồ côi mẹ.

+ Nguyễn Du phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là


Nguyễn Khản.

- Do những xoay vần, biến động dữ dội của lịch sử, gia đình Nguyễn
Du cũng sớm rơi vào sa sút.

+ Khi triều Lê - Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên thay, Nguyễn Du phải
phiêu bạt 10 năm nơi đất Bắc (10 năm gió bụi), rồi về ở ẩn tại Hà
Tĩnh. Đây là những năm tháng ông sống trong cảnh nghèo đói, túng
bấn và tủi nhục.
+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc chí phải ra
làm quan và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Ông hai lần được cử
làm chánh sứ sang Trung Quốc nhưng lần thứ hai, chưa kịp đi thì
lâm bệnh nặng rồi mất tại Huế năm 1820.

Cuộc đời Nguyễn Du kinh qua đầy những thăng trầm, biến động.
Song, tất cả góp phần tạo nên dấu ấn cho những tác phẩm nổi tiếng
và có giá trị sâu sắc của ông.

b. Con người

- Nguyễn Du là người thông minh, tài trí, có hiểu biết sâu rộng, có
vốn sống phong phú, lại sinh ra và lớn lên ở những nơi được coi là
cái nôi văn hóa của đất nước.

- Sớm phải chịu cảnh mồ côi, nên cuộc đời ông trải qua nhiều gian
truân, trôi dạt, long đong. Đặc biệt là “mười năm gió bụi”, được tiếp
xúc với nhiều kiểu người, chứng kiến nhiều cảnh đời và nhiều số
phận khác nhau. Chính những vốn sống thực tế phong
phú và niềm cảm thông sâu sắc đó đã tạo cho ông cảm hứng để
sáng tác nên nhiều tác phẩm văn học giá trị.

- Truyền thống thi thư của gia đình đã cho ông nàng khiếu văn
chương. Nhưng hơn tất cả, Nguyễn Du còn là người có một trái tim
giàu yêu thương và một tầm hồn nhạy cảm, tinh tế luôn cảm
thông cho những đau thương, cực khổ của nhân dân.

- Ông là người thanh liêm và có nhân cách sống cao thượng. Trước
tình hình rối ren, nhũng nhiễu của bọn quan lại, chỉ biết vinh thân phì
gia, ông đã hết sức khinh bỉ.

c. Sự nghiệp văn chương


- Nguyễn Du - Đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông đã có đóng góp to lớn đối với
sự phát triển của văn học dân tộc.

- Sự nghiệp vàn chương của Nguyễn Du gồm những tác phẩm được
viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và đều đạt đến trình độ cổ điển.

+ Các tập thơ chữ Hán: Có 3 tập, gồm 243 bài: Thanh Hiên thi tập;
Nam trung thi tập; Bắc hành tạp lục.

+ Các tác phẩm chữ Nôm: Có 2 kiệt tác: Văn tế thập loại chúng sinh
và Đoạn trường tán thanh (“Truyện Kiều”).

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du không phải quá đồ sộ về


mặt số lượng, song nó đã kết tinh được những tinh hoa văn hóa thời
đại để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc nói riêng và nhân loại
nói chung.

II. Những nét chính về tác phẩm “Truyện Kiều”

1. Nguồn gốc và sự sáng tạo của Nguyễn Du

- “Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào khoảng đầu thế kỉ


XIX (1805 - 1809). Nó là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại thơ
Nôm được viết bằng thơ lục bát, gồm 3254 câu.

- “Truyện Kiều” có nguồn gốc từ một truyện bên Trung Quốc: “Kim
Vân Kiều Truyện” của tác giá Thanh Tâm Tài Nhân - một tác phẩm
văn xuôi viết chữ Hán, có kết cấu chương hồi. Lúc đầu truyện có tên
là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột).

- Với cảm hứng nhân đạo cao cả và xuất phát từ thực tế cuộc sống,
xã hội, con người Việt Nam, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc
đáo cho tác phẩm. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức to lớn:
viết nên một tác phẩm trữ tình bằng chữ Nôm; sử dụng thể thơ của
dân tộc; nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình;...

“Truyện Kiều” xứng đáng là đỉnh cao của văn học dân tộc, là tinh
hoa văn hóa ánh mãi ngàn đời. Và đúng như Giáo sư Đào Duy Anh
viết: “Nếu Nguyên Trãi với “Quốc âm thi tập" là người đặt nền móng
cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với “Truyện Kiều” lại là
người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta”.

2. Tóm tắt

a. Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước.

Gia đình Vương viên ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có ba người
con: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Thúy Kiều là chị, nàng
nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân nhân
tiết thanh minh, nàng gặp Kim Trọng - một con người hào hoa, phong
nhã. Giữa hai người nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp.
Sau đó, hai người chủ động thề nguyện đính ước nguyện chung thủy
với nhau suốt đời.

b. Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc

Đúng lúc đó, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị
mắc oan. Nàng phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình cứu cha và
em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn trùm lầu xanh. Đau
khổ, Kiều tự vẫn nhưng không thành rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh đập và phải chịu tiếp
khách làng chơi. Nàng gặp Thúc Sinh, một người buôn bán giàu có,
chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư bày mưu bắt
về đánh đập, bắt làm con ở để hầu đàn, hầu rượu. Kiều lại bỏ trốn
khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác
Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người, để lần thứ
hai Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này Kiều gặp Từ Hải, người anh
hùng trí dũng song toàn. Nhờ uy Từ Hải, Kiều đã báo được ân, trả
được oán. Chẳng bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến mà chết.
Kiều bị làm nhục, bị ép gả cho Thổ Quan. Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở
sông Tiền Đường nhưng được Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai
nàng nương nhờ cửa Phật.

c. Phần thứ ba: Đoàn tụ

Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã đi tìm
Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn
giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm
được nhau và đoàn tụ với gia đình.

3. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật

3.1. Giá trị nội dung

a. Giá trị hiện thực

- Truyện Kiều là bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội bất
công, tàn bạo. Nơi mà các tầng lớp thống trị và các thế lực hắc ám
sẵn sàng chà đạp lên quyền sống của con người.

+ Đó là một xã hội đảo điên, nơi mà đồng tiền lên ngôi và có giá trị
vạn năng. Trong tác phẩm, đã 17 lần Nguyễn Du tập trung để nói về
sự hung hiểm, hai mặt của đồng tiền, trong đó có thể kể đến câu:
“Trong tay đã có đồng tiền/ Giàu lòng đổi trắng thay đen khó gì?”...

+ Đó là một xã hội đầy rẫy nhưng kẻ lưu manh, côn đồ, đội lốt
người để ức hiếp, bóc lột, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm
của những người hiền lành, lương thiện: Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở
Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư, Ưng Khuyển,...

+ Đó là xã hội mà bọn quan lại ngang ngược, tham lam, lật lọng, là
nguồn gốc cho mọi sự xấu xa, bất công, bỉ ổi: Tổng đốc Đại thần Hồ
Tôn Hiến, đại diện cho triều đình, nhưng lại hèn hạ, phản trắc, lừa
giết một người đã quy hàng (Từ Hải).

+ Đó là một xã hội không có công lí, pháp luật hay sự công


bằng. Nó dễ dàng bị đồng tiền mua chuộc, dễ dàng đổi trắng thay
đen và tiếp tay cho mọi sự xấu xa hoành hành: Gia đình Kiều bị đổ
oan, bị bắt bớ, tra tấn nhưng công lí chỉ xuất hiện khi “Có ba trăm
lạng việc này mới xong”.

- “Truyện Kiều” còn là bức tranh hiện thực về số phận những con
người bị chà đạp, áp bức, đau khổ, đặc biệt là bi kịch của người
phụ nữ thông qua nhân vật Thúy Kiều.

+ Bị tước đoạt những quyền cơ bản nhất của con người: Quyền
được yêu, quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc gia
đình.

+ Nhân phẩm bị chà đạp một cách thô bạo và tàn nhẫn: Kiều bị coi
như một món hàng, có thể mua đi bán lại và bị đánh đập tàn nhẫn:
“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” là sự tổng kết đau đớn về cuộc
đời Kiều sau 15 năm đoạn trường.

b. Giá trị nhân đạo

Đây là giá trị cơ bản của tác phẩm, được thể hiện trên các phương
diện sau:

- “Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí
và ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người.

+ Thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, hồn nhiên, trong
sáng, thủy chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và hạnh
phúc gia đình còn khắc nghiệt: Kim Trọng và Thúy Kiều đã dám bước
qua bức tường phong kiến kiên cố để tiến đến một tình yêu tự do: họ
gặp gỡ và chủ động thề nguyền, đính ước.
+ Thế hiện khát vọng về một xã hội công bàng, dân chủ, tự do không
còn bất công, tù túng, ngột ngạt: Người anh hùng Từ Hải chính là đại
diện cho khát vọng tự do, công lí đã dám đứng lên để chống lại cá
một xà hội cũ kĩ, thối nát, tàn bạo.

+ Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người: vẻ đẹp của tài
sắc, trí thông minh, sự chung thủy, lòng hiếu thảo, đức vị tha... mà
Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.

- “Truyện Kiều” là tiếng nói xót thương, cảm thông với nỗi đau khổ
của con người mà đặc biệt là người phụ nữ: Trước hết là ông
dành cho Thúy Kiều bằng cái lòng cảm thương sâu sắc nhất; sau đó
là ông dành cho tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến
niềm cảm thương lớn lao: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời răng bạc
mệnh cũng là lời chung”.

- “Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án chế độ phong kiến, các
thế lực xấu xa, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.

“Truyện Kiều" đã truyền tải được những tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, tiến bộ và giàu tính chiến đấu để xứng đáng trở thành kiệt tác
ngàn đời.

3.2 Giá trị nghệ thuật

“Truyện Kiều” là sự kết tinh của những thành tựu văn học dân tộc
trên các phương diện:

a. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật kể


chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh.

• Nghệ thuật kể chuyện đa dạng: Trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp
(lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng
điệu nhân vật).
• Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Hệ thống nhân vật phong phú, đa
dạng với cách xây dựng nhân vật điển hình, có tính cách riêng độc
đáo, sinh động.

- Miêu tả ngoại hình nhân vật bằng thủ pháp nghệ thuật:

+ Nhân vật chính diện xây dựng theo lối lí tưởng hóa bằng thủ pháp
ước lệ: Miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết: “Vân xem trang
trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”; còn nhân vật
Từ Hải: “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười
thước cao”.

+ Nhân vật phản diện được xây dựng theo lối hiện thực bằng biện
pháp cụ thể: Miêu tả nhân vật Tú Bà, Nguyễn Du viết: “Thoắt trông
nhờn nhợt màu da/ Ăn gì cao lớn đây đã làm sao?”.

- Miêu tả ngoại hình để tái hiện lên tính cách nhân vật:

+ Ngoại hình Thúy Vân: “Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng
đầy đặn nét ngài nở nang" gợi lên sự trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang,
quý phái.

+ Ngoại hình Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua
thắm liễu hờn kém xanh" gợi một tâm hồn qua đôi mắt đa sầu, đa
cảm.

- Miêu tả ngoại hình để tiên đoán về số phận nhân vật:

+ Miêu tả Thúy Vân: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước
tóc tuyết nhường màu da" đã tiên đoán về một cuộc đời êm đềm, ít
sóng gió.

+ Miêu tả Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh" cho thấy sự hậm hực, “ghen", “hờn" cua
tạo hóa trong câu thơ đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, gian
truân phía trước đang chờ Kiều.

- Miêu tả ngôn ngữ, hành động để gợi tính cách nhân vật:

+ Miêu tả Từ Hải: “Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì
dặm khơi", hành động dứt khoát, mạnh mẽ của một đấng trượng phu.

+ Miêu tả Mã Giám Sinh: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng", hành động
huênh hoang, thô lỗ, hợm hĩnh của “quân buôn thịt, bán người".

- Miêu tả nhân vật qua diễn biến nội tâm: Tâm trạng cô đơn, buồn
tủi của Kiều trước lầu Ngưng Bích: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”...

* Nghệ thuật tả cảnh độc đáo

- Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên:

+ Tả cảnh thiên nhiên bằng các chỉ tiết tạo hình: “Ngày xuân con
én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

+ Tả cảnh thiên nhiên bằng cách điểm nhấn: Chỉ tả một vài chi tiết
đặc sắc nhưng vẽ lên một khung cảnh tuyệt đẹp: “Cỏ non xanh tận
chân trời/ Cành lê trăng điểm một vài bông hoa”.

+ Tả cảnh thiên nhiên trong những thời gian và không gian khác
nhau: “Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về”.

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:

+ Mượn và tả cảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng, cảm xúc của
nhân vật: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi".
+ Khung cảnh thiên nhiên được tả qua tâm trạng của nhân
vật: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh
xanh".

b. Nghệ thuật ngôn từ và thế loại đạt đến đỉnh cao

- Ngôn từ “Truyện Kiều" là ngôn ngữ tinh hoa của dân tộc nên trong
sáng, mĩ lệ và dồi dào sắc thái biểu cảm.

- Ngôn ngữ “Truyện Kiều" không chỉ có chức năng biểu đạt (phản
ánh), biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ
đẹp của ngôn từ).

- Ngôn ngữ “Truyện Kiều" kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân
và ngôn ngữ bác học, tạo thành thứ ngôn ngữ thơ ca vừa hàm
súc vừa trang nhã, giản dị.

- Sử dụng thể thơ lục bát - thể thơ của dân tộc Việt Nam đã đạt đến
đỉnh cao.

“Truyện Kiều” xứng đáng trở thành kiệt tác số một, là “quốc hồn
quốc túy" của nền văn học dân tộc.

II. Tổng kết

- Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử
dụng ngôn từ. Ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của
ngôn ngữ dân tộc.

- “Truyện Kiều” đạt đến đỉnh cao về mặt nghệ thuật để xứng đáng là
kiệt tác của muôn đời.

Văn bản 2: Cảnh ngày xuân

I. Những nét chính về tác phẩm

1. Vị trí và nội dung đoạn trích


- Vị trí: Nằm trong phần I của tác phẩm, sau đoạn tả tài sắc chị em
Thúy Kiều - “Gặp gỡ và đính ước”.

- Nội dung: Đoạn trích là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về cảnh
ngày xuân trong tiết thanh minh. Đó là bối cảnh để Thúy Kiều gặp gỡ
Kim Trọng và khóc thương trước số phận của Đạm Tiên. Đồng thời
nó cũng bộc lộ nhiều tâm trạng của cả hai chị em trong chuyến du
xuân ấy.

2. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 4 câu đầu: Cảnh thiên nhiên ngày xuân.

- Phần hai: 8 câu tiếp: Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.

- Phần ba: 6 câu cuối: Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh thiên nhiên ngày xuân (bốn câu đầu)

• Không gian và thời gian của khung cảnh thiên nhiên ngày xuân
được Nguyễn Du phác họa ở ngay hai câu thơ đầu:

“Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”

- Tác giả lựa chọn một hình ảnh ẩn dụ rất quen thuộc cho cảnh ngày
xuân: “con én đưa thoi”.

+ Tả thực những cánh én bay lượn, chao liệng như thoi đưa trên bầu
trời xuân.

+ Gợi không gian cao rộng của bầu trời và một luồng không khí ấm
áp.
+ Gợi những bước đi nhanh, vội của thời gian như những cánh
chim vụt bay.

- Khung cảnh ngày xuân tiếp tục được phác họa qua các nét vẽ ở
những vần thơ: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

+ Từ “thiều quang” tả thực những tia nắng lấp lánh cua ngày xuân.

+ Gợi một không gian ngày xuân tươi đẹp, rực rỡ, trong lành.

+ Gợi thời điểm vào tháng ba của mùa xuân, tháng mà thiên nhiên
đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.

Những hình ảnh thơ gợi về sự chuyển động nhanh, vội của thời
gian đồng thời nói nên tâm trạng có chút tiếc nuối của chị em Thúy
Kiều.

Nguyễn Du đã phác họa được một bức tranh thiên nhiên của một
ngày xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Qua đó, đã gợi tả được
bao nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật trữ tình.

• Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa
xuân tuyệt đẹp với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

- Chỉ cần đơn giản là hình ảnh “cỏ non" song lại tả, gợi được rất
nhiều cho bức tranh xuân:

+ Tả một không gian mênh mông một màu xanh non của cỏ.

+ Gợi chúng ta liên tưởng đến sức sống tràn trề của mùa xuân.

+ Từ “tận" đã làm cho không gian xuân như được mở rộng bao la,
bát ngát.
- Hình ảnh “cành lê trắng điểm” cho thấy sự tài tình trong bút pháp
chấm phá của Nguyễn Du.

+ Trên nền màu xanh non ấy điếm xuyết một vài bông hoa lê trắng
làm cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn.

+ Từ “điểm” gợi sự thanh thoát, như đôi tay của người họa sĩ,
khiến cảnh vật như sống động, có hồn chứ không tĩnh tại.

+ Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ: đảo từ “trắng" lên trước làm
cho sắc trắng hoa lê thêm tinh khôi, như kết tinh những tinh hoa của
trời đất.

- Trong bức tranh xuân ấy, tác giả đã sử dụng những gam màu hòa
phối rất đỗi hài hòa: màu xanh của cỏ, sắc trắng của hoa lê.

Với bút pháp chấm phá tài tình, Nguyễn Du đã rất thành công khi
phác họa một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo
và tràn trề sức sống. Đồng thời, qua đó còn gợi lên được bao cảm
xúc tươi vui, phấn chấn cũng như chút bâng khuâng, tiếc nuối trong
lòng nhân vật trữ tình.

2. Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh (tám câu tiếp)

a. Những hoạt động trong tiết thanh minh (hai câu thơ dầu)

Hai câu thơ giới thiệu về những hoạt động trong tiết thanh minh cho
thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng
ngôn từ:

“Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.”

- Sử dụng nghệ thuật tiểu đối: Tách hai từ “lễ hội” ra làm đôi để gợi
tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc trong tiết thanh minh:
+ “Lễ tảo mộ”. Đi viếng và sửa sang phần mộ của người thân, gia
đình, tổ tiên. Gợi sự tri ân của những nam thanh, nữ tú trong ngày đi
chơi xuân.

+ “Hội đạp thanh”: Đi chơi xuân ở chốn đồng quê và giẫm lên cỏ
xanh. Gợi ngày hội vui mùa xuân của nam thanh nữ tú để có thể
tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.

“Lễ” và “hội” trong tiết thanh minh là hai hoạt động văn hóa khác
biệt nhưng trong thơ Nguyễn Du lại có một sự giao hòa độc đáo.

b. Không khí của ngày hội xuân (sáu câu thơ tiếp)

• Không khí tưng bừng, tấp nập của lễ hội được gợi lên qua hàng
loạt từ hai âm tiết giàu sắc thái biểu cảm:

“Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

- Các danh từ: “yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân” gợi tả sự
đông vui, tấp nập trong ngày hội xuân.

- Các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả không khí rộn ràng, náo
nhiệt trong ngày hội.

- Các tính từ: “gần xa”, “nô nức” gợi tả tâm trạng hồ hởi, phấn khởi
của người đi hội.

• Không khí lễ hội được tô đậm hơn qua một số biện pháp tu từ:

- Hình ảnh ẩn dụ: “nô nức yến anh”


+ Gợi từng đoàn người đi chơi xuân, đông đúc, dập dìu như những
bầy chim yến, chim oanh ríu rít.

+ Gợi những cuộc chuyện trò xôn xao, tình tứ của những đôi uyên
ương trong ngày xuân.

- Hình ảnh so sánh: “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi cho
người đọc hình dung được sự đông đúc của từng dòng người đi trẩy
hội.

• Bên cạnh không khí tưng bừng, náo nhiệt ấy, Nguyễn Du đã khéo
léo đan cài một khoảng lặng, khiến cho không gian cũng như tâm
trạng con người như chùng xuống:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”

- Hình ảnh “ngổn ngang gò đống", “tro tiền giấy bay" gợi không gian
tĩnh lặng, lạnh lẽo, linh thiêng. Và trong không gian ấy, có sự xuất
hiện của những nam thanh, nữ tú đang sửa sang, rắc vàng vó, hóa
tiền giấy cho những người đã khuất.

- Gợi truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp
của người Việt. Một lối sống ân nghĩa thủy chung.

Thông qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, có thể khẳng
định: Nguyễn Du là người am hiểu, trân trọng và gìn giữ những giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

3. Khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về (sáu câu thơ
cuối)

Thời gian không ngừng chuyển động, mọi cuộc vui đã đến hồi kết
thúc, hai chị em Kiều trở về trên một nền chiều xuân thật đẹp, thanh
khiết song đã nhuốm màu tâm trạng:
“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn đan tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

- Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ khuất bóng,
bước chân thơ thẩn, dòng nước uốn quanh.

- Hình ảnh “tà tà bóng ngả về tây”:

+ Diễn tả cảnh mặt trời đang lặn, ánh nắng cuối ngày đang tắt dần,
không gian đang mờ tối.

+ Gợi không gian buồn vẳng, tĩnh lặng.

+ Gợi tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối trong lòng con người.

- Hình ảnh “tiểu khê”, “cầu nho nhỏ” gợi khung cảnh nhỏ bé, thân
thuộc, không còn mênh mông, khoáng đạt.

- Hệ thống từ láy được trái đều trong các câu thơ rất giàu giá trị biểu
cảm: “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao”.

+ Từ láy “thơ thẩn” gợi cảnh chị em Thúy Kiều ra về trong sự bần
thần, nuối tiếc, lặng buồn.

+ Đặc biệt, từ lảy “nao nao” gợi nét buồn rất khó tả, thể hiện tâm
trạng con người như nhuốm lên cảnh vật.

Cảnh vật như có linh hồn, phảng phất một nỗi u buồn và mang
một vẻ đẹp riêng: xinh xắn và rất đỗi tao nhã của cảnh vật.
Đoạn thơ không chỉ hay bởi Nguyễn Du sử dụng thành công
những biện pháp nghệ thuật, hệ thống từ láy mà còn bởi cái tài tình
trong bút pháp cổ điển: tả cảnh ngụ tình.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một bức tranh thiên nhiên sống động,
tuyệt đẹp với lễ hội truyền thống đông vui, nhộn nhịp. Thông qua bức
tranh ấy, người đọc cảm nhận được một thế giới nội tâm phong phú
của nhân vật.

2. Nghệ thuật

- Tài nghệ sử dụng ngôn ngữ bậc thầy: hệ thống từ láy giàu giá trị
biểu cảm,...

- Bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến mức độ điêu luyện.

- Biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,... đạt đến độ nhuần nhuyễn.

Văn bản 3: Chị em Thúy Kiều

I. Những nét chính về đoạn trích

1. Vị trí, nội dung đoạn trích

- Vị trí: Nằm ở phần I của tác phẩm, “Gặp gỡ và đính ước”.

- Đoạn trích miêu tả hai bức chân dung xinh đẹp của chị em Thúy
Vân, Thúy Kiều (đặc biệt Thúy Kiều).

- Đồng thời cũng dự báo tương lai, số phận của hai nàng Kiều.

2. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: 4 câu đầu: Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều.
- Phần hai: 4 câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân.

- Phần ba: 12 câu tiếp theo: Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của
Thúy Kiều.

- Phần bốn: 4 câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh
của hai chị em.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (bốn câu đầu)

• Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, cổ


điển để giới thiệu về lai lịch, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị
em:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

- Lai lịch: Họ là hai người con gái đầu trong gia đình họ Vương.

- Vị trí trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.

- Vẻ đẹp của hai chị em:

+ “Mai cốt cách”: Cốt cách thì thanh cao như hoa mai. Đó là một
loài hoa mà sắc thì rực rỡ, hương thì quý phái.

+ “Tuyết tinh thần”: Phong thái, tinh thần thì trong trắng, tinh khiết
như hoa tuyết.

* Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, ba nhịp nhàng, đối xứng,
làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai chị em.
• Tác giả sử dụng lời bình, để khép lại bốn câu thơ đầu:

- “Mỗi người một vẻ”, cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm
hồn của mỗi nhân vật.

- “Mười phân vẹn mười”, đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện,
hoàn hảo của hai chị em.

Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta
nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng đậm nét nhất về vẻ
đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ
được cảm hứng ca ngợi cái tài hoa, nhan sắc của con người qua
nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du.

2. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân (bốn câu tiếp)

Chỉ bằng bốn câu thơ, Nguyền Du đã tả được một cách đầy đủ, trọn
vẹn những đặc điểm của nhân vật Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.’’

- Câu thơ đầu tiên giới thiệu khái quát phong thái của Thúy Vân:

+ Từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người
miêu tả.

+ Từ “trang trọng” cho thấy sự xuất hiện của nhân vật Thúy Vân với
vẻ đẹp mang phong thái đoan trang, cao sang, quý phái.

Gợi ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ
giáo của xã hội phong kiến.
- Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung
tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp nghệ thuật ước lệ
tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi
kèm những từ ngữ giàu sức gợi:

+ Hình ảnh ẩn dụ: “khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nên một khuôn mặt
đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng rằm; “nét ngài
nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp
lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung
của Vân.

+ Hình ảnh nhân hóa: “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười
tươi tẳn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc
ngà; “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc
óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết.

+ Những từ ngữ giàu sức gợi: “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan
trang” làm nổi bật, nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, quý phái
của Vân.

+ Vẻ đẹp đoan trang của Thúy Vân được so sánh với những hình
tượng đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.

- Nguyễn Du đã sử dụng rất có chọn lọc hai động từ là “thua” và


“nhường”. “Mây” và “tuyết” là của thiên nhiên, tạo hóa, hay đó còn
là cả một xã hội phong kiến. Và với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong
khuôn khổ của xã hội phong kiến, thì dẫu cho Vân có đẹp hơn những
cái đẹp nhất của thiên nhiên thì nàng vẫn được đón nhận, bao học và
yêu thương.

- Đặc biệt, từ bức chân dung ngoại hình của Thúy Vân, ta thấy
được tính cách và số phận của nàng: tính cách rất trầm tĩnh, dịu
dàng, đoan trang, phúc hậu. Đó là hình mẫu lí tưởng của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nó dự đoán một số phận, tương lai
êm ấm và bình lặng đang chờ đón nàng.

Bằng bút pháp cổ điển ước lệ, tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc
họa thành công bức chân dung của nhân vật Thúy Vân để từ đó gợi
cho người đọc thấy được tính cách, và số phận của nàng.

3. Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều (mười hai
câu tiếp)

- Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung
tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp nghệ thuật ước lệ
tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi
kèm những từ ngữ giàu sức gợi:

+ Hình ảnh ẩn dụ: “khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nến một khuôn mặt
đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng rằm; “nét ngài
nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp
lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung
của Vân.

+ Hỉnh ảnh nhân hóa: “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười
tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc
ngà; “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc
óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết.

- Nếu như miêu tả bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ
dùng có bốn câu thì đến Thúy Kiều ông dùng đến mười hai
câu. Chứng tỏ, tác giả đã ưu ái, dùng nhiều bút lực và sự yêu mến
đặc biệt cho nhân vật này.

- Sự yêu mến đó càng được khẳng định khi Nguyễn Du sử


dụng nghệ thuật đòn bẩy một cách tài tình: Ông miêu tả nhân vật
Thúy Vân trước như một tuyệt sắc giai nhân đế làm nổi bật cho vẻ
đẹp của Thúy Kiều:
“Kiều càng sắc sáo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.”

- Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp: “sắc sảo”, “mặn mà” để tô
đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của
Thúy Kiều.

Không tả một cách cụ thể nhưng Nguyễn Du đã khắc sâu trong


tâm trí người đọc một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp vượt trội của Thúy
Kiều. Lối miêu tả giúp tác giả tránh được sự trùng lặp nhàm chán và
phát huy được trí tưởng tượng của độc giả. Đây chính là sự tài hoa
và tài tình của Nguyễn Du.

a. Vẻ đẹp nhan sắc

- Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc
tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”, tức là vẽ hồn chân dung bằng
những hình ảnh mang tính ước lệ:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

+ “Làn thu thủy” là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo
như làn nước mùa thu.

+ “Nét xuân sơn” là đôi lông mày thì thanh tú, xinh đẹp như dáng núi
mùa xuân.

Không cần phải nhiều nét, nhưng bức chân của nhân vật Thúy
Kiều vẫn hiện lên với những gì hoàn mĩ nhất. Đôi mắt, nó không chỉ
mang vẻ đẹp của bên ngoài mà đó còn là cửa sổ thể hiện phần tinh
anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó cũng chính là cách tả truyền thống
trong văn học trung đại: nét đậm đan xen với nét nhạt, chỗ tỉ mỉ, chỗ
chấm phá.
- Hình ảnh nhân hóa “hoa ghen” và “liễu hờn” thể hiện thái độ của
thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Ông không tả trực tiếp vẻ đẹp ấy
mà tả sự đố kị, ghen ghét để thêm khẳng định cho vẻ đẹp ấy. Và để
khách quan, ông đã để cho tạo hóa đánh giá vẻ đẹp nhan sắc của
Thúy Kiều.

- Vẻ đẹp của Kiều không chỉ khiến cho hoa phái “ghen”, liều phải
“hờn” mà còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Một sức
ngưỡng mộ, mê say đến điên đảo cho vẻ đẹp của Kiều.

- “Nghiêng nước nghiêng thành'" còn là cách nói sáng tạo từ điển
cố “nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (ngoảnh lại
nhìn một lần thì làm nghiêng thành người, ngoảnh lại nhìn lần nữa thì
làm nghiêng nước người) để cực tả vẻ đẹp của bậc tuyệt sắc giai
nhân.

- Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số
phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài hòa mà vượt qua mọi
khuôn khổ, chuẩn mực, phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến
cho các vẻ đẹp khác phải ghen ghét, oán hận, đố kị và chứa đựng ý
muốn trả thù. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm,
một số phận sóng gió.

Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều mang một ấn tượng mạnh và sức
gợi lớn cho người đọc. Đó là vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp của
chiều sâu, hơn những gì đẹp nhất.

b. Vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn

- Không chỉ miêu tả Kiều là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn
cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và
rất đa tài:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,


Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lâu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”

Đây là một sự táo bạo của Nguyễn Du khi ông coi trí tuệ của
người phụ nữ cũng là một phương diện để ca ngợi. Người phụ nữ
trong khuôn khổ của xã hội phong kiến là “tam tòng, tứ đức”, là
“công, dung, ngôn, hạnh", là “cầm, kì, thi, họa" và không hề có
phương diện thông minh. Cho nên sự thông minh của Kiều được đặt
trong bối cảnh của xã hội phong kiến lúc bấy giờ là một sự bứt phá,
dũng cảm và táo bạo của Nguyễn Du. Ông đã đưa Kiều vượt khỏi
những khuôn mẫu chuẩn mực của xã hội phong kiến.

- Nàng là người con gái đa tài, đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ),
hoạ (vẽ) và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Đặc biệt, tài đàn đã
được Nguyễn Du tập trung miêu tả:

+ Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu
luyện và vượt lên trên mọi người: “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”.

+ Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh" chính là
khúc nhạc mà nàng tự viết, khi cất lên, ai ai cũng xúc động.

- Miêu tả tài đàn là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế
giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu, đa cảm của Thúy Kiều.

- Đặc biệt cung “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh, tài mệnh tương đố khó tránh khỏi của nàng.

Qua mười hai câu thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp hội tụ sắc - tài -
tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của Thúy Kiều. Đồng
thời, cho thấy sự tài hoa của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả
nhân vật.
4. Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em
(bốn câu cuối)

- Hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế
giai nhân mà họ còn là những người đức hạnh và sống có khuôn
phép:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng ru màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

+ Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề
nếp.

+ Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn
che".

+ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “tóc búi, trâm cài"
của cả hai chị em. Song họ vẫn sống một cuộc sống kín đáo, gia giáo
sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ.

Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như
hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh êm đềm và chưa
một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo
phong kiến.

5. Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích

- Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân
trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người như nhan sắc, tài
hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá
nhân.
- Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương
về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố của Nguyễn
Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy
cảm hứng nhân văn với con người của Nguyễn Du.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa rõ nét bức chân dung
chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Qua đó ca ngợi vẻ đẹp tài năng của
con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.

2. Nghệ thuật

- Bút pháp ước lệ tượng trưng tạo được sức gợi.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế: xây dựng được những bức
chân dung đa dạng, linh hoạt, thu hút.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là lựa chọn những từ
ngữ có giá trị gợi tả cao.

Văn bản 4: Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Những nét chính về tác phẩm

1. Vị trí, nội dung đoạn trích

- Vị trí: Đoạn trích nằm trong phần II: “Gia biến và lưu lạc”.

- Nội dung đoạn trích: Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục,
Kiều đau đớn, phẫn uất, toan tự tử, nhất quyết không chịu tiếp khách
làng chơi. Tú Bà sợ mất “cả chì lẫn chài” bèn lấy lời ngon ngọt
khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi
nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Mụ đưa Kiều giam lỏng
ở lầu Ngưng Bích song thực chất là để thực hiện âm mưu mới đê
tiện hơn, tàn bạo hơn.

- Sống trong cảnh cô tịch chỉ có nước với trời đã khiến cho nỗi cô
đơn của Kiều thăng hoa, dệt thành những câu thơ tả cảnh ngụ tình
tuyệt tác.

2. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 6 cầu đầu: Cảnh ngộ và nỗi niềm của Kiều.

- Phần hai: 8 câu tiếp: Nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.

- Phần ba: 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều (sáu câu thơ đầu)

• Sau bao sóng gió dập vùi, lầu Ngưng Bích là chốn yên thân tạm
thời của Thúy Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

- Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên hoàn cảnh đáng thương đang bị
giam lỏng ở lầu Ngưng Bích của Kiều.

- Đặc biệt, từ “khóa xuân” thường được sử dụng để chỉ người con
gái đẹp trong gia đình quyền quý thời xa xưa bị khóa kín tuổi xuân
trong những khuôn khổ, phép tắc của gia đình và xã hội. Ở đây,
Nguyễn Du đã sử dụng từ “khóa xuân” với hàm ý mỉa mai để nói
về cảnh ngộ xót xa, trớ trêu của Kiều.

• Quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích hiện lên mênh mông,
hoang vắng và lạnh lẽo:
“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hông dặm kia.”

- Không gian vô cùng rộng lớn, mênh mông, bát ngát:

+ Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” gợi không gian dài, rộng, cao, sâu
vô tận. Đồng thời, gợi sự chơ vơ, chênh vênh, trơ trọi của lầu Ngưng
Bích.

+ Từ láy “bát ngát” càng tô đậm hơn cái vô cùng, vô tận của không
gian.

- Không gian vô cùng trống trải, hoang vắng, không có dấu hiệu
của sự sống:

+ Hình ảnh liệt kê “cát vàng”, “bụi hông" đã nói đến sự phai nhạt của
sự sống và ngổn ngang của cảnh vật.

+ Cặp tiểu đối “mây sớm” và “đèn khuya” gợi nỗi hắt hiu, trống vắng
mênh mông của thiên nhiên.

Quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích cô liêu, thiếu vắng sự
sống, gợi nỗi buồn cho thân phận nhân vật.

• Quang cảnh đó đã gợi ở Kiều bao nồi niềm tâm trạng:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

- Sự cô đơn, lẻ loi đến cùng cực:

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín.
Tất cả như giam hãm con người và để khắc sâu thêm nỗi cô đơn.
+ Trong khung cảnh “bốn bề bát ngát” đó, Kiều chỉ biết bầu bạn
với những vật vô tri, vô giác.

- Sự ngổn ngang trăm mối, day dứt, âu lo:

+ “Xa trông” gợi lên sự trông ngóng của Thúy Kiều hướng về một
dấu hiệu của sự sống hay quen biết nào đó.

+ Hình ảnh liệt kê “cát vàng, “cồn nọ”, “bụi hồng”,... trải đều ở các
câu thơ đã gợi lên sự ngổn ngang trong lòng Thúy Kiều.

- Nỗi chua xót, “bẽ bàng” cho thân phận:

+ Bị đày đọa trong không gian vô cùng và thời gian vô tận lại càng
khắc sâu nỗi cô đơn cùng cực khiến nàng cảm thấy “bẽ bàng”.

+ Cụm từ “như chia tấm lòng” diễn tả nồi niềm chua xót, nỗi lòng tan
nát của Kiều.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp hệ thống hình ảnh ước lệ,
ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh
thiên nhiên mênh mông, vắng lặng. Và trên nền của khung cảnh ấy là
hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm tâm sự đau
thương.

2. Nỗi nhớ chàng Kim và nỗi nhớ cha mẹ (tám câu thơ tiếp)

a. Nỗi nhớ chàng Kim

• Trong cảnh ngộ cô đơn nơi chân trời góc bể, Kiều đau đớn nhớ tới
chàng Kim, mối tình đầu mãnh liệt mà trong sáng của nàng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.”


- Tại sao nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ đến trước mà không phải là
cha mẹ? Bởi khi Kiều bán mình chuộc cha là nàng đã làm tròn chữ
hiếu mà dang dở chữ tình. Cái mặc cảm của một kẻ phụ tình luôn
thường trực trong suy nghĩ của nàng nên nó đã xuất hiện trước.

- Nói về nỗi nhớ người yêu của Thúy Kiều, Nguyền Du không dùng
từ “nhớ” mà dùng từ “tưởng”:

+ Từ “tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người


mình yêu.

+ Kiều “tưởng” như thấy lại đêm trăng đẹp nhất của cuộc đời mình.
Cái đêm mà nàng cùng với Kim Trọng thề nguyền đính ước bên
nhau.

+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng
đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin
sương luống những rày trông mai chờ”.

• Càng nhớ chàng Kim, càng nuối tiếc mối tình đầu, Kiều càng thấm
thìa tình cảnh của mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”

+ Kiều tủi nhục khi tấm lòng son sắc đã bị vùi dập, hoen ố, không
biết bao giờ mới gột rửa được.

+ Dẫu vậy, tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng vẫn không
nguôi nhớ về Kim Trọng.

Tấm lòng vị tha, thủy chung son sắt trước sau như một của Thúy
Kiều thật đáng trân trọng.

b. Nỗi nhớ cha mẹ ở nơi xa


Tâm trạng đau đớn, thương nhớ người yêu hẳn chưa nguôi, Kiều lại
chồng chất thêm nỗi nhớ thương cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nông ấp lạnh những ai đó giờ

Sân lai cách mấy nắng mưa,

Cỏ khi gốc tử đã vừa người ôm.”

- Chữ “xót” diễn tả một cách chính xác tấm lòng của Kiều dành cho
cha mẹ.

- Nàng xót xa khi hình dung ra chốn quê nhà cha mẹ vẫn ngày đêm
tựa cửa ngóng trông, lo lắng cho nàng.

- Nàng tự trách bản thân vì chưa làm tròn chữ hiếu:

+ Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” cho thấy sự day dứt khôn nguôi
vì không thể tự hầu hạ, chăm sóc, nâng giấc cho cha mẹ.

+ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi
thời tiết đổi thay.

+ Nàng tưởng tượng nơi quê nhà đã đổi thay, “góc tử đã vừa người
ôm”, thời gian trôi đi mẹ ngày càng già yếu mà mình thì không thể
phụng dường.

- Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sự xa cách bao mùa
mưa nắng, vừa gợi sự tàn phá của thời gian đối với cảnh vật của con
người, làm cho cha mẹ ngày càng già yếu, và cần bàn tay chăm sóc
của nàng.

- Nỗi nhớ được bộc lộ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm nên càng
chân thực, cảm động.
Nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ đã nói lên nhân
cách đáng trân trọng của nàng. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích,
nàng mới là người đáng thương nhất. Nhưng quên đi cảnh ngộ của
bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu
nhất. Nàng thật sự là một người tình thủy chung, một người con hiếu
thảo, một con người có tấm lòng vị tha, cao cả.

3. Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật (tám câu thơ cuối)

- Mọi cảnh vật qua con mắt Kiều đều gợi lên những nét buồn da diết:

+ Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại và điệp từ: Mỗi cặp lục bát
làm thành một cảnh và đều được tác giả khắc họa, liên kết qua điệp
từ “buồn trông”.

+ “Buồn trông” có nghĩa là buồn mà nhìn ra xa trông ngóng một cái


gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay hiện tại, nhưng trông mà vô vọng.

+ “Buồn trông” có cả cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm
nhìn của người con gái ngây thơ, lần đầu lạc bước giữa cuộc đời
ngang trái, mang tính dự cảm hãi hùng.

- Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đó
đã diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng với nhiều sắc độ khác nhau như
những con sóng lòng không sao chịu nổi, những nồi buồn vô vọng,
vô tận:

• Cảnh đầu tiên:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

+ Là bức tranh của cảnh chiều hôm nhớ nhà. Thời gian “chiều hôm”
khiến cho nỗi buồn thân phận trở nên thấm thía.
+ Hình ảnh ẩn dụ “cánh buồm” là hình ảnh rất đắt để thể hiện
ngoại cảnh và nội tâm nhân vật. Cánh buồm nhỏ nhoi đơn độc giữa
biển nước mênh mông trong ánh sáng lẻ lói cuối cùng của mặt trời
sắp tắt. Con thuyền mỗi lúc một xa, rồi gần như mất hút, biết bao giờ
mới tim được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa
dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những
người thân yêu.

Cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc nỗi buồn nhớ da diết về quê
nhà xa cách.

• Cảnh thứ hai:

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

+ Cùng với hình ảnh “cánh buồm”, hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi" cũng
thế hiện cho nỗi buồn, cho thân phận lênh đênh, nổi chìm giữa dòng
đời của Thúy Kiều.

+ Câu hỏi tu từ cho thấy sự mất phương hướng, gợi một nỗi băn
khoăn, thấp thỏm.

+ Tạo dựng được một bức tranh tương phản: Một bên là không
gian của cửa bể lúc thủy triều lên và một bên là hình ảnh những cánh
hoa tàn trôi man mác trên mặt nước. Tác giả đã tô đậm sự nhỏ bé,
lênh đênh, trôi dạt của con thuyền, của những cánh hoa đã tàn, đã
rụng.

Câu thơ ẩn dụ cho thân phận nổi chìm giữa dòng đời của Thúy
Kiều rồi sẽ trôi dạt, bị vùi dập nơi nao.

• Cảnh thứ ba:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu


Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

+ Đây là cảnh khá ấn tượng, dễ gợi liên tưởng đến cảnh xuân hôm
nào trong tiết thanh minh. Tuy nhiên, không phải là “cỏ non xanh tận
chân trời" đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu" với sắc xanh héo úa,
nhàn nhạt trải dài từ mặt đất đến chân mây.

+ Nét vẽ không gian: “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” gợi một không
gian vô cùng rộng lớn đang đầy ải nàng Kiều.

+ Từ láy “rầu rầu” vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo, và gợi nỗi
sầu thương cô lẻ.

+ Từ láy “xanh xanh” gợi một sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt
phai.

Cảnh mờ mịt như tương lai mờ mịt, Thúy Kiều càng cảm nhận rõ
sự cô đơn, nhỏ nhoi của thân phận.

• Cảnh cuối:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

+ Bức tranh thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: Gió cuốn mặt
duềnh đầy giận dữ; sóng thì ầm ầm kêu réo khi thúy triều lên; thậm
chí Kiều còn có cảm giác những con sóng dữ dội kia đang bủa vây
ngay sát bên mình.

+ Thiên nhiên là một ẩn dụ cho những biến cố kinh hoàng sắp sửa
ập xuống cuộc đời nàng; ẩn dụ cho những con sóng của số phận sắp
sửa chôn vùi nàng; ẩn dụ cho một tương lai đầy sóng gió.
Thiên nhiên hiện lên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó
là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật: “Cảnh nào cảnh cảnh
chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

- Cảnh được nhìn từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm
thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung
để lo âu kinh sợ, dồn đến bão táp của nội tâm.

Tám câu cuối là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình
đặc sắc của Nguyễn Du. Đó là cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy,
cảnh trong tình này”, là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tiêu biểu cho giá trị nhân đạo của
tác phẩm Truyện Kiều. Nguyễn Du đã bộc lộ lòng cảm thương xót xa
với cảnh ngộ thân phận và nỗi niềm của nhân vật.

2. Nghệ thuật

-Tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc.

- Nghệ thuật dùng từ rất tài hoa và đặc biệt là hệ thống từ láy ở tám
câu thơ cuối.

Văn bản 5: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm.

1. Tác giả

- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), sinh ra ở làng Tân Thới, phủ Tân
Bình, tỉnh Gia Định.

- Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đau khổ, bất hạnh:
+ Sinh ra là một cậu ấm con quan, song chẳng bao lâu thì cha bị
cách chức, tuổi thơ sớm phải lận đận.

+ Năm hai sáu tuổi, ông bị mù, khiến đường công danh nghẽn lối,
đường tình duyên trắc trở. Bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ tan vỡ,
ông về quê dạy học, làm thuốc và sống cảnh nghèo nàn, thanh bạch.

- Ông là người có nghị lực sống phi thường, không chịu gục ngã
trước số phận oan nghiệt. Ông can đảm ghé vai nhiều trọng trách:

+ Là một thầy thuốc, ông không tiếc sức mình cứu nhân độ thế.

+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ và
danh tiếng cụ đồ Chiểu vang khắp miền lục tỉnh.

+ Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao áng thơ bất
hủ, hướng cho con người đến những giá trị chân - thiện - mĩ.

+ Là một nhà quân sự, ông tích cực tham gia kháng chiến với vai trò
là người tham mưu và kiên quyết không bị giặc mua chuộc.

Dù ở cương vị nào ông cũng làm việc hết mình và để lại một tấm
gương sáng cho đời.

- Sự nghiệp văn học: Bao gồm hai đề tài chính:

+ Đề tài đạo lí: “Truyện Lục Văn Tiên ”, “Ngư tiều y thuật vấn đáp ”...

+ Đề tài yêu nước: “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, “Văn tế
Trương Định”...

Trong các nhà văn Việt Nam xưa và nay, Nguyễn Đình Chiểu là
một trong những nhà văn có nhiều đau khổ, bất hạnh nhất nhưng
ông đã sống một cuộc đời thanh bạch, cao cả, đầy nghị lực, khí
phách và để lại cho đời một sự nghiệp văn chương có giá trị lớn.

2. Tác phẩm
a. Tóm tắt “Truyện Lục Vân Tiên”

Lục Vân Tiên là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành.
Chàng là một học trò nghèo khôi ngô, văn võ song toàn. Trên đường
lên kinh dự thi, chàng đánh tan bọn cướp và cứu Kiều Nguyệt Nga.

Cảm ân cứu mạng, Nguyệt Nga đã tay vẽ một bức chân dung
chàng và luôn giữ bên mình. Sau đó Nguyệt Nga theo cha về quê,
còn Vân Tiên ghé thăm gia đình Võ Công là người đã hứa gả con gái
cho chàng và gặp những người bạn tốt là Hớn Minh, Vương Tử
Trực, những kẻ xấu là Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.

Sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất liền vội vã bỏ
thi về chịu tang. Chàng quá khóc thương mẹ đến nỗi mù cả hai mắt.
Sau đó chàng bị bọn lang băm, phù thủy lừa gạt lấy hết tiền, bị Trịnh
Hâm đẩy xuống sông nhưng được con Gia Long và vợ chồng Ngư
Ông cứu giúp.

Vân Tiên tìm đến nhà Võ Công thì bị từ hôn và bị bỏ vào hang sâu.
Vân Tiên lại được thần núi và ông Tiên cứu giúp, rồi chàng lại được
gặp Hớn Minh vì chống cường quyền phải bỏ chốn vào rừng. Họ
sống với nhau trong một ngôi chùa.

Về phần Kiều Nguyệt Nga, từ ngày được Vân Tiên cứu khỏi tay
bọn cướp đã tự thề nguyện thủy chung, gắn bó với chàng. Cho nên,
khi quan Thái sư trong triều muốn hỏi nàng cho con trai hắn thì nàng
đã từ chối, để rồi bị bắt đi cống giặc Ô Qua. Vì thế, Kiều Nguyệt Nga
nhảy xuống sông tự vẫn nhưng nàng được Phật bà quan âm cứu
giúp rồi trôi dạt vào vườn nhà Bùi Kiệm. Bùi Kiệm ép nàng lấy hắn
nhưng nàng bỏ trốn và được một bà lão trong rừng đưa về nuôi.

Lại nói về Vân Tiên ở chùa với Hớn Minh, nhờ thuốc tiên lại sáng
mắt ra. Chàng trở về quê nhà, gặp gia đình mình và gia đình Kiều
Nguyệt Nga. Rồi chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp
giặc Ô Qua. Thắng trận trở về, chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Từ
đấy hai người nên duyên vợ chồng sống một cuộc đời hạnh phúc.
Còn bọn giặc ác đều bị trừng trị.

b. Kết cấu của truyện

- Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện
Phương Đông, xoay quanh cuộc đời nhân vật chính là Lục Vân
Tiên.

- Kết cấu có tinh ước lệ: Người tốt thường gặp nhiều gian truân,
trắc trở, bị kẻ xấu hãm hại, lừa gạt. Nhưng họ vẫn được phù trợ, cưu
mang (nhờ người hoặc thần linh), cuối cùng được đền trả xứng đáng,
còn kẻ xấu bị trừng trị.

Kiểu kết cấu này vừa phản ánh chân thực cuộc đời vốn đầy rẫy
những bất công, vô lí; vừa nói lên khát vọng ngàn đời của nhân dân:
Thiện thắng ác, ở hiền thì gặp lành.

c. Xuất xứ đoạn trích

- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
nằm ở phần đầu “Truyện Lục Vân Tiên”

- Tác phẩm được viết khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài
hơn hai nghìn câu thơ (2082) được viết theo thể thơ lục bát.

- Nội dung của truyện nhằm truyền dạy những đạo lí tốt đẹp để làm
người:

+ Đề cao tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình
cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em, tình cảm bạn bè,...

+ Nêu cao tinh thần hiệp nghĩa, sẵn sàng cứu khổ phò nguy.
+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và
nhưng điều tốt đẹp trong cuộc đời: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo,
thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà,...

- Đặc điểm thể loại: Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất truyện để
kể hơn để đọc, để xem. Vì thế, nó dễ biến thành những hình thức
sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ”, “hát”. Nó chú
trọng hành động của nhân vật hơn là nội tâm.

d. Bố cục: Hai phần

- Phần một: 14 câu đầu: Lục Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để cứu
Kiều Nguyệt Nga.

- Phần hai: Còn lại: Cuộc chuyện trò giữa Lục Vân Tiên và Kiều
Nguyệt Nga.

I. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Lục Vân Tiên

- Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa theo mô típ của truyện
Nôm truyền thống: Một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tài giỏi, nghĩa
hiệp ra tay giải cứu cho một cô gái xinh đẹp thoát nạn, rồi từ ân nghĩa
đến tình yêu.

Mô típ này thể hiện khát vọng, mong ước của nhân dân và tác
giả về một xã hội có những con người tài đức, luôn sẵn sàng ra tay
giúp người, giúp đời.

a. Khi đánh cướp Phong Lai

• Như một vị hảo hán mang tinh thần nghĩa hiệp:

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.


Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

- Hành động “ghé lại bên đàng" cho thấy chàng không băn khoăn,
do dự khi đánh cướp Phong Lai. Nó phù hợp với tinh thần hăm hở
của chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường muốn lập công danh, thi
thố tài năng để giúp đời, giúp người. Gặp bọn cướp Phong Lai là một
thử thách, song là một cơ hội cho chàng hành động.

- Hành động gan góc, mau lẹ “bẻ cây làm gậy” chứng tỏ
chàng không màng an nguy của bản thân.

- Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên được xuất phát:

+ Từ tinh thần chính trực, thái độ bất bình, trước những điều xấu
xa, tàn ác.

+ Từ tấm lòng nhân nghĩa, giàu tình yêu thương, luôn sẵn sàng
bênh vực cho những kẻ yếu đuối và bảo vệ cho lẽ phải.

• Một vị anh hùng quả cảm có võ nghệ cao cường:

“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:

Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây

Trước gây việc dữ tại mầy

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.”


- Nguyễn Đình Chiểu đã đặt chàng vào một trận đánh không cân sức:
một bên là tướng cướp hùng hổ, hung dữ, đông đúc, được trang bị
đầy đủ vũ khí với một bên là thân cô, thế cô.

Nghệ thuật tương phản đã được tác giả sử dụng để tô đậm sự


quả cảm của Lục Vân Tiên.

- Hình ảnh Lục Vân Tiên xung trận được miên tả như một dũng
tướng với khí thế áp đảo:

+ Cụm từ “tả đột hữu xông”, rất giàu giá trị tạo hình, cho thấy
chàng đang làm chủ tình thế và tung hoành giữa đáng cướp.

+ Tác giả so sánh Lục Vân Tiên với một chiến tướng vào loại bậc
nhất trong Tam Quốc là Triệu Tử Long.

+ Nhịp điệu thơ nhanh, mạnh đã tạo nên cho trận đánh một khí thế
hào hùng, sôi động.

Lục Vân Tiên mang tầm vóc của người anh hùng mạnh mẽ, phi
thường.

- Cuối cùng, chàng đã giành được chiến thắng vẻ vang trước đả


cướp Phong Lai:

“Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giảo tìm đàng chạy ngay

Phong Lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.”

+ Chính nghĩa đã chiến thắng, cả một đảng cướp vỡ tan, hoảng sợ


bỏ chạy.
+ Tướng cướp Phong Lai “trở chẳng kịp tay” bỏ mạng dưới cây gậy
của người anh hùng.

Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh kết tinh của nhân dân,
của chính nghĩa nên nó chiến thắng tuyệt đối.

Hành động mạnh mẽ của Vân Tiên thể hiện được khát vọng của
nhân dân về một người anh hùng có sức mạnh phi thường, võ nghệ
cao cường luôn bênh vực kẻ yếu, chiến thắng thế lực tàn bạo

b. Khi trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga

- Lục Vân Tiên thế hiện là một con người giàu lòng nhân hậu:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe nầy?”

+ Chàng tìm cách trấn an nỗi sợ hãi của họ bằng cách khẳng định lũ
cướp đã bị tiêu diệt.

+ Sau đó, chàng hỏi han rất ân cần và khiêm nhường để họ vơi đi nỗi
sợ hãi.

- Một con người biết trọng lễ nghĩa qua lối ứng xử và xưng hô:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

+ Đàng hoàng, chững chạc một mực giữ gìn lễ nghĩa, khuôn phép
của xã hội phong kiến khi khuyên Kiều Nguyệt Nga không xuống xe.

+ Lối xưng hô “nàng” - “ta” cho thấy tấm lòng trân trọng mà Lục
Vân Tiên dành cho Kiều Nguyệt Nga, cũng như thái độ lịch sự của
một con người có học, có đọc sách thánh hiền.
- Một con người hào hiệp, nghĩa khí, chính trực:

Vân Tiên nghe nói liên cười:

“Làm ơn há để trông người trả ơn

Nay đã rõ đặng nguồn cơn

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”

+ Thể hiện qua tiếng cười rất vô tư, sảng khoái khi nghe Kiều
Nguyệt Nga nói đến ơn huệ. Nhưng Vân Tiên làm ơn không màng
đến sự đền ơn.

+ Thể hiện trong quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên:
Người anh hùng phải làm việc nghĩa như là lẽ tự nhiên của một con
người chân chính.

Học đạo phái đi đôi với hành đạo. Đó là lối sống rất cao đẹp của Lục
Vân Tiên.

Lục Vân Tiên là một con người văn võ toàn tài, hào hiệp và nhân
hậu. Chàng là hình mẫu trọn vẹn cho người quân tử trong xã hội
phong kiến.

Hình ảnh của Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, lí tưởng mà
Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và mong ước của mình.

2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga

a. Một tiểu thư khuê các, nề nếp, gia giáo và có học thức

- Thể hiện qua những lời giới thiệu về bản thân của nàng:
“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên

Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.”

+ Nàng xuất thân trong một gia đình quyền quý, là tiểu thư khuê
các, lá ngọc cành vàng, trâm anh thế phiệt - con quan tri phủ Hà Khê.

+ Lời giới thiệu rất đầy đủ, chân thành, không khoa trương, kênh
kiệu đài các. Đã đáp ứng đầy đủ những lời thăm hỏi ân cần của Lục
Vân Tiên, vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.

- Thể hiện qua lối xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên:

“Trước xe quân tử tạm ngôi

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”

+ Cách xưng hô “quân tử’’, “tiện thiếp” kết hợp với hành động “lạy” và
“thưa” cho thấy sự khiêm nhường, thùy mị, nết na.

+ Thể hiện sự thông minh, mực thước của nàng trong lời ăn tiếng
nói.

- Thể hiện qua lời chia sẻ về hành động hiếu nghĩa nàng làm:

“Sai quân đem bức thơ về

Rước tôi qua đó định bề nghi gia

Làm con đâu dám cãi cha

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.”


+ Nàng không quản đường xa, thân gái dặm trường với bao nguy
hiểm bất trắc, từ Tây Xuyên đến Hà Khê vì vâng theo lời cha để
định bề nghi gia, nghi thất.

+ Nàng là người con hiếu thảo, sống đúng với khuôn phép gia đình
và với lễ giáo phong kiến. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa nàng
và Lục Vân Tiên.

Kiều Nguyệt Nga để lại một ấn tượng tốt đẹp: thùy mị, nết na, gia
giáo, thông minh, sắc sảo, có học thức.

b. Một con người có tấm lòng thủy chung, ân nghĩa

- Qua cử chỉ, lời nói với ân nhân cứu mạng:

“Trong xe chật hẹp khôn phô,

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”

+ Mặc dù ý thức rất rõ về lễ giáo và hoàn cảnh của mình, song nàng
vẫn định xuống xe để tạ ơn Lục Vân Tiên.

+ Nàng cất lên với những lời thật da diết, tha thiết: “cúi đầu trăm lạy”.

Hành động đó đã phản chiếu tấm lòng sâu sắc của nàng dành cho
Lục Vân Tiên.

- Trong lời cảm kích công lao cao cả của Lục Văn Tiên:

“Lâm nguy chăng gặp giải nguy

Tiết trăm năm cùng bỏ đi một hồi”

+ Trước hết, Vân Tiên đã giải vây để cứu mạng sống cho nàng.

+ Quan trọng hơn, Vân Tiên đã cứu được sự trong trắng và danh dự
của nàng.
Ân nghĩa đó khiến nàng day dứt và không thể không báo đáp.

- Nàng băn khoăn tìm cách để trả ơn Lục Vân Tiên:

“Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng

Gặp đây đương lúc giữa đàng

Của tiền chẳng có, bạc vàng thì không

Gẫm câu báo đức thù công

Lấy chi cho phí tâm lòng cùng ngươi.”

+ Nàng mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình tạ ơn.

+ Nàng ý thức rằng: không gì có thể sánh bằng công ơn của Lục Vân
Tiên. Bởi Nguyệt Nga là người rất coi trọng tình nghĩa và coi tình
nghĩa là vô giá.

Kiều Nguyệt Nga kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
truyền thống. Nàng không chỉ gia giáo, nết na, có học thức mà còn
rất đằm thắm nghĩa tình, cư xử có trước có sau. Bởi thế, nàng đã
nguyện gắn bó cuộc đời với chàng để giữ trọn tấm lòng ân nghĩa
thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện khát
vọng hành đạo giúp đời của nhân dân và tác giả. Đồng thời, đã khắc
họa thành công những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân
Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
2. Nghệ thuật

- Nhân vật được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa
ngoại hình, cũng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, mang tính chất của
văn học dân gian.

- Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày
và mang tính chất địa phương Nam Bộ; phù hợp với ngôn ngữ người
kể chuyện: ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết và
tính cách nhân vật.

Văn bản 6: Đồng chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chính Hữu (1926 - 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Chính Hữu bắt đầu cầm bút từ năm 1947 và tập trung khai thác ở
hai mảng đề tài chính là người lính và chiến tranh.

- Phong cách sáng tác: Thơ Chính Hữu vừa hàm súc, vừa trí tuệ;
ngôn ngữ giàu hình ảnh; giọng điệu phong phú: khi thiết tha, trầm
hùng, khi lại sâu lắng, hàm súc.

2. Tác phẩm

Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm được đánh giá là
thành công nhất của Chính Hữu viết về đề tài người lính cách mạng
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 - 1954.

a. Hoàn cảnh sáng tác


- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác
giả tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947). Bài thơ là kết
quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến
đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo" (1966).

b. Nhan đề bài thơ

- Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.

- Đồng chí gợi cảm nghi về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một
loại tình cảm mới, một tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong
những năm tháng cách mạng kháng chiến.

- Đồng chí, đó còn là cách xưng hô của những người cùng trong một
đoàn thể cách mạng, của những người lính, người công nhân, người
cán bộ từ sau cách mạng.

Đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu
sắc tình đồng đội.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành của tình đồng chí,
đồng đội.

- Phần hai: 10 câu tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội.

- Phần ba: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng
đội.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội (7 câu
thơ đầu)
a. Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân

- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ
cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp
mới, vẻ đẹp của tình đông chí, đồng đội:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá’’

+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên
sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những
miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới
mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai
con người “anh” và “tôi”.

+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng
đồng chiêm, nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái
nghèo như manh nha từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du,
miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái
nghèo như ăn sâu từ trong lòng đất.

“Quê hương anh” - “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người
miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng đều khó làm ăn canh tác, đều
chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của
những người lính.

Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông


dân. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là
sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những
người đồng chí, đồng đội với nhau.
b. Cơ sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu
nước

Trước ngày nhập ngũ, họ sống ở mọi phương trời xa lạ:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,”

- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời
xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung, cùng chung nhịp đập trái tim,
cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng.
Những cái chung đó đà thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.

- Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa
tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong
quân ngũ:

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những
người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để
chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời
giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí,
quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc.

- Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn
mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người
lính.

- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” - “tôi” đứng trên từng dòng thơ
như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ
hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những
người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là
cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

c. Cơ sở thứ ba: Cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn

- Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã
miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ’’

+ “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian
khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh
nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ
niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã
khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau
hơi ấm và trở thành “tri kỉ”.

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm
được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ,
chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân
tộc.

- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ
“đôi” ở câu thơ trên:

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai" mà lựa chọn từ “đôi". Vì “đôi”


cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể
tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đà trớ thành “đôi tri ki”, thành đôi bạn tâm
tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được
cấu tạo bởi hai từ “Đồng chí!”.

+ Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định
nghĩa về đồng chí.

+ Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của
cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội.

+ Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng của tình đồng chí.

+ Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý
thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm
hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến yêu thương.

Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí.
Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người
nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội
sống chết có nhau.

2. Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội (mười câu thơ
tiếp)

a. Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của
nhau

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

• Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về
chốn quê nhà:
- Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: Neo người, thiếu sức
lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề
công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.

- Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm
thiếu thốn:

+ Hình ảnh “gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất
trong cuộc sống gia đình các anh.

+ Đổng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh - người trụ cột trong gia
đình.

• Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng
cho quê hương, dân tộc.

- "Ruộng nương”, "căn nhà” là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn
bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc
riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc.

- Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc, nhưng giàu
sức gợi:

+ Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính.
Mặc kệ những gì quý giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn.

+ Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một cách thầm
lặng của các anh vì đất nước.

• Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm
hồn người lính.

- Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê và trên hết
là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để
chế ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhung càng trở
nên da diết.
- Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử
dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép
nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.

- "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của
người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã
tạo cho “giếng nước gốc đa” một tâm hồn.

Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã
hiện lên tràn đầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc
lập, tự do của Tổ quốc.

b. Biểu hiện thứ hai: Đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân
ngũ

Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu
đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian
khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói
về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vâng trán ướt mô hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giả

Chân không giày”

- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc,
nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với
sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết, là những cơn sốt rét rừng:
+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của
những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.

+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những
người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những
gian khổ, khó khăn.

- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thon, gian khổ:

+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác
những thiếu thốn của người lính: “áo rách vai, quần vài mánh vá,
chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực
tế cuộc sống người lính.

+ Những khó khăn gian khố như được tô đậm khi tác giả đặt sự
thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của
những đêm rừng hoang sương muối.

Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng
chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng
mà đi, đạp núi mà tiến.

- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh
“miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách
để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau đê
diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.

Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại
thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương của người kia. Tình thương
đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.

c. Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó
Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ánh thơ
rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nằm lấy bàn tay”

- Những cái bắt tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ
ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm
sự giàu sang vô cùng về tinh thần.

- Những cái bắt là lời động viên chân thành, để những người lính
cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.

- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm để truyền cho
nhau thêm sức mạnh.

- Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến
thắng quân thù.

Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí
thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết găn bó đã nâng
đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường
chiến đấu.

3. Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội

• Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:

“Đêm nay rừng hoang sương muối”

- Thời gian: Một đêm phục kích giặc.

- Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và
phủ đầy sương muối.

• Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện
trong tâm thế:
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới’’

-Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” cho thấy tinh thần đoàn kết, luôn
sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh.

- Hình ảnh “chờ giặc tới” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn
sàng chiến đấu của người lính.

• Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức
tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn:

- Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc,
nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm,
người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: trăng lơ lửng như
treo đầu mũi súng.

- Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn
sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây
rất thơ mộng, nối liền mặt đất với bầu trời.

- Hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa:

+ Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non
nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi
cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình;
hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ - vẻ
đẹp tâm hồn thi sĩ;...

+ Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ
bay lên giữa lúc cam go khốc liệt.

+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ
vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
Hình ảnh này xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng
chiến: một nền thơ có sự kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm
hứng lãng mạn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Tác giả đã khám phá, ngợi ca một tình cảm đẹp của những người
lính cách mạng, đó là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sâu nặng.
Đồng thời, tác phẩm còn nêu bật lên hình ảnh chân thực, giản dị và
cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.

2. Nghệ thuật

- Lối miêu tả chân thực, tự nhiên nhung cũng giàu sức gợi.

- Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Giọng điệu tự nhiên, trăm bổng thể hiện cảm xúc dồn nén chân
thành.

Văn bản 7: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú
Thọ.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính và nữ thanh
niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Phong cách sáng tác: Thơ Phạm Tiến Duật mang giọng điệu tự
nhiên, sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch; ngôn ngữ đời
thường, chân mộc;...

- Nhiều bài thơ của ông đi vào trí nhớ của công chúng như: “Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây”; “Gửi em, cô thanh niên xung phong”;
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969. Đây là
thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng khắc
nghiệt.

- Bài thơ nằm trong chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ do báo Văn
nghệ tổ chức và được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” năm
1970.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Bài thơ có nhan đề khá dài, khá đặc biệt: “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính”. Nhan đề bài thơ thoạt nghe sẽ thấy như có chỗ thừa:
thừa hai chữ “bài thơ”. Nhưng chính chỗ thừa ấy đã tạo sức hút cho
người đọc ỏ vẻ khác lạ và độc đáo ở sức gợi: gợi chất thơ của cuộc
sống nơi chiến trường.

- Hình ảnh “tiểu đội xe không kính” được đưa vào nhan đề bài thơ:

+ Gợi hiện thực phổ biến, quen thuộc trên tuyến đường Trường Sơn
trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Gợi hiện thực của cuộc chiến vô cùng gay go, khốc liệt.
+ Gợi vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn, vẻ đẹp của lòng
dũng cảm, của ý chí nghị lực của sự kiên cường.

Cả ý nghĩa nhan đề đã gợi ra hiện thực về chiến trường, đồng thời


tô đậm chất thơ trong cuộc đời người lính lái xe.

c. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: Khổ 1,2: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế
hiên ngang của người lính.

- Phần hai: Khô 3, 4: Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi
thường hiểm nguy của người lính.

- Phần ba: Khổ 5, 6: Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính
lái xe.

- Phần bốn: Khổ 7: Ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước và lí tưởng
cách mạng của người lính.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của
người lính (khổ 1, 2)

- Xưa nay, xe cộ rất ít khi đi vào thơ ca, mà nếu có chăng thì cũng
được “thi vị hóa” hoặc “lãng mạn hóa” và mang ý nghĩa tượng trưng
hơn là tả thực. Nhưng những chiếc xe không kính được Phạm Tiến
Duật đưa vào thơ lại thực đến mức trần trụi:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”

+ Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi đậm đặc và lối nói
khẩu ngữ khiến cho câu thơ mở đầu trở thành một lời giải thích,
thanh minh, phân bua của người lính lái xe về những chiếc xe có
không kính.

+ Đồng thời, gợi tâm trạng vừa xót xa, tiếc nuối với chiếc xe của
mình.

+ Các từ phủ định: “không có... không phải... không có” đi liền với
các điệp ngữ “bom giật, bom rung” không chỉ mang ý nghĩa khẳng
định mà còn khiến cho âm điệu câu thơ trở nên hùng tráng, làm cho
sự xuất hiện của những chiếc xe trở nên ngang tàng.

Hai câu thơ đầu đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự
mang trên minh đầy những thương tích của chiến tranh. Nó chính là
một bằng chứng cho sự tàn phá khủng khiếp của một thời đã đi qua.

- Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy,
Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính
lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung" đứng đầu câu gợi sự bình
thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.

+ “Nhìn thẳng" là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất,
không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run
sợ.

+ Điệp từ “nhìn" được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập,
giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa
chiến trường của người lính.

+ Thủ pháp liệt kê: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng" đã cho thấy
tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của những người lính lái xe.
Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường
đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.

- Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được
khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên
nhiên:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

+ Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường
dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao
đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.

+ Điệp từ, điệp ngữ: “nhìn thấy... nhìn thấy... thấy” đã gợi tả được
những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.

+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đối cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể
hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.

+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”. Gợi liên tưởng đến
những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các
anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các
anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim.

Đồng thời, cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam.

+ Đặc biệt, hình ảnh so sánh "như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn
tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra
trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.
Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác
đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư
thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính
trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.

2. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy
của người lính (khổ 3, 4)

Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người
lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh, tình thế nào,
người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến
thắng quân thù:

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xôi như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

- Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ,
thử thách nơi chiến trường.

- Cấu trúc lặp: "Không có..., ừ thì...” đi liền với kết cấu phủ
định “Chưa có...” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó
khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
- Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và "Mưa
tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên
nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới
lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính Trường Sơn.

- Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho
thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường những hiểm nguy, thử
thách.

- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản
nhiên, hóm hỉnh... làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính,
cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến
đấu.

Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

3. Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,
6)

Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong
mưa bom, bão đạn, họ lại gặp nhau để hợp thành tiểu đội trong
những cái bắt tay vô cùng độc đáo:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”

- Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực
về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn
chiến trường trở về.
- Hình ảnh “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:

+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tầm hồn của những người
lính.

+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho
nhau.

+ Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung
đường đã qua.

Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình
đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến, được chung bát, chung
đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau
hơn:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

- Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì
thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng
gắn bó với nhau trong đời thường.

- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội
vã. Nhưng cũng chính giây phút hạnh phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi
khoảng cách giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt.

- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng -
đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các
chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi.
- Nghệ thuật ẩn dụ: “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của
người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của niềm tin và tin tưởng ở ngày
chiến thắng đang đến gần.

+ Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không
ngừng tiến tới, Khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến
đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức
mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nối.

4. Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng


của người lính (khổ 7)

Hình ảnh chiến sĩ lái xe Trường Sơn là một hình ảnh tiêu biểu cho
thể hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, một biểu tượng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Khổ thơ cuối bài kết tinh vẻ đẹp của hình
tượng những chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe:

“Không có kinh, rồi không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

- Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả
miêu tả một cách chân thực và sinh động:

+ Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính”, “không có đèn”,
“không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không
vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ. Những thứ quan trọng cần có lại không
có, những cái không cần có lại có thừa.

+ Phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường qua kết cấu đối
lập: Bom đạn đã làm cho chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những thứ
cần thiết cho một chiếc xe bình thường và tưởng như không hoạt
động được. Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra
chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

- “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi:
Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.

- Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa
về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần
trong xe có một trái tim”

+ Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim
yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới
đích.

+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước
và ý chí chiến đấu quật cường.

+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả,
khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để
tiếp tục tiến lên phía trước.

Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp
người lính chiến thắng bom đạn của kẻ thù. Trái tim ấy đã trở thành
nhãn tự của bài thơ và để lại xảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

III. Tổng kết

1. Nội dung

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm Tiến Duật đã xây dựng
thành công hình tượng những người lính lái xe Trường Sơn trong
những năm kháng chiến chống Mĩ một cách chân thực, độc đáo với
nhiều phẩm chất đẹp đẽ.

2. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do, đậm chất văn xuôi.

- Hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường.

- Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên.

- Giọng điệu ngang tàng, khỏe khoắn, hài hước, dí dỏm.

Văn bản 8: Đoàn thuyền đánh cá

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở huyện Vụ
Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông là một trong những gương mặt xuất sắc của nền thi ca Việt
Nam hiện đại:

+ Trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong những tên
tuổi nổi bật của phong trào thơ Mới, với những đề tài mang cảm
hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế.

+ Sau cách mạng tháng Tám: Thơ Huy Cận đã có nhiều tìm tòi, với
đề tài mang cảm hứng vũ trụ song tràn đầy niềm vui chứ không
còn mang nặng nỗi sầu nhân thế.

- Phong cách sáng tác: Thơ Huy Cận luôn vận động ở nhiều đối
cực: vũ trụ - cuộc đời, sự sống - cái chết, hiện thực - lãng lạn, niềm
vui – nỗi buồn...; giọng điệu mộc mạc, chân tình, lắng đọng; hình ảnh
thì thâm trầm, khơi gợi;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác


- Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời năm 1958. Đây là thời kì miền
Bắc được giải phóng, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội để chi
viện cho chiến trường miền Nam.

- Bài thơ là kết quả sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự trở lại và dồi
dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm
vui trước cuộc sống mới.

- Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” năm 1986.

b. Ý nghĩa nhan để

- Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi về một sự đoàn kết, ở đó có sự đồng


lòng, chung sức giữa các thành viên.

- Phản ánh không khí lao động sổi nổi, hăng say của những người
dân chài.

- Gợi lên những thành quả lao động góp phần xây dựng đất nước
theo nhịp sống mới sau chiến tranh.

c. Bố cục: Ba phần

Được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền
đánh cá:

- Phần một: 2 khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.

- Phần hai: 4 khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.

- Phần ba: khố thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.

II. Tìm hiểu chi tiết

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (hai khổ thơ đầu)


a. Khung cảnh trời biển

Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên phông nền
của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

- Tác giả đã đặt nhân vật trữ tình từ một điểm nhìn nghệ thuật rất đặc
biệt: đó là một điểm nhìn di động được đặt trên con thuyền đang
tiến bước ra khơi.

- Sử dụng một hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Mặt trời xuống biển
như hòn lửa”

+ Tả thực vầng mặt trời đó rực từ từ chìm xuống lòng biển khép lại
vòng tuần hoàn của một ngày.

+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ của bầu trời và mặt biển lúc hoàng
hôn.

+ Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết
lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá.

- Sử dụng hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

+ Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để
chìm vào trạng thái nghỉ ngơi.

+ Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung
như một ngôi nhà lớn của con người.

Qua hai câu thơ đầu có thể thấy, Huy Cận yêu thiên nhiên và yêu
mến cuộc đời như thế nào

b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi


Trên phông nền thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, con người dần dần xuất
hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát cáng buồm cùng gió khơi.”

- Phụ từ “lại” tạo được điểm nhấn ngữ điệu và sức nặng cho câu
thơ:

+ Gợi thế chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi
vần lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc.

+ Đồng thời, miêu tả một hành động đối lập: đối lập giữa hoạt động
của vũ trụ với hoạt động của con người.

- Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi”:

+ Cụ thể hóa niềm vui phơi phới, sự hào hứng, hăm hở của người
lao động.

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền
vượt trùng ra khơi.

+ Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” gợi vẻ
đẹp tâm hồn của người lao động gửi gắm vào trong lời hát.

Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì
và dường như có một sức mạnh vật chất đã cùng với gió làm thổi
căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi.

Trong tâm trạng phấn chấn, náo nức ra khơi, những người dân chài
đã cất cao tiếng hát.

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi


Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!”

- Từ “hát rằng” gợi lên niềm vui của người dân chài, hứa hẹn một
chuyến ra khơi bội thu.

- Thủ pháp liệt kê (cá bạc, cá thu) và so sánh (như thoi đưa) mang
đến âm hưởng ngợi ca, tự hào trong câu hát về sự giàu có của biển
cả.

- Hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”:

+ Cho thấy không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của
người lao động.

+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển
đêm.

+ Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới
ánh trăng.

Tác giả đã phác họa rất thành công một bức tranh thiên nhiên kì
vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao
động và niềm hi vọng của người dân chài.

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển

a. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được miêu tả cụ thể và rất sinh
động:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển


Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

- Đoàn thuyền đánh cá được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la,
rộng mở: chiều cao của gió của trăng, chiều rộng của mặt biển và
còn cả chiều sâu của lòng biển.

- Với cảm hứng nhân sinh vũ trụ, Huy Cận đã xây dựng hình ảnh
đoàn thuyền đánh cá rất tương xứng với không gian:

+ Cách nói khoa trương phóng đại qua hình ảnh “lái gió với buồm
trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy con thuyền đánh
cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ,
khổng lồ, hòa nhập với không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên,
vũ trụ.

+ Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương. Rõ ràng,
con thuyền cũng như con người đang làm chủ không gian này.

+ Hệ thống động từ: được rải đều trong mỗi câu thơ: “lái”, “lướt”,
“dò”, “dàn”, cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang
làm chủ biển trời.

Khổ thơ gợi lên một bức tranh lao động thật đặc sắc và tráng lệ.
Bức tranh ấy như thâu tóm được cả không gian vũ trụ vào trong một
hình ảnh thơ, đồng thời nâng con người và con thuyền lên tầm vóc
vũ trụ.

b. Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự giàu có,
phong phú và tấm lòng hào phóng, bao dung của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe


Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

- Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã miêu tả sự phong phú và giàu có
của biển cả quê hương qua những loài cá vừa ngon lại vừa quý hiếm
của biển.

- Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.

+ Tả thực loài cá song, thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu
đen hồng.

+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh
trăng đêm, đã tạo nên một cảnh tượng thật lộng lầy và kì vĩ.

- Hình ảnh nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”:

+ Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng
chiếu rọi.

+ Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt
biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng.

- Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:

+ Tả nhịp điệu của những cánh sóng.

+ Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn
của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống.

- Trước sự giàu có và phong phú đến vô cùng của biển cả, đã mở ra


tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao
tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao


Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

+ Hình ảnh so sánh “biển cho ta cá như lòng mẹ”

++ Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con người tự
bao đời.

++ Thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài
với biển cả quê hương.

Ẩn sau khổ thơ, ta thấy lòng biết ơn của con người trước ân tình
của quê hương đất nước.

c. Khung cảnh lao động hăng say trên biển

Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng,
hăng say:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

- Hệ thống từ ngữ tượng hình: “kéo xoăn tay”, “lưới xếp”, “buồm
lên” đã đặc tả để làm hiện lên một cách cụ thể, sinh động công việc
kéo lưới của những ngư dân.

- Hình ảnh ấn dụ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”:

+ Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ
đẹp khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động.

+ Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu.


- Hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp những khoang thuyền:

+ Cho thấy sự giàu có của biển cả quê hương và niềm vui phơi phới
của người lao động.

+ Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt trời như
lóe cả rạng đông. Điều đó cho thấy bút pháp sử dụng màu sắc đại tài
của Huy Cận.

Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự
giàu có hào phóng của thiên nhiên. Đồng thời khắc họa thành công
hình tượng người lao động lớn lao, phi thường.

3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về

Đoàn thuyền đánh cá trở về trong câu hát:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

- Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng
một âm hưởng, cùng một lối miêu tả. Nhưng nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy:
Câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát
trở về là “Câu hát căng buồm với gió khơi”.

+ Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái
sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi
biển thuận lợi và bình yên.

+ Khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành
từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ được trở về trên những con
thuyền đầy ắp cá.
+ Với nghệ thuật đầu cuối trong câu hát, ta còn thấy được điệp
khúc của khúc ca lao động.

- Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

+ Đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với
thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ.

+ Nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc
của vũ trụ.

+ Gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao
động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi
“Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến bến: “Mắt
cá huy hoàng muôn dặm khơi”.

- Hình ảnh hoán dụ “mắt cả huy hoàng”:

+ Miêu tả muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông trở
nên rực rỡ, huy hoàng.

+ Đây không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là sánh sáng của
thành quả lao động lấp lánh ánh vui.

Khổ thơ mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện
niềm vui phơi phới của con người khi làm chủ đất trời.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Phác họa thành công vẻ đẹp của thiên nhiên và của người lao động
mới.

- Khám phá, ngợi ca sự giàu có, hào phóng của thiên nhiên đất nước
và tầm vóc lớn lao của người lao động. Đồng thời, cho thấy sự hồi
sinh của thiên nhiên, đất nước sau chiến tranh.
2. Nghệ thuật

- Một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ.

- Hình ảnh thơ phong phú, giàu sức gợi.

- Kết cấu đầu cuối tương ứng đặc sắc.

Văn bản 9: Bếp lửa

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng. Ông sinh năm 1941,
quê huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ những năm 60 của thế kỉ XX và tập trung
khai thác ở hai mảng đề tài chính: cuộc chiến đấu của nhân dân ta
trong kháng chiến chống Mĩ và vẻ đẹp của con người giữa cuộc
sống đời thường.

- Phong cách sáng tác: Thơ Bằng Việt mang giọng điệu thủ thỉ, tâm
tình; ngôn từ điềm đạm; cấu tứ mạch lạc và hệ thống thi ảnh đặc sắc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Bếp lửa” ra đời năm 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên
ngành Luật tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ.

- Bài thơ in trong tập “Hương cây - Bếp lửa”, năm 1968.

b. Ý nghĩa nhan đề
“Bếp lửa” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần
trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu
tượng:

- Trước hết, đây là một bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi trong mỗi
gia đình của người Việt. Đồng thời, nó là hình ảnh gắn với kỉ niệm ấu
thơ về một người bà cụ thể, có thật của tác giả.

- Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa:

+ Bếp lửa gợi lên sự tảo tần, chăm sóc, yêu thương của người bà
dành cho người cháu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh
để trưởng thành và khôn lớn.

+ Bếp lửa gợi lên bao vất vả, cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm
bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin, và hi
vọng cho cháu vào một tương lai phía trước.

+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội
nguồn... đã nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời.

“Bếp lửa” là tên gọi của một bài thơ cảm động về tình bà cháu giản
dị, thiêng liêng. Đồng thời thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đất
nước sâu sắc…

c. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa - Nơi bắt đầu nỗi nhớ.

- Phần hai: 3 khổ tiếp: Những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và
bếp lửa.

- Phần ba: 2 khổ tiếp: Suy ngẫm về bà và bếp lửa.

- Phần bốn: khổ thơ cuối: Nỗi nhớ về bà và bếp lửa.


II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh bếp lửa – Nơi bắt đầu nỗi nhớ

Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa.
Để rồi, từ hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỉ niệm về bà thức dậy và được
tái hiện:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

- Trước hết, đó là hình ảnh bếp lửa tả thực, nhỏ bé, gần gũi, quen
thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời.

- Hình ảnh ẩn dụ “ấp iu nồng đượm”:

+ Gợi đến bàn tay cần mẫn, khéo léo, chính xác của người nhóm
lửa.

+ Gợi tấm lòng chi chút của người nhóm ngọn lửa.

- Từ “bếp lửa” được điệp lại hai lần:

+ Gợi bóng dáng của người bà, người mẹ tần tảo, thức khuya dậy
sớm chăm sóc cho chồng, cho con.

+ Diễn tả dòng cảm xúc dâng tràn ùa về từ kí ức.

- Từ láy “chờn vờn”:

+ Miêu tả bếp lửa với ngọn lửa bốc cao, bập bùng, tỏa sáng, ẩn hiện
giữa màn sương sớm.

+ Bếp lửa ấy mờ tỏa, chờn vờn trong kí ức về những năm tháng tuổi
thơ được sống bên bà của nhà thơ.
Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy dòng cảm xúc
yêu thương mành liệt trong người cháu:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

- Bộc lộ sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ
của đời bà.

- Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, diễn tả cảm xúc
đến rất tự nhiên và lan tỏa tâm hồn người cháu.

Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm
xúc để những dòng hồi tưởng, kí ức từ đó ùa về khiến người cháu
không khỏi xúc động.

2. Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa

a. Những kỉ niệm hồi lên bốn tuổi

Đó là kỉ niệm tuổi thơ với những năm tháng gian khổ, thiếu thốn,
nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”

- Từ láy “đói mòn đói mỏi”:

+ Miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: Năm 1945, do
chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã
khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

+ Câu thơ trĩu xuống, khiến lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi
nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy.
- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” phần nào diễn tả
được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình khiến người cha
phải bươn chải kiếm sống đủ nghề.

- Hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” là những
hình ảnh đậm chất hiện thực, đặc tả được sự xơ xác, tiều tụy của
những con người trong cuộc mưu sinh

Trong những năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

- Khói bếp của bà chẳng làm no lòng cháu nhưng đã lưu giữ một kỉ
niệm sống mãi không nguôi: mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến
bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay’’.

- Tác giả nhắc đi nhắc lại từ “khói”: “mùi khói”, “khói hun” gợi một
sự ám ảnh về một thời gian khó đã đi qua.

- Cảm giác cay cay vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động của
người cháu như hòa quyện, quá khứ và hiện tại như đồng hiện trên
những dòng thơ.

Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy
một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác
giả. Để rồi khi đã đi xa, ông không khỏi xúc động mỗi khi nghĩ về bà
và những kỉ niệm bên bà.

b. Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi

• Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của
bà:

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa”


- Gợi khoáng thời gian tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che
chở, bao bọc của bà.

- Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình
yêu thương.

- Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như
sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà.

• Đó là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình


ảnh tâm tình với chim tu hú:

“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

- Tiếng chim tu hú - âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè


về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành.

- Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì da diết lắm,
khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú
gợi nhớ, gợi thương:

+ Về tám năm kháng chiến chống Pháp “mẹ cùng cha công tác bận
không về” bà vừa là cha, vừa là mẹ.

+ Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa,
được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của
bà:

“Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’


Các động từ: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả sâu sắc
tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu
nhỏ. Các từ “bà” - “cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau
như gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương.

Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ,
ơn thầy.

• Tình yêu, sự kính trọng bà của người cháu được thế hiện thật chân
thành, sâu sắc qua câu thơ:

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

- Hình ảnh con chim tú hú xuất hiện tiếp tục ở cuối khố thơ với câu
hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi
lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:

“Tu hủ ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cảnh đông xa?”

+ Gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút khao khát
được ấp ủ, che chở.

+ Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã
chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả
lại biết ơn những ngày được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu.

Trong khi hồi tưởng về quá khứ, người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ
thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng.

c. Những kỉ niệm thời bom đạn chiến tranh

Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc, người bà càng
sáng lên những phẩm chất cao đẹp:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

- Hình ảnh “cháy tàn cháy rụi” gợi sự tàn phá, hủy diệt khủng khiếp
của chiến tranh.

- Trước hiện thực khó khăn, ác liệt ấy, bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường
không kêu ca, phàn nàn. Điều đó được thể hiện qua lời dặn dò của
bà với cháu:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”

+ Bà đã gồng mình, lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để các con yên
tâm công tác.

+ Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là
điểm tựa vững chắc cho cả tiền tuyến.

+ Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.

3. Những suy ngẫm về bà và bếp lửa

Từ những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà, nhận được sự yêu
thương, chăm sóc của bà bên bếp lửa quê hương, người cháu suy
ngẫm về cuộc đời bà và bếp lửa.

a. Những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa


Trong bài thơ, trên dưới mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện
diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại
và đầy yêu thương. Và đến đây, tác giả đã dành một khổ thơ để nói
lên những suy ngẫm về bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

- Hình ảnh bếp lửa ở dòng thơ đầu là hình ảnh tả thực về sự vật hữu
hình, cụ thể, gần gũi và gắn liền với những gian khổ của đời bà.

- Từ hình ảnh “bếp lửa” hữu hình, tác giả đã liên tưởng đến “ngọn
lửa” vô hình “lòng bà luôn ủ sẵn” với ý nghĩa trừu tượng và khái
quát:

+ Bếp lửa bà nhóm lên không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài, mà
còn bằng chính ngọn lửa từ trong lòng bà - ngọn lửa của tình yêu
thương, niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.

+ Ngọn lửa bền bỉ và bất diệt ngày ngày bà nhóm cũng chính là
nhóm niềm vui, niềm tin, niềm yêu thương để nâng đỡ cháu trên suốt
những chặng đường dài.

+ Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền
lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

Chính vì cảm nhận, thấu hiểu được trong hình ảnh bếp lửa bình dị
mà thân thuộc kia một sự kì diệu và thiêng liêng, nhà thơ đã thốt
lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”.

- Các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản
lĩnh sống của bà, cũng là của những người phụ nữ Việt Nam.
- Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã
làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào.

Thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã khẳng
định và ngợi ca vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương của bà
hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kì.

b. Những suy ngẫm về bà và cuộc đời bà

Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người
nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng.
Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giừ thói quen dậy sớm”

- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” đi liền với từ láy
tượng hình “lận đận” và hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả một
cách sâu sắc và trọn vẹn về cuộc đời đầy những lận đận, gian nan,
vất vả của bà.

- Thời gian có thể trôi, mọi sự có thể biến đổi, song chỉ duy nhất một
sự bất biến: Suốt cả một cuộc đời lận đận, vất vả, bà vẫn “giữ thói
quen dậy sớm” để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình
yêu thương cho cháu.

Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu
chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.

Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc, mà còn
bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” đối với con cháu:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm


Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

- Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần, đan kết với những chi tiết
tả thực mang đến nhiều ý nghĩa và liên tưởng khác nhau:

+ “Nhóm bếp lửa”, “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh tả thực công việc
của bà.

+ “Nhóm niềm yêu thương”, “nhóm dậy cả những tâm tình” là hình
ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý nhất của con người.
Bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh
niềm yêu thương, sự chia sẻ.

Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về
bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định
về bà: Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo cho
mọi người.

4. Nỗi nhớ bà và bếp lửa

Nỗi nhớ bà và bếp lửa gợi lên từ một thực tại, người cháu năm
xưa giờ đã lớn khôn, trưởng thành, đã được chắp cánh bay xa, được
làm quen với những chân trời rộng lớn:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”


- Dòng thơ đầu được ngắt thành hai câu để gợi sự chảy trôi của thời
gian (từ bốn tuổi, tám tuổi đến trưởng thành); gợi sự biến đổi của
không gian (từ căn bếp của bà đến những khoảng trời rộng lớn).

- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ.

- Điệp từ “có” kết hợp với thủ pháp liệt kê:

+ Cho thấy người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đà
tìm được bao niềm vui mới.

+ Khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, tấm
lòng đùm bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng,
thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt
chặng đường dài.

Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người
Việt: “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm
hồn con người từ thuở ấu thơ, để rồi như chắp cánh để mỗi người
bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Bài thơ “Bếp lửa” đã khẳng định, ngợi ca tình cảm bà cháu bình dị,
gần gũi mà thiêng liêng.

- Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đà trưởng
thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và bếp lửa,
đã bộc lộ những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đối với gia đình, quê
hương, đất nước.

2. Nghệ thuật
- Sự kết hợp hài hòa của các phương thức biểu đạt: biểu cảm, tự sự,
miêu tả, bình luận.

- Hệ thống hình ảnh vừa chân thực lại vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Cảm xúc mãnh liệt, chân thành và đậm chất triết lí sâu xa.

Văn bản 10: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên

- Huế.

- Ông là nhà thơ chiến sĩ và trở thành một trong những gương mặt
tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ.

- Thơ ông tập trung khám phá vẻ đẹp của đất nước, nhân
dân trong cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc.

- Phong cách sáng tác: Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự hòa quyện
giữa cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng; mang đậm
chất dân gian bằng việc vận dụng ca dao, dân ca, tục ngữ.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ sáng tác năm 1971, khi Nguyễn Khoa Điềm đang công tác
ở chiến khu miền Tây tỉnh Thừa Thiên. Đây là thời kì ác liệt của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Đất và khát vọng” năm 1984.
b. Ý nghĩa nhan đề

Đây là một bài thơ có nhan đề dài, độc đáo và chứa đựng hai hình
ảnh nổi bật:

- Hình ảnh khúc hát ru:

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng đến giai điệu ngọt ngào, thiết tha
trong những bài hát ru của mẹ.

+ Gợi tấm lòng của những người bà, người mẹ.

+ Gợi âm hưởng của ca dao, dân ca với chất trữ tình sâu lắng, thiết
tha.

- Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ:

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng đến những em bé được sinh ra và lớn
lên trong hoàn cảnh đặc biệt.

+ Gợi không gian núi rừng - nơi đồng bào, dân tộc cư trú, sinh sống.

+ Gợi lên tình yêu thương và niềm tin, nghị lực của nhưng bà mẹ
vùng cao.

c. cấu trúc của bài thơ

* Lặp cấu trúc: Bài thơ được chia làm ba khúc ru, mỗi khúc lại được
cấu thành bởi hai khổ thơ.

- Khổ đầu: Lời ru của nhà thơ.

- Khổ hai: Lời ru của mẹ.

Cấu trúc đặc biệt này đã tạo cho bố cục bài thơ trở nên cân đối và
chặt chẽ. Đồng thời, tạo cho âm điệu của khúc ru trở nên da diết, vấn
vương tựa như tình cảm trìu mến của mẹ.
* Lặp câu:

- Mở đầu lời ru là những câu thơ:

“Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”.

+ Miêu tả một hình ảnh có thực, xuất hiện trong những năm kháng
chiến của đất nước: Những em bé ngủ trên lưng mẹ từ trong sản
xuất tới chiến đấu.

+ Gợi về một thế hệ sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, khói lửa,
phải chịu nhiều những gian khổ, mất mát, hi sinh.

+ Gợi về hình ảnh vĩ đại của những người mẹ vùng cao, dù trong
bom đạn chiến tranh vẫn bao bọc, chở che cho những đứa con được
khôn lớn, trưởng thành.

- Mở đầu lời ru của mẹ là câu thơ:

“Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”

Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ nối tiếp, đan cài một cách nhịp
nhàng khiến cho lời ru thêm ngọt ngào, đằm thắm, lắng sâu.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Khúc hát ru thứ nhất

a. Lời ru của tác giả

Hình ảnh người mẹ dân tộc Tà-ôi xuất hiện trong công việc:

“Mẹ già gạo mẹ nuôi bộ đội

Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng


Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”

- Đó là một công việc vô cùng vất vả, nặng nhọc.

+ Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” giàu giá trị tạo hình, gợi lên vóc dáng
nghiêng nghiêng trong công việc của mẹ.

+ Hình ảnh “giấc ngủ em nghiêng” gợi về một giấc ngủ chao nghiêng,
đong đưa theo những nhịp chày của mẹ.

+ Hình ảnh liệt kê “mồ hôi’’, “vai gầy” để đặc tả, tô đậm sự vất vá
trong lao động của mẹ.

- Giữa những công việc vất vả như thế, tình yêu thương mẹ dành
cho con càng thêm sâu sắc:

+ Hình ảnh “vai mẹ gầy” gợi vóc dáng nhọc nhằn, lam lũ của mẹ.
Nhưng cũng chính đôi vai gầy ấy lại hóa thành chiếc gối êm đưa con
vào giấc ngủ.

+ Câu thơ “lưng đưa nôi và tim hát thành lời” là hình ảnh mới lạ, cảm
động về bà mẹ Tà-ôi đưa nôi cho con bằng tấm lưng và hát thì bằng
cả trái tim yêu thương sâu lắng.

b. Lời ru của mẹ

- Trong lời ru của mẹ, mẹ đã gửi gắm, mong muốn bao điều tốt đẹp
cho con:

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần


Mai sau con lớn vung chày lún sân’’

+ Mẹ thương con, yêu con sâu sắc. Và tình thương của mẹ cứ lớn
dần và được chuyển hóa, mở rộng sang tình thương bộ đội.

+ Hình ảnh “hạt gạo trắng ngần” mẹ mơ gợi đến một cuộc sống no
đủ, êm đềm sẽ đến với con.

+ Hình ảnh “vung chày lún sân”, cho thấy mẹ không chỉ mong con có
một cuộc sống no đủ mà còn ước con khỏe mạnh, lao động giỏi.

Khúc hát ru thứ nhất đã cho thấy tấm lòng bao la, vĩ đại của người
mẹ. Mẹ vừa là mẹ của gia đình vừa là mẹ của kháng chiến, của đất
nước.

2. Khúc hát ru thứ hai

a. Lời ru của tác giả

Hình ảnh người mẹ Tà-ôi được tái hiện trong khung cảnh, không gian
rộng lớn:

“Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi

Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ

Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”

- Hình ảnh “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” là một hình ảnh tượng
phản:

+ Gợi thiên nhiên, khung cảnh mênh mông, heo hút của núi rừng Ka-
lưi.
+ Gợi vóc dáng nhỏ bé, hao gầy của mẹ trong lao động, sản xuất.

Câu thơ đã nhấn mạnh sự nhọc nhằn, vất vả của mẹ.

- Tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh ẩn dụ “Mặt trời của mẹ” để diễn
tả tình yêu thương vô bờ bến của mẹ:

+ “Mặt trời của bắp” đó là mặt trời thực của thiên nhiên, vũ trụ, tỏa
hơi ấm đến khắp muôn nơi.

+ “Mặt trời của mẹ” là một sự sáng tạo độc đáo, ẩn dụ cho con. Mẹ
muốn nói con chính là nguồn sáng, là niềm hạnh phúc, sự ấm áp của
đời mẹ.

b. Lời ru của mẹ

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói

Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều

Mai sau con lớn, phát mười Ka-lưi.”

- Từ tình thương con, mẹ mở rộng sang tình thương bộ đội và sang


cả buôn làng.

- “Hạt bắp lên đều” ẩn dụ cho cuộc sống no đủ mà mẹ mong ước.

- Câu thơ “Mai sau con lớn, phát mười Ka-lưi” gợi về một ngày mai
rất gần, con sẽ trưởng thành, khỏe mạnh, phi thường, đem sự no ấm
cho buôn làng.

Ước mơ và tình yêu của mẹ cứ mở rộng dần đã cho thấy tấm


lòng, sự hi sinh vĩ đại của mẹ.

3. Khúc hát ru thứ ba

a. Lời ru của tác giả


Nếu như ở hai khúc ru trên, công việc của mẹ chủ yếu ở hậu phương
để phục vụ chiến đấu thì ở khúc ru thứ ba mẹ đang ở tư thế trực tiếp
chiến đấu:

“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng

Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối

Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông

Mẹ địu em đi để giành trận cuối

Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường

Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”

- Hình ảnh liệt kê “chuyển lán”, “đạp rừng” gợi hình ảnh người mẹ
đang bảo vệ căn cứ, di chuyển lực lượng để kháng chiến lâu dài với
tinh thần quyết tâm và lòng tin vào thắng lợi.

- Hình ảnh liệt kê “anh trai cầm súng”, “chị gái cầm chông”, “mẹ địu
em đi”

+ Gợi đến một gia đình, dân tộc đang anh dũng đứng lên chống kẻ
thù chung.

+ Cho thấy sự lớn mạnh, trưởng thành vượt bậc của quân đội ta
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chúng ta tập hợp được một lực
lượng đông đảo, thuộc mọi tầng lớp từ già trẻ, gái trai cùng tham gia
chiến đấu.

- Cấu trúc “từ... đến...” gợi sự trưởng thành của em cu Tai từ trên
lưng mẹ đã khôn lớn, đủ sức khỏe để chiến đấu.

- Nhịp thơ 4/4 nhanh, mạnh gợi không khí hào hùng, sôi động của
cuộc kháng chiến.
b. Lời ru của mẹ

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước

Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ

Mai sau con lớn làm người Tự do...”

- Từ tình thương con mẹ mở ra tình thương đất nước. Từ tình cảm


gia đình riêng tư mẹ hòa hợp với tình cảm chung rộng lớn của dân
tộc, đất nước.

- Xuất phát từ tình cảm lớn lao, tấm lòng cao cả ấy, mẹ đã mơ những
ước mơ về con, lớn lao và vĩ đại:

+ Mẹ mơ “được thấy Bác Hồ” là mẹ mong muốn cho con sớm trưởng
thành và tìm thấy được chân lí, con đường đúng đắn.

+ Ước mơ tha thiết nhất, mãnh liệt nhất của mẹ là con được “làm
người Tự do”, sống trong một dân tộc làm chủ được vận mệnh của
mình.

- Tác giả không để cho người mẹ trực tiếp nói về ước mơ của mình
mà mong “con mơ cho mẹ”, Như vậy, người mẹ đã gửi trọn niềm
mong mỏi vào giấc mơ của con nên lời ru càng thêm tha thiết, tin
tưởng.

Qua ba lời ru, lần lượt hiện lên những công việc, tấm lòng của
người mẹ. Người mẹ ấy bền bỉ trong công việc lao động và quyết
tâm trong công cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Khúc hát ru những em bẻ lớn trên lưng mẹ” là những lời tâm
tình tha thiết của người mẹ Tà-ôi đối với đứa con yêu. Thông qua lời
ru, người mẹ đã bộc lộ tình yêu thương đằm thắm đối với người con,
tình cảm gắn bó với quê hương, với cuộc sống lao động và chiến đấu
dù còn nhiều những gian nan, vất vả. Đồng thời, mẹ còn gửi gắm
những ước mơ về sự trưởng thành, khỏe mạnh, khôn lớn của con
trở thành công dân của một đất nước tự do.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, ngọt ngào.

- Cách ngắt nhịp linh hoạt.

Văn bản 11: Ánh trăng

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Duy, tên khai sinh Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê
ở Thanh Hóa.

- Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước:

+ Trước đổi mới: Nguyễn Duy tập trung viết về đề tài chiến tranh và
quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp
đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của
người nông dân.

+ Sau đổi mới: Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những
bất cập của xã hội đương thời.

- Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối
lập: mộc mạc, dần dà mà tinh tế, sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà
thiết tha sâu lắng, nhân tình; tự nhiên ngẫu hứng mà trau truốt công
phu.
2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Ánh trăng” ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, ba
năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên và được giải A của Hội nhà
văn Việt Nam năm 1984.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề “Ánh trăng” trước hết là một phần của thiên nhiên với tất
cả những gì gần gũi, thân thuộc.

- “Ánh trăng" là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung gắn
với lịch sử hào hùng của dân tộc.

- Gợi cho ta liên tưởng đến những con người giản dị mà thủy chung
nghĩa tình: nhân dân, đồng đội,...

c. Thể loại - phương thức biểu đạt

- Thể thơ năm chữ với những chữ cái đầu khổ được viết hoa. Toàn
bài chỉ có một dấu phẩy và một dấu chấm kết bài. Nó khiến cho cảm
xúc liền mạch, sâu lắng.

- Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hai phương thức tự sự và trữ
tình.

d. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 2 khổ đầu: vầng trăng trong quá khứ.

- Phần hai: 2 khô tiếp: vầng trăng trong hiện tại.

- Phần ba: 2 khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình.
II. Tìm hiểu chi tiết

1. Vầng trăng trong quá khứ

Trong hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm
gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:

“Hồi nhỏ sống với rừng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa”

- Những câu thơ ngắn với giọng tâm tình, thủ thỉ (hồi nhỏ, hồi
chiến tranh) cộng với biện pháp tu từ liệt kê (đồng, sông, bể) đã gợi
lại một tui thơ sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên.

- Điệp từ “với” được lặp lại ba lần để nhấn mạnh sự gắn bó, thắm
thiết giữa con người và thiên nhiên.

- Hình ảnh “hồi chiến tranh ở rừng”:

+ Gợi liên tưởng đến sự trưởng thành của nhân vật trữ tình, từ cậu
bé thiếu niên nay đã vác súng ra chiến trường.

+ Gợi về những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh.
- Nghệ thuật nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”:

+ Gợi liên tưởng đến những đêm hành quân hay phiên gác giữa
rừng, có vầng trăng chiếu rọi.

+ Trăng như trở thành người bạn thân thiết, tri âm, tri kỉ, luôn đồng
cảm cộng khổ để chia sẻ những vui buồn đời lính.

- Hình ảnh so sánh, ẩn dụ “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như
cây cỏ:

+ Gợi vẻ đẹp bình dị, vô tư, trong sáng của vầng trăng.

+ Đó cũng là cốt cách, vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc trong tâm hồn của
người lính.

Trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức
chan hòa tình nghĩa. Bởi sự gắn bó tình nghĩa ấy, nhân vật trữ tình
đã tự tâm niệm “sẽ không bao giờ quên”.

- Từ “ngỡ” như báo hiệu những chuyển biến trong câu chuyện cũng
như trong tình cảm của con người.

Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy những khó khăn, khắc nghiệt,
trăng vẫn đồng hành trên mỗi bước đường và trở thành người bạn tri
kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, vầng trăng đã trở thành biểu
tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung.

2. Vầng trăng trong hiện tại

- Song, trước sự xoay vần của thời gian, sự biến đổi của hoàn cảnh
đã khiến cho mọi thứ trở nên thay đổi:

“Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện, cửa gương


Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường”

+ Tác giả đã tạo ra sự đối lập trong hoàn cảnh sống của con người
giữa hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng
sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại
của thành phố.

+ “quen ảnh điện cửa gương” là cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc
sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời
thiên nhiên.

+ Hình ảnh nhân hóa, so sánh “vầng trảng đi qua ngõ/ như người
dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người:
vầng trăng thì vẫn tròn đầy, thủy chung tình, nghĩa nhưng con người
thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra.

Câu thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi
thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi
những gian khổ, nhọc nhằn của một thời đã qua. Song, cái sự quên
ấy cũng là lẽ thường tình bởi những lo toan thường nhật từ cuộc
sống.

- Tác giả đã đặt con người vào một tình huống bất ngờ:

“Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn - đinh tối om

vVội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn”


+ Hai từ “thình lình”, “đột ngột” và cách đảo trật tự cú pháp đã
góp phần diễn tả thật chính xác, ấn tượng về một sự việc đột ngột,
bất thường “đèn điện tắt... tối om”.

+ Ba động từ mạnh “vội”, “bật”, “tung” đã diễn tả hành động khẩn


trương, vội vàng của nhân vật trữ tình.

+ Hình ảnh “vầng trăng tròn” đột ngột xuất hiện chiếu rọi vào căn
phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập: giữa ánh sáng và bóng tối.
Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch
cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình:
vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, bể, rừng” kia đâu có mất, tất cả vẫn
đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có nhận ra hay
không.

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến
có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư
tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình

Từ tình huống bất ngờ, đã mở ra những dòng cảm xúc mãnh liệt của
nhân vật trữ tình:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng”

- Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế tập trung chú ý, mặt đối
mặt.

- Từ “mặt” ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho
ý thơ:

+ Khuôn mặt đó là khuôn mặt của tri kỉ mà nhân vật trữ tình đã lãng
quên.
+ Mặt đối mặt đó còn là quá khứ đối diện với hiện tại, tình nghĩa thủy
chung đối diện với vô tình lãng quên.

- Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã
khiến cho cảm xúc dâng trào. Cụm từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc
động đến nghẹn ngào, thổn thức trong cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Giọt nước mắt như khiến con người ta trở nên thanh thản hơn, trong
sáng hơn để rửa trôi đi những ý nghĩ, lo toan thường nhật đe kỉ niệm
ùa về:

“Như là đồng là bể

Như là sông là rừng”

- Cấu trúc song hành (như là... là...), cộng với biện pháp tu từ so
sánh (như), điệp ngữ (như là, là) và liệt kê (đồng, bể, sông,
rừng) diễn tả những dòng kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với
thiên nhiên bỗng từ từ ùa về.

Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà
thơ:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”:

+ Diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la.

+ Bên cạnh đó, còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình,
vẫn tròn đầy, trọn vẹn mặc cho con người thay đổi, vô tình.
- Nghệ thuật nhân hóa “ảnh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái
nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy
khiến cho nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.

- Từ “giật mình” chính là một sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong ý
thơ:

+ Giật mình là cảm giác tâm lí của một người biết suy nghĩ chợt nhận
ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của mình.

+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần
phải thay đổi cách sống.

+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những
gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay.

Bài thơ “Ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ cuối đã dồn nén biết bao
tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm
đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lí “uống nước nhớ
nguồn”, ân nghĩa thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Với giọng điệu tâm tình, “Ánh trăng” như là một lời tâm sự của tác giả
về những năm tháng gian khổ đã đi qua với những tình cảm bình dị
và hiền hậu. Đồng thời, bài thơ còn gửi gắm đến chúng ta về một thái
độ sống tích cực: “uống nước nhớ nguồn”.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp với yếu tố trữ tình, tự sự
khiến bài thơ như một lời tự bạch chân thành, sâu sắc.

- Hình ảnh giàu tính biểu cảm và biểu tượng.


Văn bản 12: Con cò

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chế Lan Viên (1920 - 1989), tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan. Ông
sinh ra ở Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định.

- Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất của nền thơ
ca Việt Nam hiện đại.

+ Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên là một trong những
gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Với một quan niệm
khác thường: thi sĩ không phải là người, nó là người say, người mơ,
nó là tiên, là ma là quỉ, ông đã xây dựng một thế giới kinh dị, thần bí,
bế tắc về đất nước Chiêm Thành với nỗi niềm hoài cổ.

+ Trong giai đoạn chống Mĩ, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh
hướng sử thi hào hùng, chính luận và đậm tính thời sự.

+ Sau đổi mới, thơ Chế Lan Viên trở về đời sống thế sự và những
trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của
đời sống.

- Phong cách sáng tác: Thơ Chế Lan Viên giàu tính triết lí - suy
tưởng, mang vẻ đẹp trí tuệ; ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, giàu
ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962.

- Bài thơ được in trong tập “Hoa ngày thường - Chim báo bão” năm
1967.
b. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò

- Con cò là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa của
người Việt và giàu ý nghĩa biểu tượng:

+ Biểu tượng cho những số phận vất vả, cực nhọc của người
nông dân trên đồng ruộng: “Con cò bay lả bay la/ Bay từ cổng phú
bay ra cánh đồng”,...

+ Biểu tượng cho những người phụ nữ, người mẹ lam lũ, nhọc
nhằn, giàu đức hi sinh: “Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa
chồng tiếng khóc nỉ non”,…

- Trong bài thơ, hình ảnh con cò không phải là sự đơn giản từ những
ý tứ có sẵn trong ca dao. Mà hình ảnh con cò đã được tác giả phát
triển, mở rộng ý nghĩa biểu tượng: khi là mẹ; khi là con; khi là trời, là
đất; khi là cuộc đời; khi là hiện tại và tương lai...

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Đoạn 1: Hình ảnh con cò đến với tuổi thơ của con qua lời
ru của mẹ.

- Phần hai: Đoạn 2: Hình ảnh con cò song hành bên con trên những
chặng đường đời.

- Phần ba: Đoạn 3: Hình ảnh cánh cò và những suy ngẫm sâu xa về
tình mẫu tử.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh con cò đến với tuổi thơ của con qua lời ru của mẹ

Bằng lời ru ngọt ngào, thấm đẫm chất ca dao, hình ảnh của những
con cò dần xuất hiện:

“Con còn bế trên tay


Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

- Cụm từ “con còn bế trên tay”, “con chưa biết” gợi đến một sinh linh
bé bỏng, ngây thơ và đang nằm trong vòng tay yêu thương, bao bọc
của mẹ.

- Thế nhưng, trong những nhận thức đầu đời, qua lời ru của mẹ con
đã có thể cảm nhận được về những cánh cò đang bay.

Theo lời ru của mẹ đã đưa con đến một thế giới rộng lớn bên ngoài:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cống phủ,

Con cò Đông Đăng...”

- Điệp từ “con cò” được lặp lại 4 lần ở đầu dòng thơ gợi lên giai
điệu êm đềm, tha thiết trong lời ru của mẹ.

- Hình ảnh “bay la”, “bay lả” gợi liên tưởng đến một không gian
cao, rộng, để cò sải cánh bay lên.

- Vận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo về hình ảnh con cò
để gợi ra ý nghĩa biểu tượng:

+ Tác giả đã nhắc đến những câu ca dao hay nhất về hình ảnh con
cò:

“Con cò bay lả, bay la

Bay từ công phủ, bay ra cánh đồng


Con cò bay lả, bay la

Bay từ cửa phủ, bay về Đông Đăng”

+ Gợi hình ảnh không gian thân thuộc của làng quê Việt Nam bình
yên, thơ mộng.

+ Gợi và nuôi dưỡng tâm hồn con niềm tự hào về tình yêu quê
hương, đất nước.

Lời ru của mẹ bỗng như chùng xuống trước hình ảnh một cánh cò
mồ côi, phải vất vả, lẻ loi giữa dòng đời:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

“Con cò ăn đêm,

Con cò xa tổ,

Cò gặp cành mềm,

Cò sợ xáo măng...” ”

- Hình ảnh tương phản, đối lập:

+ Một bên là một con cò gặp phải cảnh ngộ éo le, mồ côi, chỉ có một
mình, phải lặn lội, nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh.

+ Một bên là con, có mẹ bên cạnh, được sống trong tình yêu thương,
nên vô tư hết chơi rồi lại ngủ.

- Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo hình ảnh của ca dao, dân
ca để nhấn mạnh sự tương phản, đối lập giữa hai hoàn cảnh.

Qua hình ảnh tương phản, đối lập nhà thơ đã tô đậm tuổi thơ hạnh
phúc, sung sướng của con khi được năm trong vòng yêu thương,
bao bọc, chở che của mẹ. Đồng thời, ca ngợi tình mẫu tử và đức hi
sinh to lớn của mẹ.

Từ hình ảnh cánh cò mồ côi, lời ru ngọt ngào của mẹ như trở nên
thiết tha hon để tô dậm tuổi thơ bình yên, hạnh phúc của con:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

- Dòng thơ đầu có cấu trúc đặc biệt, được tách ra thành 3 câu
với nhịp 2/272/2 và điệp từ “ngủ yên” vừa tái hiện âm điệu lời ru,
vừa thể hiện được tình yêu, sự vỗ về của người mẹ để con chìm vào
giấc ngủ êm đềm.

- Sử dụng hệ thống hình ảnh ẩn dụ:

+ Hình ảnh “lời ru của mẹ thẩm hơi xuân” ẩn dụ cho những ngọt
ngào, yên ấm của tuổi thơ con.

+ Hình ảnh “con cò, con vạc” ẩn dụ cho những cảnh ngộ éo le,
những số phận vất vả, gian nan của cuộc đời.

+ Hình ảnh “những cành mềm mẹ hát” ẩn dụ cho những gập ghềnh,
bất trắc, những dông gió sẽ gặp trong cuộc đời.

+ Hình ảnh “sữa mẹ nhiều” ẩn dụ cho tình yêu thương dào dạt, vô bờ
bến của mẹ.
+ Tác giá đã sử dụng nghệ thuật tương phản tài tình: Một bên là
cuộc sống éo le, vất vả, dông gió, gập ghềnh với một bên là tuổi thơ
ngọt ngào, yên ấm của con, để từ đó tô đậm đức hi sinh, tình mẫu tử
bao la khi mẹ nhận hết những lo toan, nhọc nhằn để dành cho con
sự bình yên và niềm hạnh phúc.

Qua lời ru ngọt ngào, tha thiết của mẹ, hình ảnh “con cò” đã đến
với tâm hồn tuổi thơ con một cách vô thức. Ở tuổi nằm nôi, con chưa
thể hiểu và cũng chưa cần hiểu ý nghĩa của những lời ru, nhưng tình
yêu, sự vỗ về, âu yếm hẳn sẽ cảm nhận được đầy đủ.

2. Hình ảnh con cò song hành bên con trên những chặng đường
đời

Cánh cò gắn bó với con từ tuổi thơ nằm nôi êm đềm, hạnh phúc:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ,

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi”

- Dòng thơ đầu có cấu trúc đặc biệt, được tách thành ba câu, điệp
từ “Ngủ yên” gợi lời ru êm đềm, bàn tay đưa nôi êm ái, vỗ về của
mẹ trong suốt tuổi thơ con.

- Trong suốt tuổi thơ của con, luôn có cánh cò xuất hiện: cò trắng
đến làm quen; cò đứng ở quanh nôi; cò vào trong tổ; con ngủ thì cò
cũng ngủ; cánh của cò hai đứa đắp chung đôi,...
+ Con cò đã như một người bạn thân thiết trong suốt những năm
tháng tuổi thơ của con.

+ Hình ảnh cánh cò được nhân hóa trở thành người bạn tuổi thơ gần
gũi bên con.

+ Trình tự miêu tả cho thấy cánh cò ngày càng gần gũi, thân thiết
hơn với tuổi thơ của con.

Cánh cò từ trong lời ru của mẹ đã dần đi vào tiềm thức của con
giúp con có được một người bạn tuổi thơ gần gũi, thủy chung và theo
dõi sự trưởng thành của con.

Cánh cò vẫn song hành bên con khi khôn lớn, trưởng thành:

“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Lớn lên, lởn lên, lớn lên...

Con làm gì?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn...”

- Sự thay đổi vị trí giữa hai hình ảnh con và cánh cò: Nếu ban đầu
con theo cò đi học thì sau đó cánh cò bay theo gót đôi chân, gợi cho
chúng ta thấy từng bước, từng bước trong sự trưởng thành của
người con.
- Điệp từ “lớn lên” được lặp lại ba lần kèm theo dấu ba chấm cuối
dòng, cho thấy con khôn lớn, trưởng thành, vững vàng hơn trước
những lựa chọn của cuộc đời.

+ Câu hỏi tu từ “Con làm gì?” khiến câu thơ như là lời tâm sự, thủ
thỉ, chia sẻ của hai mẹ con về những ước mơ, hoài bão trong cuộc
đời.

+ Làm “thi sĩ” là ẩn dụ cho khát vọng đẹp đẽ mà con đang theo đuổi
và hướng đến. Đó là công việc đòi hỏi con phải yêu chân thành, sống
hết mình để chắp cánh cho những ước mơ bay cao, bay xa.

Cánh cò luôn hiện diện trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời con,
hay đó còn là sự hóa thân của tấm lòng người mẹ để chở che, vỗ về
con trên mỗi chặng đường đời.

3. Hình ảnh cánh cò và suy ngẫm sâu xa về tình mẫu tử

Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, tác giả đã đi đến khái quát một
qui luật tình cảm có ý nghĩa bền vững, thiêng liêng:

“Dù ở gần con,

Dù ở xa con,

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn vẫn là con của mẹ,

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

- Điệp ngữ và điệp cấu trúc câu đã làm cho nhịp thơ uyển chuyển,
linh hoạt, rất gần với những điệu hát ru.
- Nghệ thuật tương phản: “dù ở gần” >< “dù ở xa”; “lên rừng” ><
“xuống bể” gợi đến những khoảng không gian địa lí có thể trở thành
trở ngại ngăn cách tình cảm nhưng chẳng thể nào cản trở được tình
yêu thương bao la mẹ dành cho con.

- Dưới hình thức tự do, kết hợp thành ngữ, tục ngữ dân
gian: “Lên rừng xuống bể” đã gợi lên một bầu trời yêu thương bao la
mà đặc điểm của nó là không giới hạn.

- Chế Lan Viên đã khái quát một qui luật tình mẹ: con dù lớn vẫn là
đứa con bé bỏng của mẹ, con có thể trưởng thành về cả tuổi đời, cả
nhân cách, trí tuệ, nhưng trong trái tim mẹ con vẫn luôn bẻ bỏng, vẫn
cần yêu thương, chở che.

Tình yêu thương bao la của mẹ luôn theo con, ôm trọn cuộc đời
con. Mẹ mãi là điểm tựa tinh thần, là chốn bình yên con tìm về.

Bài thơ tiếp tục với âm điệu, lời ru ngọt ngào như một giai điệu tự
hào nâng bước con đi:

“À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh theo nôi”

- Hai tiếng “À ơi!” cùng với cấu trúc câu đặc biệt ngân lên nghe
thật mượt mà, thấm thía, gửi gắm trong đó biết bao tình cảm, nỗi
lòng của mẹ.

- Lời ru của mẹ không chỉ mang đến cho con giấc ngũ êm đềm mà
còn mang đên cho con cả một cuộc đời và thế giới xung quanh.
Lời ru của mẹ không chỉ có tình yêu thương mà còn mở ra cả cuộc
đời, đất nước, quê hương. Bởi mẹ muốn vun đắp cho tâm hồn con từ
rất sớm tình công dân đẹp đẽ và bổn phận, trách nhiệm to lớn của
mình.

Khép lại bài thơ là lời vỗ về của mẹ để con chìm trong giấc ngủ êm
đềm tuổi thơ:

“Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi.”

- Điệp từ “cho” đà gợi được tấm lòng bao la, luôn sẵn sàng dâng
hiến cho con những điều tuyệt vời nhất. Mẹ không chỉ cho con những
lời ru ngọt ngào với cánh cò, cánh vạc, mà còn cho con cả một bầu
trời tươi sắc.

- Câu thơ “cho cả sắc trời” gợi mở ra một thế giới hài hòa, tươi
sáng, bình yên cho cuộc đời con.

- Hình ảnh “Đến hát quanh nôi”:

+ Gợi về tuổi thơ “nằm nôi” đẹp nhất của mỗi con người.

+ Gợi đến người mẹ đang vỗ về, chăm chút cho con qua những lời ru
ngọt ngào.

Lời ru của mẹ đã nâng bước cho con đến những chân trời bình
yên và hạnh phúc.

III. Tổng kết


1. Nội dung

Bài thơ “Con cò” là khúc ca thiết tha, sâu lắng để ngợi ca tình mẹ và
ý nghĩa của lời ru.

2. Nghệ thuật

- Sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình sâu lắng và chất trí tuệ sắc
sảo.

-Vận dụng sáng tạo ca dao.

- Ngôn ngữ, hình ảnh sáng tạo độc đáo, giàu ý nghĩa ẩn dụ tượng
trưng.

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tư từ: ẩn dụ, tương phản, nhân
hóa,...

Văn bản 13: Mùa xuân nho nhỏ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Thanh Hải (1930 - 1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Ông tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống
Pháp. Sự nghiệp thơ văn Thanh Hải gắn liền với hai cuộc kháng
chiến trường kì của dân tộc.

- Phong cách sáng tác: ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, cảm
xúc chân thành, đằm thắm,...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác


Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết tháng 11 năm 1980. Đây là
thời điểm Thanh Hải đang bệnh nặng và chỉ mấy tuần sau ông qua
đời. Bài thơ là những dòng chữ cuối cùng mà nhà thơ để lại. Nó như
một sự tổng kết về cuộc đời của ông và gửi gắm về lẽ sống cao cả,
đẹp đẽ.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Tính từ “nho nhỏ” ở nhan đề bài thơ đã cụ thể hóa, hữu hình hóa
mùa xuân và mang đến những lớp nghĩa khác nhau:

+ Lớp nghĩa thực: Gợi về mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên vũ
trụ.

+ Là hình ảnh ẩn dụ độc đáo thể hiện khát vọng, lí tưởng muốn cống
hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, quê
hương, đất nước của nhà thơ.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 1 khổ thơ đầu: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân
thiên nhiên.

- Phần hai: 2 khổ tiếp theo: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất
nước.

- Phần ba: 3 khổ còn lại: Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của tác
giả.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên

Bài thơ mở ra một khung cảnh thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức
sống của mùa xuân:

“Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiên

Hót chi mà vang trời”

- Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ:

+ Đảo động từ “mọc” lên đầu câu thơ để tô đậm sức sống mạnh
mẽ đến bất ngờ của một bông hoa trên dòng sông xanh.

+ Gợi liên tưởng về một bông hoa đang từ từ vươn lên trên mặt
nước tràn đây sức xuân và sắc xuân.

- Bức tranh xuân xứ Huế được chấm phá bằng hình ảnh chọn lọc và
giàu sức gợi: “Dòng sông xanh”, “hoa tím biếc”, “chim chiền chiện”.

+ Đó là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân xứ Hue.

+ Gợi lên không gian mênh mông sóng nước và một bầu trời cao
rộng, trong veo.

- Để cho bức tranh thiên nhiên mùa xuân hài hòa, tươi sáng, ông
đã sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”.

- Các từ cảm thán “ơi”, “chi” gợi lên một chất giọng ngọt ngào,
thân thương, gần gũi.

Khi đối diện với vẻ đẹp ấy, cho dù là ai cũng phải ngỡ ngàng, xao
xuyến đến say sưa:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

- Hình ảnh “giọt long lanh rơi” thật giàu sức gợi:
+ Đó có thể là giọt mưa mùa xuân, giọt sương buổi sớm long lanh
trong ánh sáng.

+ Trong mối quan hệ với câu thơ trước, tiếng hót của con chim chiền
chiện vang vọng nhưng không tan biến trong không gian mà đọng lại
thành từng giọt trong vắt, “long lanh”. Như một thứ quà tặng của
thiên nhiên xứ Huế, thi nhân đã vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng
lấy. Tiếng chim từ chỗ được cảm nhận bằng thính giác chuyển thành
thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình.

- Đại từ “tôi” được điệp hai lần và đi liền với hành động
“hứng” cho thấy thái độ trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của
thiên nhiên. Đồng thời, gợi sự tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với
mùa xuân.

Chỉ với vài nét vẽ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác
họa được một bức tranh có cái hồn mùa xuân xứ Huế. Nó đủ đầy cả
màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Từ đó, bộc lộ được niềm say xưa,
ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

2. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân đất nước

Từ vẻ đẹp của mùa xuân quê hương, Thanh Hải đã mở rộng để


khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của mùa xuân đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả


Tất cả như xôn xao...”

- Nhà thơ cảm nhận mùa xuân đất nước qua hình ảnh “người cầm
súng” và “người ra đồng”:

+ Biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta
là cùng chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương
vững chắc.

+ Hình ảnh “người cầm súng” đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy trên
lưng” gợi liên tưởng đến vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ đang
nảy những chồi non, lộc biếc cùng các anh ra trận để bảo vệ tổ quốc.

+ Hình ảnh “người ra đồng” đi liền với hình ảnh “lộc trải dài nương
mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi của
những bàn tay khéo léo gieo trồng.

- Điệp từ “mùa xuân”, “lộc”:

+ Gợi quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn những chồi non lộc
non.

+ Gợi thành quả trong công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước.

- Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm
cho nhịp thơ trở nên nhanh, gấp, gợi một nhịp sống sôi động, hối hả,
khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ đã bày tỏ niềm tự hào và
niềm tin vào tương lai tươi sáng:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao


Cứ đi lên phía trước”

- Hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao” đã giúp tác giả đúc kết
chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước với biết bao thăng
trầm, thử thách. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, đất nước ta đã trải
qua biết bao đau thương và mất mát, song đã khẳng định được sức
mạnh, ý chí và bản lĩnh của dân tộc mình.

- Hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” gợi lên những liên tưởng
và ý nghĩa thật sâu sắc:

+ Gợi liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh, tồn tại vĩnh hằng trong
không gian và thời gian.

+ Gợi ý nghĩa về dân tộc Việt Nam ta trong suốt chiều dài lịch sử, từ
trong đêm tối nô lệ đã phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực
dân để tỏa sáng.

+ Gợi niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở với
khí thế đi lên mạnh mẽ không gì cản nổi.

- Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn
ngàn năm... đất nước như vì sao...” diễn tả sự vận động đi lên của
lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.

- Cụm từ “cứ đi lên” thể hiện ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt
đá của nhà thơ và cả dân tộc về tương lai tươi sáng của đất nước.

Giọng thơ vừa tha thiết sôi nổi, vừa trang trọng đã gói trọn niềm
yêu mến tự hào, tin tưởng của nhà thơ vào đất nước.

3. Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của nhà thơ

Từ những cảm xúc vui mừng, say xưa, ngây ngất trước vẻ đẹp của
thiên nhiên đất trời xứ Huế vào xuân, vào tương lai tươi sáng của đất
nước, Thanh Hải đã có những lời ước nguyện thật thiết tha, cảm
động:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

- Đại từ “ta” bộc lộ một cách trực tiếp tâm niệm của thi nhân.

- Điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm... Ta nhập...” được đặt ở vị trí đầu
của ba câu thơ đã khiến cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng, khiến
cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân,
hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.

- Hệ thống hình ảnh “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao
xuyến” là những hình ảnh giản dị nhưng cũng thật hàm xúc:

+ Con chim cất cao tiếng hót để làm vui cho đời; cành hoa điểm sắc
để thắm cho mùa xuân; một nốt trầm trong muôn nốt nhạc của bản
hòa ca muôn điệu. Đó là những hình ảnh hết sức giản dị, nhỏ bé
song đã cho thấy ước nguyện khiêm nhường mà cao quý của thi
nhân.

+ Những hình ảnh này có sự đổi ứng chặt chẽ với những hình ảnh
mở đầu của bài thơ để khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: con chim
sinh ra là để dâng tiếng hót cho đời; bông hoa sinh ra là để tỏa
hương sắc; bản hòa ca tưng bừng, rộn rã song không thể thiếu nốt
trầm.

+ Gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
con người và đất nước.
Cống hiến cho đời, cho đất nước là một lẽ sống tốt đẹp mà Thanh
Hải luôn theo đuổi.

Từ cái khát vọng sống cao quý, tác giả đã nâng lên thành một lí
tưởng sống cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dáng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

- Tác giả xin được làm một “mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm đẹp
cho mùa xuân lớn của dân tộc. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ đặc
sắc của nhà thơ Thanh Hải.

- Từ láy “nho nhỏ”:

+ Thể hiện ước muốn, khát vọng khiêm tốn và giản dị của nhà thơ.

+ Gợi về những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời con người để
góp cho mùa xuân đất nước.

- Tính từ “lặng lẽ” đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và
nhân cách. Mùa xuân của Thanh Hải không hề ồn ào, khoa trương,
náo nhiệt mà lặng lẽ hiến dâng. Dâng cho đời là dâng một cách tự
nguyện, không đòi hỏi sự đền đáp. Đó chính là lối sống, cống hiến
đẹp đẽ, vô tư, trong sáng nhất mà con người cần hướng tới.

- Điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là... Dù là...” và hình ảnh tương
phản “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” khiến cho lời thơ như một lời
hứa, lời tự nhủ với mình.

Đồng thời, khẳng định sự tồn tại bền vững của những khát vọng
sống, lí tưởng sống là cống hiến, hi sinh.
Lời tổng kết của nhà thơ về cuộc đời mình, một cuộc đời thật đẹp
xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo.

Bài thơ khép lại trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca
trữ tình xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huê”

- Câu “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương, da diết để gợi con
đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước đã đi qua.

- Câu “Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt để gợi mùa xuân
hiện tại với cuộc sống thanh bình, no ấm.

- “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng để khép lại bài thơ, đó là
giai điệu của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc.

Tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt, trở thành khúc
hát tâm tình trong những dòng thơ cuối. Khúc hát đó thật cảm động,
cao quý và đáng trân trọng biết bao.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, tác giả đã tái hiện thành công vẻ
đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước. Qua đó bày tỏ lẽ
sống cao đẹp, là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước.
2. Nghệ thuật

- Thể thơ năm chữ, cách gieo vần liền giữa các khổ thơ đã tạo ra sự
liền mạch của cảm xúc.

- Ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng, giàu sức gợi.

- Cảm xúc rất đỗi chân thành, tha thiết, cho nên bài thơ trở thành
tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.

Văn bản 14: Viếng Lăng Bác

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Viễn Phương (1928 - 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê
ở tỉnh An Giang.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của lực lượng
văn nghệ giải phóng miền Nam.

- Thơ Viễn Phương tập trung khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của nhân
dân, đất nước trong công cuộc chiến đấu trường kì, gian khổ của dân
tộc.

- Phong cách sáng tác: cảm xúc sâu lắng, thiết tha; giọng thơ nhỏ
nhẹ, trong sáng; ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, một năm sau
ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là khoảng
thời gian công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mới khánh thành.
Viễn Phương là một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền Nam sớm
được ra viếng lăng Bác. Trước lăng Bác, trong phút xúc động thiêng
liêng, sự thành kính, lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tác
bài thơ này.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” năm 1978.

b. Giọng điệu bài thư: Thành kính, trang nghiêm, trầm lắng, phù
hợp với tâm trạng của tác giả và không khí ở trong lăng.

c. Bố cục: Ba phần.

- Phần một: Khổ 1: Cảm xúc ban đầu khi đứng trước lăng Bác.

- Phần hai: Khổ 2: Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng
viếng Bác.

- Phần ba: Khố 3: Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài
Bác.

- Phần bốn: Khổ 4: Cảm xúc của nhà thơ khi từ biệt lăng Bác.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác

Viễn Phương là một người con miền Nam, tham gia hoạt động và
chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cùng như nhiều đồng bào
và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi một ngày ra thăm Bác. Bởi
vậy, khi đứng trước lăng Người, nhà thơ không giấu nỗi niềm xúc
động: cảm xúc bồi hồi pha lẫn nỗi xúc động sâu xa:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

- Với lời lẽ giản dị, câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn: Nhà
thơ ở miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm
mong mỏi nay cũng được về thăm Người.
- Sử dụng đại từ nhân xưng “Con - Bác”:

+ Đó là lối nói, lối xưng hô quen thuộc của người miền Nam để gợi
sự gần gũi, thân thiết.

+ Thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt.

+ Gợi một liên tưởng, đó là Viễn Phương như một đứa con xa nay
mới được trở về bên vị cha già của dân tộc.

- Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh khi sử dụng từ “thăm” để thay
cho từ “viếng”

+ Để giảm bớt nỗi đau thương, mất mát của những đứa con xa về
muộn.

+ Đồng thời, bất tử hóa hình tượng Bác trong lòng nhừng người con
miền Nam và đối với cả dân tộc Việt Nam.

Câu thơ giản dị như một lời kể, song nó lại gói gém bao tình cảm
của người con miền Nam sau bao mong nhớ, đợi chờ mới được về
thăm lăng Người.

Đứng trước lăng vị cha già kính yêu của dân tộc, ấn tượng đầu tiên
trong lòng nhà thơ chính là hàng tre xanh mát:

“Đã thấy trong sương hàng tre hát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

- Từ cảm thán “Ôi!” biểu thị niềm xúc động, tự hào trước hình ảnh
hàng tre quanh lăng Bác.
- Hình ảnh “hàng tre bát ngát” là một hình ảnh tả thực về quang
cảnh quanh lăng Bác; đồng thời gợi sự gần gũi, thân thương của
những xóm làng Việt Nam.

- Hình ảnh “hàng tre xanh xanh Việt Nam” là hình ảnh ẩn dụ mang ý
nghĩa tượng trưng:

+ Hàng tre ấy tượng trưng cho những con người, dân tộc Việt Nam
với sức sống tràn trề.

+ Gợi tả một quân đội với tinh thần kiên cường, bất khuất, trong “bão
táp mưa sa” vẫn đứng bên cạnh giữ giấc ngủ ngàn thu của Người.

+ Thành ngữ “bão táp mưa sa” gợi về những khó khăn, gian khổ
mà nhân dân ta đã cùng nhau “chung lưng, đấu cật” để dựng nước
và giữ nước.

+ Lối miêu tả “đứng thẳng hàng” gợi những hàng tre mang dáng
dấp cứng cỏi, kiên cường, hiên ngang, bất khuất như tính cách của
người dân Việt Nam.

Khổ thơ là niềm xúc động sâu sắc, niềm thành kính của Viễn
Phương khi đến thăm và đứng trước lăng Bác.

2. Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác

Đứng trước lăng, sau ấn tượng về “hàng tre xanh xanh” là hình ảnh
của dòng người vào lăng viếng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết
ơn sâu nặng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ


Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa
xuân.”

- Nghệ thuật sóng đôi: Giữa hình ảnh “mặt trời” thực và “mặt
trời” ẩn dụ:

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên
lăng”, là hình ảnh thực. Đây là mặt trời của thiên nhiên soi sáng
không gian vũ trụ và mang lại sự sống cho muôn loài.

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ: “Thấy một mặt trời trong lăng rất
đỏ” là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ: Bác chính là mặt trời chân lí, soi
sáng giúp dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ khổ đau, và mang đến một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, ta thấy được sự tôn kính, lòng
biết ơn sâu sắc mà cả dân tộc dành cho Bác.

- Mặt trời thiên nhiên được nhân hóa với hai hành động: ngày
ngày “đi qua trên lăng” và nhìn thấy mặt trời “trong lăng rất đỏ” đã tô
đậm hơn tầm vóc vĩ đại của Người.

- Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì
nhân dân của Bác. Mặt trời đó sẽ mãi mãi soi sáng, sưởi ấm, tô thắm
cho đời.

- Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày”:

+ Gợi một dòng thời gian vô tận, từ ngày này sang ngày khác, biết
bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn thành kính vào lăng viếng
Bác.

+ Mang giá trị tạo hình, gợi quang cảnh những đoàn người nối hàng
dài vào lăng để viếng Bác.
- Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ, gợi liên tưởng đến dòng
người vào lăng viếng Bác với tấm lòng thành kính, dâng trào như
được kết từ hàng vạn trái tim, tấm lòng con người Việt Nam.

- Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để chỉ 79 năm trong
cuộc đời của Người - 79 mùa xuân Người hi sinh cho đất nước.

Khổ thơ đã diễn tả được một cách sâu sắc tấm lòng của nhân dân
cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn
sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

3. Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài Bác

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian,
không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, thật tinh tế sự
yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong treo của không
gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

- Sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm, nói tránh để phủ nhận
một sự thật đau lòng: Người đang ngủ một giấc bình yên, giữa vầng
trăng sáng dịu hiền.

- Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền”:

+ Gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, nhân cách sống cao đẹp, sáng
trong của Bác.

+ Bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc của tác giả dành cho Bác.

+ Gợi đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình
ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.
+ “Trời xanh”, trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực, đó là thiên
nhiên gần gũi với chúng ta, tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn
còn mài với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng.

- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau
xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác: “Mà sao nghe
nhói ở trong tim”.

+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột,
quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận đáy sâu tâm
hồn mình, nỗi đau ấy uất nghẹn tột cùng không nói thành lời.

+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả sự mâu thuẫn. Cảm giác nghe
nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Giữa
tình cảm và lí trí có sự mâu thuẫn. Và con người đã không kìm nén
được khoảnh khắc yếu lòng.

Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót.
Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài
thơ.

4. Cảm xúc của nhà thơ khi tạm biệt lăng Bác

Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nước mắt luyến tiếc, bịn
rịn không muốn rời Bác. Khổ thơ đã diễn tả tâm trạng lưu luyến của
nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

- Từ chỉ thời gian “Mai” đi liền với địa danh “miền Nam” gợi sự
chia xa, gợi khoảng cách, gợi cả tấm lòng, tình cảm của những
người con miền Nam.
- Lối nói “thương trào nước mắt” đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương da
diết, gợi chiều sâu của sự gắn bó với miền Bắc, với Bác Hồ của
những người miền Nam. Nhà thơ bày tỏ ước muốn hóa thân để ở lại
bên cạnh Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

- Nhịp điệu dồn dập và điệp từ “muốn làm” khởi đầu cho mỗi dòng
thơ giúp nhà thơ tô đậm mức độ thiết tha, mãnh liệt của niềm mong
ước.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”

+ Lớp nghĩa thực: Tác giả muốn góp cuộc đời mình để làm đẹp cho
cảnh quan quanh lăng, ao ước được hóa thân thành con chim để cất
tiếng hót làm vui lăng Bác; làm đóa hoa để đem lại sắc hương, tô
điểm cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “muốn làm
cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bát ngát, tỏa bóng mát cho
lăng.

+ Lớp nghĩa ẩn dụ: Khát vọng ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho
người; Bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc;
góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang, trung hiếu của tâm
hồn Việt Nam.

- Hình ảnh cây tre có tính tượng trưng, một lần nữa nhắc lại khiến bài
thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng
Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn
tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tạo nên một kết
cấu đầu cuối tương ứng, nhăm bày tỏ khát vọng và tâm lòng nhà thơ
dành cho Bác.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà
thơ và đồng bào miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang
nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.

- Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ
yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm
xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối, nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc
thái của niềm mong ước.

- Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh
ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng như “mặt trời
trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với
hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và mang giá trị biểu
cảm.

Văn bản 15: Sang thu

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh. Ông sinh năm 1942,
quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp nhà thơ
chiến sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước, bao trùm trong toàn bộ sáng
tác của Hữu Thỉnh là cảm hứng về quê hương, đất nước, nhân
dân.

+ Sau chiến tranh, ngòi bút của ông hướng về những cảm xúc đời
thường hay những thân phận cá nhân.

- Phong cách sáng tác: cảm xúc tinh tế, lãng mạn; hình ảnh giản dị
mà giàu sức gợi cảm...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Sang thu” được sáng tác vào năm 1977.

- Tác phẩm được in nhiều lần trong các tập thơ và gần đây nhất là
tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” năm 1991.

b. Ý nghĩa nhan đề

- “Sang thu” trước hết gợi lên khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên,
khi đất trời chuyền từ hạ sang thu.

- Gợi khoảnh khắc chuyển giao giữa tuổi trẻ sang độ tuổi trưởng
thành vững vàng, từng trải.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: (Khổ 1) Những tín hiệu giao mùa.

- Phần hai: (Khổ 2) Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa.

- Phần ba: (Khổ 3) Những suy ngẫm về cuộc đời lúc chớm thu.
II. Trọng tâm kiến thức

1. Những tín hiệu giao mùa

“Sang thu” là một khoảnh khắc rất đặc biệt của thiên nhiên. Đó là lúc
hạ vẫn chưa kịp đi mà hương thu đã lặng lẽ đến rồi.

Trước sự thay đổi ấy, hẳn phải là một hồn tinh tế và giàu cảm xúc
lắm thì nhà thơ mới cảm nhận được:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

- Hữu Thỉnh đã lựa chọn một hình ảnh quen thuộc, gần gũi để làm
nên một tứ thơ mới mẻ khi ông sử dụng một làn “hương ổi” để
làm tín hiệu giao mùa:

+ “Hương ổi” đi liền với từ “bỗng” được đặt ở đầu câu thơ đã diễn
tả cảm giác bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình.

+ “Hương ổi” đi liền với động từ “phả” diễn tả một làn hương
ngào ngạt, sánh đậm. Đồng thời gợi cho ta liên tưởng đến không
gian thân thuộc của những làng quê. Đó có thể là một làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ với những khu vườn, những lối ngõ sum suê cây
trái.

Làn “hương ổi” trở thành phong vị riêng trong thơ thu Hữu Thỉnh.

- Tác giả lựa chọn làn “gió se” làm tín hiệu thứ hai cho khoảnh
khắc giao mùa:
+ "Gió se” là ngọn gió heo may đặc trưng của mùa thu đất Bắc. Đó là
một thứ gió khô và thoáng chút se lạnh.

+ Làn "gió se” ấy đã làm dịu đi cái nắng oi ả, gay gắt của mùa hạ và
khiến cho làn "hương ổi” như sánh lại và trở nên ngọt ngào hơn.

- Những tín hiệu từ "hương ổi”, "gió se” dường như vẫn còn chưa đủ
để đánh giá cho khoảnh khắc giao mùa. Bởi vậy, tác giả đã vội vã
kiếm tìm ở một tín hiệu tiếp theo là những màn sương.

+ Cảm nhận của tác giả có sự thay đổi từ khứu giác, xúc giác
sang cảm nhận bằng thị giác.

+ Nghệ thuật nhân hóa qua từ láy "chùng chình” đã gợi lên dáng vẻ
lãng đãng như đợi chờ, cố ý chậm lại đầy lưu luyến của màn sương.

+ Cụm từ “qua ngõ” gợi liên tưởng đến những đường làng, ngõ
xóm hay cũng là cửa ngõ của thời gian thông giữa hai mùa (cuối hạ,
đầu thu).

- Trước khoảnh khắc giao mùa ấy, tác giả đã giật mình, bối rối: “Hình
như thu đã về”

+ ‘'Hình như” là một lối nói giả định, phán đoán không chắc chắn,
với một chút nghi hoặc. Nhưng lại rất phù hợp để diễn tả về cảm
nhận mơ hồ lúc giao mùa.

+ Sự kết hợp một loạt các từ “bỗng”, “phả”, “hình như” đã thể
hiện tâm trạng ngờ ngàng, vui mừng, hạnh phúc của tác giá trong
phút giao mùa của vạn vật.

Đó là những cảm nhận tinh tế của tác giả lúc thu sang, và đối diện
với những khoảnh khắc ấy là niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ.

2. Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa


Quang cảnh thiên nhiên được tái hiện chân thực và sống động qua
việc lựa chọn những hình ảnh đặc trưng:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim hát đâu vội vã”

- Hai câu thơ đầu có cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ đã diễn tả vẻ đẹp
thiên nhiên và lòng người phút giao mùa.

- Hình ảnh “dòng sông” được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”:

+ Tả thực một dòng sông tĩnh lặng, trong trẻo với dòng chảy êm đềm.

+ Con sông được nhân hóa như đang được nghỉ ngơi sau một mùa
hạ vất vả với bão giông.

+ Đi liền với từ “được lúc” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh những con
người đã đi qua thời chiến, trải qua lửa đạn giờ đang được sống
chậm lại, đến lúc phải nghỉ ngơi.

- Hình ảnh những chú “chim” được nhân hóa qua từ láy “vội
vã”:

+ Tả thực những cánh chim di cư bay về phương Nam để tránh rét.

+ Những cánh chim được nhân hóa như bắt đầu nhanh hơn, gấp gáp
hơn khi nhận ra những đợt gió heo may se lạnh đang ùa về.

+ Đi liền với từ “bắt đầu” gợi ta liên tưởng đến những người lính
bước ra từ trong chiến tranh. Họ cứ ngỡ đã đến lúc phải nghỉ ngơi để
suy ngẫm, song lại chính là lúc họ “bắt đầu” phải vội vã, tất bật trong
những lo toan của cuộc sống mới.

- Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng một cách nhịp nhàng, tài tình
qua hình ảnh “dềnh dàng” >< “vội vã”:
+ Làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên trong khoảnh
khắc giao mùa.

+ Làm nổi rõ hai tâm trạng trái ngược nhau của con người khi bước
từ chiến tranh sang hòa bình.

Quang cảnh thiên nhiên tiếp tục tái hiện qua những sáng tạo vô cùng
độc đáo, ấn tượng:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

- Nghệ thuật nhân hóa qua cụm từ có ý nghĩa tượng hình “vắt nửa
mình”:

+ Gợi lên không gian của một bầu trời cao rộng, trong trẻo lúc thu về.

+ Khiến cho đám mây như có hình, có hồn và trở nên gần gũi, sinh
động.

+ Gợi liên tưởng đến bước đi cúa thời gian, đám mây như một cây
cầu đặc biệt để nối liền những ngày cuối hạ và đầu thu.

- Hình ảnh “đám mây” còn mang nghĩa thế sự. Gợi sự giao thời của
đời sống khi đất nước đang chuyển giao từ chiến tranh sang hòa
bình.

Khoảnh khắc giao mùa được tái hiện rất tinh tế, sống động bằng
những câu thơ giàu giá trị tạo hình. Và ẩn sau khoảnh khắc đó còn là
hình ảnh của đời sống lúc sang thu với biết bao biến chuyển.

3. Những suy ngẫm về đời người lúc chớm thu

Những biến chuyển của thiên nhiên:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa”

- Nghệ thuật đối qua hình ảnh “vẫn còn” >< “vơi dần”; “nắng” ><
“mưa” đã tái hiện sự vận động trái chiều của hai hiện tượng thiên
nhiên.

- Hình ảnh “nắng” và “mưa” là những hiện tượng của thiên nhiên, vận
hành theo quy luật và có thể dự báo.

- Tác giả đã mượn những hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, dễ
nắm bắt để cụ thể hóa khoảnh khắc giao mùa.

- Những từ ngừ chỉ mức độ, ước lượng: “vẫn còn”, “bao nhiêu”,
“vơi”, “bớt” được sắp xếp theo trình tự giảm dần, cho thấy dấu hiệu
của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của mùa thu ngày một
đậm nét hơn.

Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời.

Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy
ngẫm về đời người lúc chớm thu qua những hình ảnh giàu sức gợi:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

- Hình ảnh của “sấm”:

+ Là một hiện tượng, dấu hiệu cho những cơn mưa rào mùa hạ.

+ Ẩn dụ cho những biến động, bất thường, thử thách trong cuộc đời
của mỗi một con người.

- Hình ảnh “sấm” đi liền với lối miêu tả “bớt bất ngờ” và “hàng cây
đứng tuổi”:
+ Tả thực về một hiện tượng, đó là sang thu, tiếng sấm như nhỏ dần,
không còn đủ sức làm lay động những hàng cây đã qua bao mùa
thay lá.

+ Là một ẩn dụ về những con người từng trải, giờ đến tuổi xế chiều
thì trở nên vững vàng hơn, ung dung hơn trước những đổi thay, biến
động của cuộc đời.

Khổ thơ đã bộc lộ trọn vẹn những khoảnh khắc thiên nhiên và đời
người sang thu, với những cảm nhận tinh tế và suy ngẫm sâu sắc
của nhà thơ.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Sang thu” là sự cảm nhận tinh tế của tác giả về vẻ đẹp thiên
nhiên với những bước chuyển mình từ hạ sang thu. Đồng thời, qua
tác phẩm còn nói lên niềm xúc động, những suy ngẫm và triết lí trong
khoảnh khắc giao mùa của nhà thơ.

2. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, tự nhiên nhưng giàu sắc gợi, độc đáo
và mới lạ.

- Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng.

Văn bản 16: Nói với con

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Y Phương sinh năm 1948. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
thấm nhuần văn hóa, truyền thống của dân tộc Tày, huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ
dân tộc miền núi.

- Cảm hứng chủ đạo trong thơ Y Phương là gia đình, quê hương,
đất nước.

- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ giản dị, hồn nhiên, in đậm lối
tư duy của người vùng cao; hình ảnh phong phú, mang giá trị biểu
tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, năm năm sau ngày
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó là giai đoạn mà đời
sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và đồng
bào miền núi nói riêng còn rất nhiêu khó khăn, vất vả.

- Y Phương tâm sự: “Đó là thòi diêm đất nước ta gặp vô vàn khó
khăn... Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự
với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí
do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy
gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bây giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm
tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải
bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của
văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta
phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”. Từ hiện thực
khó khăn ấy, nhà thơ đã viết nên bài thơ này. Bài thơ như một lời
tâm sự với chính mình để động viên mình, đồng thời để nhắc nhở
cho các thế hệ mai sau.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam” (1945 - 1975).

b. Bố cục: Hai phần


- Phần một: Đoạn 1: Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con.

- Phần hai: Đoạn 2: Những phẩm chất cao quỳ của người đồng mình
và lời khuyên của người cha.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con

• Trong những lời tâm tình, tác giả nói với con cội nguồn sinh thành
và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

- Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình: “chân phải”, “chân
trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những
bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng
của cha mẹ.

- Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười”:

+ Tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập
nói.

+ Gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn
đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.

- Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ”.

+ Tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào
lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha.
+ Gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi
của cha mẹ.

- Nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng đã tạo nên một âm điệu,
không khí tươi vui và gợi đến một mái ấm gia đình đề huề, hạnh
phúc.

Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với
con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì
thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép
quên.

• Cùng với gia đình, thì quê hương chính là mạch nguồn không
thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken cảu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”

- Quê hương được giới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng
cao - "người đồng mình”.

- Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “con ơi” khiến lời
của cha với con thật trìu mến, thân thương.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi:

+ “Đan lờ cài nan hoa”: tả thực công cụ lao động còn thô sơ
được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần
cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã
khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “nan
hoa”.

+ “Vách nhà ken cảu hát”, tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng,
gia đình của “người đồng mình”, khiến cho những vách nhà như
được ken dầy trong những câu hát si, hát lượn; gợi một thế giới tâm
hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người miền cao.

- Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả được động tác khéo léo
trong lao động vừa gợi sự gắn bó của những “người đồng
mình” trong cuộc sống lao động.

- Thủ pháp nhân hóa:

+ “Rừng cho hoa”, tả thực vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên
nhiên, quê hương ban tặng; gợi sự giàu có và hào phóng của thiên
nhiên, quê hương.

+ “Con đường cho những tẩm lòng”, gợi liên tưởng đến những con
đường trở về nhà, về bản; gợi đến tấm lòng, tình cảm của “người
đồng mình” với gia đình, quê hương, xứ sở.

- Điệp từ “cho” cho thấy tấm lòng rộng mở, hào phóng, sẵn sàng
ban tặng tất cả nhưng gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của quê hương,
thiên nhiên.

Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng dục con, thì
quê hương bằng văn hóa, lao động đã nuôi dưỡng và che chở cho
con thêm khôn lớn, trưởng thành.

• Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc
nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để sinh thành nên con:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”


- “Nhớ về ngày cưới”, là nhớ về kỷ niệm cho sự khởi đầu của một gia
đình. Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh từ tình
yêu ấy.

- “Ngày đầu tiên đẹp nhất” đó có thể là ngày cưới của cha mẹ, nhưng
cũng có thể là ngày đầu tiên con chào đời.

Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội
nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con: Gia đình, quê hương chính là
những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng
thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự
hào.

2. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình và lời
khuyên của cha

a. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình

• Trong lời tâm tình về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con,
người cha đã khéo léo “đan”, “cài” những phẩm chất tốt đẹp của
người đồng mình:

“Người đông mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

- Vẫn sử dụng lối nói hình ảnh cúa người vùng cao: “người đồng
mình” để gợi lên sự gần gũi, thân thương trong một gia đình.

- Động từ “thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” để bày tỏ sự


đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương.

- Hệ thống từ ngữ giàu sức gợi qua hai tính từ “cao”, “xa”:
+ Gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của
đồng bào vùng cao.

+ Những tính từ này được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, gợi những
khó khăn như chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người.

- Hệ thống hình ảnh mang tư duy của người miền núi, khi tác giả
lấy cao của trời, của núi để đo nỗi buồn, lấy xa của đất để đo ý chí
cúa con người.

Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống
còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng
thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ.

• Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con
về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê


hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

- Nghệ thuật tương phản:

+ Hình ảnh “thô sơ dci thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhở bé
của “người đồng mình”.

+ Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt
lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình”

Nghệ thuật tương phản đã làm tôn lên “tầm vóc”, “vóc
dáng” của “người đồng mình” họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ
không hề yếu đuổi.
- Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực,
vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:

+ Tả thực quá trình dụng nhà, dựng bản của người vùng cao, được
kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt.

+ Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã dựng xây và nâng tầm
quê hương.

- Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng xây quê hương ấy,
chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng.

Câu thơ tràn đầy niềm tự hào về những phẩm chất cao quý của
người đồng mình. Từ đó, Y Phương nhắn nhủ, răn dạy con phải biết
kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương.

b. Lời khuyên của người cha

• Hãy biết sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng
mình:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo


đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

- Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại liên tiếp đã tô đậm được mong
ước mãnh liệt của cha dành cho con.
- Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê “đá gập ghềnh” và “thung nghèo
đói”

+ Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác.

+ Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo.

Từ đó, người cha mong muốn ở con: hãy biết yêu thương, gắn bó,
trân trọng quê hương mình.

- Hình ảnh so sảnh: “Sống như sông như suối”

+ Gợi về cuộc sống bình dị, hồn nhiên, gắn bó với thiên thiên.

+ Gợi lối sống trong sáng, phóng khoáng, dào dạt tình cảm như
sông, như suối

Từ đó, người cha mong muốn ở con: một tâm hồn trong sáng,
phóng khoáng như thiên nhiên.

- Thủ pháp đổi: “lên thác” >< “xuống ghềnh” gợi một cuộc sống
vất vả, lam lũ, nhọc nhằn, không hề bằng phẳng, dễ dàng. Từ đó,
người cha mong muốn ở con: Phải biết đối mặt, không ngại ngần
trước những khó khăn và phải biết vươn lên, làm chủ hoàn cảnh.

Đoạn thơ là lời khuyên của cha, khuyên con hãy tiếp nối cái tình
cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra. Hãy tiếp
nối cả ý chí can đảm, lòng kiên cường của người đồng mình.

• Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm
khắc của người cha:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé


Nghe con”

- Hai tiếng “lên đường”, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng
thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời.

- Hình ảnh thơ được lặp lại “thô sơ da thịt” như là lời khẳng định để
khắc sâu trong tâm trí con, rằng: con cũng là người đồng mình, cũng
mang hình hài, vóc dáng nhỏ bé.

- Nhưng con “không bao giờ được nhỏ bé” mà phải kiên cường, bản
lĩnh để đương đầu với những gập ghềnh, gian khó của cuộc đời.

- Hai tiếng “nghe con” nghe thật thiết tha, ân cần, xúc động, ẩn
chứa biết bao mong muốn của người cha.

Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm
cho con những bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời con mãi mãi khắc ghi.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha dành
cho con. Đồng thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và lòng tự hào
về người đồng mình.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, phóng khoáng, phù hợp với lối nói, diễn đạt và tư
duy của người vùng cao.

- Giọng điệu thơ khi tâm tình, tha thiết, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc,
rất phù hợp với lời của người cha nói với con mình.
8 tác phẩm Truyện quan trọng ôn thi vào 10 môn
Văn năm 2023
 Siêu sale 12-12 Shopee
Trang trước

Trang sau

8 tác phẩm Truyện quan trọng ôn thi vào 10 môn Văn năm
2023
Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn phần truyện giới thiệu tới các
em nội dung chính, những kiến thức cơ bản trọng tâm nhất của các
tác phẩm văn xuôi quan trọng thời kì trung đại và hiện đại. Hi vọng
với tài liệu Ngữ văn này sẽ giúp các em học sinh ôn tập và củng cố
kiến thức hiệu quả môn Ngữ văn 9 phần truyện, từ đó chuẩn bị tốt
nhất cho kì thi vào lớp 10 sắp tới.

A. Các văn bản truyện trọng tâm ôn thi vào lớp 10

TRUYỆN

Chuyện người con gái Nam Xương


Trung
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
đại
Hoàng Lê nhất thống chí

Hiện đại Làng

Lặng lẽ Sa Pa

Chiếc lược ngà

Bến quê
Những ngôi sao xa xôi

B. Nội dung

Văn bản 1: Chuyện người con gái Nam Xương

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi
vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh
và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

- Quê ở Trường Tân - Thanh Miện - Hải Dương.

- Về con người:

+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là con người học rộng tài cao. Ông là học trò
xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.

+ Là một “kẻ sĩ” có nhân cách cao thượng. Chứng kiến những mục
nát của chế độ đương triều, ông chỉ làm quan có một năm rồi lui về
sống ẩn dật, viết sách và phụng dưỡng mẹ già.

+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là một người luôn đau đáu
đến vận mệnh của giang sơn xã tắc.

2. Tác phẩm

a. Thể loại - nguồn gốc xuất xứ

- Truyện truyền kì:

+ Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành


từ thời Đường.
+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cắt truyện từ dân
gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp
thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì
ảo...

- Truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ:

+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, đó là thời kì xã hội phong
kiến Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu
thuẫn xã hội trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các
tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ.

+ “Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện
được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo,
đề tài phong phú.

+ Truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng “thiên
cổ tùy bút” (tức áng văn hay ngàn đời).

- Chuyện người con gái Nam Xương:

+ Xuất xứ: là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của “Truyền
kì mạn lục”.

+ Nguồn gốc: truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyện dân
gian “Vợ chàng Trương”, sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp
lại một số tình tiết và thêm vào yếu tố kì ảo.

+ Ngôi kể: truyện được kể theo ngôi thứ 3.

b. Phương thức biểu đạt: Tự sự có kết hợp yếu tố biểu cảm.

c. Tóm tắt
Truyện kể về Vũ Thị Thiết (Vũ Nương), người huyện Nam Xương,
xinh đẹp nết na được Trương Sinh - một người ít học, có tính đa
nghi, cưới về làm vợ.

Gia đình đang yên ấm, hạnh phúc thì chàng Trương phải rời nhà đi
lính. Ở nhà, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng hay đùa
với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói là cha Đản.
Mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng
chăm sóc, phụng dưỡng, song ít lâu sau bà qua đời.

Khi Trương Sinh trở về, nghe theo lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết.
Vũ Nương một mực kêu oan, song Trương Sinh không nghe mà
đánh mắng, đuổi vợ đi. Vũ Nương không tự minh oan được bèn trầm
mình xuống sông tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường, bé Đản
gọi cha. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã muộn.

Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới thủy cung - người cùng
làng bị chết đuối, được Linh Phi cứu giúp. Khi Phan Lang trở về, Vũ
Nương nhờ gửi chiếc thoa và nhắn chàng Trương lập đàn giải oan
cho nàng. Trương Sinh nghe theo, lập đàn giải oan cho nàng ở bến
sông ấy. Vũ Nương trở về ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ vài lời
tạ từ rồi biến mất.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Vũ Nương

- Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ
nữ đẹp người, đẹp nết, “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt
đẹp”,

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các
yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung
chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước
“tư dung” - vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ
“đem 100 lạng nàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc
và phẩm chất của nàng.

Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc họa với những nét chân
dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội
phong kiến.

Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt
nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:

a. Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung,


yêu thương chồng hết mực.

Ÿ Trong cuộc sống vợ chồng bình thường:

- Nàng hiểu chồng “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá
sức”. Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn
khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu
chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa
hai người và đầy tính dự báo.

• Khi tiễn chồng đi lính:

- Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:

+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường
những thứ vinh hoa phù phiếm: “Thiếp chẳng dám mong đeo được
ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên”.

+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian
lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân
khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn
gian lao”.
+ Nàng bộc lộ sự khắc khoải, xa nhớ của mình: “Nhìn trăng soi
thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoan,
lại thổn thức tâm tình”.

Đó là những lời nói ân tình, đằm thắm, đầy ắp những yêu


thương. Qua đó, cho chúng ta thấy Vũ Nương thực sự là một người
vợ dịu dàng, hết mực thương chồng, thương con và thật đáng trân
trọng.

• Khi xa chồng:

- Vũ Nương tỏ ra là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết


mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi thấy bướm lượn
đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn
thương da diết”.

- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với
bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha
Đản.

- Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần
sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô
son điểm phần từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén
gót”.

Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ
Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc,
thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là
tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến
tranh.

• Khi bị chồng nghi oan:

- Nàng đã hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch
của mình:
+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình
nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.

+ Tiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng,
vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.

+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ
để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn,
hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những
lời nói tha thiết đó, nó còn cho thấy thái độ trân trọng chồng và gia
đình nhà chồng của nàng.

- Không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng:

+ Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khao khát
và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.

+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước
lệ: "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió".

+ Đen nỗi đau chờ chồng đến hóa đá của “cổ nhân" nàng cũng
không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".

Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của
người vợ trẻ giờ đã không còn ý nghĩa.

- Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng
nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại.

+ Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong


trắng mà minh oan cho mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu mì. Nhược bằng lòng chim dạ cả, lừa chồng dối con, dưới xin
làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ”

+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.

Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt
cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và
giàu đức hi sinh ấy, phẩm giá còn cao hơn sự sống.

• Những năm tháng sống dưới thủy cung:

- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về
chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ.

+ Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng.

+ Nghe Phan Lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót


thương.

- Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa
vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.

- Nàng là người trọng tình, trọng nghĩa: Dù thương nhớ chồng


con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết
bên Linh Phi.

Với vai trò là một người vợ, Vũ Nương là một người phụ nữ
chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong
trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị
tha.

b. Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là một người con dâu
hiếu thảo.

-Vũ Nương đã thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con,
người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi
già yếu, ốm đau. “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy
lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.

- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu
đáo như đối với cha mẹ đẻ mình.

- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng
hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ
Nương: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ
mẹ”.

“Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi”
là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng
dâu trong xã hội phong kiến xưa. Song lời cảm tạ, động viên của bà
mẹ đã cho thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo. Đó là
sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.

c. Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương


con hết mực.

- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con
khôn lớn.

- Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là
một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu
thốn tình cảm.

- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về
mật vật chất, mà con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết
mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của
mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho
con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.

Vũ Nương đã không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một
người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người
trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh
phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không
mỉm cười với nàng.

2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

a. Nguyên nhân trực tiếp

- Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình, khi
người cha thật trở về thì không chịu nhận và ngây thơ, vô tình đưa ra
những thông tin khiến mẹ bị oan.

Những lời nói thật của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen
tuông trong lòng Trương Sinh.

b. Nguyên nhân gián tiếp

- Do cuộc hôn nhân không bình đẳng và tính cách của Trương
Sinh: Vũ Nương là “con kẻ khó” được Trương Sinh đem trăm lạng
vàng để cưới về. Sự đối lập giàu nghèo cộng với tính cách “đa nghi”
của Trương Sinh đã sản sinh ra sự hồ đồ, độc đoán, gia trưởng sẵn
sàng thô bạo với Vũ Nương.

- Trong cách cư xử với vợ, Trương Sinh đã thiếu cả lòng tin và cả


tình thương.

- Do lễ giáo phong kiến hà khắc: Chế độ nam quyền đã dung túng,


cổ vũ cho thói độc đoán, gia trưởng của người đàn ông, cho họ cái
quyền tàn phá hạnh phúc mong manh cua người phụ nữ.

-Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền mà còn
là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Trương Sinh phải đi lính,
thời gian xa cách như ngọn lửa âm ỉ để thổi bùng lên trong con người
vốn đa nghi, độc đoán và vô học.

3. Những chi tiết đặc sắc


a. Những chi tiết kì ảo cuối truyện

- Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái
áo xanh đến xin tha mạng, sáng hôm sau ông được người phường
chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền thả.

- Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lang chết đuối vì có công nên được
Linh Phi cứu sống, gặp Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương
thế.

- Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng
Giang, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói lời từ biệt rồi biến mất.

Chi tiết kì ảo là sự sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ trong tác


phẩm, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị
thẩm mĩ mới mà truyện cố tích “Vợ chàng Trương” không có.

b. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện

- Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì,

- Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì,
hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

- Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác
phẩm.

- Tạo nên một kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:

+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự
chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc
sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là
người phụ nữ.

+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp
trong tính cách của Vũ Nương: Dù ở một thế giới khác, nhưng
nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được
minh oan.

- Tuy nhiên, yếu tố kì ảo chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi
kịch của thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ
là một sự hiển linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang
loáng mờ nhạt” trên sông mà dần biến đi mất. Tức là vẫn còn xa
cách, vẫn là sự chia li âm dương đôi ngả. Hạnh phúc, sự đoàn tụ là
những điều lớn lao cuối cùng của Vũ Nương cũng không dành được,
mà đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vũ Nương không trở về, cái lí mà nàng đưa
ra là vì ân đức của Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất
cho những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi
tiết Phan Lang được rẽ nước trở về nhân gian còn Vũ Nương thì
không thể là một minh chứng đanh thép.

4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

a. Giá trị hiện thực

+ Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận bất hạnh
của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua hình tượng nhân
vật Vũ Nương.

+ Lên án hiện thực xã hội phong kiến với đầy những bất công,
vô lí. Xã hội ấy đã dung túng chế độ nam quyền hà khắc, trọng nam
khinh nữ, cho người đàn ông cái quyền chà đạp lên số phận người
phụ nữ. Ở xã hội đó, người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ giá
trị nhân phẩm của mình.

+ Phản ánh xã hội phong kiến với những mâu thuẫn gây ra
những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên, làm cho đời sống
người dân rơi vào bi kịch, bế tắc.

b. Giá trị nhân đạo


+ Khám phá, bênh vực, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của
người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

+ Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp: Đề cao giáo trị
nhân văn “ở hiền thì gặp lành” và gửi gắm những ước mơ tốt đẹp
ngàn đời của nhân dân ta.

+ Qua số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất công của nhân vật Vũ
Nương, tác phẩm thể hiện sự thấu hiểu, xót xa và niềm cảm
thông sâu sắc của tác giả.

+ Lên tiếng tố cáo chế độ độ phong kiến, chế độ nam quyền đã


chà đạp lên quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con
người. Đó cũng chính là giá trị nhân văn muôn thuở của nhân loại.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện niềm cảm
thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ phong kiến. Qua đó khẳng định những vẻ đẹp
phẩm chất quý báu của họ.

- Tác phẩm còn như một thông điệp vượt thời gian: Tất cả mọi
người đều có quyền sống và quyền hạnh phúc. Đặc biệt là những
người phụ nữ, họ có quyền bình đẳng để phát huy tài năng và phẩm
chất của mình. Đó cũng chính là những biểu hiện của một xã hội hiện
đại, văn minh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: xoay quanh sự ngộ nhận,
hiểu lầm lời nói của bé Đản. Chi tiết cái bóng trở thành điểm mấu
chốt của tình huống truyện khiến cốt truyện được thắt nút, mơ nút,
thay đổi sau khi nó xuất hiện.

- Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: Dẫn dắt tình huống hợp lí; xây
dựng lời thoại của nhân vật, đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt
là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực và kì ảo.

- Có sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu đạt: tự sự, biểu
cảm.

Văn bản 2: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), người làng Đan Loan, huyện Đường
An, tỉnh Hải Dương.

- Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người có chí hướng: “Làm người


con trai phải lập thân hành đạo... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời”

- Là một người có nhân cách cao thượng, sống trong thời buổi đất
nước loạn lạc, nhiễu nhương, nên dù nhiều lần được vua vời ra làm
quan, nhưng được ít lâu lại xin về ẩn dật.

- Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ
các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí,... tất cả đều viết bằng
chữ Hán.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Đoạn trích nằm trong tác phẩm “Vũ Trung tùy bút” (tùy bút viết trong
những ngày mưa) được viết khoảng đầu đời Nguyễn (thế kỉ XIX).
Tác phẩm gồm 88 mẩu truyện nhỏ, ghi chép lại hiện thực đen tối của
lịch sử nước ta.

- Tác phẩm vừa có giá trị văn chương đặc sắc, vừa là những tài liệu
quý về sử học, địa lí và xã hội học.

b. Thể loại

- Tùy bút là thể loại ghi chép một cách chân thực, sinh động về
những người, sự kiện cụ thể có thực. Trong đó, tác giả bộc lộ
cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người
và cuộc sống hiện tại.

- Tùy bút ghi chép một cách tản mạn, tùy theo cảm hứng chủ quan
của tác giả, bởi vậy cấu trúc không bị ràng buộc, song vẫn theo một
tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, và vì thế nó cũng giàu chất trữ tình.

c. Bố cục: hai phần

- Phần một: Từ đầu đến “biết đó là triệu bất tường”: Những thú ăn
chơi của Chúa Trịnh.

- Phần hai: Còn lại: Sự tham lam, nhũng nhiễu của quan lại trong phủ
Chúa.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Thói ăn chơi của Chúa Trịnh và các quan lại cận thần trong
phủ Chúa

- Thú chơi đèn đuốc:

+ Chúa cho xây dựng thật nhiều cung điện, đình đài để thỏa thú
“chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp. Vì vậy “xây dựng đình đài cứ liên
miên”, dần đến hao tiền tốn của.
+ Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung. Đó là
những cung điện, lâu đài xa chốn kinh thành.

+ Đặc biệt, chúa thường xuyên tổ chức những cuộc dạo chơi ở
Hồ Tây “tháng ba bốn lần" huy động động người hầu kẻ hạ, các nội
thần, các quan hộ giá, nhạc công... bày ra nhiều trò giải trí lố lăng,
tốn kém.

- Thú chơi cây cảnh:

+ Chúa dùng quyền lực để cưỡng đoạt, vơ vét những của quý
trong thiên hạ như “trân cầm, dị thú”, “cơ mộc quái thạch”. Đó không
phải là sự hưởng thụ cái đẹp chính đáng mà là sự chiếm đoạt.

+ Quang cảnh phủ Chúa được gợi ra bằng những cảnh tượng rùng
rợn, bí hiểm, ma quái. “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim
kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa
gió táp, vỡ đổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Nó
không phải là một cuộc sống bình thường, vì nó gợi nên sự chết
chóc - một sự sống cận kề cái chết, với ngày tận thế.

Có thể thấy cách sống của các vua chúa thời phong kiến suy tàn
là chỉ lo ăn chơi xa xỉ, không lo việc nước, ăn chơi bằng quyền lực
thiếu văn hóa. Nó như dự báo trước sự suy vong tất yếu của một
triều đại.

2. Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

-Tác giả đã vạch trần thủ đoạn “mượn gió bẻ măng” của bọn hoạn
quan, cung giám: Lợi dụng uy quyền của các chúa để vơ vét của
cải trong thiên hạ: vừa ăn cướp, vừa la làng.

- Thủ đoạn này đã nhiều lần gây tai họa cho dân lành: “các nhà
giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu
van chí chết".
Vua nào, tôi ấy, tham lam, nham hiểm, mặc sức vơ vét của dân

Tác giả đã kết thúc bài tùy bút bằng cách ghi lại một sự việc
có thực đã từng xảy ra ngay trong nhà mình. Điều đó khiến người
đọc tin vào sự chân thực của câu chuyện; thấy được sự thật thối nát
trong phủ chúa là điều không thể chối cãi. Đồng thời, Phạm Đình Hổ
đã kín đáo gửi gắm thái độ bất bình, phê phán.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực đời sống xa hoa của
phủ Chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê - Trịnh.

2. Nghệ thuật

- Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực và sinh động.

- Thủ pháp liệt kê làm nhấn mạnh thói ăn chơi xa xỉ và sự nhũng


nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

Văn bản 3: Hoàng Lê nhất thống chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Ngô gia văn phái: Một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở
làng Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó có hai tác giả chính là:

+ Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống.

+ Ngô Thì Du (1772 - 1840) làm quan dưới triều Nguyền.

- Họ là những nhà Nho mang nặng tư tưởng trung quân, ái quốc.


Ngô Thì Chí từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyền Huệ kéo
quân ra Bắc lần thứ hai. Ông cũng chính là người dâng “Trung hưng
sách” bàn kế để khôi phục nhà Lê và chống lại nhà Tây Sơn.

- Họ là những cây bút trung thực và có tư tưởng tiến bộ. Họ đã


phản ánh được một cách chân thực, sống động những sự kiện lịch
sử dân tộc trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ
XIX.

2. Tác phẩm

a. Thể loại

- “Hoàng Lê nhất thống chí “được viết theo thể chí - một thể văn ghi
chép sự vật, sự việc. Một thể loại văn vừa có tính văn học, vừa có
tính lịch sử lại vừa mang tính triết lí (hiện tượng văn - sử - triết bất
phân).

- Nếu xét về tính chân thực, tác phẩm có thể được xếp loại kí sự lịch
sử. Song, nếu xét về phương diện nghệ thuật: kết cấu, giọng điệu
trần thuật... thì tác phẩm thuộc vào loại tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm
được viết theo kiểu chương hồi, trong đó gồm 17 hồi.

b. Hoàn cảnh sáng tác

- “Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm được viết bằng chữ Hán,
ghi chép về sự thống nhất đất nước của vương triều nhà Lê vào thời
điểm Tây Sơn diệt Trịnh.

- Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nổi tiếp nhau, từ giai đoạn
cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn và do một số tác giả kế tục
nhau viết.

- Tác phẩm được viết bởi hai tác giả chính: Ngô Thì Chí viết bảy hồi
đầu, Ngô Thì Du viết bảy hồi tiếp sau, còn ba hồi cuối có thể do một
người khác viết vào khoảng cuối hoặc đầu triều Nguyền.
c. Vị trí đoạn trích

- Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi thứ mười bốn của tác
phẩm, ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung cùng nghĩa
quân Tây Son. Đồng thời, miêu tả sự thất bại tham hại của quân
tướng nhà Thanh cùng số phận của bè lũ vua tôi hại nước, hại dân
Lê Chiêu Thống.

d. Tóm tắt

Tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn
Sở lui quân về núi Tam Điệp. Ngày 25 tháng Chạp năm 1788,
Nguyễn Huệ lên ngôi vua (hiệu là Quang Trung) ở Phú Xuân, tự
mình đốc suất lại binh để chuẩn bị tiến quân ra Bắc diệt Thanh.

Dọc đường vua Quang Trung cho tuyển thêm lính, mở cuộc duyệt
binh lớn và chia quân thành các ngả để tiến ra Bắc. Ra chỉ dụ tướng
lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp, hẹn đến ngày
mồng 7 Tết thắng lợi sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long.

Đội quân của Quang Trung đánh đen đâu thắng đến đó khiến quân
Thanh đại bại. Rạng sáng ngày mồng 3 Tết, nghĩa quân đã tiến vào
Thăng Long, bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, dùng mưu để quân giặc đầu
hàng và hạ đồn một cách dễ dàng.

Ngày mồng 5 Tết, nghĩa quân tiến công vào đồn Ngọc Hồi. Quân
giặc chống trả quyết liệt, cuối cùng phải chịu đầu hàng, Sầm Nghi
Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê
Chiêu Thống cùng gia quyến trốn chạy theo.

e. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Từ đầu đến “năm Mậu thân 1788”. Tin quân Thanh đã
chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, thân chinh
cầm quân dẹp giặc.
- Phần hai: Tiếp theo đến “kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc
và chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn.

- Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại
của vua tôi Lê Chiêu Thống.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình tượng người anh hùng Quang Trung

a. Nhà lãnh đạo quyết đoán, mạnh mẽ và bản lĩnh phi thường

- Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn hành động một cách
mạnh mẽ, nhanh gọn và rất quyết đoán: Nghe tin giặc chiếm thành
Thăng Long, không hề nao núng mà “định thân chinh cầm quân đi
ngay”.

- Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều
việc lớn:

+ Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung
để yên lòng dân rồi thân chinh cầm quân ra Bắc.

+ Trên đường tiến quân ra Bắc, tranh thủ gặp Nguyễn Thiếp để hỏi
về kế sách, đặc biệt là thu hút sự ủng hộ của tầng lớp sĩ phu.

+ Tuyển mộ được hơn một vạn tinh binh và mở cuộc duyệt binh
lớn.

+ Ra phủ dụ tướng sĩ: Một mặt, vạch trần âm mưu xâm lược của
nhà Thanh, cho thấy bộ mặt tàn bạo của kẻ thù; mặt khác, giữ
nghiêm kỉ luật, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính.

Tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, đầy bản lĩnh là đặc điểm của
những bậc quân vương tài chí. Và với tính cách ấy, Nguyễn Huệ
xứng đáng được nhân dân tôn thờ và gửi gắm niềm tin để trở
thành linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn.

b. Bậc minh vương có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén

- Là một bậc quân vương, thống lĩnh cả vạn tinh binh, vua Quang
Trung đã tỏ ra được là một người sáng suốt, nhạy bén trong
việc nhận định tình hình thế cuộc và tương quan lực lượng giữa
ta và địch. Điều đó được thể hiện trong lời phủ dụ với quân lính khi ở
Nghệ An:

+ Vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền dân tộc. “Trong
khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng... Người
phương Bắc không phải nòi giống nước ta”.

+ Tiếp đó, ông lên án hành động ngang ngược, phi nghĩa của
giặc trái với đạo trời của quân Thanh: “Từ đời nhà Hán đến nay,
chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của
cải”.

+ Để khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới quyền, ông đã nhắc lại


truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của các bậc minh
vương trong lịch sử: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh
Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh
có Lê Thái Tô...”

+ Từ những gương trên, ông kêu gọi quân lính hãy “đồng tâm
hiệp lực”.

+ Cuối cùng, ông ra kỉ luật nghiêm khắc theo phép nhà binh: “Chớ
có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết
chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

Lời phủ dụ đã như một bài hịch ngắn gọn mà súc tích, sâu sắc để
kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc.
- Đó còn là một bậc minh quân sáng suốt, nhạy bén trong việc
dùng người và xét đoán bề tôi:

+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với
Lân và Sở, ta thấy: ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân để bảo
toàn lực lượng của hai vị tướng này. Đúng ra thì “quân thua chém
tướng”. Nhưng ông hiểu lòng họ, sức ít không thể địch nổi quân hùng
tướng hổ nhà Thanh.

+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông hiểu tường tận năng lực, khả năng “đa
minh túc trí” của vị quân sĩ này. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang
Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực
lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng
Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao sau này.

Ông là một bậc minh quân, rất hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người
đúng việc và ân uy rạch ròi.

c. Bậc quân vương có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông


rộng

- Quang Trung tự tin vào tài cầm quân của mình, tin vào các tướng
lĩnh và tin ở chính nghĩa của dân tộc. Bởi vậy, mới khởi binh, ông
đã chắc thắng và dự kiến cả ngày chiến thắng: “Phương lược tiến
đánh đã tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người
Thanh...”

- Đang lo việc đánh giặc, Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch sau
chiến thắng (kế hoạch cho mười năm sau), tìm cách ngoại giao với
giặc để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi
dưỡng lực lượng”,...

Chính tinh thần, ý chí quyết thắng hừng hực của vua Quang Trung
đã lan tỏa đến từng quân sĩ để kích thích ý chí quật cường trong họ.
d. Bậc kì tài về quân sự - có tài thao lược hơn người

- Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, đốc suất quân sĩ, tổ chức
chiến dịch làm nên cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch
sử. Cuộc hành quân thần tốc đến nay vẫn còn khiến chúng ta khâm
phục:

+ Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế).

+ Vượt khoảng 350 km đường đèo, núi, đến ngày 29 đã tới Nghệ An.

+ Tổ chức tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày.

+ Ngay hôm sau, vượt khoảng 150 km, tiến ra Tam Điệp.

+ Đêm 30 tháng Chạp “lập tức lên đường” tiến thẳng Thăng Long.
Vừa hành quân vừa đánh giặc và giữ bí mật đến bất ngờ.

- Hành quân xa liên tục và gấp gáp, lại là đi bộ hẳn sẽ mệt mỏi, rã
rời, song quân đội của Quang Trung vẫn chỉnh tề. Mặc dù quân đội
đó không phải toàn lính thiện chiến nhưng dưới sự chỉ huy tài tình
của vua Quang Trung, tất cả đã trở thành quân đội dũng mãnh,
“tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui ở dưới đất lên", đánh đâu
thắng đó.

- Ông dùng chiến thuật một cách linh hoạt, ít hao tổn binh lực:

+ Ở trận Hạ Hồi, bằng chiến thuật nghi binh đã giúp nghĩa quân chiến
thắng vẻ vang mà không tốn một hòm tên, mũi đạn.

+ Ở trận Ngọc Hồi, cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài
phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến sát đồn mà không bị đạn hỏa
công.

Quang Trung là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, đại
diện cho vẻ đẹp của một dân tộc anh hùng.
e. Một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến đấu

- Vua Quang Trung là một tổng chỉ huy thực sự của chiến dịch. Ông
hoạch định đường lối chiến lược, chiến thuật, tự mình thống lĩnh một
mũi tiên phong, xông pha nơi chiến trận,...

- Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, nghĩa quân Tây Sơn đã chiến
thắng áp đảo quân thù.

- Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi, trực tiếp chỉ huy trận đánh,
dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của cuộc tiến
công vĩ đại của dân tộc.

Hình ảnh vua anh hùng Quang Trung xông pha nơi chiến trận với
tư thế dũng mãnh, “tả đột hữu xông", oai phong lẫm liệt xứng đáng là
biểu tượng đẹp nhất về người anh hùng trong văn học trung đại.

2. Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của bọn vua
tôi phản nước, hại dân

a. Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh

- Đối lập với hình ảnh của nghĩa quân Tây Sơn:

+ Tướng Tôn Si Nghị: “sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên,
người không kịp mặc áo giáp, dân bọn lính kị mà của mình chuồn
trước qua câu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy"; Sầm Nghi Đống
thì thắt cổ tự tử.

+ Quân “đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang
sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều... đến nỗi nước sông
Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa".

- Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người diễu võ
dương oai giờ đây chi còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không
dám nghỉ ngơi”.
- Nguyên nhân của sự thất bại:

+ Tướng lĩnh thì kiêu căng, chủ quan, bỏ ngoài tai những lời cảnh
báo của vua tôi Lê Chiêu Thống, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc trên chiến
thắng.

+ Do sự bất tài, tham sống sợ chết, nên chưa đánh đã chạy.

+ Lính tráng thì ô hợp, buông lỏng kỉ cương: Rời doanh trại để đi
kiếm củi và buôn bán ở chợ.

Miêu tả sự đại bại của quân xâm lược nhà Thanh với âm điệu
nhanh, mạnh, gấp gáp đã gợi sự đại bại liên tiếp và nhanh chóng
của kẻ thù, đồng thời gợi tâm trạng hả hê, sung sướng của người
cầm bút.

b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân

- Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng
của dòng họ mà mù quáng “cõng rắn cắn gà nhà” và đặt vận mệnh
của dân tộc vào tay kẻ thù xâm lược.

- Họ không còn tư cách của bậc quân vương mà phải chịu số phận
nhục nhã của kẻ cầu cạnh, van xin và kết cục chịu chung số phận
thảm hại của kẻ vong quốc: Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ
thân tín chạy bán sống, bán chết, “luôn mấy ngày không ăn, ai nấy
đều mệt lử”, chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

Miêu tả sự thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu
Thống bằng một giọng văn chậm rãi, có khi chững lại khi miêu tả
những giọt nước mắt để gợi thái độ ngậm ngùi của người cầm bút.

III. Tổng kết

1. Nội dung
- “Hoàng Lê nhất thống chí” - hồi mười bốn - “Đánh Ngọc Hồi, quán
Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài” là
bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ - vị vua văn võ
toàn tài. Đồng thời, cũng thấy được tình cánh thất bại ê chề, khốn
đốn, nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống.

2. Nghệ thuật

- Lựa chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử.

- Khắc họa nhân vật lịch sử với ngôn ngữ kể, tả chân thực, sinh
động.

- Giọng điệu trần thuật thê hiện thái độ của tác giả với vương triều
Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.

Văn bản 4: Làng

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh
ra và lớn lên trên một làng quê trù phú và giàu truyền thống văn hóa
ở Từ Sơn - Bắc Ninh.

- Con người: Kim Lân là người nghiêm khắc với bản thân, nghiêm
túc với công việc.

- Kim Lân bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1941, lựa chọn cho mình
sở trường truyện ngắn và nhanh chóng trở thành một cây bút xuất
sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Ông là một trong những nhà văn am hiểu sâu sắc về nông thôn và
người nông dân. Bởi vậy, ông lựa chọn đề tài về người nông
dân để phát huy sở trường của mình.
+ Trước Cách mạng tháng Tám: Tái hiện được cuộc sống, sinh hoạt
văn hóa và những thú vui bình dị chốn thôn quê như: đánh vật, chọi
gà, thả chim,...

+ Sau Cách mạng tháng Tám: Khám phá vẻ đẹp tâm hồn người nông
dân. Đó là những con người với cuộc sống cực nhọc, khổ nghèo
nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng, tràn đầy niềm tin vào tương lai.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết tự nhiên, chậm
rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi,
chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948. Đây là thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp.

-Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ năm 1948.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không lấy
tên tác phẩm là “Làng Chợ Dầu” Nếu lấy tên tác phẩm là “Làng chợ
Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một cái làng cụ
thể; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu
ấy. Như vậy, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý
nghĩa khái quát.

- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là “Làng”, mang ý nghĩa khái
quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những
làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp;
ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân Việt
Nam yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của
truyện được mở rộng.

c. Tóm tắt

Ông Hai người làng chợ Dầu, trong kháng chiến, buộc phải rời
làng đi tản cư. Là một người nông dân yêu làng tha thiết: ông hay
khoe về làng mình; ngày nào cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh
ảnh để lắng nghe tin tức về làng. Ruột gan ông cứ múa lên, trong
đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích khi nghe về những chiến công của
làng.

Một hôm, tại quán nước, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt
gian theo giặc. Ông cảm thấy khổ tâm, nhục nhã và xấu hổ vô cùng,
về nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà nước mắt trào ra. Ông
không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà, norm nớp lo sợ. Ông Hai lâm vào
hoàn cảnh bế tắc khi bà chủ nhà có ý đuổi khéo gia đình ông, nhưng
không thể về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Ông chỉ
biết tâm sự với đứa con về nỗi lòng của mình.

Chỉ khi thông tin được cải chính, rằng làng chợ Dầu vẫn kiên
cường đánh giặc ông mới vui vẻ và phấn chấn hẳn lên. Ông đi khoe
với bác Thứ, với mọi người: nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc
phá, về nhà, ông vui vẻ mua quà cho lũ con.

d. Ngôi kể

- Truyện được kể theo ngôi thứ ba.

- Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm
nhận giác chân thực cho người đọc.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện


- Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt
gian theo Tây.

+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với
tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh
diện về nó thì bỗng nghe tin làng lập tề theo giặc.

+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình
yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến
của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt
Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai.

+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống truyện đã tạo nên một cái thắt nút
cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm
chất của nhân vật, góp phần thế hiện chủ đề của tác phẩm.

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết

- Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể về nó với niềm say mê, náo
nức đến lạ thường:

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Ông khoe con đường làng lát toàn
đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị
quan tổng đốc trong làng;...

+ Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng
chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ,
những giao thông hầm hào;...

- Khi buộc phải tản cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:
+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện
về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng.

+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết
người nghe có thích hay không.

+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình
chiến sự.

Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất
tự nhiên, chân thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai với làng chợ
Dâu của mình.

b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

• Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hồ như không thế điều khiển
được cơ thê của mình: “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân
rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”.

- Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin
vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người tản cư kể rành rọt quá, lại
khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông
không thể không tin.

• Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám
ảnh, lo lắng, day dứt:

- Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn
Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.

- Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “nước
mắt ông cứ tràn ra”.

- Muôn vàn nỗi lo ùa về trong tâm trí ông:


+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì
là trẻ con làng Việt gian: “Chúng nó cùng là trẻ con làng Việt gian đấy
ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn,
bằng ấy tuổi đầu”.

+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay,
thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt
cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống
Việt gian bán nước...”

+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh
sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta
chứa”.

Một loạt những câu hỏi gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối rắm,
không có lối thoát của ông Hai.

- Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nam chặt hai tay mà
rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm
cái giống Việt gian bán nước để nhục nhà thế này”.

- Niềm tin bị phản bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé
trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.

• Mấy ngày sau đó, ông hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với
cuộc sống xung quanh:

- Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình
hình bên ngoài: “một đám đông tủm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng
nói cười xa xa ông cũng chột dạ”.

- Lúc nào ông cũng nơm nớp, hoang mang, lo sợ tưởng như người
ta để ý đến, bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng
Tây, Việt gian, cam nhông... là ông lùi ra một góc, nín thít: “Thôi lại
chuyện ấy rồi!”
- Ông không dám nói chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn
thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông đớn đau.

• Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã dẫn đến cuộc xung
đột nội tâm ở ông Hai.

- Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và bế tắc hoàn
toàn:

+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trơ về làng” - rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ
về làng, bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ
Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”.

+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn
nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải
thù”.

Quyết định của ông Hai đã khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ,
thiêng liêng, rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Điều gì đã
khiến ông có sự lựa chọn dứt khoát đó? Phải chăng chính niềm tin
vào Đảng, cách mạng, kháng chiến đã hướng ông có được sự lựa
chọn đó.

- Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình
cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó gần hết cuộc đời.
Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi
bỏ nỗi lòng.

+ Ông trút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con
ngây thơ, bé bỏng.

+ Tình yêu sâu nặng với làng, nên ông muốn lí trí và trái tim bé bỏng
của con phải khắc sâu, ghi nhớ câu: “Nhà ta ở làng chợ Dầu” - nơi
chôn rau cắt rốn của bố con ông.
+ Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với
cụ Hồ của bố con ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ
trên đầu, trên có soi xét cho bố con ông”.

+ Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền vững và rất thiêng
liêng ấy: “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám
đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

Dưới hình thức trò chuyện, tâm với đứa con, nhưng thực chất là
lời tự vấn, để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của
mình với làng, kháng chiến, cách mạng; để làm vơi đi phần nào
những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay.

Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai, Kim Lân đã khám phá và
làm nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân cách
mạng: hài hòa giữa lòng yêu làng và tình yêu nước, nhiệt tình cách
mạng.

c. Khi nghe tin làng cải chính

- Khi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc, như có một
phép hồi sinh khiến thái độ ông Hai thay đổi hẳn: “Cái mặt buồn thiu
mọi ngày bong tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.

- Nó giúp rũ sạch mọi đau khổ, tủi nhục, bế tắc và đưa ông trở lại
với “thói quen” cũ, lật đật đi khắp nơi khoe làng: “Tây nó đốt nhà tôi
rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính
cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo, Láo hết! Toàn là
sai sự mục đích cả”.

- Phải chăng, khi niềm tin và tình yêu bị phản bội, bị dồn nén trong
những dằn dặt, khủng hoảng quá lâu dễ khiến con người ta có
những suy nghĩ không bình thường?
+ Đối với người nông dân, căn nhà là tất cả cơ nghiệp, là biết bao
công cày cuốc mà nên. Vậy mà ông sung sướng, hê hả loan báo cho
mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn!” một
cách tự hào như một niềm vui, niềm hạnh phúc.

+ Nhưng ngôi nhà là tài sản riêng, dù có mất nhưng danh dự vẫn
còn, thế là ông vui, ông hạnh phúc.

+ Đó là minh chứng hùng hồn, chứng minh cho làng ông, cho bố con
gia đình ông và những người tản cư trên đây không theo giặc, vẫn
một lòng thủy chung, tình nghĩa và sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng
chiến.

Ông Hai chỉ là một người nông dân bình thường như bao người
nông dân khác nhưng ông đã biết hi sinh tài sản riêng của mình cho
kháng chiến. Điều này cho thấy cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi
sâu vào tiềm thức của người dân để trở thành cuộc kháng chiến toàn
dân.

- Ông phấn khởi mua quà về chia cho các con và có ý định nuôi con
lợn để ăn mừng,...

Tình yêu làng và lòng yêu nước của ông Hai thực sự sâu sắc và
khiến người đọc vô cùng cảm động. Tin cải chính đã trả lại cho ông
tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về làng. Nó đã xây dựng lên trong ông
những “bức tường thành” vững chắc không súng đạn nào có thể
công phá, cháy rụi được.

3. Những đặc sắc về nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tác giả đặt nhân vật
vào tình huống cụ thể để thử thách nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ
chiều sâu tư tưởng và chủ đề của truyện.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:


+ Khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu
làng, yêu nước tha thiết,...

+ Tác giả miêu tả rất cụ thể những diễn biến nội tâm từ suy nghĩ,
hành động đến ngôn ngữ,...

+ Với thủ pháp nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm đã diễn tả
một cách chính xác và mạnh mẽ những ám ảnh, day dứt của nhân
vật.

Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và
thế giới tinh thần của họ.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đặc sắc:

+ Ngôn ngữ truyện mang tính khẩu ngữ và lời ăn, tiếng nói hàng
ngày của người nông dân.

+ Lời kể chuyện và lời nói của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái,
giọng điệu.

+ Ngôn ngữ nhân vật vừa có nét chung của người nông dân Việt
Nam cần cù, chịu khó, lại vừa mang đậm những nét cá tính riêng của
nhân vật nên rất sinh động.

- Cách trần thuật truyện tự nhiên, linh hoạt với những chi tiết sinh
hoạt, đời sống hàng ngày xen vào với mạch tâm trạng khiến cho
truyện sinh động hơn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Kim Lân đã tái hiện thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông
Hai để mà qua đó làm nổi bật nét đẹp trong tâm hồn người nông dân
Việt Nam: vẻ đẹp của tấm lòng chất phác, nồng hậu, vừa yêu làng,
lại vừa yêu nước, nhiệt tình với cách mạng.

2. Nghệ thuật

- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

- Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.

- Sự kết hợp giữa ngôn ngừ độc thoại và đối thoại.

- Hệ thống hình ảnh chi tiết, giàu sức gợi.

Văn bản 5: Lặng lẽ Sa Pa

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Thành Long (1925 - 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ kháng chiến chống Pháp và chọn truyện
ngắn cùng bút kí làm sở trường của mình.

- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút có nhiều đóng góp
cho nền văn xuôi cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại
nói chung.

-Tác phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: cuộc đấu tranh
chống Mĩ của nhân dân Liên khu V và công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Phong cách sảng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ
nhàng, tình cảm, thường pha chút chất kí; ngôn ngữ trong sáng, giàu
chất thơ; và luôn xây dựng được những nhân vật mang tính hình
tượng;...
2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970. Tác phẩm
là kết quả của chuyến đi thâm nhập thực tế Lào Cai về đề tài cuộc
sống, con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc.

- Tác phẩm được in trong tập “Giữa trong xanh” năm 1972.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” là một nhan đề giàu chất thơ, góp phần
khắc họa chủ đề, tư tưởng của tác phẩm:

+ Lặng lẽ gợi đến một khung cảnh rất êm đềm, thanh tĩnh của Sa Pa.

+ Nhưng “Lặng lẽ” chỉ là cái không khí bên ngoài của cảnh vật. Đằng
sau vẻ lặng lẽ ấy là sự miệt mài, nhiệt huyết, hăng say để cống hiến
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Dưới vẻ lặng lẽ của Sa Pa luôn có những con người âm thầm làm


việc, cống hiến cho sự đổi thay của đất nước. Họ chính là những
dòng sông cuộn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất nước thêm đẹp
giàu.

c. Tóm tắt

“Lặng lẽ Sa Pa” kể về nhân vật anh thanh niên hai bảy tuổi, sống
một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù
bao phủ. Công việc chính của anh là công tác khí tượng kiêm vật lí
địa cầu. Trước những trách nhiệm nặng nề của công việc, bốn năm
anh chưa về nhà một lần. Anh luôn thèm cảm giác được gặp gỡ và
trò chuyện với mọi người. Bởi vậy, anh đã dùng cây chắn ngang
đường để mong được tiếp xúc, làm quen với mọi người.
Trong một lần tình cờ, anh có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với
một ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Anh mời họ lên nhà chơi. Nơi anh
ở ngăn nắp, gọn gàng đã tạo được ấn tượng tốt với ông họa sĩ. Anh
thanh niên tâm sự, chia sẻ với họ về cuộc sống, niềm đam mê công
việc và sở thích đọc sách, nuôi gà, trồng hoa của mình.

Ông họa sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh
niên và định vẽ một bức chân dung về anh. Nhưng anh đã từ chối và
giới thiệu ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu
bản đồ đất sét, mà theo anh là đáng để vẽ hơn. Cô kĩ sư sau khi trò
chuyện với anh đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và yên tâm
nhận công tác ở Lai Châu.

Sau ba mươi phút trò chuyện, họ chia tay. Anh thanh niên tiếp tục
với công việc của mình. Trước khi tạm biệt, anh không quên biếu hai
người một làn trứng gà và tặng cô gái một bó hoa đẹp.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và hệ thống nhân vật

- Tình huống truyện khá đơn giản, đó chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ
giữa một anh thanh niên làm công tác khi tượng trên đỉnh Yên Sơn
với bác lái xe và hai hành khách.

- Tác dụng:

+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự
nhiên, khách quan, không đột ngột.

+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ
những nhân vật khác.

+ Các nhân vật trong truyện dần xuất hiện một cách tự nhiên, lặng lẽ
đã góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
- Hệ thống nhân vật:

+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung.
Song chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu
như chưa có cá tính.

+ Các nhân vật trong truyện, từ nhân vật chính đến các nhân vật
phụ đều không có tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới
tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh niên, bác lái xe, ông họa sĩ già,
cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,...).

+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của
nhân vật chính

Hệ thống nhân vật được xây dựng theo dụng ý nghệ thuật của tác
giả để thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Họ là những con
người vô danh (không tên), ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, ở
nhiều nơi trên đất nước đang ngày đêm lặng lẽ, say mê trong công
việc để cống hiến cho đất nước. Điều đó làm tăng thêm sức khái
quát của tác phẩm.

2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa

- Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống


động: “Nắng bất ngờ bắt đầu lên tới, đốt cháy rừng cây. Những cây
thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc
dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái
đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xưa, cuộn
tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường
cái, luồn cả vào gầm xe...”

+ Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc
trưng và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng
người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá,
thưởng thức.
+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng... đốt cháy
rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng,
khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.

- Nghệ thuật nhân hóa “nắng... đốt cháy rừng cây”, “mây bị nắng
xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của
thiên nhiên Sa Pa.

Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ
mộng với những đường nét, hình khối, màu sắc đặc trưng của thiên
nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để Nguyễn Thành Long tô đậm,
khắc sâu vẻ đẹp của con người.

3. Nhân vật anh thanh niên

a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công
việc

- Một người yêu nghề, dám chấp nhận hi sinh:

+ Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc
biệt: Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và
mây mù lạnh lẽo.

+ Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc, ta với công
việc là đôi, sao gọi là một mình được?... Công việc của cháu gian khổ
thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”.

+ Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng
ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”.

+ Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà
cả trong chiến đấu: Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta
hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

- Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:


+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát song
anh vẫn luôn tự giác, tận tụy: Mỗi ngày đều bốn lần đi “ốp” để báo
về nhà, không ngần ngại những đêm mưa tuyết,...

+ Tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc, đúng giờ giấc và
chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ
hết ba mươi phút.

+ Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình.

Anh thanh niên là hiện thân cho những con người lao động mới
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước thêm giàu
đẹp.

b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống

- Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc
trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi
gà, nuôi ong để làm giàu nguồn lương thực cho mình.

- Luôn tự trau dồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao
hiểu biết và chất lượng cuộc sống.

- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay
trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng, ngăn nắp: Một căn nhà ba
gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ.

c. Một con người chân thành, cởi mở và hiếu khách

- Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm, trò chuyện với
con người. Vì thế, anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng
những chuyến xe hiếm hoi.

- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất tả, cuống
cuồng như không kiềm được cảm xúc: “Anh chạy vụt đi, cũng tất tả
như khi đến”, “Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ
nghĩ".

- Anh là một người thân thiện, cởi mở ngay cả với những người mới
gặp lần đầu: Niềm nở, hồ hởi không giấu lòng, pha trà, tặng hoa và
cả quà ăn đường.

- Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ: Đem từng phút vì sợ hết
mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.

- Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn
sàng yêu thương, sẻ chia: Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị
bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để bác gái ngâm rượu uống.

Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và
con người nơi mảnh đất Sa Pa.

d. Một con người khiêm tốn

- Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những
bước chuyển mình của đất nước: phụ vụ sản xuất và phục vụ chiến
đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé
so với bao người khác.

- Khi ông hoạ sĩ xin kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không,
không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác
đáng cho bác vẽ hơn”.

Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên
hiện lên thật chân thực, sinh động, đẹp đẽ. Giữa thiên nhiên im lặng,
hắt hiu, giữa cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa đã vang lên những âm
thanh trong sáng, những sắc màu lung linh của những con người lao
động mới như anh.

4. Các nhân vật phụ


a. Nhân vật ông họa sĩ

- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có
vị trí quan trọng, mang quan điểm trần thuật của tác giả. Người kể
chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để
quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.

- Trước hết, ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi
tìm cái đẹp: “Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực
của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc
đời... Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng
nhọc, gian nan”.

- Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên, ông họa sĩ đã xúc
động và bối rối. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao
ước được biết. Ôi! Một nét thôi cùng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi
gợi một ý sáng tác”,

- Trước chàng trai trẻ đáng yêu, ông họa sĩ bồng thấy như “nhọc
quá” vì những điều người ta suy nghĩ về anh.

- Những lời tâm sự anh thanh niên, khiến ông chấp nhận những thử
thách của quá trình sáng tác.

Những cảm xúc và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và về
những vấn đề của nghệ thuật, của đời sống được gợi lên từ câu
chuyện của anh thanh niên, đã làm cho chân dung nhân vật chính
thêm sáng đẹp và tạo được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.

b. Nhân vật cô kĩ sư

- Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh
liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai
Châu nhận nhiệm vụ.
- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, được nghe những điều
anh tâm sự, chia sẻ về bản thân và những người khác khiến
cô “bàng hoàng”.

- Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình
cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ:

+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhèo mà cô đã
từ bỏ.

+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của
mình.

- Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh
niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa
nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên
anh cho thêm cô”,

Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và
những suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là
sự đồng cảm về lí tưởng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống
Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư, ta nhận ra vẻ đẹp
và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.

c. Nhân vật bác lái xe

- Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dần dắt, giới
thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của
tác phẩm - “người cô độc nhất thế gian”.

- Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã
có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa.
- Là một con người niềm nở và cởi mở: Trên khuôn mặt hồ hởi,
bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa
sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên.

- Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.

- Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: Bác mua sách
giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới;...

Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa
sĩ là một phần quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một
cách tự nhiên và góp phần dẫn dắt chuyện.

d. Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp

- Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng.
Anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng cao 3142m; ông kĩ sư vườn rau
dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong
lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào.

- Dám hi sinh cả tuổi trẻ và hạnh phúc cá nhân: Anh cán bộ


nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm
mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và
mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan.

Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách
trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh
niên. Song, họ đã thể hiện được những phẩm chất vàng trong tâm
hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của truyện
được mở rộng.

III. Tổng kết

1. Nội dung
- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những
con người lao động lặng lẽ, say mê mà tiêu biểu là nhân vật anh
thanh niên. Qua đó tác giả đã khẳng định vẻ đẹp của những người
lao động trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện hợp lí với cách trần thuật tự nhiên.

- Truyện có sự kết hợp giữa phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm
và bình luận.

- Lời văn mượt mà, trau chuốt, giàu chất thơ và chất hội họa.

Văn bản 6: Chiếc lược ngà

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang.

- Ông là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ.

- Nguyễn Quang Sáng bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1952 và thử
sức mình trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,
kí,...

- Ông sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường Nam Bộ.
Vì thế sáng tác của ông xoay quanh con người, cuộc sống vùng
Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến và sau hòa bình.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng là lối
viết chân chất, mộc mạc, bình dị cộng với giọng văn đậm chất Nam
Bộ...
2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966. Đây là giai đoạn
mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt và tác giá đang
hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên.

b. Ý nghĩa nhan đề

“Chiếc lược ngà” là hình ảnh, chi tiết trung tâm của tác phẩm, gắn kết
cuộc đời tình cách của các nhân vật và góp phần khắc họa sâu nội
dung truyện.

- Với bé Thu, chiếc lược ngà là ước mơ, là món quà đầu tiên và cũng
là kỉ vật cuối cùng của người cha. Bởi vậy, chiếc lược ngà là kỉ vật,
hình ảnh của người cha.

- Với ông Sáu, chiếc lược ngà không chỉ là món quà ông dành tặng
con mà còn là hình bóng của cô con gái yêu quý. Bởi vậy, chiếc lược
ngà là tất cả tình thương, nỗi nhớ ông gửi gắm cho cô con gái bé
bỏng.

- Với bác Ba, chiếc lược ngà là sự trao gửi thiêng liêng giữa
người cán bộ cách mạng với đứa con gái của người đồng đội đã
nằm lại nơi chiến trường.

- Với hai cha con ông Sáu, chiếc lược ngà là biểu tượng thiêng liêng
bất diệt và cầu nối tình cảm sâu nặng của hai cha con.

b. Tóm tắt tác phẩm

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi mới có dịp về thăm nhà với hi
vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, chưa hề một lần gặp
mặt. Mấy ngày đầu bé Thu không nhận ra ba do vết thẹo trên mặt
làm ông không giống với người cha chụp chung bức hình với má mà
em biết. Em bướng bỉnh và đối xử với ông Sáu như một người xa lạ.

Nghe bà ngoại kể, bé Thu nhận đã cha và tình cảm cha con đà
thức dậy một cách mãnh liệt. Song đó cũng là lúc ông Sáu phải trở
lại chiến khu. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình thương, nỗi nhớ
vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng
thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng
đội chuyển chiếc lược ngà cho con gái.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện đặc sắc

- Tác giả đã xây dựng hai tình huống truyện đặc sắc:

+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách,
nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra ông Sáu là ba. Đến lúc
em nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường trở về đơn vị. Tình huống
này đã bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với ba.

+ Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ và cá
sự hi vọng vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng
chưa kịp tặng con thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Trong lúc
hấp hối ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con. Tình
huống này bộc lộ tình cảm thắm thiết của ông Sáu dành cho con.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Tình huống truyện kịch tính, chứa nhiều yếu tố bất ngờ tạo nên
nghệ thuật thắt nút. Từ đó, thể hiện tình cảm cha con thiêng liêng,
sâu nặng.
+ Đật nhân vật vào những tình huống éo le để những tình cảm cha
con được đẩy lên đến cao trào. Qua đó, tác giả muốn khẳng định một
điều hết sức thiêng liêng: Tình cảm cha con là bất tử mà không một
súng đạn nào có thế chia cắt được.

1. Nhân vật bé Thu

a. Trước khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Thu là một người thương cha vô cùng. Hơn ai hết, cô luôn mong cái
ngày được gặp cha để được vỗ về, chở che. Bởi thế, cuộc gặp gỡ
sau tám năm xa cách những tưởng hai cha con sẽ vỡ òa trong niềm
hạnh phúc thì trớ trêu thay bé Thu lại bộc lộ một thái độ bất
thường.

+ Trước sự xúc động, vồ vập của ông Sáu, cô bé từ ngạc nhiên


đến hốt hoảng: “tròn xoe mắt”, mặt tái đi, vụt chạy và thét lên để gọi
má cầu cứu.

+ Trong suốt ba ngày phép, khi ông Sáu càng dồn hết tình cảm để bù
đắp cho Thu thì cô bé lại càng lạnh nhạt, xa cách, thậm chí tỏ ra
ngang ngạnh, bướng bỉnh.

+ Cô bé kiên quyết không gọi ông Sáu một tiếng ba: Nói trống
không với ông Sáu (vô ăn cơm; cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái).
Trong lúc khó khăn, nguy cấp khi phải chắt nước một nồi cơm to,
nặng quá sức thì cô bé vẫn loay hoay, tự xoay sở.

+ Cô bé từ chối mọi sự vỗ về, chăm sóc của ông Sáu: Trong bữa
cơm, ông Sáu gắp cho nó miếng trứng cá thì nó hất ra khiến cơm
bắn tung tóe,... Chi tiết này đã đẩy câu chuyện lên đỉnh điểm của kịch
tính.
+ Khi bị trách phạt, phản ứng lại hành động của ông Sáu, cô bé đã
ngay lập tức bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây
lòi tói cho kêu rổn rảng thật to.

- Nguyên nhân:

+ Gián tiếp: Bé Thu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước
đang chiến tranh. Bởi vậy, suốt tám năm cô bé chỉ biết mặt ba qua
một tấm hình ba chụp chung với má.

+ Trực tiếp: Ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt ông Sáu đã khiến cho
gương mặt ông khác lạ so với hình ảnh người ba trong hình và tâm
trí của cô bé.

+ Do cô bé rất yêu ba, muốn bảo vệ hình ảnh người ba của mình,
không cho phép người lạ mặt kia có quyền mạo nhận.

Sự ngang ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu không hề đáng trách.


Phản ứng tâm lí của cô bé là hoàn toàn tự nhiên. Bởi sinh ra trong
hoàn cảnh chiến tranh, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những khắc
nghiệt, éo le. Và người lớn cũng không ai chuẩn bị tâm lí cho em đón
nhận những điều bất thường.

Miêu tả thái độ, hành động bất thường của cô bé, tác giả đã tái
hiện hoàn cảnh cảnh éo le trong chiến tranh; đồng thời khắc họa
được một cô bé bướng bỉnh, gan góc, cá tính đến kì lạ.

b. Khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu trở về nhà đúng vào buổi
sáng ông Sáu phải lên đường về đơn vị. Cô bé đã đột ngột thay
đổi trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người.

+ Không còn ngang ngạnh, cau có, cố chấp mà thay vào đó là khuôn
mặt “sầm lại buồn rầu” và “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.
+ Khi cô bé bắt gặp cái nhìn trìu mến và buồn rầu của ba thì “đôi
mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

+ Khi ông Sáu khẽ cất lời từ biệt thì cô bé mới chịu kêu ba một
tiếng đến xé lòng: “Ba... a... a... ba”.

+ Cô bé chạy xô lại ôm chặt lấy ba mình, hôn ba và hôn lên cả cái vết
thẹo dài trên má.

+ Cô bé cất lời giữ ba ở nhà: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với
con”. Đây mà một ước mơ rất thực, nó phản chiếu tình cảm gắn bó
của bé Thu dành cho ba.

+ Cô chia tay ba với ao ước được ba mua cho cây lược ngà. Cho
thấy cô muốn có vật kỉ niệm của ba để được thấy ba luôn bên mình.

Trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, bé Thu
không che giấu sự gắn bó và tình cảm của mình dành cho ba.

Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần
nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu
bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng rất giàu tình cảm.

2. Nhân vật ông Sáu

a. Trong ha ngày về phép thẫm nhà

- Trở về sau tám năm xa cách, bao nỗi nhớ thương khiến ông
Sáu xúc động mãnh liệt.

+ Nôn nao trong lòng, không ghìm được xúc động khiến vết thẹo
trên má đỏ ửng, giật giật, trông dễ sợ.

+ Ông háo hức, vội vã như không thể ghìm thêm giây phút
nào: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên,
xô chiếc xuồng tạt ra... vội vàng với những bước chân dài”.
+ Ông kêu to hai tiếng thiêng liêng, thèm khát được gọi, được
nghe bấy lâu nay: “Thu! Con”.

- Trước thái độ bất thường của con, ông rơi vào tâm trạng đau đớn,
tủi hổ đến vô cùng: “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt
anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị
gãy”.

Những từ miêu tả “đứng sũng lại’’, “mặt anh sầm lại’’ và “tay buông
xuống như bị gãy” đã diễn tả được nỗi đau dường như quá lớn, quá
sức chịu đựng với ông Sáu.

- Trong ba ngày phép, ông Sáu làm mọi cách để bé Thu thay
đổi, kiên nhẫn chờ đợi tình cảm ở con.

+ Ông không đi đâu xa, mà luôn gần gũi, “lúc nào cũng vỗ về con”.
Ông muốn bù đắp cho con suốt tám năm trời xa cách.

+ Ông không trách giận mà chỉ khe khè lắc đầu cười trước sự
bướng bỉnh của con bé.

+ Thậm chí khi con bé từ chối một cách quyết liệt sự chăm sóc của
ông, ông đau đớn đến độ không giữ được bình tĩnh mà đánh con một
cái.

Ông vô cùng dịu dàng, kiên nhẫn, khoan dung với con.

- Khi chia tay thì tình cảm cha con sâu nặng đà được bộc lộ rất xúc
động:

+ Ông không dám lại gần con bé, “chỉ đứng nhìn nó,... với đôi mắt
trìu mến lẫn buồn rầu” cố gắng kìm giữ cái khát vọng được ôm con
vào lòng.

+ Khi con bé nhận ông, ông “ghìm được xúc động và không muốn
cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau
nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Ông không muốn con bé trông
thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình, đó cũng là những giọt
nước mắt hạnh phúc ứa ra từ nỗi xúc động và thương con sâu sắc.

+ Ông hứa với con bé sẽ trở về với chiếc lược ngà tặng con.

Tác giả đã tái hiện được tình cảm yêu thương con sâu sắc của
ông Sáu, nó đã chiến thắng sự tàn bạo của chiến tranh, chiến thắng
mọi biệt li, cách trở. Tình cảm ấy luôn vẹn nguyên, ấm áp và tràn
đầy.

b. Khi ông Sáu trở lại chiến trường

- Ông luôn ân hận, khổ tâm vì nỡ trách phạt con.

- Ông dồn tất cả tình yêu và nỗi nhớ vào việc làm chiếc lược
ngà tặng con.

+ Khi kiếm được khúc ngà, ông không gìm được xúc động, đã “hớn
hở như một đứa trẻ được quà”.

+ Ông cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như
người thợ bạc.

+ Ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

+ Những lúc nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và mài lên mái
tóc cho cây lược thêm bóng.

Ông Sáu đã dồn tất cả tình cảm của mình dành cho con vào việc
làm chiếc lược ngà, dẫu cây lược đó chưa lần nào được chải trên
mái tóc của bé Thu nhưng đã phần nào gỡ rối những mối tơ lòng, vơi
đi nỗi dày vò ân hận và nuôi dưỡng khát vọng đoàn viên.

- Thậm chí, cái chết cũng không lấy đi được tình yêu con của ông
Sáu.
+ Trong một trận càn, vết thương đã khiến ông kiệt sức, vậy mà ông
vẫn dốc hết tàn lực, trao cây lược ngà cho đồng đội mang về cho bé
Thu. Trong giây phút ấy, ông ủy thác, gửi gắm tất cả tình yêu, nỗi
nhớ của mình qua ánh mắt.

+ Cây lược được trao tận tay cho bé Thu, điều đó cho thấy tình cha
con đã không hề chết mà trở thành điểm tựa để nâng đỡ bé Thu
trưởng thành.

Ông Sáu trở thành một biểu tượng đẹp cho tình yêu thương; sự ân
cần và che chở của người cha dành cho con mình, qua đó ta thấy
được sự bất tử của tình cảm cha con.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Tái hiện thành công tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo
le của chiến tranh.

- Lên án sự tàn bạo của chiến tranh.

- Qua đó cho thấy bi kịch, tình cảm đẹp của con người trong chiến
tranh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng được tình huống truyện éo le mà độc đáo.

- Ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.

- Lối kể chuyện tự nhiên, giàu cảm xúc.

- Sáng tạo được những hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi.

Văn bản 7: Bến quê


I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Minh Châu (1932 - 1989), quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An.

- Ông thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước.

- Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những cây bút xuất
sắc nhất của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của
ông được thể hiện rõ qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, với quan niệm con người mang vẻ đẹp của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu đã xây
dựng nên những nhân vật, hình mẫu lí tưởng, đại diện cho vẻ
đẹp của cộng đồng và mang tầm vóc lịch sử.

+ Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu
sắc trong tư tưởng nghệ thuật và quan niệm về con người. Nhà văn
đã xây dựng được những nhân vật ở góc độ đời sống riêng tư cá
nhân với tính cách lưỡng diện, đa chiều, phức tạp của xã hội.

- Phong cách sáng tác: Có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lí cuộc
đời với chất trữ tình lãng mạn; hình tượng nhân vật được soi thấu
trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp; giọng điệu thì trầm tĩnh, khắc
khoải.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Bến quê” được sáng tác năm 1985. Tác phẩm được
coi như là một bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh
Châu.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Bến quê” trước hết là một danh từ và mang đến nhiều lớp nghĩa.

+ Ở lớp nghĩa thực, nó là một bến sông gắn liền bãi bồi bên kia
sông Hồng mà nhân vật Nhĩ nhìn thấy từ khung cửa sổ nhà mình.

+ Ở lớp nghĩa biểu tượng, nó ẩn dụ cho tất cả những gì gần gũi,


bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời của mỗi con người; cho
những điều mà tâm hồn con người gắn bó, yêu thương.

c. Tóm tắt

Nhĩ là người đã từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới nhưng
cuối đời lại nằm liệt giường vì một căn bệnh hiểm nghèo. Anh không
thể tự mình dịch chuyển lấy mười phân trên chiếc giường kế bên cửa
sổ. Mọi sinh hoạt của bản thân anh phải bám níu với vợ con. Chính
những lúc ấy, anh mới cảm nhận hết được nỗi vất vả và đức hi sinh
của vợ.

Vào một buổi sáng mùa thu, Nhĩ nhìn qua cửa số và phát hiện bãi
bồi quen thuộc bên kia sông mang vẻ đẹp lạ kì mà anh chưa một lần
sang thăm. Trong anh, bỗng bừng lên khao khát được đặt chân lên
vùng đất ấy.

Anh sai thằng Tuấn - con trai thay anh sang bên kia sông. Thế
nhưng, thằng Tuấn lại mải sa vào đám cờ thế để lỡ chuyến đò ngang
duy nhất trong ngày. Nhĩ cố sức đu mình, nhoài người, giơ cánh tay
ra ngoài cửa sổ “khoát khoát” như ra hiệu một cách khẩn thiết cho
một người nào đó đi nhanh kẻo lỡ chuyến đò.

II. Trọng tâm kiến thức


1. Tình huống truyện

- Tác giả đã xây dựng được những tình huống trớ trêu và đầy
nghịch lí.

+ Nhĩ vốn là người từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng
vào lúc cuối đời, căn bệnh quái ác đã trói buộc anh trên chiếc giường
bệnh bên góc cửa sổ. Chính lúc đó, anh chợt nhận ra những vẻ đẹp
giản dị, thiêng liêng tồn tại ngay bên cạnh, nhưng bỗng hóa xa xôi.
Đó là một tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông và khao khát
được đặt chân lên đó, nhưng chính anh lại đang không thể thực hiện
được những sinh hoạt cho dù nhỏ nhất của bản thân. Anh gửi gắm
tất cả niềm khao khát ấy lên cậu con trai, nhưng vì ham chơi, Tuấn
đã để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Như vậy, tình huống
nghịch lí thứ nhất đã đẩy nghịch lí thứ hai lên cao trào.

- Tình huống truyện mang tính nhận thức và triết lí sâu sắc.

+ Nhận thức về cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy
những điều bất ngờ, những điều nghịch lí ngẫu nhiên vượt ra ngoài
những dự định, ước muốn, hiểu biết của con người.

+ Mở ra triết lí mang tính tổng kết của cuộc đời, qua những suy ngẫm
của nhân vật: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được
nhưng cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”, thường hướng đến
những điều cao xa mà vô tình bỏ quên những vẻ đẹp gần gũi, giản dị
mà đầy ý nghĩa ngay xung quanh mình.

2. Nhân vật Nhĩ

a. Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên
nhiên
- Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh
đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le:

+ Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới
không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.

+ Cuộc sống hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo khiến anh phải nằm
liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực
quan, anh cảm nhận được thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu
nữa.

Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý
nghệ thuật của nhà văn để nhân vật bộc lộ những cảm nhận và suy
nghĩ một cách tự nhiên.

- Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị,
gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế.

+ Những chùm hoa bằng lăng bên cửa số lúc cuối mùa, đang thưa
thớt và đậm sắc hơn.

+ Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì
như rộng thêm ra”.

+ Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển
từ mặt nước”.

+ Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng
thau xen lẫn màu xanh non.

Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến
xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng,
lại vừa có chiều sâu.
Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần
gũi, vậy mà bỗng trờ nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc
biệt.

b. Những phát hiện của Nhĩ về con người và cuộc sống

- Bằng những linh cảm, trực giác, anh cảm nhận một cách rõ nét
về quỹ thời gian còn lại của đời mình.

+ Anh thấy sắc màu của hoa bằng lăng trở thành một màu tím thẫm.

+ Anh hỏi Liên về tiếng lở đất ở dốc đứng của con sông khi con lũ
dồn về.

- Nhĩ cảm nhận, thấu hiểu được biết bao phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn
từ Liên.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo
vá” và “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”.

+ Anh cảm nhận được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hy
sinh. Nhĩ nói viên Liên – “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm... mà em
vẫn nín thin”, Liên chỉ trả lời — “có sao đâu... miễn là anh sống, luôn
luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”.

+ Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm
chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên.

+ Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng:
Liên lảng tránh những câu hỏi của anh về bài đất lở, bởi chị hiểu
những suy nghĩ, dự cảm không lành trong anh.

+ Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua
bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm.
Nhĩ đã cảm nhận và thấu hiểu một cách trọn vẹn những vất vả,
nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó, anh thêm trân trọng
vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn.

- Nhĩ cũng cảm nhận tình làng, nghĩa xóm qua những nét đáng yêu
của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa"...

Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm
nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình nhất, để cho
anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu
nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê
hương.

- Nhĩ phát hiện ra ý nghĩa của bãi bồi bên kia sông.

+ Đó là một mảnh đất màu mờ, mang theo hơi thở của cuộc
sống: "một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu
sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thơ của đất màu mỡ".

+ Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi
nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: "một chân trời gần gũi, mà lại xa
lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”.

+ Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên
bãi bồi song vấp phải hàng loạt những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên
là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của
mình; Nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai,
nhưng đứa con lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện
một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ
chuyến đò duy nhất trong ngày.

+ Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường
bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để
qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta
trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoặc chùng chình”.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất thành công nhân vật Nhĩ. Anh
là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn để gửi gắm
những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái
vòng vèo, chùng chình để tìm về với bến quê đích thực.

3. Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

Trong truyện, có rất nhiều những hình ảnh được miêu tả mang hai
lớp nghĩa, đó là lớp nghĩa thực và lớp nghĩa biểu tượng.

- Hình ảnh bãi bồi: “màu vàng thau xen với màu xanh non — những
màu sắc tha thuộc quả như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực khung cảnh thiên nhiên với đất đai màu
mỡ.

+ Lóp nghĩa biểu tượng: Đó là vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc để biểu
tượng cho một bến sông quê hay rộng hơn chính là quê hương, xứ
sở.

- Hình ảnh bông hoa bằng lăng lúc cuối mùa: “hoa đã vẫn trên
cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc
hơn”; “những cánh hoa bằng lăng càng thâm màu hơn - một màu tím
thẳm như bóng tối”

+ Lóp nghĩa thực: Tả thực những bông hoa bằng lăng với những sắc
màu đặc trưng lúc cuối mùa.

+ Lóp nghĩa biếu tượng: Biểu tượng cho bước đi của không gian
và thời gian và cho biết sự sống của Nhĩ đang ở vào những ngày
cuối cùng.

- Hình ảnh của một bờ đất lơ: “một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ
bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về,
những tảng đất đá đổ òa vào giấc ngủ”.
+ Lớp nghĩa thực: Tả thực sự dữ dội, chảy xiết của những cơn lũ đầu
nguồn mỗi khi bão về với sức công phá ghê gớm.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang vào
giai đoạn lụi tàn.

- Hình ảnh của Nhĩ với những hành động và cử chỉ lúc cuối
truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long
lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ
đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa
run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn
sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra
phía cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người
nào đó”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực một sự cố gắng, nôn nóng, thúc giục của
Nhĩ với thân tàn, lực kiệt để báo hiệu với một ai đó.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự thức tỉnh của nhân vật,
Nhĩ đã khám phá ra được những vẻ đẹp bình dị, bền vững trong sự
sống ở những giây phút cuối cùng.

Những lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất với nhau là một dụng ý
nghệ thuật của tác giả để truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho thấy những vẻ
đẹp giản dị, gần gũi xung quanh chúng ta với những nghịch lí cuộc
đời để từ đó gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của nhân vật về
giá trị đích thực của gia đình và quê hương.

2. Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và đầy nghịch lí.

- Hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật giàu chất suy tư thể hiện rất rõ nội
tâm của nhân vật Nhĩ.

Văn bản 8: Những ngôi sao xa xôi

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hóa.

- Bà bắt đầu cầm bút từ những năm 1967 và trở thành nữ nhà văn
chuyên viết về truyện ngắn.

- Lê Minh Khuê thuộc số ít các nhà văn đương đại Việt Nam có tác
phẩm được chọn đưa vào chương trình sách giáo khoa.

- Những sáng tác của bà có sự chuyển biến rõ nét qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, hầu hết sáng tác của Lê Minh Khuê tập trung tái hiện
cuộc chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là
những con người tự nguyện dấn thân, tham gia cuộc chiến tranh ác
liệt với tất cả sức mạnh của lí tưởng cách mạng.

+ Sau 1984, sáng tác của bà mới thực sự có sự chuyến biến trong đề
tài và cảm hứng sáng tác, phản ánh đời sống xã hội và con người
trên tinh thần đổi mới. Xuất hiện trong truyện ngắn của bà kiểu
nhân vật cô đơn, tha hóa, nghịch dị.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Lê Minh Khuê thể hiện
một ngòi bút dung dị giàu nữ tính; một giọng điệu đa sắc thái: khi thì
tự hào, ngợi ca, khi lại mỉa mai, châm biếm, lúc lại trữ tình, suy tư;
ngôn ngữ mang màu sắc trong trẻo;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm
đầu tay của Lê Minh Khuê được viết năm 1971. Đó là thời điếm mà
cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt.

- Tác phẩm được đưa vào tuyến tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế
giới” và xuất bản ở Mĩ.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Những ngôi sao xa xôi” vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa gợi đến ý
nghĩa tượng trưng:

+ Nó gắn liền với hình dung, tưởng tượng của Phương Định về
những ngọn đèn trên quảng trường thành phố. Và những ngọn đèn
đó lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích về xứ sở thần
tiên chợt hiện lên trong cảm xúc của Phương Định.

+ “Những ngôi sao” thường nhỏ bé, không dễ nhận ra, và lại ở một vị
trí xa xôi, vì thế nó đòi hỏi phải khám phá, kiếm tìm mới phát hiện
được vẻ đẹp, sức cuốn hút của nó.

+ “Những ngôi sao” gợi vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, mơ mộng và
lãng mạn của những thiếu nữ Hà Thành trẻ trung, xinh đẹp.

+ “Những ngôi sao xa xôi” là ước mơ, khát vọng về một cuộc sống
hòa bình giữa khoảnh khắc bàng hoàng của bom đạn, chiến tranh,
dường như trở nên xa xôi.
+ “Những ngôi sao” còn là biểu tượng cho vẻ đẹp sáng ngời của chú
nghĩa anh hùng, cách mạng trong tâm hồn của những nữ thanh niên
xung trên tuyến đường Trường Sơn nói riêng và chống Mĩ nói chung:
lạc quan, yêu đời, dũng cảm, kiên cường,...

“Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề đậm chất lãng mạn, đặc
trưng cho văn học Việt Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

c. Tóm tắt

“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống, chiến đấu của ba cô


thanh niên xung phong thuộc tổ trinh sát mặt đường: Phương Định,
Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang, dưới chân cao điểm.
Công việc của họ là hàng ngày quan sát máy bay địch ném bom, đo
khối lượng đất đá để san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom
chưa nổ và phá bom. Công việc vô cùng nguy hiểm, luôn phải đối
mặt với cái chết, song họ vẫn bình tĩnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ.

Công việc nguy hiểm là vậy nhưng họ vẫn lạc quan, hồn nhiên, mơ
mộng và rất gắn bó, yêu thương nhau cho dù mỗi người một cá tính.
Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết sức
lo lắng và chăm sóc. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong
lòng các cô gái sự tiếc nuối và biết bao nỗi niềm hoài niệm, khát
khao.

d. Ngôi kể và tác dụng của ngôi kể

- Truyện được trần thuật theo ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện là
nhân vật Phương Định. Đó là một điểm nhìn lí tưởng, phù hợp để
miêu tả hiện thực cuộc chiến đấu ở một trọng điểm trên tuyến đường
Trường Sơn một cách chân thực.

- Truyện viết về chiến tranh, những chi tiết bom đạn, chiến đấu, hy
sinh là không thể thiếu nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội
tâm để làm hiện lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những nữ thanh niên
xung phong. Tạo được hiệu quả như vậy là nhờ vào việc lựa chọn
nhân vật kể chuyện là nhân vật Phương Định.

- Mặt khác, cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã tạo ra sự gần gũi,
thân mật giữa người kể và người đọc nên dễ dàng truyền tải nội
dung.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Phương Định

a. Nữ thanh niên xung phong mang phẩm chất anh hùng

- Phương Định đảm nhiệm một công việc vô cùng vất vả và nguy
hiểm: Cô thuộc tổ trinh sát mặt đường trên tuyến đường Trường
Sơn; "khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom,
đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.

- Quả cảm, kiên cường và giàu lòng yêu nước: Ba năm đảm nhiệm
trên tuyến đường Trường Sơn, phải đảm nhận một công việc mà dầu
đã làm bao nhiêu lần cũng không thể quen, vẫn luôn thấy căng thẳng
đến mức "thần kinh căng như chão” và "tim đập bất chấp cả nhịp
điệu".

- Phẩm chất anh hùng của Phương Định được Lê Minh Khuê thử
thách trong một lần phá bom nổ chậm. Cô đã thể hiện:

+ Có tinh thần trách nhiệm, quên mình vì công việc: “Tôi có nghĩ tới
cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính:
liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm
mìn lần thứ hai?”

+ Bình tĩnh, tự tin chiến thắng nỗi sợ hãi của mình: Khi đến gần quả
bom, cô không cúi khom mà đi thẳng người như một sự thách thức.
+ Dũng cảm, gan dạ đối đầu với những nguy hiểm: “Thỉnh thoảng
lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa
vào da thịt”, nhưng cô không hề bỏ cuộc.

Phương Định là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng, quả cảm, kiên
cường của thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ.

b. Một cô gái xinh đẹp, nhạy cảm và lãng mạn

- Những tưởng bom đạn, chiến tranh khiến cho tâm hồn, cảm xúc
của những thanh niên xung phong trở nên chai sạn, thô ráp. Nhưng
Phương Định vẫn hiện lên mang những nét đẹp trẻ trung và đầy nữ
tính.

+ Cô quan tâm tới hình thức bên ngoài: Luôn chăm chút cho ngoại
hình và rất tự hào về một đôi mắt có cái nhìn sao mà xa xăm.

+ Cô rất tự tin và tự hào về nét riêng của mình: Cái cổ cao kiêu
hãnh như đài hoa loa kèn và tự đánh giá về ngoại hình của mình,
thấy bản thân mình là một cô gái khá.

+ Cô thích làm duyên và đắm mình trong những cảm xúc riêng tư:
Thích ngắm mình trong gương và làm điệu trước các anh bộ đội.

- Cô cũng rất hồn nhiên, yêu đời và mang một tâm hồn mơ mộng:

+ Trong những khoảng thời gian không làm nhiệm vụ, cô thích
hát để quên đi những căng thẳng và thêm yêu đời: Cứ thuộc một
điệu nhạc nào đó là cô lại bịa lời bài hát để ngân nga.

+ Hồn nhiên, vui thích cuống cuồng trước một cơn mưa đá bất
ngờ giữa rừng.

+ Thả hồn trong những kỉ niệm xa xôi: Cô nhớ về những căn nhà
nhỏ bên quảng trường thành phố; những khung cửa sổ, những ngôi
sao trên bầu trời Hà Nội,... Những kỉ niệm này đã nuôi dường, sưởi
ấm tâm hồn cô trong cuộc chiến gian khổ và khốc liệt.

Phương Định vào chiến trường ba năm, hàng ngày phải đối mặt
với khó khăn gian khổ nhưng cô vẫn giữ gìn vẹn nguyên thế giới tâm
hồn mình. Đó chính là biểu hiện của sức sống mãnh liệt của cô gái
trẻ đất Hà Thành.

c. Gắn bó, yêu thương với tất cả đồng đội

+ Luôn quan tâm, lo lắng cho đồng đội: Khi đồng đội ở trên cao
điểm, còn Phương Định trong hang để trực điện đài cô đã gắt với đội
trưởng; sốt ruột chạy ra ngoài một tí;...

+ Yêu thương, chăm sóc chu đáo cho đồng đội như đứa em trong
nhà: Cô bóc kẹo cho Nho ăn; khi Nho bị thương thì lo lắng, chăm sóc
tận tình cho Nho và cảm thấy đau đớn như chính mình bị thương; chỉ
muốn bế Nho ở trên tay.

+ Cô rất thấu hiểu những cảm xúc, tâm trạng chị Thao khi Nho bị
thương, và coi chị như người chị cả trong gia đình.

Lê Minh Khuê đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật
Phương Định, một người thiếu nữ trẻ trung, mơ mộng giữa chiến
tranh khốc liệt vẫn tràn đầy niềm tin yêu. Cô xứng đáng trở thành
biểu tượng nữ anh hùng trong văn xuôi chống Mĩ.

2. Nhân vật chị Thao

- Chị Thao là tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường. Khi làm nhiệm vụ, chị
tỏ ra là một người điềm tĩnh, quyết đoán và rất táo bạo.

+ Trong những khoảnh khắc người khác có thế “thần kinh căng như
chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng chị bình tĩnh đến phát
sợ: Khi sắp phải băng mình lên trên cao điểm chị vẫn bóc bánh quy
để ăn ngon lành.

+ Trở về từ trận chiến dữ dội, ác liệt trên cao điểm, chị vẫn bình thản
như không.

+ Trong mọi hoàn cảnh, chị luôn có những mệnh lệnh đầy quyết
đoán: Khi có trận chiến, chị lệnh cho Phương Định ở lại hang để trực
điện đài còn chị và Nho thì lên mặt đường; Lúc Nho bị thương, dù rất
lo lắng, mặt tái đi, mắt mờ đi như không có sự sống nhưng chị không
khóc;...

Chị Thao là người bình tĩnh, cứng cỏi nhất của tổ trinh sát mặt
đường.

- Bên ngoài công việc, chị còn hiện lên với một tâm hồn nhạy cảm,
đầy nữ tính và giàu tình cảm.

+ Một tâm hồn lãng mạn, yêu ca hát: Chị hay hát dù rằng giọng chị
rất chua và sai nhạc; Chị có ba quyển sổ dày để chép bài hát.

+ Như bao cô gái khác, chị cũng thích làm đẹp: lông mày của chị thì
tỉa nhỏ như cái tăm; áo lót của chị thì cái nào cũng thêu chỉ màu.

+ Chị Thao cũng có những nỗi sợ hãi rất nữ tinh: rất sợ máu và sợ
vắt.

+ Chị lo lắng, quan tâm cho những người đồng đội nhưng rất kín
đáo: khi Nho bị thương mặt thì tái nhợt, mắt thì mờ trắng như không
còn sự sống; chị cuống quýt quanh quẩn bên Nho;....

Qua vẻ đẹp đầy nữ tính đà tạo nên chiều sâu tư tưởng cho nhân
vật và đưa nhân vật trở nên gần gũi, sống động hơn, như một nữ
anh hùng trong cuộc sống đời thường.

3. Nhân vật Nho


- Nho là người ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường nên được các
chị yêu chiều như một cô em út trong gia đình. Nhưng trong công
việc, cô hiện lên thật cứng rắn, mạnh mẽ và can đảm.

+ Có tinh thần trách nhiệm, cứng rắn trong công việc: Cùng với các
chị trong tổ trinh sát, cô dũng cảm đối mặt với đạn bom, khói lửa để
hoàn thành công việc.

+ Cô cũng rất gan dạ, dũng cảm, kiên cường trước những khó
khăn: Khi bị thương, dù áp lực của đạn bom khiến cho cô xanh tái đi
và cảm thấy như không thở được nhưng cô không kêu rên một tiếng.

- Bên cạnh đó, Nho đã hiện lên với những nét rất đáng yêu.

+ Cô có cái cổ tròn, với những nét vẻ xinh xắn, nhỏ nhắn, dễ


thương như một que kem trắng bé nhỏ, khiến cho Phương Định yêu
thương muốn bế ở trên tay.

+ Nho rất hay vòi vĩnh, làm nũng các chị và hay đòi ăn kẹo.

Dẫu ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường, song Nho đã mang
phẩm chất tốt đẹp và những cá tính riêng khó lẫn so với các chị.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong truyện ngăn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã khắc
họa thành công những nữ thanh niên xung phong trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Với những phẩm chất anh hùng, cách
mạng, họ xứng đáng trở thành biểu tượng cho thế hệ vàng của tuổi
trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

2. Nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật, đặc biệt là ngòi bút phân tích tâm lí
nhân vật.

- Ngôn ngữ trần thuật rất phù hợp với nhân vật.

- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập gợi không khí ác liệt của chiến
trường.

Cấu trúc đề thi vào lớp 10 môn Văn năm 2023 |


Kiến thức cần nhớ ôn thi vào 10 Văn
 Siêu sale 12-12 Shopee
Trang trước

Trang sau

Với mục đích giúp phụ huynh và học sinh lớp 9 có cái nhìn toàn diện,
cập nhật mới nhất về cấu trúc đề thi vào 10 môn Văn, đồng thời định
hướng cho mình một lộ trình học và kế hoạch ôn tập phù hợp để có
được kết quả tốt nhất, VietJack trân trọng cung cấp bộ tài liệu cấu
trúc và phạm vi kiến thức cần ôn thi vào 10 môn văn mới nhất. Hi
vọng đây sẽ là bộ tài liệu hữu ích cho tất cả các em.

 Bộ Đề ôn thi vào lớp 10 môn Văn (có đáp án)


 Đề thi vào lớp 10 môn Văn Hà Nội (có đáp án)
 Đề thi vào lớp 10 môn Văn TP.HCM
 Đề thi vào lớp 10 môn Văn Đà Nẵng
Cấu trúc đề thi vào lớp 10 môn Văn năm 2023 | Kiến thức cần
nhớ ôn thi vào 10 Văn
XEM THỬ ĐỀ ÔN VÀO 10 VĂN XEM THỬ ĐỀ VÀO 10 VĂN HÀ NỘI XEM THỬ ĐỀ VÀO 10
VĂN TP.HCM XEM THỬ ĐỀ VÀO 10 VĂN ĐÀ NẴNG

Chỉ 100k mua trọn bộ Đề thi (cả năm) bản word có lời giải chi tiết:

 B1: gửi phí vào tk: 0711000255837 - NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng
Vietcombank (QR)
 B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official - nhấn vào đây để thông báo và nhận
giáo án
I. Cấu trúc đề thi Văn vào 10

STT Nội dung Điểm

- Ngữ liệu: có thể trong hoặc ngoài SGK Ngữ văn 9 (Ngữ liệu
chung cho cả 3 câu hỏi) 3,0
- Có thể gồm 3 hoặc 4 câu.

Nêu thông tin về: tác giả, tác phẩm/ đoạn trích (xuất
Câu 1 1,0
xứ, nội dung chính, phương thức biểu đạt,…)
Phần
I: - Chỉ ra nét nghệ thuật tiêu biểu của đoạn trích.
Câu 2 1,0
ĐỌC - Nêu ý hiểu về giá trị biểu đạt của nét nghệ thuật đó.
HIỂU
- Viết 1 đoạn văn ngắn (tối đa ½ trang giấy thi):

+ Thể hiện suy nghĩ của bản thân về vấn đề được nêu
Câu 3 ra ở đoạn trích. 1,0

+ Thực hiện yêu cầu về kĩ năng viết đoạn/ kĩ năng thực


hành tiếng Việt.
Gồm 2 phần Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học 7,0
Phần
Nghị luận xã hội: viết 1 đoạn văn (200 chữ/ 12 câu/ ½
II:
Câu 1 trang giấy) về một hiện tượng đời sống hoặc một tư 3,0
TẬP
tưởng đạo lí.
LÀM
VĂN Nghị luận văn học: viết 1 đoạn văn hoặc bài văn về
Câu 2 4,0
tác phẩm/ đoạn trích đã học trong sách Ngữ văn 9.

ĐỀ THI MẪU

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc kĩ văn bản và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

"Công nghệ càng trở nên ưu việt sau khi đón tiếp sự ra đời của
những chiếc điện thoại thông minh, hay còn gọi là smartphone. Vậy
điện thoại thì thông minh nhưng người dùng nó, đặc biệt là người trẻ
đã thực sự thông minh"?

Theo một bài báo đưa tin về báo cáo mới nhất từ công ty chuyên
nghiên cứu thị trường SuperAwesome (Anh), trẻ em từ 6-14 tuổi ở
khu vực Đông Nam Á đang dẫn đầu thế giới về tỉ lệ sử dụng
smartphone, cao hơn 20% so với một cường quốc công nghệ như Mĩ.

Trong thời đại công nghệ lên ngôi như hiện nay, smartphone
mang tính cá nhân hóa rất lớn, kết nối internet dễ dàng, linh động và
có thể sử dụng liên tục mọi lúc mọi nơi. Chúng ta dễ bắt gặp những
hình ảnh giới trẻ cặm cụi vào chiếc smartphone, từ đi học đến đi chơi,
vào quán cà phê, siêu thị và thậm chí là chờ đèn đỏ hay đi bộ qua
đường.

Cũng vì smartphone quá vượt trội nên chính nó cũng gây ra


không ít "tác dụng phụ". Nghiện selfie, nghiện đăng status, nghiện trở
thành "anh hùng bàn phím", khiến giới trẻ mất dần sự tượng tác giữa
người với người. Thật đáng buồn khi nhìn thấy trẻ em không còn
thích thú với những món đồ chơi siêu nhân, búp bê, những trò chơi
ngoài trời như đá bóng, nhảy dây,... những thứ từng là cả bầu trời
tuổi thơ. Những buổi sum họp gia đình, ông bà, bố mẹ quây quần bên
nhau còn con cháu lại chỉ biết lướt Facebook, đăng story. Hơn cả là
tình trạng giới trẻ "ôm" điện thoại từ sáng đến khuya làm tổn hại đến
sự phát triển thể chất và tâm hồn.

Không ai phủ nhận được những tính năng xuất sắc mà chiếc
điện thoại thông minh mang lại, song giới trẻ cần có ý thức sử dụng:
dùng điện thoại thông minh (1) một cách thông minh (2).

(Theo Thu Phương, Baomoi.com)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. (0,5 điểm)

Câu 2. Phân loại câu theo cấu tạo, câu "Cũng vì smartphone quá
vượt trội nên chính nó cũng gây ra không ít "tác dụng phụ". thuộc loại
câu gì? Xác định trợ từ trong câu. (0,5 điểm)

Câu 3. Em hãy giải thích ý nghĩa của từ "thông minh" (1) và "thông
minh" (2). (1.0 điểm)

Câu 4. Nội dung chính của văn bản? (1.0 điểm)

II. TẬP LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1: (2.0 điểm)

Viết đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về việc làm thế nào
để "dùng điện thoại thông minh một cách thông minh"?

Câu 2: (5,0 điểm)


Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định, một trong những "ngôi
sao xa xôi" trong truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" của nhà văn
Lê Minh Khuê.

HƯỚNG DẪN ĐÁP ÁN

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1:

- Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận.

Câu 2:

- Câu "Cũng vì smartphone quá vượt trội nên chính nó cũng gây ra
không ít "tác dụng phụ"" thuộc kiểu câu ghép. Trợ từ trong câu
là: "chính".

Câu 3:

- Nghĩa của từ thông minh (1): là khái niệm chỉ một kiểu điện thoại di
động tích hợp nhiều tính năng. Điện thoại thông minh ngày nay bao
gồm tất cả chức năng của máy tính xách tay như duyệt web, wifi, các
ứng dụng của bên thứ 3 trên di động và các phụ kiện đi kèm cho
máy.

- Nghĩa của từ thông minh (2): chỉ cách người dùng sử dụng điện
thoại, sử dụng để thực hiện được các yêu cầu công việc khác nhau
một cách linh hoạt nhưng không lạm dụng quá mức dẫn đến lệ thuộc
vào điện thoại, "nghiện" điện thoại.

Câu 4:

Nội dung chính của văn bản là thực trạng sử dụng smartphone của
giới trẻ trong thời đại công nghệ hiện nay và những hậu quả của nó.

II. TẬP LÀM VĂN (7,0 điểm)


Câu 1:

Làm thế nào để dùng điện thoại thông minh một cách thông
minh?

Gợi ý

- Thực trạng sử dụng smartphone hiện nay có không ít tác dụng phụ
(ví dụ).

- Cách sử dụng điện thoại thông minh một cách thông minh:

+ Sử dụng điện thoại cho những nhu cầu nghe, gọi, thư giãn, giải
quyết công việc như đúng chức năng mà khi người khai sinh ra nó
mong muốn.

+ Tự điều chỉnh khung thời gian biểu hợp lí để không quá chú tâm
đến điện thoại, có thời gian tham gia những hoạt động vui chơi, giải
trí lành mạnh khác.

+ Các trang mạng xã hội nên quản lí nội dung phù hợp với lứa tuổi
của người dùng.

+ Người dùng điện thoại cần nhận thức được điều quan trọng nhất là
giữ gìn, xây đắp mối quan hệ yêu thương với những người thân chứ
không phải những mối quan hệ ảo trên mạng xã hội...

+ Người lớn, cần có sự kiểm soát, làm gương cho trẻ nhỏ.

- Liên hệ bản thân: Là một học sinh, em đã được dùng điện thoại
chưa? Nếu dùng rồi em đã và đang dùng điện thoại thông minh như
thế nào để không ảnh hưởng đến việc học tập cũng như các hoạt
động ngoài trời khác của mình?

Câu 2:
Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định.

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả: Lê Minh Khuê là cây bút xuất sắc của văn học
Việt Nam thời chống Mĩ. Bà có sở trường viết truyện ngắn với đề tài
chiến tranh, thường tập trung khai thác cuộc sống chiến đấu của thế
hệ trẻ ở Trường Sơn.

- Giới thiệu tác phẩm: "Những ngôi sao xa xôi" là một trong những
tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, viết năm 1971, khi cuộc kháng
chiến chống Mĩ của dân tộc ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Truyện
ngắn làm nổi bật hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên
tuyến đường Trường Sơn - gan góc, quả cảm, lạc quan, yêu đời, có
tinh thần trách nhiệm cao.

- Giới thiệu nhân vật Phương Định: Cô là nhân vật chính và cũng
là người kể chuyện - có nhiều phẩm chất tốt đẹp, là đại diện tiêu biểu
cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

2. Thân bài

Phương Định là một cô gái Hà Nội, còn rất trẻ nhưng đã từ biệt quê
hương, gia đình, tham gia vào chiến trường ác liệt. Ở cô có nhiều vẻ
đẹp đáng quý.

a. Đó là một cô gái dũng cảm, kiên cường.

- Phương Định cùng đồng đội đảm nhận một công việc đầy gian khổ,
hiểm nguy trên cung đường Trường Sơn, giữa những năm kháng
chiến chống Mĩ ác liệt:

+ Cô thuộc tổ trinh sát mặt đường hàng ngày phải đo khối lượng đất
đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần phải phá bom.
+ Vì thế, mỗi khi máy bay ném bom phải lao lên mặt đường, đánh
dấu đoạn đường bị bom phá hỏng và những quả bom chưa nổ.

+ Không chỉ vậy, cô và tổ trinh sát còn đảm đương việc phá bom nổ
chậm. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự bình tĩnh, dũng cảm, quên mình
của chiến sĩ vì thần chết luôn lẩn trong ruột những quả bom.

Þ Là công việc mà có làm bao nhiêu lần vẫn không thể quen, vẫn
luôn căng thẳng đến mức "thần kinh căng như chão... tim đập bất
chấp cả nhịp điệu".

Þ Vậy mà, cô vẫn bám trụ 3 năm liền trên tuyến đường Trường Sơn,
chứng tỏ vẻ đẹp quả cảm, ý chí kiên cường, lòng yêu nước của
Phương Định.

- Diễn biến tâm trạng Phương Định trong một lần phá bom nổ chậm:

+ Nền của tâm trạng là không khí căng thẳng: bầu trời, mặt đất vắng
lặng phát sợ.

+ Phương Định đã chiến thắng nỗi sợ hãi của mình: Đi thẳng người
đến bên quả bom; tất cả mọi giác quan của cô trở nên nhạy bén, có
ngày cô phá bom đến 5 lần. Tinh thần trách nhiệm, sự quên mình
trong công việc khiến cái chết trở nên mờ nhạt. Cô chỉ nghĩ đến "liệu
mìn có nổ, bom có nổ không?"

Þ Cô là biểu tượng cho vẻ đẹp của lòng quả cảm, kiên cường của
thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ.

b. Vẻ đẹp tâm hồn nhạy cảm, mơ mộng, giày yêu thương

- Nét đẹp trẻ trung, hồn nhiên, mơ mộng:

+ Cô luôn chăm chút cho ngoại hình và rất tự hào về đôi mắt "có cái
nhìn sao mà xa xăm" và cái cổ kiêu hãnh như đài hoa loa kèn Þ tự
thấy mình là một cô gái khá.
+ Cô thích soi gương thích làm điệu trước các anh bộ đội.

+ Đặc biệt, Phương Định rất thích hát, thích nhiều loại nhạc khác
nhau và còn thường bịa lời ra để hát.

+ Cô vui thích cuống quýt, háo hức trước một cơn mưa đá.

+ Cô cũng hay hồi tưởng về quá khứ, về tuổi học sinh, về căn nhà
nhỏ bên quảng trường thành phố. Cô nhớ khung cửa sổ, nhớ những
ngôi sao trên bầu trời Hà Nội, nhớ bà bán kem với lũ trẻ con háo hức
vây quanh. Đó là những kí ức làm tươi mát tâm hồn cô trong hoàn
cảnh chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh.

+ Vào chiến trường, phải trải qua nhiều gian khổ, thiếu thốn song
Phương Định vẫn giữ vẹn nguyên thế giới tâm hồn mình. Đây là một
minh chứng cho sức sống mãnh liệt của cô gái trẻ này.

- Tình cảm gắn bó, yêu thương cô dành cho những đồng đội:

+ Cô yêu thương, chiều chuộng Nho như một đứa em út trong nhà.
Khi Nho bị thương, cô lo lắng, chăm sóc, cảm thấy đau như chính
mình bị thương.

+ Với chị Thao: Phương Định hiểu tính cách và tình cảm của chị, cô
coi chị Thao như người chị cả trong gia đình.

+ Khi đồng đội trên cao điểm, Phương Định ở nơi an toàn trực điện
đài, mà chẳng thể yên lòng: cố gắt lên với đội trưởng, cô sốt ruột
chạy ra ngoài rồi lo lắng.

+ Tất cả đã làm hiện lên một thế giới tâm hồn tinh tế, trong sáng,
nhân hậu và vẻ đẹp nhân cách của một người thiếu nữ, sống giữa
hiện thực chiến tranh khốc liệt mà vẫn tràn đẩy niềm yêu thương, tin
tưởng dành cho con người và cuộc sống.
Þ Lê Minh Khuê đã khắc họa thành công nhân vật Phương Định,
người thiếu nữ Hà Nội với tâm hồn phong phú và lòng dũng cảm, tinh
thần quên mình vì nhiệm vụ. Nhà văn đã góp cho văn xuôi chống Mĩ
một trong những hình tượng sống động và đáng yêu nhất.

c. Đặc sắc nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc.

- Nghệ thuật kể chuyện sinh động.

- Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật, nhịp kể biến đổi linh
hoạt.

- Lựa chọn ngôi kể phù hợp, thể hiện được những nét tinh tế, sâu
sắc trong tâm hồn nhân vật.

3. Kết bài

- Lê Minh Khuê đã làm nổi bật chân dung của Phương Định một cô
gái hồn nhiên, trong sáng, tinh thần dũng cảm, lạc quan trong cuộc
sống chiến đấu đầy gian khổ. Phương Định là đại diện tiêu biểu của
thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ.

- Nhân vật Phương Định được xây dựng thành công với nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc.

II. PHẠM VI KIẾN THỨC

Trọng tâm đề thi vào 10 môn Văn thường tập trung vào các vấn đề
sau:

1. Vận dụng kiến thức để giải quyết một trong các vấn đề sau về
tiếng Việt và văn học:

- Từ vựng Tiếng Việt, các phép tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, so
sánh…);
- Các phương châm hội thoại, thuật ngữ, khởi ngữ;

- Các thành phần biệt lập, liên kết câu và đoạn văn; nghĩa tường
minh và nghĩa hàm ẩn.

- Các kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm trong chương trình lớp 9.

2. Làm văn nghị luận xã hội

- Để làm được các bài văn nghị luận xã hội thi các em không chỉ biết
cách sử dụng, vận dụng từ vựng tiếng Việt, câu mà quan trọng là cần
thiết phải chịu khó tìm hiểu các vấn đề đời sống, có được cách nhìn
nhận và đánh giá đúng mực, thể hiện được quan điểm, tư tưởng cá
nhân một cách đúng đắn.

- Chính vì vậy, làm văn nghị lận cần:

+ Vận dụng các kiến thức về đời sống, về văn hóa, xã hội

+ Về một sự kiện, sự việc, một hiện tượng đời sống; một tư tưởng
đạo lý.

3. Làm văn nghị luận văn học

- Yêu cầu: Vận dụng khả năng đọc hiểu văn bản và các kiến thức
ngữ văn để làm bài nghị luận văn học về các văn bản sau:

STT TÊN VĂN BẢN

Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục –
1
Nguyễn Dữ)

Truyện Kiều – Nguyễn Du (những trích đoạn trong chương trình hiện
2
hành, không thi vào phần đọc thêm)

3 Các đoạn trích của “Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn Đình Chiểu
4 Đồng chí – Chính Hữu

5 Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật

6 Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

7 Bếp lửa – Bằng Việt

8 Ánh trăng – Nguyễn Duy

9 Làng – Kim Lân

10 Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long

11 Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng

12 Con cò – Chế Lan Viên

13 Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải

14 Viếng lăng Bác – Viễn Phương

15 Sang thu – Hữu Thỉnh

16 Nói với con – Y Phương

17 Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê

18 Kịch Tôi và chúng ta – Lưu Quang Vũ

19 Kịch Bắc Sơn – Nguyễn Huy Tưởng

* Ngoài ra còn một số tác phẩm văn học lớp 8 cần chú ý thêm một số
bài như: tác phẩm: Trong lòng mẹ – Nguyên Hồng; Lão Hạc – Nam
Cao.
Hi vọng một số gợi ý về cấu trúc đề thi và phạm vi kiến thức ôn
tập trên sẽ giúp các em có kế hoạch ôn thi và có kết quả thi môn
văn tốt nhất.

Chúc các em có một mùa tuyển sinh thành công!

Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn phần Thơ và truyện năm
2023
Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn phần thơ và truyện giới thiệu
tới các em nội dung chính, những kiến thức cơ bản trọng tâm nhất
của các tác phẩm văn xuôi cũng như thơ thời kì trung đại và hiện đại.
Hi vọng tài liệu Ngữ văn này sẽ giúp các em học sinh ôn tập và củng
cố kiến thức hiệu quả môn Ngữ văn 9, từ đó chuẩn bị tốt nhất cho kì
thi vào lớp 10 sắp tới.

A. DANH MỤC CÁC VĂN BẢN TRỌNG TÂM

THƠ TRUYỆN

Trung Chuyện
đại người
Truyện Kiều của Nguyễn Du con gái
Nam
Xương

Chuyện
cũ trong
Cảnh ngày xuân
phủ chúa
Trịnh

Chị em Thúy Kiều Hoàng


Lê nhất
Kiều ở lầu Ngưng Bích
thống chí
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Đồng chí
Làng
Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Đoàn thuyền đánh cá Lặng lẽ


Bếp lửa Sa Pa

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ Chiếc


Hiện lược ngà
Ánh trăng
đại
Con cò
Bến quê
Mùa xuân nho nhỏ

Viếng Lăng Bác


Những
Sang thu ngôi sao
xa xôi
Nói với con

B. NỘI DUNG

Văn bản 1: Truyện Kiều của Nguyễn Du

I. Những nét chính về tác giả Nguyễn Du

1. Thời đại

- Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại lịch sử (cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX) đầy những biến động dữ dội.
+ Chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội
trở nên gay gắt, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực dẫn
đến Lê - Trịnh suy tàn.

+ Phong trào nông dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, đã đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị và đánh tan
hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh.

+ Nhà Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ, nhà Nguyễn lên
trị vì.

Tất cả những biến động đó đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và con
người của Nguyễn Du.

2. Tác giả Nguyễn Du

a. Cuộc đời

- Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm
quan và có truyền thống hiếu học.

+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm tể tướng 15 năm.

+ Anh trai cùng cha khác mẹ - Nguyễn Khản cũng làm đến chức
Tham Tụng (ngang với Tể Tướng).

- Ông sinh ra và lớn lên ở kinh đô Thăng Long sầm uất, phồn hoa,
đô thị.

Ngay từ rất sớm Nguyễn Du đã được tiếp nhận một nền giáo
dục tiến bộ của thời đại, cũng như kế thừa được truyền thống văn
hóa thi thư của gia đình.
- Song tuổi thơ của Nguyền Du không hẳn là bình yên, êm ả mà trái
qua khá nhiều những thăng trầm, mất mát.

+ Năm 10 tuổi ông mồ côi cha.

+ Năm 12 tuổi ông tuổi mồ côi mẹ.

+ Nguyễn Du phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là


Nguyễn Khản.

- Do những xoay vần, biến động dữ dội của lịch sử, gia đình Nguyễn
Du cũng sớm rơi vào sa sút.

+ Khi triều Lê - Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên thay, Nguyễn Du phải
phiêu bạt 10 năm nơi đất Bắc (10 năm gió bụi), rồi về ở ẩn tại Hà
Tĩnh. Đây là những năm tháng ông sống trong cảnh nghèo đói, túng
bấn và tủi nhục.

+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc chí phải ra
làm quan và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Ông hai lần được cử
làm chánh sứ sang Trung Quốc nhưng lần thứ hai, chưa kịp đi thì
lâm bệnh nặng rồi mất tại Huế năm 1820.

Cuộc đời Nguyễn Du kinh qua đầy những thăng trầm, biến động.
Song, tất cả góp phần tạo nên dấu ấn cho những tác phẩm nổi tiếng
và có giá trị sâu sắc của ông.

b. Con người

- Nguyễn Du là người thông minh, tài trí, có hiểu biết sâu rộng, có
vốn sống phong phú, lại sinh ra và lớn lên ở những nơi được coi là
cái nôi văn hóa của đất nước.

- Sớm phải chịu cảnh mồ côi, nên cuộc đời ông trải qua nhiều gian
truân, trôi dạt, long đong. Đặc biệt là “mười năm gió bụi”, được tiếp
xúc với nhiều kiểu người, chứng kiến nhiều cảnh đời và nhiều số
phận khác nhau. Chính những vốn sống thực tế phong
phú và niềm cảm thông sâu sắc đó đã tạo cho ông cảm hứng để
sáng tác nên nhiều tác phẩm văn học giá trị.

- Truyền thống thi thư của gia đình đã cho ông nàng khiếu văn
chương. Nhưng hơn tất cả, Nguyễn Du còn là người có một trái tim
giàu yêu thương và một tầm hồn nhạy cảm, tinh tế luôn cảm
thông cho những đau thương, cực khổ của nhân dân.

- Ông là người thanh liêm và có nhân cách sống cao thượng. Trước
tình hình rối ren, nhũng nhiễu của bọn quan lại, chỉ biết vinh thân phì
gia, ông đã hết sức khinh bỉ.

c. Sự nghiệp văn chương

- Nguyễn Du - Đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông đã có đóng góp to lớn đối với
sự phát triển của văn học dân tộc.

- Sự nghiệp vàn chương của Nguyễn Du gồm những tác phẩm được
viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và đều đạt đến trình độ cổ điển.

+ Các tập thơ chữ Hán: Có 3 tập, gồm 243 bài: Thanh Hiên thi tập;
Nam trung thi tập; Bắc hành tạp lục.

+ Các tác phẩm chữ Nôm: Có 2 kiệt tác: Văn tế thập loại chúng sinh
và Đoạn trường tán thanh (“Truyện Kiều”).

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du không phải quá đồ sộ về


mặt số lượng, song nó đã kết tinh được những tinh hoa văn hóa thời
đại để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc nói riêng và nhân loại
nói chung.

II. Những nét chính về tác phẩm “Truyện Kiều”

1. Nguồn gốc và sự sáng tạo của Nguyễn Du


- “Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào khoảng đầu thế kỉ
XIX (1805 - 1809). Nó là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại thơ
Nôm được viết bằng thơ lục bát, gồm 3254 câu.

- “Truyện Kiều” có nguồn gốc từ một truyện bên Trung Quốc: “Kim
Vân Kiều Truyện” của tác giá Thanh Tâm Tài Nhân - một tác phẩm
văn xuôi viết chữ Hán, có kết cấu chương hồi. Lúc đầu truyện có tên
là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột).

- Với cảm hứng nhân đạo cao cả và xuất phát từ thực tế cuộc sống,
xã hội, con người Việt Nam, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc
đáo cho tác phẩm. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức to lớn:
viết nên một tác phẩm trữ tình bằng chữ Nôm; sử dụng thể thơ của
dân tộc; nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình;...

“Truyện Kiều” xứng đáng là đỉnh cao của văn học dân tộc, là tinh
hoa văn hóa ánh mãi ngàn đời. Và đúng như Giáo sư Đào Duy Anh
viết: “Nếu Nguyên Trãi với “Quốc âm thi tập" là người đặt nền móng
cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với “Truyện Kiều” lại là
người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta”.

2. Tóm tắt

a. Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước.

Gia đình Vương viên ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có ba người
con: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Thúy Kiều là chị, nàng
nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân nhân
tiết thanh minh, nàng gặp Kim Trọng - một con người hào hoa, phong
nhã. Giữa hai người nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp.
Sau đó, hai người chủ động thề nguyện đính ước nguyện chung thủy
với nhau suốt đời.

b. Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc


Đúng lúc đó, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị
mắc oan. Nàng phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình cứu cha và
em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn trùm lầu xanh. Đau
khổ, Kiều tự vẫn nhưng không thành rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh đập và phải chịu tiếp
khách làng chơi. Nàng gặp Thúc Sinh, một người buôn bán giàu có,
chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư bày mưu bắt
về đánh đập, bắt làm con ở để hầu đàn, hầu rượu. Kiều lại bỏ trốn
khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác
Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người, để lần thứ
hai Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này Kiều gặp Từ Hải, người anh
hùng trí dũng song toàn. Nhờ uy Từ Hải, Kiều đã báo được ân, trả
được oán. Chẳng bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến mà chết.
Kiều bị làm nhục, bị ép gả cho Thổ Quan. Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở
sông Tiền Đường nhưng được Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai
nàng nương nhờ cửa Phật.

c. Phần thứ ba: Đoàn tụ

Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã đi tìm
Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn
giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm
được nhau và đoàn tụ với gia đình.

3. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật

3.1. Giá trị nội dung

a. Giá trị hiện thực

- Truyện Kiều là bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội bất
công, tàn bạo. Nơi mà các tầng lớp thống trị và các thế lực hắc ám
sẵn sàng chà đạp lên quyền sống của con người.
+ Đó là một xã hội đảo điên, nơi mà đồng tiền lên ngôi và có giá trị
vạn năng. Trong tác phẩm, đã 17 lần Nguyễn Du tập trung để nói về
sự hung hiểm, hai mặt của đồng tiền, trong đó có thể kể đến câu:
“Trong tay đã có đồng tiền/ Giàu lòng đổi trắng thay đen khó gì?”...

+ Đó là một xã hội đầy rẫy nhưng kẻ lưu manh, côn đồ, đội lốt
người để ức hiếp, bóc lột, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm
của những người hiền lành, lương thiện: Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở
Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư, Ưng Khuyển,...

+ Đó là xã hội mà bọn quan lại ngang ngược, tham lam, lật lọng, là
nguồn gốc cho mọi sự xấu xa, bất công, bỉ ổi: Tổng đốc Đại thần Hồ
Tôn Hiến, đại diện cho triều đình, nhưng lại hèn hạ, phản trắc, lừa
giết một người đã quy hàng (Từ Hải).

+ Đó là một xã hội không có công lí, pháp luật hay sự công


bằng. Nó dễ dàng bị đồng tiền mua chuộc, dễ dàng đổi trắng thay
đen và tiếp tay cho mọi sự xấu xa hoành hành: Gia đình Kiều bị đổ
oan, bị bắt bớ, tra tấn nhưng công lí chỉ xuất hiện khi “Có ba trăm
lạng việc này mới xong”.

- “Truyện Kiều” còn là bức tranh hiện thực về số phận những con
người bị chà đạp, áp bức, đau khổ, đặc biệt là bi kịch của người
phụ nữ thông qua nhân vật Thúy Kiều.

+ Bị tước đoạt những quyền cơ bản nhất của con người: Quyền
được yêu, quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc gia
đình.

+ Nhân phẩm bị chà đạp một cách thô bạo và tàn nhẫn: Kiều bị coi
như một món hàng, có thể mua đi bán lại và bị đánh đập tàn nhẫn:
“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” là sự tổng kết đau đớn về cuộc
đời Kiều sau 15 năm đoạn trường.

b. Giá trị nhân đạo


Đây là giá trị cơ bản của tác phẩm, được thể hiện trên các phương
diện sau:

- “Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí
và ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người.

+ Thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, hồn nhiên, trong
sáng, thủy chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và hạnh
phúc gia đình còn khắc nghiệt: Kim Trọng và Thúy Kiều đã dám bước
qua bức tường phong kiến kiên cố để tiến đến một tình yêu tự do: họ
gặp gỡ và chủ động thề nguyền, đính ước.

+ Thế hiện khát vọng về một xã hội công bàng, dân chủ, tự do không
còn bất công, tù túng, ngột ngạt: Người anh hùng Từ Hải chính là đại
diện cho khát vọng tự do, công lí đã dám đứng lên để chống lại cá
một xà hội cũ kĩ, thối nát, tàn bạo.

+ Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người: vẻ đẹp của tài
sắc, trí thông minh, sự chung thủy, lòng hiếu thảo, đức vị tha... mà
Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.

- “Truyện Kiều” là tiếng nói xót thương, cảm thông với nỗi đau khổ
của con người mà đặc biệt là người phụ nữ: Trước hết là ông
dành cho Thúy Kiều bằng cái lòng cảm thương sâu sắc nhất; sau đó
là ông dành cho tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến
niềm cảm thương lớn lao: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời răng bạc
mệnh cũng là lời chung”.

- “Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án chế độ phong kiến, các
thế lực xấu xa, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.

“Truyện Kiều" đã truyền tải được những tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, tiến bộ và giàu tính chiến đấu để xứng đáng trở thành kiệt tác
ngàn đời.
3.2 Giá trị nghệ thuật

“Truyện Kiều” là sự kết tinh của những thành tựu văn học dân tộc
trên các phương diện:

a. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật kể


chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh.

• Nghệ thuật kể chuyện đa dạng: Trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp
(lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng
điệu nhân vật).

• Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Hệ thống nhân vật phong phú, đa
dạng với cách xây dựng nhân vật điển hình, có tính cách riêng độc
đáo, sinh động.

- Miêu tả ngoại hình nhân vật bằng thủ pháp nghệ thuật:

+ Nhân vật chính diện xây dựng theo lối lí tưởng hóa bằng thủ pháp
ước lệ: Miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết: “Vân xem trang
trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”; còn nhân vật
Từ Hải: “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười
thước cao”.

+ Nhân vật phản diện được xây dựng theo lối hiện thực bằng biện
pháp cụ thể: Miêu tả nhân vật Tú Bà, Nguyễn Du viết: “Thoắt trông
nhờn nhợt màu da/ Ăn gì cao lớn đây đã làm sao?”.

- Miêu tả ngoại hình để tái hiện lên tính cách nhân vật:

+ Ngoại hình Thúy Vân: “Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng
đầy đặn nét ngài nở nang" gợi lên sự trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang,
quý phái.
+ Ngoại hình Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua
thắm liễu hờn kém xanh" gợi một tâm hồn qua đôi mắt đa sầu, đa
cảm.

- Miêu tả ngoại hình để tiên đoán về số phận nhân vật:

+ Miêu tả Thúy Vân: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước
tóc tuyết nhường màu da" đã tiên đoán về một cuộc đời êm đềm, ít
sóng gió.

+ Miêu tả Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh" cho thấy sự hậm hực, “ghen", “hờn" cua
tạo hóa trong câu thơ đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, gian
truân phía trước đang chờ Kiều.

- Miêu tả ngôn ngữ, hành động để gợi tính cách nhân vật:

+ Miêu tả Từ Hải: “Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì
dặm khơi", hành động dứt khoát, mạnh mẽ của một đấng trượng phu.

+ Miêu tả Mã Giám Sinh: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng", hành động
huênh hoang, thô lỗ, hợm hĩnh của “quân buôn thịt, bán người".

- Miêu tả nhân vật qua diễn biến nội tâm: Tâm trạng cô đơn, buồn
tủi của Kiều trước lầu Ngưng Bích: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”...

* Nghệ thuật tả cảnh độc đáo

- Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên:

+ Tả cảnh thiên nhiên bằng các chỉ tiết tạo hình: “Ngày xuân con
én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
+ Tả cảnh thiên nhiên bằng cách điểm nhấn: Chỉ tả một vài chi tiết
đặc sắc nhưng vẽ lên một khung cảnh tuyệt đẹp: “Cỏ non xanh tận
chân trời/ Cành lê trăng điểm một vài bông hoa”.

+ Tả cảnh thiên nhiên trong những thời gian và không gian khác
nhau: “Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về”.

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:

+ Mượn và tả cảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng, cảm xúc của
nhân vật: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi".

+ Khung cảnh thiên nhiên được tả qua tâm trạng của nhân
vật: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh
xanh".

b. Nghệ thuật ngôn từ và thế loại đạt đến đỉnh cao

- Ngôn từ “Truyện Kiều" là ngôn ngữ tinh hoa của dân tộc nên trong
sáng, mĩ lệ và dồi dào sắc thái biểu cảm.

- Ngôn ngữ “Truyện Kiều" không chỉ có chức năng biểu đạt (phản
ánh), biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ
đẹp của ngôn từ).

- Ngôn ngữ “Truyện Kiều" kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân
và ngôn ngữ bác học, tạo thành thứ ngôn ngữ thơ ca vừa hàm
súc vừa trang nhã, giản dị.

- Sử dụng thể thơ lục bát - thể thơ của dân tộc Việt Nam đã đạt đến
đỉnh cao.

“Truyện Kiều” xứng đáng trở thành kiệt tác số một, là “quốc hồn
quốc túy" của nền văn học dân tộc.
II. Tổng kết

- Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử
dụng ngôn từ. Ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của
ngôn ngữ dân tộc.

- “Truyện Kiều” đạt đến đỉnh cao về mặt nghệ thuật để xứng đáng là
kiệt tác của muôn đời.

Văn bản 2: Cảnh ngày xuân

I. Những nét chính về tác phẩm

1. Vị trí và nội dung đoạn trích

- Vị trí: Nằm trong phần I của tác phẩm, sau đoạn tả tài sắc chị em
Thúy Kiều - “Gặp gỡ và đính ước”.

- Nội dung: Đoạn trích là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về cảnh
ngày xuân trong tiết thanh minh. Đó là bối cảnh để Thúy Kiều gặp gỡ
Kim Trọng và khóc thương trước số phận của Đạm Tiên. Đồng thời
nó cũng bộc lộ nhiều tâm trạng của cả hai chị em trong chuyến du
xuân ấy.

2. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 4 câu đầu: Cảnh thiên nhiên ngày xuân.

- Phần hai: 8 câu tiếp: Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.

- Phần ba: 6 câu cuối: Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh thiên nhiên ngày xuân (bốn câu đầu)


• Không gian và thời gian của khung cảnh thiên nhiên ngày xuân
được Nguyễn Du phác họa ở ngay hai câu thơ đầu:

“Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”

- Tác giả lựa chọn một hình ảnh ẩn dụ rất quen thuộc cho cảnh ngày
xuân: “con én đưa thoi”.

+ Tả thực những cánh én bay lượn, chao liệng như thoi đưa trên bầu
trời xuân.

+ Gợi không gian cao rộng của bầu trời và một luồng không khí ấm
áp.

+ Gợi những bước đi nhanh, vội của thời gian như những cánh
chim vụt bay.

- Khung cảnh ngày xuân tiếp tục được phác họa qua các nét vẽ ở
những vần thơ: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

+ Từ “thiều quang” tả thực những tia nắng lấp lánh cua ngày xuân.

+ Gợi một không gian ngày xuân tươi đẹp, rực rỡ, trong lành.

+ Gợi thời điểm vào tháng ba của mùa xuân, tháng mà thiên nhiên
đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.

Những hình ảnh thơ gợi về sự chuyển động nhanh, vội của thời
gian đồng thời nói nên tâm trạng có chút tiếc nuối của chị em Thúy
Kiều.

Nguyễn Du đã phác họa được một bức tranh thiên nhiên của một
ngày xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Qua đó, đã gợi tả được
bao nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
• Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa
xuân tuyệt đẹp với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

- Chỉ cần đơn giản là hình ảnh “cỏ non" song lại tả, gợi được rất
nhiều cho bức tranh xuân:

+ Tả một không gian mênh mông một màu xanh non của cỏ.

+ Gợi chúng ta liên tưởng đến sức sống tràn trề của mùa xuân.

+ Từ “tận" đã làm cho không gian xuân như được mở rộng bao la,
bát ngát.

- Hình ảnh “cành lê trắng điểm” cho thấy sự tài tình trong bút pháp
chấm phá của Nguyễn Du.

+ Trên nền màu xanh non ấy điếm xuyết một vài bông hoa lê trắng
làm cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn.

+ Từ “điểm” gợi sự thanh thoát, như đôi tay của người họa sĩ,
khiến cảnh vật như sống động, có hồn chứ không tĩnh tại.

+ Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ: đảo từ “trắng" lên trước làm
cho sắc trắng hoa lê thêm tinh khôi, như kết tinh những tinh hoa của
trời đất.

- Trong bức tranh xuân ấy, tác giả đã sử dụng những gam màu hòa
phối rất đỗi hài hòa: màu xanh của cỏ, sắc trắng của hoa lê.

Với bút pháp chấm phá tài tình, Nguyễn Du đã rất thành công khi
phác họa một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo
và tràn trề sức sống. Đồng thời, qua đó còn gợi lên được bao cảm
xúc tươi vui, phấn chấn cũng như chút bâng khuâng, tiếc nuối trong
lòng nhân vật trữ tình.

2. Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh (tám câu tiếp)

a. Những hoạt động trong tiết thanh minh (hai câu thơ dầu)

Hai câu thơ giới thiệu về những hoạt động trong tiết thanh minh cho
thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng
ngôn từ:

“Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.”

- Sử dụng nghệ thuật tiểu đối: Tách hai từ “lễ hội” ra làm đôi để gợi
tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc trong tiết thanh minh:

+ “Lễ tảo mộ”. Đi viếng và sửa sang phần mộ của người thân, gia
đình, tổ tiên. Gợi sự tri ân của những nam thanh, nữ tú trong ngày đi
chơi xuân.

+ “Hội đạp thanh”: Đi chơi xuân ở chốn đồng quê và giẫm lên cỏ
xanh. Gợi ngày hội vui mùa xuân của nam thanh nữ tú để có thể
tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.

“Lễ” và “hội” trong tiết thanh minh là hai hoạt động văn hóa khác
biệt nhưng trong thơ Nguyễn Du lại có một sự giao hòa độc đáo.

b. Không khí của ngày hội xuân (sáu câu thơ tiếp)

• Không khí tưng bừng, tấp nập của lễ hội được gợi lên qua hàng
loạt từ hai âm tiết giàu sắc thái biểu cảm:

“Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.


Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

- Các danh từ: “yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân” gợi tả sự
đông vui, tấp nập trong ngày hội xuân.

- Các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả không khí rộn ràng, náo
nhiệt trong ngày hội.

- Các tính từ: “gần xa”, “nô nức” gợi tả tâm trạng hồ hởi, phấn khởi
của người đi hội.

• Không khí lễ hội được tô đậm hơn qua một số biện pháp tu từ:

- Hình ảnh ẩn dụ: “nô nức yến anh”

+ Gợi từng đoàn người đi chơi xuân, đông đúc, dập dìu như những
bầy chim yến, chim oanh ríu rít.

+ Gợi những cuộc chuyện trò xôn xao, tình tứ của những đôi uyên
ương trong ngày xuân.

- Hình ảnh so sánh: “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi cho
người đọc hình dung được sự đông đúc của từng dòng người đi trẩy
hội.

• Bên cạnh không khí tưng bừng, náo nhiệt ấy, Nguyễn Du đã khéo
léo đan cài một khoảng lặng, khiến cho không gian cũng như tâm
trạng con người như chùng xuống:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”

- Hình ảnh “ngổn ngang gò đống", “tro tiền giấy bay" gợi không gian
tĩnh lặng, lạnh lẽo, linh thiêng. Và trong không gian ấy, có sự xuất
hiện của những nam thanh, nữ tú đang sửa sang, rắc vàng vó, hóa
tiền giấy cho những người đã khuất.

- Gợi truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp
của người Việt. Một lối sống ân nghĩa thủy chung.

Thông qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, có thể khẳng
định: Nguyễn Du là người am hiểu, trân trọng và gìn giữ những giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

3. Khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về (sáu câu thơ
cuối)

Thời gian không ngừng chuyển động, mọi cuộc vui đã đến hồi kết
thúc, hai chị em Kiều trở về trên một nền chiều xuân thật đẹp, thanh
khiết song đã nhuốm màu tâm trạng:

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn đan tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

- Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ khuất bóng,
bước chân thơ thẩn, dòng nước uốn quanh.

- Hình ảnh “tà tà bóng ngả về tây”:

+ Diễn tả cảnh mặt trời đang lặn, ánh nắng cuối ngày đang tắt dần,
không gian đang mờ tối.
+ Gợi không gian buồn vẳng, tĩnh lặng.

+ Gợi tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối trong lòng con người.

- Hình ảnh “tiểu khê”, “cầu nho nhỏ” gợi khung cảnh nhỏ bé, thân
thuộc, không còn mênh mông, khoáng đạt.

- Hệ thống từ láy được trái đều trong các câu thơ rất giàu giá trị biểu
cảm: “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao”.

+ Từ láy “thơ thẩn” gợi cảnh chị em Thúy Kiều ra về trong sự bần
thần, nuối tiếc, lặng buồn.

+ Đặc biệt, từ lảy “nao nao” gợi nét buồn rất khó tả, thể hiện tâm
trạng con người như nhuốm lên cảnh vật.

Cảnh vật như có linh hồn, phảng phất một nỗi u buồn và mang
một vẻ đẹp riêng: xinh xắn và rất đỗi tao nhã của cảnh vật.

Đoạn thơ không chỉ hay bởi Nguyễn Du sử dụng thành công
những biện pháp nghệ thuật, hệ thống từ láy mà còn bởi cái tài tình
trong bút pháp cổ điển: tả cảnh ngụ tình.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một bức tranh thiên nhiên sống động,
tuyệt đẹp với lễ hội truyền thống đông vui, nhộn nhịp. Thông qua bức
tranh ấy, người đọc cảm nhận được một thế giới nội tâm phong phú
của nhân vật.

2. Nghệ thuật

- Tài nghệ sử dụng ngôn ngữ bậc thầy: hệ thống từ láy giàu giá trị
biểu cảm,...
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến mức độ điêu luyện.

- Biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,... đạt đến độ nhuần nhuyễn.

Văn bản 3: Chị em Thúy Kiều

I. Những nét chính về đoạn trích

1. Vị trí, nội dung đoạn trích

- Vị trí: Nằm ở phần I của tác phẩm, “Gặp gỡ và đính ước”.

- Đoạn trích miêu tả hai bức chân dung xinh đẹp của chị em Thúy
Vân, Thúy Kiều (đặc biệt Thúy Kiều).

- Đồng thời cũng dự báo tương lai, số phận của hai nàng Kiều.

2. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: 4 câu đầu: Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều.

- Phần hai: 4 câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân.

- Phần ba: 12 câu tiếp theo: Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của
Thúy Kiều.

- Phần bốn: 4 câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh
của hai chị em.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (bốn câu đầu)

• Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, cổ


điển để giới thiệu về lai lịch, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị
em:

“Đầu lòng hai ả tố nga


Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

- Lai lịch: Họ là hai người con gái đầu trong gia đình họ Vương.

- Vị trí trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.

- Vẻ đẹp của hai chị em:

+ “Mai cốt cách”: Cốt cách thì thanh cao như hoa mai. Đó là một
loài hoa mà sắc thì rực rỡ, hương thì quý phái.

+ “Tuyết tinh thần”: Phong thái, tinh thần thì trong trắng, tinh khiết
như hoa tuyết.

* Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, ba nhịp nhàng, đối xứng,
làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai chị em.

• Tác giả sử dụng lời bình, để khép lại bốn câu thơ đầu:

- “Mỗi người một vẻ”, cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm
hồn của mỗi nhân vật.

- “Mười phân vẹn mười”, đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện,
hoàn hảo của hai chị em.

Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta
nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng đậm nét nhất về vẻ
đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ
được cảm hứng ca ngợi cái tài hoa, nhan sắc của con người qua
nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du.

2. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân (bốn câu tiếp)


Chỉ bằng bốn câu thơ, Nguyền Du đã tả được một cách đầy đủ, trọn
vẹn những đặc điểm của nhân vật Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.’’

- Câu thơ đầu tiên giới thiệu khái quát phong thái của Thúy Vân:

+ Từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người
miêu tả.

+ Từ “trang trọng” cho thấy sự xuất hiện của nhân vật Thúy Vân với
vẻ đẹp mang phong thái đoan trang, cao sang, quý phái.

Gợi ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ
giáo của xã hội phong kiến.

- Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung
tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp nghệ thuật ước lệ
tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi
kèm những từ ngữ giàu sức gợi:

+ Hình ảnh ẩn dụ: “khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nên một khuôn mặt
đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng rằm; “nét ngài
nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp
lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung
của Vân.

+ Hình ảnh nhân hóa: “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười
tươi tẳn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc
ngà; “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc
óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết.

+ Những từ ngữ giàu sức gợi: “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan
trang” làm nổi bật, nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, quý phái
của Vân.

+ Vẻ đẹp đoan trang của Thúy Vân được so sánh với những hình
tượng đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.

- Nguyễn Du đã sử dụng rất có chọn lọc hai động từ là “thua” và


“nhường”. “Mây” và “tuyết” là của thiên nhiên, tạo hóa, hay đó còn
là cả một xã hội phong kiến. Và với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong
khuôn khổ của xã hội phong kiến, thì dẫu cho Vân có đẹp hơn những
cái đẹp nhất của thiên nhiên thì nàng vẫn được đón nhận, bao học và
yêu thương.

- Đặc biệt, từ bức chân dung ngoại hình của Thúy Vân, ta thấy
được tính cách và số phận của nàng: tính cách rất trầm tĩnh, dịu
dàng, đoan trang, phúc hậu. Đó là hình mẫu lí tưởng của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nó dự đoán một số phận, tương lai
êm ấm và bình lặng đang chờ đón nàng.

Bằng bút pháp cổ điển ước lệ, tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc
họa thành công bức chân dung của nhân vật Thúy Vân để từ đó gợi
cho người đọc thấy được tính cách, và số phận của nàng.

3. Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều (mười hai
câu tiếp)

- Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung
tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp nghệ thuật ước lệ
tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi
kèm những từ ngữ giàu sức gợi:
+ Hình ảnh ẩn dụ: “khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nến một khuôn mặt
đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng rằm; “nét ngài
nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp
lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung
của Vân.

+ Hỉnh ảnh nhân hóa: “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười
tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc
ngà; “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc
óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết.

- Nếu như miêu tả bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ
dùng có bốn câu thì đến Thúy Kiều ông dùng đến mười hai
câu. Chứng tỏ, tác giả đã ưu ái, dùng nhiều bút lực và sự yêu mến
đặc biệt cho nhân vật này.

- Sự yêu mến đó càng được khẳng định khi Nguyễn Du sử


dụng nghệ thuật đòn bẩy một cách tài tình: Ông miêu tả nhân vật
Thúy Vân trước như một tuyệt sắc giai nhân đế làm nổi bật cho vẻ
đẹp của Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sáo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.”

- Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp: “sắc sảo”, “mặn mà” để tô
đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của
Thúy Kiều.

Không tả một cách cụ thể nhưng Nguyễn Du đã khắc sâu trong


tâm trí người đọc một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp vượt trội của Thúy
Kiều. Lối miêu tả giúp tác giả tránh được sự trùng lặp nhàm chán và
phát huy được trí tưởng tượng của độc giả. Đây chính là sự tài hoa
và tài tình của Nguyễn Du.
a. Vẻ đẹp nhan sắc

- Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc
tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”, tức là vẽ hồn chân dung bằng
những hình ảnh mang tính ước lệ:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

+ “Làn thu thủy” là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo
như làn nước mùa thu.

+ “Nét xuân sơn” là đôi lông mày thì thanh tú, xinh đẹp như dáng núi
mùa xuân.

Không cần phải nhiều nét, nhưng bức chân của nhân vật Thúy
Kiều vẫn hiện lên với những gì hoàn mĩ nhất. Đôi mắt, nó không chỉ
mang vẻ đẹp của bên ngoài mà đó còn là cửa sổ thể hiện phần tinh
anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó cũng chính là cách tả truyền thống
trong văn học trung đại: nét đậm đan xen với nét nhạt, chỗ tỉ mỉ, chỗ
chấm phá.

- Hình ảnh nhân hóa “hoa ghen” và “liễu hờn” thể hiện thái độ của
thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Ông không tả trực tiếp vẻ đẹp ấy
mà tả sự đố kị, ghen ghét để thêm khẳng định cho vẻ đẹp ấy. Và để
khách quan, ông đã để cho tạo hóa đánh giá vẻ đẹp nhan sắc của
Thúy Kiều.

- Vẻ đẹp của Kiều không chỉ khiến cho hoa phái “ghen”, liều phải
“hờn” mà còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Một sức
ngưỡng mộ, mê say đến điên đảo cho vẻ đẹp của Kiều.

- “Nghiêng nước nghiêng thành'" còn là cách nói sáng tạo từ điển
cố “nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (ngoảnh lại
nhìn một lần thì làm nghiêng thành người, ngoảnh lại nhìn lần nữa thì
làm nghiêng nước người) để cực tả vẻ đẹp của bậc tuyệt sắc giai
nhân.

- Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số
phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài hòa mà vượt qua mọi
khuôn khổ, chuẩn mực, phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến
cho các vẻ đẹp khác phải ghen ghét, oán hận, đố kị và chứa đựng ý
muốn trả thù. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm,
một số phận sóng gió.

Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều mang một ấn tượng mạnh và sức
gợi lớn cho người đọc. Đó là vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp của
chiều sâu, hơn những gì đẹp nhất.

b. Vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn

- Không chỉ miêu tả Kiều là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn
cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và
rất đa tài:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lâu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”

Đây là một sự táo bạo của Nguyễn Du khi ông coi trí tuệ của
người phụ nữ cũng là một phương diện để ca ngợi. Người phụ nữ
trong khuôn khổ của xã hội phong kiến là “tam tòng, tứ đức”, là
“công, dung, ngôn, hạnh", là “cầm, kì, thi, họa" và không hề có
phương diện thông minh. Cho nên sự thông minh của Kiều được đặt
trong bối cảnh của xã hội phong kiến lúc bấy giờ là một sự bứt phá,
dũng cảm và táo bạo của Nguyễn Du. Ông đã đưa Kiều vượt khỏi
những khuôn mẫu chuẩn mực của xã hội phong kiến.

- Nàng là người con gái đa tài, đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ),
hoạ (vẽ) và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Đặc biệt, tài đàn đã
được Nguyễn Du tập trung miêu tả:

+ Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu
luyện và vượt lên trên mọi người: “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”.

+ Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh" chính là
khúc nhạc mà nàng tự viết, khi cất lên, ai ai cũng xúc động.

- Miêu tả tài đàn là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế
giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu, đa cảm của Thúy Kiều.

- Đặc biệt cung “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh, tài mệnh tương đố khó tránh khỏi của nàng.

Qua mười hai câu thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp hội tụ sắc - tài -
tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của Thúy Kiều. Đồng
thời, cho thấy sự tài hoa của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả
nhân vật.

4. Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em
(bốn câu cuối)

- Hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế
giai nhân mà họ còn là những người đức hạnh và sống có khuôn
phép:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng ru màn che,


Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

+ Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề
nếp.

+ Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn
che".

+ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “tóc búi, trâm cài"
của cả hai chị em. Song họ vẫn sống một cuộc sống kín đáo, gia giáo
sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ.

Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như
hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh êm đềm và chưa
một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo
phong kiến.

5. Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích

- Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân
trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người như nhan sắc, tài
hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá
nhân.

- Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương
về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố của Nguyễn
Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy
cảm hứng nhân văn với con người của Nguyễn Du.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa rõ nét bức chân dung
chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Qua đó ca ngợi vẻ đẹp tài năng của
con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
2. Nghệ thuật

- Bút pháp ước lệ tượng trưng tạo được sức gợi.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế: xây dựng được những bức
chân dung đa dạng, linh hoạt, thu hút.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là lựa chọn những từ
ngữ có giá trị gợi tả cao.

Văn bản 4: Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Những nét chính về tác phẩm

1. Vị trí, nội dung đoạn trích

- Vị trí: Đoạn trích nằm trong phần II: “Gia biến và lưu lạc”.

- Nội dung đoạn trích: Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục,
Kiều đau đớn, phẫn uất, toan tự tử, nhất quyết không chịu tiếp khách
làng chơi. Tú Bà sợ mất “cả chì lẫn chài” bèn lấy lời ngon ngọt
khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi
nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Mụ đưa Kiều giam lỏng
ở lầu Ngưng Bích song thực chất là để thực hiện âm mưu mới đê
tiện hơn, tàn bạo hơn.

- Sống trong cảnh cô tịch chỉ có nước với trời đã khiến cho nỗi cô
đơn của Kiều thăng hoa, dệt thành những câu thơ tả cảnh ngụ tình
tuyệt tác.

2. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 6 cầu đầu: Cảnh ngộ và nỗi niềm của Kiều.

- Phần hai: 8 câu tiếp: Nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.

- Phần ba: 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều (sáu câu thơ đầu)

• Sau bao sóng gió dập vùi, lầu Ngưng Bích là chốn yên thân tạm
thời của Thúy Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

- Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên hoàn cảnh đáng thương đang bị
giam lỏng ở lầu Ngưng Bích của Kiều.

- Đặc biệt, từ “khóa xuân” thường được sử dụng để chỉ người con
gái đẹp trong gia đình quyền quý thời xa xưa bị khóa kín tuổi xuân
trong những khuôn khổ, phép tắc của gia đình và xã hội. Ở đây,
Nguyễn Du đã sử dụng từ “khóa xuân” với hàm ý mỉa mai để nói
về cảnh ngộ xót xa, trớ trêu của Kiều.

• Quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích hiện lên mênh mông,
hoang vắng và lạnh lẽo:

“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hông dặm kia.”

- Không gian vô cùng rộng lớn, mênh mông, bát ngát:

+ Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” gợi không gian dài, rộng, cao, sâu
vô tận. Đồng thời, gợi sự chơ vơ, chênh vênh, trơ trọi của lầu Ngưng
Bích.

+ Từ láy “bát ngát” càng tô đậm hơn cái vô cùng, vô tận của không
gian.
- Không gian vô cùng trống trải, hoang vắng, không có dấu hiệu
của sự sống:

+ Hình ảnh liệt kê “cát vàng”, “bụi hông" đã nói đến sự phai nhạt của
sự sống và ngổn ngang của cảnh vật.

+ Cặp tiểu đối “mây sớm” và “đèn khuya” gợi nỗi hắt hiu, trống vắng
mênh mông của thiên nhiên.

Quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích cô liêu, thiếu vắng sự
sống, gợi nỗi buồn cho thân phận nhân vật.

• Quang cảnh đó đã gợi ở Kiều bao nồi niềm tâm trạng:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

- Sự cô đơn, lẻ loi đến cùng cực:

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín.
Tất cả như giam hãm con người và để khắc sâu thêm nỗi cô đơn.

+ Trong khung cảnh “bốn bề bát ngát” đó, Kiều chỉ biết bầu bạn
với những vật vô tri, vô giác.

- Sự ngổn ngang trăm mối, day dứt, âu lo:

+ “Xa trông” gợi lên sự trông ngóng của Thúy Kiều hướng về một
dấu hiệu của sự sống hay quen biết nào đó.

+ Hình ảnh liệt kê “cát vàng, “cồn nọ”, “bụi hồng”,... trải đều ở các
câu thơ đã gợi lên sự ngổn ngang trong lòng Thúy Kiều.

- Nỗi chua xót, “bẽ bàng” cho thân phận:


+ Bị đày đọa trong không gian vô cùng và thời gian vô tận lại càng
khắc sâu nỗi cô đơn cùng cực khiến nàng cảm thấy “bẽ bàng”.

+ Cụm từ “như chia tấm lòng” diễn tả nồi niềm chua xót, nỗi lòng tan
nát của Kiều.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp hệ thống hình ảnh ước lệ,
ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh
thiên nhiên mênh mông, vắng lặng. Và trên nền của khung cảnh ấy là
hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm tâm sự đau
thương.

2. Nỗi nhớ chàng Kim và nỗi nhớ cha mẹ (tám câu thơ tiếp)

a. Nỗi nhớ chàng Kim

• Trong cảnh ngộ cô đơn nơi chân trời góc bể, Kiều đau đớn nhớ tới
chàng Kim, mối tình đầu mãnh liệt mà trong sáng của nàng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.”

- Tại sao nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ đến trước mà không phải là
cha mẹ? Bởi khi Kiều bán mình chuộc cha là nàng đã làm tròn chữ
hiếu mà dang dở chữ tình. Cái mặc cảm của một kẻ phụ tình luôn
thường trực trong suy nghĩ của nàng nên nó đã xuất hiện trước.

- Nói về nỗi nhớ người yêu của Thúy Kiều, Nguyền Du không dùng
từ “nhớ” mà dùng từ “tưởng”:

+ Từ “tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người


mình yêu.
+ Kiều “tưởng” như thấy lại đêm trăng đẹp nhất của cuộc đời mình.
Cái đêm mà nàng cùng với Kim Trọng thề nguyền đính ước bên
nhau.

+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng
đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin
sương luống những rày trông mai chờ”.

• Càng nhớ chàng Kim, càng nuối tiếc mối tình đầu, Kiều càng thấm
thìa tình cảnh của mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”

+ Kiều tủi nhục khi tấm lòng son sắc đã bị vùi dập, hoen ố, không
biết bao giờ mới gột rửa được.

+ Dẫu vậy, tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng vẫn không
nguôi nhớ về Kim Trọng.

Tấm lòng vị tha, thủy chung son sắt trước sau như một của Thúy
Kiều thật đáng trân trọng.

b. Nỗi nhớ cha mẹ ở nơi xa

Tâm trạng đau đớn, thương nhớ người yêu hẳn chưa nguôi, Kiều lại
chồng chất thêm nỗi nhớ thương cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nông ấp lạnh những ai đó giờ

Sân lai cách mấy nắng mưa,

Cỏ khi gốc tử đã vừa người ôm.”


- Chữ “xót” diễn tả một cách chính xác tấm lòng của Kiều dành cho
cha mẹ.

- Nàng xót xa khi hình dung ra chốn quê nhà cha mẹ vẫn ngày đêm
tựa cửa ngóng trông, lo lắng cho nàng.

- Nàng tự trách bản thân vì chưa làm tròn chữ hiếu:

+ Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” cho thấy sự day dứt khôn nguôi
vì không thể tự hầu hạ, chăm sóc, nâng giấc cho cha mẹ.

+ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi
thời tiết đổi thay.

+ Nàng tưởng tượng nơi quê nhà đã đổi thay, “góc tử đã vừa người
ôm”, thời gian trôi đi mẹ ngày càng già yếu mà mình thì không thể
phụng dường.

- Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sự xa cách bao mùa
mưa nắng, vừa gợi sự tàn phá của thời gian đối với cảnh vật của con
người, làm cho cha mẹ ngày càng già yếu, và cần bàn tay chăm sóc
của nàng.

- Nỗi nhớ được bộc lộ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm nên càng
chân thực, cảm động.

Nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ đã nói lên nhân
cách đáng trân trọng của nàng. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích,
nàng mới là người đáng thương nhất. Nhưng quên đi cảnh ngộ của
bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu
nhất. Nàng thật sự là một người tình thủy chung, một người con hiếu
thảo, một con người có tấm lòng vị tha, cao cả.

3. Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật (tám câu thơ cuối)

- Mọi cảnh vật qua con mắt Kiều đều gợi lên những nét buồn da diết:
+ Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại và điệp từ: Mỗi cặp lục bát
làm thành một cảnh và đều được tác giả khắc họa, liên kết qua điệp
từ “buồn trông”.

+ “Buồn trông” có nghĩa là buồn mà nhìn ra xa trông ngóng một cái


gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay hiện tại, nhưng trông mà vô vọng.

+ “Buồn trông” có cả cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm
nhìn của người con gái ngây thơ, lần đầu lạc bước giữa cuộc đời
ngang trái, mang tính dự cảm hãi hùng.

- Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đó
đã diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng với nhiều sắc độ khác nhau như
những con sóng lòng không sao chịu nổi, những nồi buồn vô vọng,
vô tận:

• Cảnh đầu tiên:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

+ Là bức tranh của cảnh chiều hôm nhớ nhà. Thời gian “chiều hôm”
khiến cho nỗi buồn thân phận trở nên thấm thía.

+ Hình ảnh ẩn dụ “cánh buồm” là hình ảnh rất đắt để thể hiện
ngoại cảnh và nội tâm nhân vật. Cánh buồm nhỏ nhoi đơn độc giữa
biển nước mênh mông trong ánh sáng lẻ lói cuối cùng của mặt trời
sắp tắt. Con thuyền mỗi lúc một xa, rồi gần như mất hút, biết bao giờ
mới tim được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa
dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những
người thân yêu.

Cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc nỗi buồn nhớ da diết về quê
nhà xa cách.
• Cảnh thứ hai:

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

+ Cùng với hình ảnh “cánh buồm”, hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi" cũng
thế hiện cho nỗi buồn, cho thân phận lênh đênh, nổi chìm giữa dòng
đời của Thúy Kiều.

+ Câu hỏi tu từ cho thấy sự mất phương hướng, gợi một nỗi băn
khoăn, thấp thỏm.

+ Tạo dựng được một bức tranh tương phản: Một bên là không
gian của cửa bể lúc thủy triều lên và một bên là hình ảnh những cánh
hoa tàn trôi man mác trên mặt nước. Tác giả đã tô đậm sự nhỏ bé,
lênh đênh, trôi dạt của con thuyền, của những cánh hoa đã tàn, đã
rụng.

Câu thơ ẩn dụ cho thân phận nổi chìm giữa dòng đời của Thúy
Kiều rồi sẽ trôi dạt, bị vùi dập nơi nao.

• Cảnh thứ ba:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

+ Đây là cảnh khá ấn tượng, dễ gợi liên tưởng đến cảnh xuân hôm
nào trong tiết thanh minh. Tuy nhiên, không phải là “cỏ non xanh tận
chân trời" đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu" với sắc xanh héo úa,
nhàn nhạt trải dài từ mặt đất đến chân mây.

+ Nét vẽ không gian: “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” gợi một không
gian vô cùng rộng lớn đang đầy ải nàng Kiều.
+ Từ láy “rầu rầu” vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo, và gợi nỗi
sầu thương cô lẻ.

+ Từ láy “xanh xanh” gợi một sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt
phai.

Cảnh mờ mịt như tương lai mờ mịt, Thúy Kiều càng cảm nhận rõ
sự cô đơn, nhỏ nhoi của thân phận.

• Cảnh cuối:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

+ Bức tranh thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: Gió cuốn mặt
duềnh đầy giận dữ; sóng thì ầm ầm kêu réo khi thúy triều lên; thậm
chí Kiều còn có cảm giác những con sóng dữ dội kia đang bủa vây
ngay sát bên mình.

+ Thiên nhiên là một ẩn dụ cho những biến cố kinh hoàng sắp sửa
ập xuống cuộc đời nàng; ẩn dụ cho những con sóng của số phận sắp
sửa chôn vùi nàng; ẩn dụ cho một tương lai đầy sóng gió.

Thiên nhiên hiện lên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó
là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật: “Cảnh nào cảnh cảnh
chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

- Cảnh được nhìn từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm
thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung
để lo âu kinh sợ, dồn đến bão táp của nội tâm.

Tám câu cuối là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình
đặc sắc của Nguyễn Du. Đó là cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy,
cảnh trong tình này”, là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh.
III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tiêu biểu cho giá trị nhân đạo của
tác phẩm Truyện Kiều. Nguyễn Du đã bộc lộ lòng cảm thương xót xa
với cảnh ngộ thân phận và nỗi niềm của nhân vật.

2. Nghệ thuật

-Tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc.

- Nghệ thuật dùng từ rất tài hoa và đặc biệt là hệ thống từ láy ở tám
câu thơ cuối.

Văn bản 5: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm.

1. Tác giả

- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), sinh ra ở làng Tân Thới, phủ Tân
Bình, tỉnh Gia Định.

- Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đau khổ, bất hạnh:

+ Sinh ra là một cậu ấm con quan, song chẳng bao lâu thì cha bị
cách chức, tuổi thơ sớm phải lận đận.

+ Năm hai sáu tuổi, ông bị mù, khiến đường công danh nghẽn lối,
đường tình duyên trắc trở. Bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ tan vỡ,
ông về quê dạy học, làm thuốc và sống cảnh nghèo nàn, thanh bạch.

- Ông là người có nghị lực sống phi thường, không chịu gục ngã
trước số phận oan nghiệt. Ông can đảm ghé vai nhiều trọng trách:

+ Là một thầy thuốc, ông không tiếc sức mình cứu nhân độ thế.
+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ và
danh tiếng cụ đồ Chiểu vang khắp miền lục tỉnh.

+ Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao áng thơ bất
hủ, hướng cho con người đến những giá trị chân - thiện - mĩ.

+ Là một nhà quân sự, ông tích cực tham gia kháng chiến với vai trò
là người tham mưu và kiên quyết không bị giặc mua chuộc.

Dù ở cương vị nào ông cũng làm việc hết mình và để lại một tấm
gương sáng cho đời.

- Sự nghiệp văn học: Bao gồm hai đề tài chính:

+ Đề tài đạo lí: “Truyện Lục Văn Tiên ”, “Ngư tiều y thuật vấn đáp ”...

+ Đề tài yêu nước: “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, “Văn tế
Trương Định”...

Trong các nhà văn Việt Nam xưa và nay, Nguyễn Đình Chiểu là
một trong những nhà văn có nhiều đau khổ, bất hạnh nhất nhưng
ông đã sống một cuộc đời thanh bạch, cao cả, đầy nghị lực, khí
phách và để lại cho đời một sự nghiệp văn chương có giá trị lớn.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt “Truyện Lục Vân Tiên”

Lục Vân Tiên là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành.
Chàng là một học trò nghèo khôi ngô, văn võ song toàn. Trên đường
lên kinh dự thi, chàng đánh tan bọn cướp và cứu Kiều Nguyệt Nga.

Cảm ân cứu mạng, Nguyệt Nga đã tay vẽ một bức chân dung
chàng và luôn giữ bên mình. Sau đó Nguyệt Nga theo cha về quê,
còn Vân Tiên ghé thăm gia đình Võ Công là người đã hứa gả con gái
cho chàng và gặp những người bạn tốt là Hớn Minh, Vương Tử
Trực, những kẻ xấu là Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.

Sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất liền vội vã bỏ
thi về chịu tang. Chàng quá khóc thương mẹ đến nỗi mù cả hai mắt.
Sau đó chàng bị bọn lang băm, phù thủy lừa gạt lấy hết tiền, bị Trịnh
Hâm đẩy xuống sông nhưng được con Gia Long và vợ chồng Ngư
Ông cứu giúp.

Vân Tiên tìm đến nhà Võ Công thì bị từ hôn và bị bỏ vào hang sâu.
Vân Tiên lại được thần núi và ông Tiên cứu giúp, rồi chàng lại được
gặp Hớn Minh vì chống cường quyền phải bỏ chốn vào rừng. Họ
sống với nhau trong một ngôi chùa.

Về phần Kiều Nguyệt Nga, từ ngày được Vân Tiên cứu khỏi tay
bọn cướp đã tự thề nguyện thủy chung, gắn bó với chàng. Cho nên,
khi quan Thái sư trong triều muốn hỏi nàng cho con trai hắn thì nàng
đã từ chối, để rồi bị bắt đi cống giặc Ô Qua. Vì thế, Kiều Nguyệt Nga
nhảy xuống sông tự vẫn nhưng nàng được Phật bà quan âm cứu
giúp rồi trôi dạt vào vườn nhà Bùi Kiệm. Bùi Kiệm ép nàng lấy hắn
nhưng nàng bỏ trốn và được một bà lão trong rừng đưa về nuôi.

Lại nói về Vân Tiên ở chùa với Hớn Minh, nhờ thuốc tiên lại sáng
mắt ra. Chàng trở về quê nhà, gặp gia đình mình và gia đình Kiều
Nguyệt Nga. Rồi chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp
giặc Ô Qua. Thắng trận trở về, chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Từ
đấy hai người nên duyên vợ chồng sống một cuộc đời hạnh phúc.
Còn bọn giặc ác đều bị trừng trị.

b. Kết cấu của truyện

- Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện
Phương Đông, xoay quanh cuộc đời nhân vật chính là Lục Vân
Tiên.
- Kết cấu có tinh ước lệ: Người tốt thường gặp nhiều gian truân,
trắc trở, bị kẻ xấu hãm hại, lừa gạt. Nhưng họ vẫn được phù trợ, cưu
mang (nhờ người hoặc thần linh), cuối cùng được đền trả xứng đáng,
còn kẻ xấu bị trừng trị.

Kiểu kết cấu này vừa phản ánh chân thực cuộc đời vốn đầy rẫy
những bất công, vô lí; vừa nói lên khát vọng ngàn đời của nhân dân:
Thiện thắng ác, ở hiền thì gặp lành.

c. Xuất xứ đoạn trích

- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
nằm ở phần đầu “Truyện Lục Vân Tiên”

- Tác phẩm được viết khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài
hơn hai nghìn câu thơ (2082) được viết theo thể thơ lục bát.

- Nội dung của truyện nhằm truyền dạy những đạo lí tốt đẹp để làm
người:

+ Đề cao tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình
cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em, tình cảm bạn bè,...

+ Nêu cao tinh thần hiệp nghĩa, sẵn sàng cứu khổ phò nguy.

+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và
nhưng điều tốt đẹp trong cuộc đời: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo,
thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà,...

- Đặc điểm thể loại: Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất truyện để
kể hơn để đọc, để xem. Vì thế, nó dễ biến thành những hình thức
sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ”, “hát”. Nó chú
trọng hành động của nhân vật hơn là nội tâm.

d. Bố cục: Hai phần


- Phần một: 14 câu đầu: Lục Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để cứu
Kiều Nguyệt Nga.

- Phần hai: Còn lại: Cuộc chuyện trò giữa Lục Vân Tiên và Kiều
Nguyệt Nga.

I. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Lục Vân Tiên

- Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa theo mô típ của truyện
Nôm truyền thống: Một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tài giỏi, nghĩa
hiệp ra tay giải cứu cho một cô gái xinh đẹp thoát nạn, rồi từ ân nghĩa
đến tình yêu.

Mô típ này thể hiện khát vọng, mong ước của nhân dân và tác
giả về một xã hội có những con người tài đức, luôn sẵn sàng ra tay
giúp người, giúp đời.

a. Khi đánh cướp Phong Lai

• Như một vị hảo hán mang tinh thần nghĩa hiệp:

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

- Hành động “ghé lại bên đàng" cho thấy chàng không băn khoăn,
do dự khi đánh cướp Phong Lai. Nó phù hợp với tinh thần hăm hở
của chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường muốn lập công danh, thi
thố tài năng để giúp đời, giúp người. Gặp bọn cướp Phong Lai là một
thử thách, song là một cơ hội cho chàng hành động.
- Hành động gan góc, mau lẹ “bẻ cây làm gậy” chứng tỏ
chàng không màng an nguy của bản thân.

- Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên được xuất phát:

+ Từ tinh thần chính trực, thái độ bất bình, trước những điều xấu
xa, tàn ác.

+ Từ tấm lòng nhân nghĩa, giàu tình yêu thương, luôn sẵn sàng
bênh vực cho những kẻ yếu đuối và bảo vệ cho lẽ phải.

• Một vị anh hùng quả cảm có võ nghệ cao cường:

“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:

Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây

Trước gây việc dữ tại mầy

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.”

- Nguyễn Đình Chiểu đã đặt chàng vào một trận đánh không cân sức:
một bên là tướng cướp hùng hổ, hung dữ, đông đúc, được trang bị
đầy đủ vũ khí với một bên là thân cô, thế cô.

Nghệ thuật tương phản đã được tác giả sử dụng để tô đậm sự


quả cảm của Lục Vân Tiên.

- Hình ảnh Lục Vân Tiên xung trận được miên tả như một dũng
tướng với khí thế áp đảo:

+ Cụm từ “tả đột hữu xông”, rất giàu giá trị tạo hình, cho thấy
chàng đang làm chủ tình thế và tung hoành giữa đáng cướp.
+ Tác giả so sánh Lục Vân Tiên với một chiến tướng vào loại bậc
nhất trong Tam Quốc là Triệu Tử Long.

+ Nhịp điệu thơ nhanh, mạnh đã tạo nên cho trận đánh một khí thế
hào hùng, sôi động.

Lục Vân Tiên mang tầm vóc của người anh hùng mạnh mẽ, phi
thường.

- Cuối cùng, chàng đã giành được chiến thắng vẻ vang trước đả


cướp Phong Lai:

“Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giảo tìm đàng chạy ngay

Phong Lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.”

+ Chính nghĩa đã chiến thắng, cả một đảng cướp vỡ tan, hoảng sợ


bỏ chạy.

+ Tướng cướp Phong Lai “trở chẳng kịp tay” bỏ mạng dưới cây gậy
của người anh hùng.

Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh kết tinh của nhân dân,
của chính nghĩa nên nó chiến thắng tuyệt đối.

Hành động mạnh mẽ của Vân Tiên thể hiện được khát vọng của
nhân dân về một người anh hùng có sức mạnh phi thường, võ nghệ
cao cường luôn bênh vực kẻ yếu, chiến thắng thế lực tàn bạo

b. Khi trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga

- Lục Vân Tiên thế hiện là một con người giàu lòng nhân hậu:
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe nầy?”

+ Chàng tìm cách trấn an nỗi sợ hãi của họ bằng cách khẳng định lũ
cướp đã bị tiêu diệt.

+ Sau đó, chàng hỏi han rất ân cần và khiêm nhường để họ vơi đi nỗi
sợ hãi.

- Một con người biết trọng lễ nghĩa qua lối ứng xử và xưng hô:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

+ Đàng hoàng, chững chạc một mực giữ gìn lễ nghĩa, khuôn phép
của xã hội phong kiến khi khuyên Kiều Nguyệt Nga không xuống xe.

+ Lối xưng hô “nàng” - “ta” cho thấy tấm lòng trân trọng mà Lục
Vân Tiên dành cho Kiều Nguyệt Nga, cũng như thái độ lịch sự của
một con người có học, có đọc sách thánh hiền.

- Một con người hào hiệp, nghĩa khí, chính trực:

Vân Tiên nghe nói liên cười:

“Làm ơn há để trông người trả ơn

Nay đã rõ đặng nguồn cơn

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”


+ Thể hiện qua tiếng cười rất vô tư, sảng khoái khi nghe Kiều
Nguyệt Nga nói đến ơn huệ. Nhưng Vân Tiên làm ơn không màng
đến sự đền ơn.

+ Thể hiện trong quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên:
Người anh hùng phải làm việc nghĩa như là lẽ tự nhiên của một con
người chân chính.

Học đạo phái đi đôi với hành đạo. Đó là lối sống rất cao đẹp của Lục
Vân Tiên.

Lục Vân Tiên là một con người văn võ toàn tài, hào hiệp và nhân
hậu. Chàng là hình mẫu trọn vẹn cho người quân tử trong xã hội
phong kiến.

Hình ảnh của Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, lí tưởng mà
Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và mong ước của mình.

2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga

a. Một tiểu thư khuê các, nề nếp, gia giáo và có học thức

- Thể hiện qua những lời giới thiệu về bản thân của nàng:

“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên

Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.”

+ Nàng xuất thân trong một gia đình quyền quý, là tiểu thư khuê
các, lá ngọc cành vàng, trâm anh thế phiệt - con quan tri phủ Hà Khê.
+ Lời giới thiệu rất đầy đủ, chân thành, không khoa trương, kênh
kiệu đài các. Đã đáp ứng đầy đủ những lời thăm hỏi ân cần của Lục
Vân Tiên, vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.

- Thể hiện qua lối xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên:

“Trước xe quân tử tạm ngôi

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”

+ Cách xưng hô “quân tử’’, “tiện thiếp” kết hợp với hành động “lạy” và
“thưa” cho thấy sự khiêm nhường, thùy mị, nết na.

+ Thể hiện sự thông minh, mực thước của nàng trong lời ăn tiếng
nói.

- Thể hiện qua lời chia sẻ về hành động hiếu nghĩa nàng làm:

“Sai quân đem bức thơ về

Rước tôi qua đó định bề nghi gia

Làm con đâu dám cãi cha

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.”

+ Nàng không quản đường xa, thân gái dặm trường với bao nguy
hiểm bất trắc, từ Tây Xuyên đến Hà Khê vì vâng theo lời cha để
định bề nghi gia, nghi thất.

+ Nàng là người con hiếu thảo, sống đúng với khuôn phép gia đình
và với lễ giáo phong kiến. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa nàng
và Lục Vân Tiên.

Kiều Nguyệt Nga để lại một ấn tượng tốt đẹp: thùy mị, nết na, gia
giáo, thông minh, sắc sảo, có học thức.
b. Một con người có tấm lòng thủy chung, ân nghĩa

- Qua cử chỉ, lời nói với ân nhân cứu mạng:

“Trong xe chật hẹp khôn phô,

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”

+ Mặc dù ý thức rất rõ về lễ giáo và hoàn cảnh của mình, song nàng
vẫn định xuống xe để tạ ơn Lục Vân Tiên.

+ Nàng cất lên với những lời thật da diết, tha thiết: “cúi đầu trăm lạy”.

Hành động đó đã phản chiếu tấm lòng sâu sắc của nàng dành cho
Lục Vân Tiên.

- Trong lời cảm kích công lao cao cả của Lục Văn Tiên:

“Lâm nguy chăng gặp giải nguy

Tiết trăm năm cùng bỏ đi một hồi”

+ Trước hết, Vân Tiên đã giải vây để cứu mạng sống cho nàng.

+ Quan trọng hơn, Vân Tiên đã cứu được sự trong trắng và danh dự
của nàng.

Ân nghĩa đó khiến nàng day dứt và không thể không báo đáp.

- Nàng băn khoăn tìm cách để trả ơn Lục Vân Tiên:

“Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng

Gặp đây đương lúc giữa đàng

Của tiền chẳng có, bạc vàng thì không


Gẫm câu báo đức thù công

Lấy chi cho phí tâm lòng cùng ngươi.”

+ Nàng mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình tạ ơn.

+ Nàng ý thức rằng: không gì có thể sánh bằng công ơn của Lục Vân
Tiên. Bởi Nguyệt Nga là người rất coi trọng tình nghĩa và coi tình
nghĩa là vô giá.

Kiều Nguyệt Nga kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
truyền thống. Nàng không chỉ gia giáo, nết na, có học thức mà còn
rất đằm thắm nghĩa tình, cư xử có trước có sau. Bởi thế, nàng đã
nguyện gắn bó cuộc đời với chàng để giữ trọn tấm lòng ân nghĩa
thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện khát
vọng hành đạo giúp đời của nhân dân và tác giả. Đồng thời, đã khắc
họa thành công những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân
Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

2. Nghệ thuật

- Nhân vật được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa
ngoại hình, cũng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, mang tính chất của
văn học dân gian.

- Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày
và mang tính chất địa phương Nam Bộ; phù hợp với ngôn ngữ người
kể chuyện: ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết và
tính cách nhân vật.
Văn bản 6: Chuyện người con gái Nam Xương

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi
vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh
và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

- Quê ở Trường Tân - Thanh Miện - Hải Dương.

- Về con người:

+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là con người học rộng tài cao. Ông là học trò
xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.

+ Là một “kẻ sĩ” có nhân cách cao thượng. Chứng kiến những mục
nát của chế độ đương triều, ông chỉ làm quan có một năm rồi lui về
sống ẩn dật, viết sách và phụng dưỡng mẹ già.

+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là một người luôn đau đáu
đến vận mệnh của giang sơn xã tắc.

2. Tác phẩm

a. Thể loại - nguồn gốc xuất xứ

- Truyện truyền kì:

+ Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành


từ thời Đường.

+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cắt truyện từ dân


gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp
thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì
ảo...
- Truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ:

+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, đó là thời kì xã hội phong
kiến Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu
thuẫn xã hội trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các
tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ.

+ “Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện
được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo,
đề tài phong phú.

+ Truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng “thiên
cổ tùy bút” (tức áng văn hay ngàn đời).

- Chuyện người con gái Nam Xương:

+ Xuất xứ: là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của “Truyền
kì mạn lục”.

+ Nguồn gốc: truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyện dân
gian “Vợ chàng Trương”, sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp
lại một số tình tiết và thêm vào yếu tố kì ảo.

+ Ngôi kể: truyện được kể theo ngôi thứ 3.

b. Phương thức biểu đạt: Tự sự có kết hợp yếu tố biểu cảm.

c. Tóm tắt

Truyện kể về Vũ Thị Thiết (Vũ Nương), người huyện Nam Xương,


xinh đẹp nết na được Trương Sinh - một người ít học, có tính đa
nghi, cưới về làm vợ.

Gia đình đang yên ấm, hạnh phúc thì chàng Trương phải rời nhà đi
lính. Ở nhà, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng hay đùa
với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói là cha Đản.
Mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng
chăm sóc, phụng dưỡng, song ít lâu sau bà qua đời.

Khi Trương Sinh trở về, nghe theo lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết.
Vũ Nương một mực kêu oan, song Trương Sinh không nghe mà
đánh mắng, đuổi vợ đi. Vũ Nương không tự minh oan được bèn trầm
mình xuống sông tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường, bé Đản
gọi cha. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã muộn.

Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới thủy cung - người cùng
làng bị chết đuối, được Linh Phi cứu giúp. Khi Phan Lang trở về, Vũ
Nương nhờ gửi chiếc thoa và nhắn chàng Trương lập đàn giải oan
cho nàng. Trương Sinh nghe theo, lập đàn giải oan cho nàng ở bến
sông ấy. Vũ Nương trở về ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ vài lời
tạ từ rồi biến mất.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Vũ Nương

- Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ
nữ đẹp người, đẹp nết, “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt
đẹp”,

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các
yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung
chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước
“tư dung” - vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ
“đem 100 lạng nàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc
và phẩm chất của nàng.

Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc họa với những nét chân
dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội
phong kiến.
Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt
nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:

a. Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung,


yêu thương chồng hết mực.

Ÿ Trong cuộc sống vợ chồng bình thường:

- Nàng hiểu chồng “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá
sức”. Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn
khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu
chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa
hai người và đầy tính dự báo.

• Khi tiễn chồng đi lính:

- Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:

+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường
những thứ vinh hoa phù phiếm: “Thiếp chẳng dám mong đeo được
ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên”.

+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian
lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân
khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn
gian lao”.

+ Nàng bộc lộ sự khắc khoải, xa nhớ của mình: “Nhìn trăng soi
thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoan,
lại thổn thức tâm tình”.

Đó là những lời nói ân tình, đằm thắm, đầy ắp những yêu


thương. Qua đó, cho chúng ta thấy Vũ Nương thực sự là một người
vợ dịu dàng, hết mực thương chồng, thương con và thật đáng trân
trọng.

• Khi xa chồng:

- Vũ Nương tỏ ra là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết


mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi thấy bướm lượn
đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn
thương da diết”.

- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với
bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha
Đản.

- Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần
sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô
son điểm phần từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén
gót”.

Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ
Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc,
thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là
tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến
tranh.

• Khi bị chồng nghi oan:

- Nàng đã hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch
của mình:

+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình
nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.

+ Tiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng,
vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.
+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ
để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn,
hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những
lời nói tha thiết đó, nó còn cho thấy thái độ trân trọng chồng và gia
đình nhà chồng của nàng.

- Không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng:

+ Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khao khát
và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.

+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước
lệ: "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió".

+ Đen nỗi đau chờ chồng đến hóa đá của “cổ nhân" nàng cũng
không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".

Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của
người vợ trẻ giờ đã không còn ý nghĩa.

- Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng
nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại.

+ Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong


trắng mà minh oan cho mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu mì. Nhược bằng lòng chim dạ cả, lừa chồng dối con, dưới xin
làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ”

+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.
Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt
cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và
giàu đức hi sinh ấy, phẩm giá còn cao hơn sự sống.

• Những năm tháng sống dưới thủy cung:

- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về
chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ.

+ Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng.

+ Nghe Phan Lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót


thương.

- Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa
vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.

- Nàng là người trọng tình, trọng nghĩa: Dù thương nhớ chồng


con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết
bên Linh Phi.

Với vai trò là một người vợ, Vũ Nương là một người phụ nữ
chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong
trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị
tha.

b. Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là một người con dâu
hiếu thảo.

-Vũ Nương đã thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con,
người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi
già yếu, ốm đau. “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy
lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.

- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu
đáo như đối với cha mẹ đẻ mình.
- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng
hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ
Nương: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ
mẹ”.

“Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi”
là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng
dâu trong xã hội phong kiến xưa. Song lời cảm tạ, động viên của bà
mẹ đã cho thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo. Đó là
sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.

c. Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương


con hết mực.

- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con
khôn lớn.

- Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là
một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu
thốn tình cảm.

- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về
mật vật chất, mà con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết
mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của
mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho
con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.

Vũ Nương đã không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một
người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người
trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh
phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không
mỉm cười với nàng.

2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương


a. Nguyên nhân trực tiếp

- Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình, khi
người cha thật trở về thì không chịu nhận và ngây thơ, vô tình đưa ra
những thông tin khiến mẹ bị oan.

Những lời nói thật của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen
tuông trong lòng Trương Sinh.

b. Nguyên nhân gián tiếp

- Do cuộc hôn nhân không bình đẳng và tính cách của Trương
Sinh: Vũ Nương là “con kẻ khó” được Trương Sinh đem trăm lạng
vàng để cưới về. Sự đối lập giàu nghèo cộng với tính cách “đa nghi”
của Trương Sinh đã sản sinh ra sự hồ đồ, độc đoán, gia trưởng sẵn
sàng thô bạo với Vũ Nương.

- Trong cách cư xử với vợ, Trương Sinh đã thiếu cả lòng tin và cả


tình thương.

- Do lễ giáo phong kiến hà khắc: Chế độ nam quyền đã dung túng,


cổ vũ cho thói độc đoán, gia trưởng của người đàn ông, cho họ cái
quyền tàn phá hạnh phúc mong manh cua người phụ nữ.

-Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền mà còn
là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Trương Sinh phải đi lính,
thời gian xa cách như ngọn lửa âm ỉ để thổi bùng lên trong con người
vốn đa nghi, độc đoán và vô học.

3. Những chi tiết đặc sắc

a. Những chi tiết kì ảo cuối truyện

- Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái
áo xanh đến xin tha mạng, sáng hôm sau ông được người phường
chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền thả.
- Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lang chết đuối vì có công nên được
Linh Phi cứu sống, gặp Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương
thế.

- Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng
Giang, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói lời từ biệt rồi biến mất.

Chi tiết kì ảo là sự sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ trong tác


phẩm, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị
thẩm mĩ mới mà truyện cố tích “Vợ chàng Trương” không có.

b. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện

- Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì,

- Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì,
hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

- Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác
phẩm.

- Tạo nên một kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:

+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự
chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc
sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là
người phụ nữ.

+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp
trong tính cách của Vũ Nương: Dù ở một thế giới khác, nhưng
nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được
minh oan.

- Tuy nhiên, yếu tố kì ảo chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi
kịch của thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ
là một sự hiển linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang
loáng mờ nhạt” trên sông mà dần biến đi mất. Tức là vẫn còn xa
cách, vẫn là sự chia li âm dương đôi ngả. Hạnh phúc, sự đoàn tụ là
những điều lớn lao cuối cùng của Vũ Nương cũng không dành được,
mà đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vũ Nương không trở về, cái lí mà nàng đưa
ra là vì ân đức của Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất
cho những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi
tiết Phan Lang được rẽ nước trở về nhân gian còn Vũ Nương thì
không thể là một minh chứng đanh thép.

4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

a. Giá trị hiện thực

+ Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận bất hạnh
của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua hình tượng nhân
vật Vũ Nương.

+ Lên án hiện thực xã hội phong kiến với đầy những bất công,
vô lí. Xã hội ấy đã dung túng chế độ nam quyền hà khắc, trọng nam
khinh nữ, cho người đàn ông cái quyền chà đạp lên số phận người
phụ nữ. Ở xã hội đó, người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ giá
trị nhân phẩm của mình.

+ Phản ánh xã hội phong kiến với những mâu thuẫn gây ra
những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên, làm cho đời sống
người dân rơi vào bi kịch, bế tắc.

b. Giá trị nhân đạo

+ Khám phá, bênh vực, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của
người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

+ Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp: Đề cao giáo trị
nhân văn “ở hiền thì gặp lành” và gửi gắm những ước mơ tốt đẹp
ngàn đời của nhân dân ta.
+ Qua số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất công của nhân vật Vũ
Nương, tác phẩm thể hiện sự thấu hiểu, xót xa và niềm cảm
thông sâu sắc của tác giả.

+ Lên tiếng tố cáo chế độ độ phong kiến, chế độ nam quyền đã


chà đạp lên quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con
người. Đó cũng chính là giá trị nhân văn muôn thuở của nhân loại.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện niềm cảm
thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ phong kiến. Qua đó khẳng định những vẻ đẹp
phẩm chất quý báu của họ.

- Tác phẩm còn như một thông điệp vượt thời gian: Tất cả mọi
người đều có quyền sống và quyền hạnh phúc. Đặc biệt là những
người phụ nữ, họ có quyền bình đẳng để phát huy tài năng và phẩm
chất của mình. Đó cũng chính là những biểu hiện của một xã hội hiện
đại, văn minh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: xoay quanh sự ngộ nhận,
hiểu lầm lời nói của bé Đản. Chi tiết cái bóng trở thành điểm mấu
chốt của tình huống truyện khiến cốt truyện được thắt nút, mơ nút,
thay đổi sau khi nó xuất hiện.

- Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: Dẫn dắt tình huống hợp lí; xây
dựng lời thoại của nhân vật, đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt
là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực và kì ảo.
- Có sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu đạt: tự sự, biểu
cảm.

Văn bản 7: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), người làng Đan Loan, huyện Đường
An, tỉnh Hải Dương.

- Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người có chí hướng: “Làm người


con trai phải lập thân hành đạo... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời”

- Là một người có nhân cách cao thượng, sống trong thời buổi đất
nước loạn lạc, nhiễu nhương, nên dù nhiều lần được vua vời ra làm
quan, nhưng được ít lâu lại xin về ẩn dật.

- Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ
các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí,... tất cả đều viết bằng
chữ Hán.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Đoạn trích nằm trong tác phẩm “Vũ Trung tùy bút” (tùy bút viết trong
những ngày mưa) được viết khoảng đầu đời Nguyễn (thế kỉ XIX).
Tác phẩm gồm 88 mẩu truyện nhỏ, ghi chép lại hiện thực đen tối của
lịch sử nước ta.

- Tác phẩm vừa có giá trị văn chương đặc sắc, vừa là những tài liệu
quý về sử học, địa lí và xã hội học.

b. Thể loại
- Tùy bút là thể loại ghi chép một cách chân thực, sinh động về
những người, sự kiện cụ thể có thực. Trong đó, tác giả bộc lộ
cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người
và cuộc sống hiện tại.

- Tùy bút ghi chép một cách tản mạn, tùy theo cảm hứng chủ quan
của tác giả, bởi vậy cấu trúc không bị ràng buộc, song vẫn theo một
tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, và vì thế nó cũng giàu chất trữ tình.

c. Bố cục: hai phần

- Phần một: Từ đầu đến “biết đó là triệu bất tường”: Những thú ăn
chơi của Chúa Trịnh.

- Phần hai: Còn lại: Sự tham lam, nhũng nhiễu của quan lại trong phủ
Chúa.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Thói ăn chơi của Chúa Trịnh và các quan lại cận thần trong
phủ Chúa

- Thú chơi đèn đuốc:

+ Chúa cho xây dựng thật nhiều cung điện, đình đài để thỏa thú
“chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp. Vì vậy “xây dựng đình đài cứ liên
miên”, dần đến hao tiền tốn của.

+ Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung. Đó là
những cung điện, lâu đài xa chốn kinh thành.

+ Đặc biệt, chúa thường xuyên tổ chức những cuộc dạo chơi ở
Hồ Tây “tháng ba bốn lần" huy động động người hầu kẻ hạ, các nội
thần, các quan hộ giá, nhạc công... bày ra nhiều trò giải trí lố lăng,
tốn kém.
- Thú chơi cây cảnh:

+ Chúa dùng quyền lực để cưỡng đoạt, vơ vét những của quý
trong thiên hạ như “trân cầm, dị thú”, “cơ mộc quái thạch”. Đó không
phải là sự hưởng thụ cái đẹp chính đáng mà là sự chiếm đoạt.

+ Quang cảnh phủ Chúa được gợi ra bằng những cảnh tượng rùng
rợn, bí hiểm, ma quái. “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim
kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa
gió táp, vỡ đổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Nó
không phải là một cuộc sống bình thường, vì nó gợi nên sự chết
chóc - một sự sống cận kề cái chết, với ngày tận thế.

Có thể thấy cách sống của các vua chúa thời phong kiến suy tàn
là chỉ lo ăn chơi xa xỉ, không lo việc nước, ăn chơi bằng quyền lực
thiếu văn hóa. Nó như dự báo trước sự suy vong tất yếu của một
triều đại.

2. Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

-Tác giả đã vạch trần thủ đoạn “mượn gió bẻ măng” của bọn hoạn
quan, cung giám: Lợi dụng uy quyền của các chúa để vơ vét của
cải trong thiên hạ: vừa ăn cướp, vừa la làng.

- Thủ đoạn này đã nhiều lần gây tai họa cho dân lành: “các nhà
giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu
van chí chết".

Vua nào, tôi ấy, tham lam, nham hiểm, mặc sức vơ vét của dân

Tác giả đã kết thúc bài tùy bút bằng cách ghi lại một sự việc
có thực đã từng xảy ra ngay trong nhà mình. Điều đó khiến người
đọc tin vào sự chân thực của câu chuyện; thấy được sự thật thối nát
trong phủ chúa là điều không thể chối cãi. Đồng thời, Phạm Đình Hổ
đã kín đáo gửi gắm thái độ bất bình, phê phán.
III. Tổng kết

1. Nội dung

Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực đời sống xa hoa của
phủ Chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê - Trịnh.

2. Nghệ thuật

- Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực và sinh động.

- Thủ pháp liệt kê làm nhấn mạnh thói ăn chơi xa xỉ và sự nhũng


nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

Văn bản 8: Hoàng Lê nhất thống chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Ngô gia văn phái: Một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở
làng Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó có hai tác giả chính là:

+ Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống.

+ Ngô Thì Du (1772 - 1840) làm quan dưới triều Nguyền.

- Họ là những nhà Nho mang nặng tư tưởng trung quân, ái quốc.


Ngô Thì Chí từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyền Huệ kéo
quân ra Bắc lần thứ hai. Ông cũng chính là người dâng “Trung hưng
sách” bàn kế để khôi phục nhà Lê và chống lại nhà Tây Sơn.

- Họ là những cây bút trung thực và có tư tưởng tiến bộ. Họ đã


phản ánh được một cách chân thực, sống động những sự kiện lịch
sử dân tộc trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ
XIX.
2. Tác phẩm

a. Thể loại

- “Hoàng Lê nhất thống chí “được viết theo thể chí - một thể văn ghi
chép sự vật, sự việc. Một thể loại văn vừa có tính văn học, vừa có
tính lịch sử lại vừa mang tính triết lí (hiện tượng văn - sử - triết bất
phân).

- Nếu xét về tính chân thực, tác phẩm có thể được xếp loại kí sự lịch
sử. Song, nếu xét về phương diện nghệ thuật: kết cấu, giọng điệu
trần thuật... thì tác phẩm thuộc vào loại tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm
được viết theo kiểu chương hồi, trong đó gồm 17 hồi.

b. Hoàn cảnh sáng tác

- “Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm được viết bằng chữ Hán,
ghi chép về sự thống nhất đất nước của vương triều nhà Lê vào thời
điểm Tây Sơn diệt Trịnh.

- Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nổi tiếp nhau, từ giai đoạn
cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn và do một số tác giả kế tục
nhau viết.

- Tác phẩm được viết bởi hai tác giả chính: Ngô Thì Chí viết bảy hồi
đầu, Ngô Thì Du viết bảy hồi tiếp sau, còn ba hồi cuối có thể do một
người khác viết vào khoảng cuối hoặc đầu triều Nguyền.

c. Vị trí đoạn trích

- Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi thứ mười bốn của tác
phẩm, ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung cùng nghĩa
quân Tây Son. Đồng thời, miêu tả sự thất bại tham hại của quân
tướng nhà Thanh cùng số phận của bè lũ vua tôi hại nước, hại dân
Lê Chiêu Thống.
d. Tóm tắt

Tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn
Sở lui quân về núi Tam Điệp. Ngày 25 tháng Chạp năm 1788,
Nguyễn Huệ lên ngôi vua (hiệu là Quang Trung) ở Phú Xuân, tự
mình đốc suất lại binh để chuẩn bị tiến quân ra Bắc diệt Thanh.

Dọc đường vua Quang Trung cho tuyển thêm lính, mở cuộc duyệt
binh lớn và chia quân thành các ngả để tiến ra Bắc. Ra chỉ dụ tướng
lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp, hẹn đến ngày
mồng 7 Tết thắng lợi sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long.

Đội quân của Quang Trung đánh đen đâu thắng đến đó khiến quân
Thanh đại bại. Rạng sáng ngày mồng 3 Tết, nghĩa quân đã tiến vào
Thăng Long, bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, dùng mưu để quân giặc đầu
hàng và hạ đồn một cách dễ dàng.

Ngày mồng 5 Tết, nghĩa quân tiến công vào đồn Ngọc Hồi. Quân
giặc chống trả quyết liệt, cuối cùng phải chịu đầu hàng, Sầm Nghi
Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê
Chiêu Thống cùng gia quyến trốn chạy theo.

e. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Từ đầu đến “năm Mậu thân 1788”. Tin quân Thanh đã
chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, thân chinh
cầm quân dẹp giặc.

- Phần hai: Tiếp theo đến “kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc
và chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn.

- Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại
của vua tôi Lê Chiêu Thống.

II. Trọng tâm kiến thức


1. Hình tượng người anh hùng Quang Trung

a. Nhà lãnh đạo quyết đoán, mạnh mẽ và bản lĩnh phi thường

- Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn hành động một cách
mạnh mẽ, nhanh gọn và rất quyết đoán: Nghe tin giặc chiếm thành
Thăng Long, không hề nao núng mà “định thân chinh cầm quân đi
ngay”.

- Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều
việc lớn:

+ Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung
để yên lòng dân rồi thân chinh cầm quân ra Bắc.

+ Trên đường tiến quân ra Bắc, tranh thủ gặp Nguyễn Thiếp để hỏi
về kế sách, đặc biệt là thu hút sự ủng hộ của tầng lớp sĩ phu.

+ Tuyển mộ được hơn một vạn tinh binh và mở cuộc duyệt binh
lớn.

+ Ra phủ dụ tướng sĩ: Một mặt, vạch trần âm mưu xâm lược của
nhà Thanh, cho thấy bộ mặt tàn bạo của kẻ thù; mặt khác, giữ
nghiêm kỉ luật, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính.

Tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, đầy bản lĩnh là đặc điểm của
những bậc quân vương tài chí. Và với tính cách ấy, Nguyễn Huệ
xứng đáng được nhân dân tôn thờ và gửi gắm niềm tin để trở
thành linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn.

b. Bậc minh vương có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén

- Là một bậc quân vương, thống lĩnh cả vạn tinh binh, vua Quang
Trung đã tỏ ra được là một người sáng suốt, nhạy bén trong
việc nhận định tình hình thế cuộc và tương quan lực lượng giữa
ta và địch. Điều đó được thể hiện trong lời phủ dụ với quân lính khi ở
Nghệ An:

+ Vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền dân tộc. “Trong
khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng... Người
phương Bắc không phải nòi giống nước ta”.

+ Tiếp đó, ông lên án hành động ngang ngược, phi nghĩa của
giặc trái với đạo trời của quân Thanh: “Từ đời nhà Hán đến nay,
chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của
cải”.

+ Để khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới quyền, ông đã nhắc lại


truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của các bậc minh
vương trong lịch sử: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh
Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh
có Lê Thái Tô...”

+ Từ những gương trên, ông kêu gọi quân lính hãy “đồng tâm
hiệp lực”.

+ Cuối cùng, ông ra kỉ luật nghiêm khắc theo phép nhà binh: “Chớ
có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết
chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

Lời phủ dụ đã như một bài hịch ngắn gọn mà súc tích, sâu sắc để
kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc.

- Đó còn là một bậc minh quân sáng suốt, nhạy bén trong việc
dùng người và xét đoán bề tôi:

+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với
Lân và Sở, ta thấy: ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân để bảo
toàn lực lượng của hai vị tướng này. Đúng ra thì “quân thua chém
tướng”. Nhưng ông hiểu lòng họ, sức ít không thể địch nổi quân hùng
tướng hổ nhà Thanh.

+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông hiểu tường tận năng lực, khả năng “đa
minh túc trí” của vị quân sĩ này. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang
Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực
lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng
Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao sau này.

Ông là một bậc minh quân, rất hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người
đúng việc và ân uy rạch ròi.

c. Bậc quân vương có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông


rộng

- Quang Trung tự tin vào tài cầm quân của mình, tin vào các tướng
lĩnh và tin ở chính nghĩa của dân tộc. Bởi vậy, mới khởi binh, ông
đã chắc thắng và dự kiến cả ngày chiến thắng: “Phương lược tiến
đánh đã tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người
Thanh...”

- Đang lo việc đánh giặc, Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch sau
chiến thắng (kế hoạch cho mười năm sau), tìm cách ngoại giao với
giặc để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi
dưỡng lực lượng”,...

Chính tinh thần, ý chí quyết thắng hừng hực của vua Quang Trung
đã lan tỏa đến từng quân sĩ để kích thích ý chí quật cường trong họ.

d. Bậc kì tài về quân sự - có tài thao lược hơn người

- Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, đốc suất quân sĩ, tổ chức
chiến dịch làm nên cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch
sử. Cuộc hành quân thần tốc đến nay vẫn còn khiến chúng ta khâm
phục:
+ Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế).

+ Vượt khoảng 350 km đường đèo, núi, đến ngày 29 đã tới Nghệ An.

+ Tổ chức tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày.

+ Ngay hôm sau, vượt khoảng 150 km, tiến ra Tam Điệp.

+ Đêm 30 tháng Chạp “lập tức lên đường” tiến thẳng Thăng Long.
Vừa hành quân vừa đánh giặc và giữ bí mật đến bất ngờ.

- Hành quân xa liên tục và gấp gáp, lại là đi bộ hẳn sẽ mệt mỏi, rã
rời, song quân đội của Quang Trung vẫn chỉnh tề. Mặc dù quân đội
đó không phải toàn lính thiện chiến nhưng dưới sự chỉ huy tài tình
của vua Quang Trung, tất cả đã trở thành quân đội dũng mãnh,
“tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui ở dưới đất lên", đánh đâu
thắng đó.

- Ông dùng chiến thuật một cách linh hoạt, ít hao tổn binh lực:

+ Ở trận Hạ Hồi, bằng chiến thuật nghi binh đã giúp nghĩa quân chiến
thắng vẻ vang mà không tốn một hòm tên, mũi đạn.

+ Ở trận Ngọc Hồi, cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài
phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến sát đồn mà không bị đạn hỏa
công.

Quang Trung là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, đại
diện cho vẻ đẹp của một dân tộc anh hùng.

e. Một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến đấu

- Vua Quang Trung là một tổng chỉ huy thực sự của chiến dịch. Ông
hoạch định đường lối chiến lược, chiến thuật, tự mình thống lĩnh một
mũi tiên phong, xông pha nơi chiến trận,...
- Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, nghĩa quân Tây Sơn đã chiến
thắng áp đảo quân thù.

- Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi, trực tiếp chỉ huy trận đánh,
dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của cuộc tiến
công vĩ đại của dân tộc.

Hình ảnh vua anh hùng Quang Trung xông pha nơi chiến trận với
tư thế dũng mãnh, “tả đột hữu xông", oai phong lẫm liệt xứng đáng là
biểu tượng đẹp nhất về người anh hùng trong văn học trung đại.

2. Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của bọn vua
tôi phản nước, hại dân

a. Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh

- Đối lập với hình ảnh của nghĩa quân Tây Sơn:

+ Tướng Tôn Si Nghị: “sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên,
người không kịp mặc áo giáp, dân bọn lính kị mà của mình chuồn
trước qua câu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy"; Sầm Nghi Đống
thì thắt cổ tự tử.

+ Quân “đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang
sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều... đến nỗi nước sông
Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa".

- Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người diễu võ
dương oai giờ đây chi còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không
dám nghỉ ngơi”.

- Nguyên nhân của sự thất bại:

+ Tướng lĩnh thì kiêu căng, chủ quan, bỏ ngoài tai những lời cảnh
báo của vua tôi Lê Chiêu Thống, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc trên chiến
thắng.
+ Do sự bất tài, tham sống sợ chết, nên chưa đánh đã chạy.

+ Lính tráng thì ô hợp, buông lỏng kỉ cương: Rời doanh trại để đi
kiếm củi và buôn bán ở chợ.

Miêu tả sự đại bại của quân xâm lược nhà Thanh với âm điệu
nhanh, mạnh, gấp gáp đã gợi sự đại bại liên tiếp và nhanh chóng
của kẻ thù, đồng thời gợi tâm trạng hả hê, sung sướng của người
cầm bút.

b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân

- Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng
của dòng họ mà mù quáng “cõng rắn cắn gà nhà” và đặt vận mệnh
của dân tộc vào tay kẻ thù xâm lược.

- Họ không còn tư cách của bậc quân vương mà phải chịu số phận
nhục nhã của kẻ cầu cạnh, van xin và kết cục chịu chung số phận
thảm hại của kẻ vong quốc: Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ
thân tín chạy bán sống, bán chết, “luôn mấy ngày không ăn, ai nấy
đều mệt lử”, chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

Miêu tả sự thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu
Thống bằng một giọng văn chậm rãi, có khi chững lại khi miêu tả
những giọt nước mắt để gợi thái độ ngậm ngùi của người cầm bút.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Hoàng Lê nhất thống chí” - hồi mười bốn - “Đánh Ngọc Hồi, quán
Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài” là
bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ - vị vua văn võ
toàn tài. Đồng thời, cũng thấy được tình cánh thất bại ê chề, khốn
đốn, nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống.
2. Nghệ thuật

- Lựa chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử.

- Khắc họa nhân vật lịch sử với ngôn ngữ kể, tả chân thực, sinh
động.

- Giọng điệu trần thuật thê hiện thái độ của tác giả với vương triều
Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.

Văn bản 9: Đồng chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chính Hữu (1926 - 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Chính Hữu bắt đầu cầm bút từ năm 1947 và tập trung khai thác ở
hai mảng đề tài chính là người lính và chiến tranh.

- Phong cách sáng tác: Thơ Chính Hữu vừa hàm súc, vừa trí tuệ;
ngôn ngữ giàu hình ảnh; giọng điệu phong phú: khi thiết tha, trầm
hùng, khi lại sâu lắng, hàm súc.

2. Tác phẩm

Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm được đánh giá là
thành công nhất của Chính Hữu viết về đề tài người lính cách mạng
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 - 1954.

a. Hoàn cảnh sáng tác


- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác
giả tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947). Bài thơ là kết
quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến
đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo" (1966).

b. Nhan đề bài thơ

- Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.

- Đồng chí gợi cảm nghi về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một
loại tình cảm mới, một tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong
những năm tháng cách mạng kháng chiến.

- Đồng chí, đó còn là cách xưng hô của những người cùng trong một
đoàn thể cách mạng, của những người lính, người công nhân, người
cán bộ từ sau cách mạng.

Đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu
sắc tình đồng đội.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành của tình đồng chí,
đồng đội.

- Phần hai: 10 câu tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội.

- Phần ba: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng
đội.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội (7 câu
thơ đầu)
a. Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân

- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ
cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp
mới, vẻ đẹp của tình đông chí, đồng đội:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá’’

+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên
sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những
miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới
mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai
con người “anh” và “tôi”.

+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng
đồng chiêm, nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái
nghèo như manh nha từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du,
miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái
nghèo như ăn sâu từ trong lòng đất.

“Quê hương anh” - “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người
miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng đều khó làm ăn canh tác, đều
chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của
những người lính.

Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông


dân. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là
sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những
người đồng chí, đồng đội với nhau.
b. Cơ sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu
nước

Trước ngày nhập ngũ, họ sống ở mọi phương trời xa lạ:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,”

- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời
xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung, cùng chung nhịp đập trái tim,
cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng.
Những cái chung đó đà thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.

- Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa
tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong
quân ngũ:

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những
người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để
chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời
giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí,
quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc.

- Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn
mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người
lính.

- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” - “tôi” đứng trên từng dòng thơ
như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ
hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những
người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là
cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

c. Cơ sở thứ ba: Cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn

- Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã
miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ’’

+ “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian
khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh
nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ
niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã
khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau
hơi ấm và trở thành “tri kỉ”.

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm
được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ,
chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân
tộc.

- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ
“đôi” ở câu thơ trên:

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai" mà lựa chọn từ “đôi". Vì “đôi”


cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể
tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đà trớ thành “đôi tri ki”, thành đôi bạn tâm
tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được
cấu tạo bởi hai từ “Đồng chí!”.

+ Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định
nghĩa về đồng chí.

+ Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của
cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội.

+ Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng của tình đồng chí.

+ Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý
thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm
hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến yêu thương.

Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí.
Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người
nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội
sống chết có nhau.

2. Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội (mười câu thơ
tiếp)

a. Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của
nhau

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

• Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về
chốn quê nhà:
- Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: Neo người, thiếu sức
lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề
công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.

- Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm
thiếu thốn:

+ Hình ảnh “gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất
trong cuộc sống gia đình các anh.

+ Đổng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh - người trụ cột trong gia
đình.

• Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng
cho quê hương, dân tộc.

- "Ruộng nương”, "căn nhà” là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn
bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc
riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc.

- Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc, nhưng giàu
sức gợi:

+ Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính.
Mặc kệ những gì quý giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn.

+ Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một cách thầm
lặng của các anh vì đất nước.

• Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm
hồn người lính.

- Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê và trên hết
là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để
chế ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhung càng trở
nên da diết.
- Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử
dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép
nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.

- "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của
người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã
tạo cho “giếng nước gốc đa” một tâm hồn.

Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã
hiện lên tràn đầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc
lập, tự do của Tổ quốc.

b. Biểu hiện thứ hai: Đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân
ngũ

Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu
đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian
khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói
về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vâng trán ướt mô hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giả

Chân không giày”

- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc,
nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với
sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết, là những cơn sốt rét rừng:
+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của
những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.

+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những
người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những
gian khổ, khó khăn.

- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thon, gian khổ:

+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác
những thiếu thốn của người lính: “áo rách vai, quần vài mánh vá,
chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực
tế cuộc sống người lính.

+ Những khó khăn gian khố như được tô đậm khi tác giả đặt sự
thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của
những đêm rừng hoang sương muối.

Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng
chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng
mà đi, đạp núi mà tiến.

- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh
“miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách
để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau đê
diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.

Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại
thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương của người kia. Tình thương
đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.

c. Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó
Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ánh thơ
rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nằm lấy bàn tay”

- Những cái bắt tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ
ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm
sự giàu sang vô cùng về tinh thần.

- Những cái bắt là lời động viên chân thành, để những người lính
cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.

- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm để truyền cho
nhau thêm sức mạnh.

- Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến
thắng quân thù.

Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí
thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết găn bó đã nâng
đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường
chiến đấu.

3. Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội

• Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:

“Đêm nay rừng hoang sương muối”

- Thời gian: Một đêm phục kích giặc.

- Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và
phủ đầy sương muối.

• Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện
trong tâm thế:
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới’’

-Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” cho thấy tinh thần đoàn kết, luôn
sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh.

- Hình ảnh “chờ giặc tới” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn
sàng chiến đấu của người lính.

• Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức
tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn:

- Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc,
nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm,
người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: trăng lơ lửng như
treo đầu mũi súng.

- Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn
sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây
rất thơ mộng, nối liền mặt đất với bầu trời.

- Hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa:

+ Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non
nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi
cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình;
hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ - vẻ
đẹp tâm hồn thi sĩ;...

+ Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ
bay lên giữa lúc cam go khốc liệt.

+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ
vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
Hình ảnh này xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng
chiến: một nền thơ có sự kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm
hứng lãng mạn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Tác giả đã khám phá, ngợi ca một tình cảm đẹp của những người
lính cách mạng, đó là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sâu nặng.
Đồng thời, tác phẩm còn nêu bật lên hình ảnh chân thực, giản dị và
cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.

2. Nghệ thuật

- Lối miêu tả chân thực, tự nhiên nhung cũng giàu sức gợi.

- Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Giọng điệu tự nhiên, trăm bổng thể hiện cảm xúc dồn nén chân
thành.

Văn bản 10: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú
Thọ.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính và nữ thanh
niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Phong cách sáng tác: Thơ Phạm Tiến Duật mang giọng điệu tự
nhiên, sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch; ngôn ngữ đời
thường, chân mộc;...

- Nhiều bài thơ của ông đi vào trí nhớ của công chúng như: “Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây”; “Gửi em, cô thanh niên xung phong”;
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969. Đây là
thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng khắc
nghiệt.

- Bài thơ nằm trong chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ do báo Văn
nghệ tổ chức và được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” năm
1970.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Bài thơ có nhan đề khá dài, khá đặc biệt: “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính”. Nhan đề bài thơ thoạt nghe sẽ thấy như có chỗ thừa:
thừa hai chữ “bài thơ”. Nhưng chính chỗ thừa ấy đã tạo sức hút cho
người đọc ỏ vẻ khác lạ và độc đáo ở sức gợi: gợi chất thơ của cuộc
sống nơi chiến trường.

- Hình ảnh “tiểu đội xe không kính” được đưa vào nhan đề bài thơ:

+ Gợi hiện thực phổ biến, quen thuộc trên tuyến đường Trường Sơn
trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Gợi hiện thực của cuộc chiến vô cùng gay go, khốc liệt.
+ Gợi vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn, vẻ đẹp của lòng
dũng cảm, của ý chí nghị lực của sự kiên cường.

Cả ý nghĩa nhan đề đã gợi ra hiện thực về chiến trường, đồng thời


tô đậm chất thơ trong cuộc đời người lính lái xe.

c. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: Khổ 1,2: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế
hiên ngang của người lính.

- Phần hai: Khô 3, 4: Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi
thường hiểm nguy của người lính.

- Phần ba: Khổ 5, 6: Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính
lái xe.

- Phần bốn: Khổ 7: Ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước và lí tưởng
cách mạng của người lính.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của
người lính (khổ 1, 2)

- Xưa nay, xe cộ rất ít khi đi vào thơ ca, mà nếu có chăng thì cũng
được “thi vị hóa” hoặc “lãng mạn hóa” và mang ý nghĩa tượng trưng
hơn là tả thực. Nhưng những chiếc xe không kính được Phạm Tiến
Duật đưa vào thơ lại thực đến mức trần trụi:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”

+ Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi đậm đặc và lối nói
khẩu ngữ khiến cho câu thơ mở đầu trở thành một lời giải thích,
thanh minh, phân bua của người lính lái xe về những chiếc xe có
không kính.

+ Đồng thời, gợi tâm trạng vừa xót xa, tiếc nuối với chiếc xe của
mình.

+ Các từ phủ định: “không có... không phải... không có” đi liền với
các điệp ngữ “bom giật, bom rung” không chỉ mang ý nghĩa khẳng
định mà còn khiến cho âm điệu câu thơ trở nên hùng tráng, làm cho
sự xuất hiện của những chiếc xe trở nên ngang tàng.

Hai câu thơ đầu đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự
mang trên minh đầy những thương tích của chiến tranh. Nó chính là
một bằng chứng cho sự tàn phá khủng khiếp của một thời đã đi qua.

- Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy,
Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính
lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung" đứng đầu câu gợi sự bình
thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.

+ “Nhìn thẳng" là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất,
không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run
sợ.

+ Điệp từ “nhìn" được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập,
giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa
chiến trường của người lính.

+ Thủ pháp liệt kê: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng" đã cho thấy
tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của những người lính lái xe.
Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường
đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.

- Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được
khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên
nhiên:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

+ Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường
dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao
đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.

+ Điệp từ, điệp ngữ: “nhìn thấy... nhìn thấy... thấy” đã gợi tả được
những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.

+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đối cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể
hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.

+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”. Gợi liên tưởng đến
những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các
anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các
anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim.

Đồng thời, cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam.

+ Đặc biệt, hình ảnh so sánh "như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn
tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra
trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.
Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác
đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư
thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính
trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.

2. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy
của người lính (khổ 3, 4)

Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người
lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh, tình thế nào,
người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến
thắng quân thù:

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xôi như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

- Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ,
thử thách nơi chiến trường.

- Cấu trúc lặp: "Không có..., ừ thì...” đi liền với kết cấu phủ
định “Chưa có...” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó
khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
- Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và "Mưa
tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên
nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới
lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính Trường Sơn.

- Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho
thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường những hiểm nguy, thử
thách.

- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản
nhiên, hóm hỉnh... làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính,
cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến
đấu.

Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

3. Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,
6)

Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong
mưa bom, bão đạn, họ lại gặp nhau để hợp thành tiểu đội trong
những cái bắt tay vô cùng độc đáo:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”

- Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực
về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn
chiến trường trở về.
- Hình ảnh “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:

+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tầm hồn của những người
lính.

+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho
nhau.

+ Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung
đường đã qua.

Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình
đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến, được chung bát, chung
đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau
hơn:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

- Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì
thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng
gắn bó với nhau trong đời thường.

- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội
vã. Nhưng cũng chính giây phút hạnh phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi
khoảng cách giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt.

- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng -
đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các
chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi.
- Nghệ thuật ẩn dụ: “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của
người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của niềm tin và tin tưởng ở ngày
chiến thắng đang đến gần.

+ Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không
ngừng tiến tới, Khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến
đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức
mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nối.

4. Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng


của người lính (khổ 7)

Hình ảnh chiến sĩ lái xe Trường Sơn là một hình ảnh tiêu biểu cho
thể hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, một biểu tượng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Khổ thơ cuối bài kết tinh vẻ đẹp của hình
tượng những chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe:

“Không có kinh, rồi không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

- Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả
miêu tả một cách chân thực và sinh động:

+ Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính”, “không có đèn”,
“không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không
vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ. Những thứ quan trọng cần có lại không
có, những cái không cần có lại có thừa.

+ Phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường qua kết cấu đối
lập: Bom đạn đã làm cho chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những thứ
cần thiết cho một chiếc xe bình thường và tưởng như không hoạt
động được. Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra
chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

- “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi:
Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.

- Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa
về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần
trong xe có một trái tim”

+ Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim
yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới
đích.

+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước
và ý chí chiến đấu quật cường.

+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả,
khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để
tiếp tục tiến lên phía trước.

Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp
người lính chiến thắng bom đạn của kẻ thù. Trái tim ấy đã trở thành
nhãn tự của bài thơ và để lại xảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

III. Tổng kết

1. Nội dung

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm Tiến Duật đã xây dựng
thành công hình tượng những người lính lái xe Trường Sơn trong
những năm kháng chiến chống Mĩ một cách chân thực, độc đáo với
nhiều phẩm chất đẹp đẽ.

2. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do, đậm chất văn xuôi.

- Hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường.

- Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên.

- Giọng điệu ngang tàng, khỏe khoắn, hài hước, dí dỏm.

Văn bản 11: Đoàn thuyền đánh cá

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở huyện Vụ
Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông là một trong những gương mặt xuất sắc của nền thi ca Việt
Nam hiện đại:

+ Trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong những tên
tuổi nổi bật của phong trào thơ Mới, với những đề tài mang cảm
hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế.

+ Sau cách mạng tháng Tám: Thơ Huy Cận đã có nhiều tìm tòi, với
đề tài mang cảm hứng vũ trụ song tràn đầy niềm vui chứ không
còn mang nặng nỗi sầu nhân thế.

- Phong cách sáng tác: Thơ Huy Cận luôn vận động ở nhiều đối
cực: vũ trụ - cuộc đời, sự sống - cái chết, hiện thực - lãng lạn, niềm
vui – nỗi buồn...; giọng điệu mộc mạc, chân tình, lắng đọng; hình ảnh
thì thâm trầm, khơi gợi;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác


- Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời năm 1958. Đây là thời kì miền
Bắc được giải phóng, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội để chi
viện cho chiến trường miền Nam.

- Bài thơ là kết quả sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự trở lại và dồi
dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm
vui trước cuộc sống mới.

- Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” năm 1986.

b. Ý nghĩa nhan để

- Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi về một sự đoàn kết, ở đó có sự đồng


lòng, chung sức giữa các thành viên.

- Phản ánh không khí lao động sổi nổi, hăng say của những người
dân chài.

- Gợi lên những thành quả lao động góp phần xây dựng đất nước
theo nhịp sống mới sau chiến tranh.

c. Bố cục: Ba phần

Được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền
đánh cá:

- Phần một: 2 khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.

- Phần hai: 4 khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.

- Phần ba: khố thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.

II. Tìm hiểu chi tiết

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (hai khổ thơ đầu)


a. Khung cảnh trời biển

Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên phông nền
của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

- Tác giả đã đặt nhân vật trữ tình từ một điểm nhìn nghệ thuật rất đặc
biệt: đó là một điểm nhìn di động được đặt trên con thuyền đang
tiến bước ra khơi.

- Sử dụng một hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Mặt trời xuống biển
như hòn lửa”

+ Tả thực vầng mặt trời đó rực từ từ chìm xuống lòng biển khép lại
vòng tuần hoàn của một ngày.

+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ của bầu trời và mặt biển lúc hoàng
hôn.

+ Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết
lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá.

- Sử dụng hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

+ Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để
chìm vào trạng thái nghỉ ngơi.

+ Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung
như một ngôi nhà lớn của con người.

Qua hai câu thơ đầu có thể thấy, Huy Cận yêu thiên nhiên và yêu
mến cuộc đời như thế nào

b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi


Trên phông nền thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, con người dần dần xuất
hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát cáng buồm cùng gió khơi.”

- Phụ từ “lại” tạo được điểm nhấn ngữ điệu và sức nặng cho câu
thơ:

+ Gợi thế chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi
vần lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc.

+ Đồng thời, miêu tả một hành động đối lập: đối lập giữa hoạt động
của vũ trụ với hoạt động của con người.

- Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi”:

+ Cụ thể hóa niềm vui phơi phới, sự hào hứng, hăm hở của người
lao động.

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền
vượt trùng ra khơi.

+ Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” gợi vẻ
đẹp tâm hồn của người lao động gửi gắm vào trong lời hát.

Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì
và dường như có một sức mạnh vật chất đã cùng với gió làm thổi
căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi.

Trong tâm trạng phấn chấn, náo nức ra khơi, những người dân chài
đã cất cao tiếng hát.

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi


Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!”

- Từ “hát rằng” gợi lên niềm vui của người dân chài, hứa hẹn một
chuyến ra khơi bội thu.

- Thủ pháp liệt kê (cá bạc, cá thu) và so sánh (như thoi đưa) mang
đến âm hưởng ngợi ca, tự hào trong câu hát về sự giàu có của biển
cả.

- Hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”:

+ Cho thấy không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của
người lao động.

+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển
đêm.

+ Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới
ánh trăng.

Tác giả đã phác họa rất thành công một bức tranh thiên nhiên kì
vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao
động và niềm hi vọng của người dân chài.

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển

a. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được miêu tả cụ thể và rất sinh
động:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển


Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

- Đoàn thuyền đánh cá được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la,
rộng mở: chiều cao của gió của trăng, chiều rộng của mặt biển và
còn cả chiều sâu của lòng biển.

- Với cảm hứng nhân sinh vũ trụ, Huy Cận đã xây dựng hình ảnh
đoàn thuyền đánh cá rất tương xứng với không gian:

+ Cách nói khoa trương phóng đại qua hình ảnh “lái gió với buồm
trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy con thuyền đánh
cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ,
khổng lồ, hòa nhập với không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên,
vũ trụ.

+ Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương. Rõ ràng,
con thuyền cũng như con người đang làm chủ không gian này.

+ Hệ thống động từ: được rải đều trong mỗi câu thơ: “lái”, “lướt”,
“dò”, “dàn”, cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang
làm chủ biển trời.

Khổ thơ gợi lên một bức tranh lao động thật đặc sắc và tráng lệ.
Bức tranh ấy như thâu tóm được cả không gian vũ trụ vào trong một
hình ảnh thơ, đồng thời nâng con người và con thuyền lên tầm vóc
vũ trụ.

b. Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự giàu có,
phong phú và tấm lòng hào phóng, bao dung của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe


Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

- Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã miêu tả sự phong phú và giàu có
của biển cả quê hương qua những loài cá vừa ngon lại vừa quý hiếm
của biển.

- Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.

+ Tả thực loài cá song, thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu
đen hồng.

+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh
trăng đêm, đã tạo nên một cảnh tượng thật lộng lầy và kì vĩ.

- Hình ảnh nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”:

+ Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng
chiếu rọi.

+ Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt
biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng.

- Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:

+ Tả nhịp điệu của những cánh sóng.

+ Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn
của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống.

- Trước sự giàu có và phong phú đến vô cùng của biển cả, đã mở ra


tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao
tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao


Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

+ Hình ảnh so sánh “biển cho ta cá như lòng mẹ”

++ Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con người tự
bao đời.

++ Thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài
với biển cả quê hương.

Ẩn sau khổ thơ, ta thấy lòng biết ơn của con người trước ân tình
của quê hương đất nước.

c. Khung cảnh lao động hăng say trên biển

Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng,
hăng say:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

- Hệ thống từ ngữ tượng hình: “kéo xoăn tay”, “lưới xếp”, “buồm
lên” đã đặc tả để làm hiện lên một cách cụ thể, sinh động công việc
kéo lưới của những ngư dân.

- Hình ảnh ấn dụ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”:

+ Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ
đẹp khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động.

+ Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu.


- Hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp những khoang thuyền:

+ Cho thấy sự giàu có của biển cả quê hương và niềm vui phơi phới
của người lao động.

+ Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt trời như
lóe cả rạng đông. Điều đó cho thấy bút pháp sử dụng màu sắc đại tài
của Huy Cận.

Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự
giàu có hào phóng của thiên nhiên. Đồng thời khắc họa thành công
hình tượng người lao động lớn lao, phi thường.

3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về

Đoàn thuyền đánh cá trở về trong câu hát:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

- Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng
một âm hưởng, cùng một lối miêu tả. Nhưng nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy:
Câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát
trở về là “Câu hát căng buồm với gió khơi”.

+ Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái
sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi
biển thuận lợi và bình yên.

+ Khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành
từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ được trở về trên những con
thuyền đầy ắp cá.
+ Với nghệ thuật đầu cuối trong câu hát, ta còn thấy được điệp
khúc của khúc ca lao động.

- Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

+ Đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với
thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ.

+ Nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc
của vũ trụ.

+ Gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao
động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi
“Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến bến: “Mắt
cá huy hoàng muôn dặm khơi”.

- Hình ảnh hoán dụ “mắt cả huy hoàng”:

+ Miêu tả muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông trở
nên rực rỡ, huy hoàng.

+ Đây không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là sánh sáng của
thành quả lao động lấp lánh ánh vui.

Khổ thơ mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện
niềm vui phơi phới của con người khi làm chủ đất trời.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Phác họa thành công vẻ đẹp của thiên nhiên và của người lao động
mới.

- Khám phá, ngợi ca sự giàu có, hào phóng của thiên nhiên đất nước
và tầm vóc lớn lao của người lao động. Đồng thời, cho thấy sự hồi
sinh của thiên nhiên, đất nước sau chiến tranh.
2. Nghệ thuật

- Một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ.

- Hình ảnh thơ phong phú, giàu sức gợi.

- Kết cấu đầu cuối tương ứng đặc sắc.

Văn bản 12: Bếp lửa

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng. Ông sinh năm 1941,
quê huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ những năm 60 của thế kỉ XX và tập trung
khai thác ở hai mảng đề tài chính: cuộc chiến đấu của nhân dân ta
trong kháng chiến chống Mĩ và vẻ đẹp của con người giữa cuộc
sống đời thường.

- Phong cách sáng tác: Thơ Bằng Việt mang giọng điệu thủ thỉ, tâm
tình; ngôn từ điềm đạm; cấu tứ mạch lạc và hệ thống thi ảnh đặc sắc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Bếp lửa” ra đời năm 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên
ngành Luật tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ.

- Bài thơ in trong tập “Hương cây - Bếp lửa”, năm 1968.

b. Ý nghĩa nhan đề
“Bếp lửa” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần
trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu
tượng:

- Trước hết, đây là một bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi trong mỗi
gia đình của người Việt. Đồng thời, nó là hình ảnh gắn với kỉ niệm ấu
thơ về một người bà cụ thể, có thật của tác giả.

- Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa:

+ Bếp lửa gợi lên sự tảo tần, chăm sóc, yêu thương của người bà
dành cho người cháu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh
để trưởng thành và khôn lớn.

+ Bếp lửa gợi lên bao vất vả, cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm
bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin, và hi
vọng cho cháu vào một tương lai phía trước.

+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội
nguồn... đã nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời.

“Bếp lửa” là tên gọi của một bài thơ cảm động về tình bà cháu giản
dị, thiêng liêng. Đồng thời thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đất
nước sâu sắc…

c. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa - Nơi bắt đầu nỗi nhớ.

- Phần hai: 3 khổ tiếp: Những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và
bếp lửa.

- Phần ba: 2 khổ tiếp: Suy ngẫm về bà và bếp lửa.

- Phần bốn: khổ thơ cuối: Nỗi nhớ về bà và bếp lửa.


II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh bếp lửa – Nơi bắt đầu nỗi nhớ

Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa.
Để rồi, từ hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỉ niệm về bà thức dậy và được
tái hiện:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

- Trước hết, đó là hình ảnh bếp lửa tả thực, nhỏ bé, gần gũi, quen
thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời.

- Hình ảnh ẩn dụ “ấp iu nồng đượm”:

+ Gợi đến bàn tay cần mẫn, khéo léo, chính xác của người nhóm
lửa.

+ Gợi tấm lòng chi chút của người nhóm ngọn lửa.

- Từ “bếp lửa” được điệp lại hai lần:

+ Gợi bóng dáng của người bà, người mẹ tần tảo, thức khuya dậy
sớm chăm sóc cho chồng, cho con.

+ Diễn tả dòng cảm xúc dâng tràn ùa về từ kí ức.

- Từ láy “chờn vờn”:

+ Miêu tả bếp lửa với ngọn lửa bốc cao, bập bùng, tỏa sáng, ẩn hiện
giữa màn sương sớm.

+ Bếp lửa ấy mờ tỏa, chờn vờn trong kí ức về những năm tháng tuổi
thơ được sống bên bà của nhà thơ.
Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy dòng cảm xúc
yêu thương mành liệt trong người cháu:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

- Bộc lộ sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ
của đời bà.

- Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, diễn tả cảm xúc
đến rất tự nhiên và lan tỏa tâm hồn người cháu.

Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm
xúc để những dòng hồi tưởng, kí ức từ đó ùa về khiến người cháu
không khỏi xúc động.

2. Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa

a. Những kỉ niệm hồi lên bốn tuổi

Đó là kỉ niệm tuổi thơ với những năm tháng gian khổ, thiếu thốn,
nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”

- Từ láy “đói mòn đói mỏi”:

+ Miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: Năm 1945, do
chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã
khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

+ Câu thơ trĩu xuống, khiến lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi
nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy.
- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” phần nào diễn tả
được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình khiến người cha
phải bươn chải kiếm sống đủ nghề.

- Hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” là những
hình ảnh đậm chất hiện thực, đặc tả được sự xơ xác, tiều tụy của
những con người trong cuộc mưu sinh

Trong những năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

- Khói bếp của bà chẳng làm no lòng cháu nhưng đã lưu giữ một kỉ
niệm sống mãi không nguôi: mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến
bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay’’.

- Tác giả nhắc đi nhắc lại từ “khói”: “mùi khói”, “khói hun” gợi một
sự ám ảnh về một thời gian khó đã đi qua.

- Cảm giác cay cay vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động của
người cháu như hòa quyện, quá khứ và hiện tại như đồng hiện trên
những dòng thơ.

Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy
một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác
giả. Để rồi khi đã đi xa, ông không khỏi xúc động mỗi khi nghĩ về bà
và những kỉ niệm bên bà.

b. Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi

• Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của
bà:

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa”


- Gợi khoáng thời gian tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che
chở, bao bọc của bà.

- Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình
yêu thương.

- Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như
sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà.

• Đó là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình


ảnh tâm tình với chim tu hú:

“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

- Tiếng chim tu hú - âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè


về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành.

- Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì da diết lắm,
khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú
gợi nhớ, gợi thương:

+ Về tám năm kháng chiến chống Pháp “mẹ cùng cha công tác bận
không về” bà vừa là cha, vừa là mẹ.

+ Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa,
được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của
bà:

“Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’


Các động từ: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả sâu sắc
tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu
nhỏ. Các từ “bà” - “cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau
như gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương.

Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ,
ơn thầy.

• Tình yêu, sự kính trọng bà của người cháu được thế hiện thật chân
thành, sâu sắc qua câu thơ:

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

- Hình ảnh con chim tú hú xuất hiện tiếp tục ở cuối khố thơ với câu
hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi
lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:

“Tu hủ ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cảnh đông xa?”

+ Gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút khao khát
được ấp ủ, che chở.

+ Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã
chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả
lại biết ơn những ngày được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu.

Trong khi hồi tưởng về quá khứ, người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ
thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng.

c. Những kỉ niệm thời bom đạn chiến tranh

Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc, người bà càng
sáng lên những phẩm chất cao đẹp:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

- Hình ảnh “cháy tàn cháy rụi” gợi sự tàn phá, hủy diệt khủng khiếp
của chiến tranh.

- Trước hiện thực khó khăn, ác liệt ấy, bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường
không kêu ca, phàn nàn. Điều đó được thể hiện qua lời dặn dò của
bà với cháu:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”

+ Bà đã gồng mình, lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để các con yên
tâm công tác.

+ Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là
điểm tựa vững chắc cho cả tiền tuyến.

+ Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.

3. Những suy ngẫm về bà và bếp lửa

Từ những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà, nhận được sự yêu
thương, chăm sóc của bà bên bếp lửa quê hương, người cháu suy
ngẫm về cuộc đời bà và bếp lửa.

a. Những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa


Trong bài thơ, trên dưới mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện
diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại
và đầy yêu thương. Và đến đây, tác giả đã dành một khổ thơ để nói
lên những suy ngẫm về bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

- Hình ảnh bếp lửa ở dòng thơ đầu là hình ảnh tả thực về sự vật hữu
hình, cụ thể, gần gũi và gắn liền với những gian khổ của đời bà.

- Từ hình ảnh “bếp lửa” hữu hình, tác giả đã liên tưởng đến “ngọn
lửa” vô hình “lòng bà luôn ủ sẵn” với ý nghĩa trừu tượng và khái
quát:

+ Bếp lửa bà nhóm lên không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài, mà
còn bằng chính ngọn lửa từ trong lòng bà - ngọn lửa của tình yêu
thương, niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.

+ Ngọn lửa bền bỉ và bất diệt ngày ngày bà nhóm cũng chính là
nhóm niềm vui, niềm tin, niềm yêu thương để nâng đỡ cháu trên suốt
những chặng đường dài.

+ Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền
lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

Chính vì cảm nhận, thấu hiểu được trong hình ảnh bếp lửa bình dị
mà thân thuộc kia một sự kì diệu và thiêng liêng, nhà thơ đã thốt
lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”.

- Các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản
lĩnh sống của bà, cũng là của những người phụ nữ Việt Nam.
- Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã
làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào.

Thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã khẳng
định và ngợi ca vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương của bà
hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kì.

b. Những suy ngẫm về bà và cuộc đời bà

Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người
nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng.
Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giừ thói quen dậy sớm”

- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” đi liền với từ láy
tượng hình “lận đận” và hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả một
cách sâu sắc và trọn vẹn về cuộc đời đầy những lận đận, gian nan,
vất vả của bà.

- Thời gian có thể trôi, mọi sự có thể biến đổi, song chỉ duy nhất một
sự bất biến: Suốt cả một cuộc đời lận đận, vất vả, bà vẫn “giữ thói
quen dậy sớm” để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình
yêu thương cho cháu.

Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu
chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.

Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc, mà còn
bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” đối với con cháu:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm


Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

- Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần, đan kết với những chi tiết
tả thực mang đến nhiều ý nghĩa và liên tưởng khác nhau:

+ “Nhóm bếp lửa”, “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh tả thực công việc
của bà.

+ “Nhóm niềm yêu thương”, “nhóm dậy cả những tâm tình” là hình
ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý nhất của con người.
Bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh
niềm yêu thương, sự chia sẻ.

Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về
bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định
về bà: Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo cho
mọi người.

4. Nỗi nhớ bà và bếp lửa

Nỗi nhớ bà và bếp lửa gợi lên từ một thực tại, người cháu năm
xưa giờ đã lớn khôn, trưởng thành, đã được chắp cánh bay xa, được
làm quen với những chân trời rộng lớn:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”


- Dòng thơ đầu được ngắt thành hai câu để gợi sự chảy trôi của thời
gian (từ bốn tuổi, tám tuổi đến trưởng thành); gợi sự biến đổi của
không gian (từ căn bếp của bà đến những khoảng trời rộng lớn).

- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ.

- Điệp từ “có” kết hợp với thủ pháp liệt kê:

+ Cho thấy người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đà
tìm được bao niềm vui mới.

+ Khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, tấm
lòng đùm bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng,
thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt
chặng đường dài.

Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người
Việt: “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm
hồn con người từ thuở ấu thơ, để rồi như chắp cánh để mỗi người
bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Bài thơ “Bếp lửa” đã khẳng định, ngợi ca tình cảm bà cháu bình dị,
gần gũi mà thiêng liêng.

- Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đà trưởng
thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và bếp lửa,
đã bộc lộ những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đối với gia đình, quê
hương, đất nước.

2. Nghệ thuật
- Sự kết hợp hài hòa của các phương thức biểu đạt: biểu cảm, tự sự,
miêu tả, bình luận.

- Hệ thống hình ảnh vừa chân thực lại vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Cảm xúc mãnh liệt, chân thành và đậm chất triết lí sâu xa.

Văn bản 13: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên

- Huế.

- Ông là nhà thơ chiến sĩ và trở thành một trong những gương mặt
tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ.

- Thơ ông tập trung khám phá vẻ đẹp của đất nước, nhân
dân trong cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc.

- Phong cách sáng tác: Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự hòa quyện
giữa cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng; mang đậm
chất dân gian bằng việc vận dụng ca dao, dân ca, tục ngữ.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ sáng tác năm 1971, khi Nguyễn Khoa Điềm đang công tác
ở chiến khu miền Tây tỉnh Thừa Thiên. Đây là thời kì ác liệt của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Đất và khát vọng” năm 1984.
b. Ý nghĩa nhan đề

Đây là một bài thơ có nhan đề dài, độc đáo và chứa đựng hai hình
ảnh nổi bật:

- Hình ảnh khúc hát ru:

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng đến giai điệu ngọt ngào, thiết tha
trong những bài hát ru của mẹ.

+ Gợi tấm lòng của những người bà, người mẹ.

+ Gợi âm hưởng của ca dao, dân ca với chất trữ tình sâu lắng, thiết
tha.

- Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ:

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng đến những em bé được sinh ra và lớn
lên trong hoàn cảnh đặc biệt.

+ Gợi không gian núi rừng - nơi đồng bào, dân tộc cư trú, sinh sống.

+ Gợi lên tình yêu thương và niềm tin, nghị lực của nhưng bà mẹ
vùng cao.

c. cấu trúc của bài thơ

* Lặp cấu trúc: Bài thơ được chia làm ba khúc ru, mỗi khúc lại được
cấu thành bởi hai khổ thơ.

- Khổ đầu: Lời ru của nhà thơ.

- Khổ hai: Lời ru của mẹ.

Cấu trúc đặc biệt này đã tạo cho bố cục bài thơ trở nên cân đối và
chặt chẽ. Đồng thời, tạo cho âm điệu của khúc ru trở nên da diết, vấn
vương tựa như tình cảm trìu mến của mẹ.
* Lặp câu:

- Mở đầu lời ru là những câu thơ:

“Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”.

+ Miêu tả một hình ảnh có thực, xuất hiện trong những năm kháng
chiến của đất nước: Những em bé ngủ trên lưng mẹ từ trong sản
xuất tới chiến đấu.

+ Gợi về một thế hệ sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, khói lửa,
phải chịu nhiều những gian khổ, mất mát, hi sinh.

+ Gợi về hình ảnh vĩ đại của những người mẹ vùng cao, dù trong
bom đạn chiến tranh vẫn bao bọc, chở che cho những đứa con được
khôn lớn, trưởng thành.

- Mở đầu lời ru của mẹ là câu thơ:

“Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”

Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ nối tiếp, đan cài một cách nhịp
nhàng khiến cho lời ru thêm ngọt ngào, đằm thắm, lắng sâu.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Khúc hát ru thứ nhất

a. Lời ru của tác giả

Hình ảnh người mẹ dân tộc Tà-ôi xuất hiện trong công việc:

“Mẹ già gạo mẹ nuôi bộ đội

Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng


Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”

- Đó là một công việc vô cùng vất vả, nặng nhọc.

+ Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” giàu giá trị tạo hình, gợi lên vóc dáng
nghiêng nghiêng trong công việc của mẹ.

+ Hình ảnh “giấc ngủ em nghiêng” gợi về một giấc ngủ chao nghiêng,
đong đưa theo những nhịp chày của mẹ.

+ Hình ảnh liệt kê “mồ hôi’’, “vai gầy” để đặc tả, tô đậm sự vất vá
trong lao động của mẹ.

- Giữa những công việc vất vả như thế, tình yêu thương mẹ dành
cho con càng thêm sâu sắc:

+ Hình ảnh “vai mẹ gầy” gợi vóc dáng nhọc nhằn, lam lũ của mẹ.
Nhưng cũng chính đôi vai gầy ấy lại hóa thành chiếc gối êm đưa con
vào giấc ngủ.

+ Câu thơ “lưng đưa nôi và tim hát thành lời” là hình ảnh mới lạ, cảm
động về bà mẹ Tà-ôi đưa nôi cho con bằng tấm lưng và hát thì bằng
cả trái tim yêu thương sâu lắng.

b. Lời ru của mẹ

- Trong lời ru của mẹ, mẹ đã gửi gắm, mong muốn bao điều tốt đẹp
cho con:

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần


Mai sau con lớn vung chày lún sân’’

+ Mẹ thương con, yêu con sâu sắc. Và tình thương của mẹ cứ lớn
dần và được chuyển hóa, mở rộng sang tình thương bộ đội.

+ Hình ảnh “hạt gạo trắng ngần” mẹ mơ gợi đến một cuộc sống no
đủ, êm đềm sẽ đến với con.

+ Hình ảnh “vung chày lún sân”, cho thấy mẹ không chỉ mong con có
một cuộc sống no đủ mà còn ước con khỏe mạnh, lao động giỏi.

Khúc hát ru thứ nhất đã cho thấy tấm lòng bao la, vĩ đại của người
mẹ. Mẹ vừa là mẹ của gia đình vừa là mẹ của kháng chiến, của đất
nước.

2. Khúc hát ru thứ hai

a. Lời ru của tác giả

Hình ảnh người mẹ Tà-ôi được tái hiện trong khung cảnh, không gian
rộng lớn:

“Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi

Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ

Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”

- Hình ảnh “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” là một hình ảnh tượng
phản:

+ Gợi thiên nhiên, khung cảnh mênh mông, heo hút của núi rừng Ka-
lưi.
+ Gợi vóc dáng nhỏ bé, hao gầy của mẹ trong lao động, sản xuất.

Câu thơ đã nhấn mạnh sự nhọc nhằn, vất vả của mẹ.

- Tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh ẩn dụ “Mặt trời của mẹ” để diễn
tả tình yêu thương vô bờ bến của mẹ:

+ “Mặt trời của bắp” đó là mặt trời thực của thiên nhiên, vũ trụ, tỏa
hơi ấm đến khắp muôn nơi.

+ “Mặt trời của mẹ” là một sự sáng tạo độc đáo, ẩn dụ cho con. Mẹ
muốn nói con chính là nguồn sáng, là niềm hạnh phúc, sự ấm áp của
đời mẹ.

b. Lời ru của mẹ

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói

Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều

Mai sau con lớn, phát mười Ka-lưi.”

- Từ tình thương con, mẹ mở rộng sang tình thương bộ đội và sang


cả buôn làng.

- “Hạt bắp lên đều” ẩn dụ cho cuộc sống no đủ mà mẹ mong ước.

- Câu thơ “Mai sau con lớn, phát mười Ka-lưi” gợi về một ngày mai
rất gần, con sẽ trưởng thành, khỏe mạnh, phi thường, đem sự no ấm
cho buôn làng.

Ước mơ và tình yêu của mẹ cứ mở rộng dần đã cho thấy tấm


lòng, sự hi sinh vĩ đại của mẹ.

3. Khúc hát ru thứ ba

a. Lời ru của tác giả


Nếu như ở hai khúc ru trên, công việc của mẹ chủ yếu ở hậu phương
để phục vụ chiến đấu thì ở khúc ru thứ ba mẹ đang ở tư thế trực tiếp
chiến đấu:

“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng

Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối

Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông

Mẹ địu em đi để giành trận cuối

Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường

Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”

- Hình ảnh liệt kê “chuyển lán”, “đạp rừng” gợi hình ảnh người mẹ
đang bảo vệ căn cứ, di chuyển lực lượng để kháng chiến lâu dài với
tinh thần quyết tâm và lòng tin vào thắng lợi.

- Hình ảnh liệt kê “anh trai cầm súng”, “chị gái cầm chông”, “mẹ địu
em đi”

+ Gợi đến một gia đình, dân tộc đang anh dũng đứng lên chống kẻ
thù chung.

+ Cho thấy sự lớn mạnh, trưởng thành vượt bậc của quân đội ta
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chúng ta tập hợp được một lực
lượng đông đảo, thuộc mọi tầng lớp từ già trẻ, gái trai cùng tham gia
chiến đấu.

- Cấu trúc “từ... đến...” gợi sự trưởng thành của em cu Tai từ trên
lưng mẹ đã khôn lớn, đủ sức khỏe để chiến đấu.

- Nhịp thơ 4/4 nhanh, mạnh gợi không khí hào hùng, sôi động của
cuộc kháng chiến.
b. Lời ru của mẹ

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước

Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ

Mai sau con lớn làm người Tự do...”

- Từ tình thương con mẹ mở ra tình thương đất nước. Từ tình cảm


gia đình riêng tư mẹ hòa hợp với tình cảm chung rộng lớn của dân
tộc, đất nước.

- Xuất phát từ tình cảm lớn lao, tấm lòng cao cả ấy, mẹ đã mơ những
ước mơ về con, lớn lao và vĩ đại:

+ Mẹ mơ “được thấy Bác Hồ” là mẹ mong muốn cho con sớm trưởng
thành và tìm thấy được chân lí, con đường đúng đắn.

+ Ước mơ tha thiết nhất, mãnh liệt nhất của mẹ là con được “làm
người Tự do”, sống trong một dân tộc làm chủ được vận mệnh của
mình.

- Tác giả không để cho người mẹ trực tiếp nói về ước mơ của mình
mà mong “con mơ cho mẹ”, Như vậy, người mẹ đã gửi trọn niềm
mong mỏi vào giấc mơ của con nên lời ru càng thêm tha thiết, tin
tưởng.

Qua ba lời ru, lần lượt hiện lên những công việc, tấm lòng của
người mẹ. Người mẹ ấy bền bỉ trong công việc lao động và quyết
tâm trong công cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Khúc hát ru những em bẻ lớn trên lưng mẹ” là những lời tâm
tình tha thiết của người mẹ Tà-ôi đối với đứa con yêu. Thông qua lời
ru, người mẹ đã bộc lộ tình yêu thương đằm thắm đối với người con,
tình cảm gắn bó với quê hương, với cuộc sống lao động và chiến đấu
dù còn nhiều những gian nan, vất vả. Đồng thời, mẹ còn gửi gắm
những ước mơ về sự trưởng thành, khỏe mạnh, khôn lớn của con
trở thành công dân của một đất nước tự do.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, ngọt ngào.

- Cách ngắt nhịp linh hoạt.

Văn bản 14: Ánh trăng

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Duy, tên khai sinh Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê
ở Thanh Hóa.

- Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước:

+ Trước đổi mới: Nguyễn Duy tập trung viết về đề tài chiến tranh và
quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp
đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của
người nông dân.

+ Sau đổi mới: Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những
bất cập của xã hội đương thời.

- Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối
lập: mộc mạc, dần dà mà tinh tế, sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà
thiết tha sâu lắng, nhân tình; tự nhiên ngẫu hứng mà trau truốt công
phu.
2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Ánh trăng” ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, ba
năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên và được giải A của Hội nhà
văn Việt Nam năm 1984.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề “Ánh trăng” trước hết là một phần của thiên nhiên với tất
cả những gì gần gũi, thân thuộc.

- “Ánh trăng" là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung gắn
với lịch sử hào hùng của dân tộc.

- Gợi cho ta liên tưởng đến những con người giản dị mà thủy chung
nghĩa tình: nhân dân, đồng đội,...

c. Thể loại - phương thức biểu đạt

- Thể thơ năm chữ với những chữ cái đầu khổ được viết hoa. Toàn
bài chỉ có một dấu phẩy và một dấu chấm kết bài. Nó khiến cho cảm
xúc liền mạch, sâu lắng.

- Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hai phương thức tự sự và trữ
tình.

d. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 2 khổ đầu: vầng trăng trong quá khứ.

- Phần hai: 2 khô tiếp: vầng trăng trong hiện tại.

- Phần ba: 2 khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình.
II. Tìm hiểu chi tiết

1. Vầng trăng trong quá khứ

Trong hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm
gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:

“Hồi nhỏ sống với rừng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa”

- Những câu thơ ngắn với giọng tâm tình, thủ thỉ (hồi nhỏ, hồi
chiến tranh) cộng với biện pháp tu từ liệt kê (đồng, sông, bể) đã gợi
lại một tui thơ sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên.

- Điệp từ “với” được lặp lại ba lần để nhấn mạnh sự gắn bó, thắm
thiết giữa con người và thiên nhiên.

- Hình ảnh “hồi chiến tranh ở rừng”:

+ Gợi liên tưởng đến sự trưởng thành của nhân vật trữ tình, từ cậu
bé thiếu niên nay đã vác súng ra chiến trường.

+ Gợi về những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh.
- Nghệ thuật nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”:

+ Gợi liên tưởng đến những đêm hành quân hay phiên gác giữa
rừng, có vầng trăng chiếu rọi.

+ Trăng như trở thành người bạn thân thiết, tri âm, tri kỉ, luôn đồng
cảm cộng khổ để chia sẻ những vui buồn đời lính.

- Hình ảnh so sánh, ẩn dụ “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như
cây cỏ:

+ Gợi vẻ đẹp bình dị, vô tư, trong sáng của vầng trăng.

+ Đó cũng là cốt cách, vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc trong tâm hồn của
người lính.

Trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức
chan hòa tình nghĩa. Bởi sự gắn bó tình nghĩa ấy, nhân vật trữ tình
đã tự tâm niệm “sẽ không bao giờ quên”.

- Từ “ngỡ” như báo hiệu những chuyển biến trong câu chuyện cũng
như trong tình cảm của con người.

Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy những khó khăn, khắc nghiệt,
trăng vẫn đồng hành trên mỗi bước đường và trở thành người bạn tri
kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, vầng trăng đã trở thành biểu
tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung.

2. Vầng trăng trong hiện tại

- Song, trước sự xoay vần của thời gian, sự biến đổi của hoàn cảnh
đã khiến cho mọi thứ trở nên thay đổi:

“Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện, cửa gương


Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường”

+ Tác giả đã tạo ra sự đối lập trong hoàn cảnh sống của con người
giữa hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng
sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại
của thành phố.

+ “quen ảnh điện cửa gương” là cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc
sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời
thiên nhiên.

+ Hình ảnh nhân hóa, so sánh “vầng trảng đi qua ngõ/ như người
dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người:
vầng trăng thì vẫn tròn đầy, thủy chung tình, nghĩa nhưng con người
thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra.

Câu thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi
thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi
những gian khổ, nhọc nhằn của một thời đã qua. Song, cái sự quên
ấy cũng là lẽ thường tình bởi những lo toan thường nhật từ cuộc
sống.

- Tác giả đã đặt con người vào một tình huống bất ngờ:

“Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn - đinh tối om

vVội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn”


+ Hai từ “thình lình”, “đột ngột” và cách đảo trật tự cú pháp đã
góp phần diễn tả thật chính xác, ấn tượng về một sự việc đột ngột,
bất thường “đèn điện tắt... tối om”.

+ Ba động từ mạnh “vội”, “bật”, “tung” đã diễn tả hành động khẩn


trương, vội vàng của nhân vật trữ tình.

+ Hình ảnh “vầng trăng tròn” đột ngột xuất hiện chiếu rọi vào căn
phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập: giữa ánh sáng và bóng tối.
Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch
cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình:
vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, bể, rừng” kia đâu có mất, tất cả vẫn
đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có nhận ra hay
không.

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến
có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư
tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình

Từ tình huống bất ngờ, đã mở ra những dòng cảm xúc mãnh liệt của
nhân vật trữ tình:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng”

- Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế tập trung chú ý, mặt đối
mặt.

- Từ “mặt” ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho
ý thơ:

+ Khuôn mặt đó là khuôn mặt của tri kỉ mà nhân vật trữ tình đã lãng
quên.
+ Mặt đối mặt đó còn là quá khứ đối diện với hiện tại, tình nghĩa thủy
chung đối diện với vô tình lãng quên.

- Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã
khiến cho cảm xúc dâng trào. Cụm từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc
động đến nghẹn ngào, thổn thức trong cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Giọt nước mắt như khiến con người ta trở nên thanh thản hơn, trong
sáng hơn để rửa trôi đi những ý nghĩ, lo toan thường nhật đe kỉ niệm
ùa về:

“Như là đồng là bể

Như là sông là rừng”

- Cấu trúc song hành (như là... là...), cộng với biện pháp tu từ so
sánh (như), điệp ngữ (như là, là) và liệt kê (đồng, bể, sông,
rừng) diễn tả những dòng kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với
thiên nhiên bỗng từ từ ùa về.

Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà
thơ:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”:

+ Diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la.

+ Bên cạnh đó, còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình,
vẫn tròn đầy, trọn vẹn mặc cho con người thay đổi, vô tình.
- Nghệ thuật nhân hóa “ảnh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái
nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy
khiến cho nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.

- Từ “giật mình” chính là một sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong ý
thơ:

+ Giật mình là cảm giác tâm lí của một người biết suy nghĩ chợt nhận
ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của mình.

+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần
phải thay đổi cách sống.

+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những
gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay.

Bài thơ “Ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ cuối đã dồn nén biết bao
tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm
đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lí “uống nước nhớ
nguồn”, ân nghĩa thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Với giọng điệu tâm tình, “Ánh trăng” như là một lời tâm sự của tác giả
về những năm tháng gian khổ đã đi qua với những tình cảm bình dị
và hiền hậu. Đồng thời, bài thơ còn gửi gắm đến chúng ta về một thái
độ sống tích cực: “uống nước nhớ nguồn”.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp với yếu tố trữ tình, tự sự
khiến bài thơ như một lời tự bạch chân thành, sâu sắc.

- Hình ảnh giàu tính biểu cảm và biểu tượng.


Văn bản 15: Con cò

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chế Lan Viên (1920 - 1989), tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan. Ông
sinh ra ở Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định.

- Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất của nền thơ
ca Việt Nam hiện đại.

+ Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên là một trong những
gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Với một quan niệm
khác thường: thi sĩ không phải là người, nó là người say, người mơ,
nó là tiên, là ma là quỉ, ông đã xây dựng một thế giới kinh dị, thần bí,
bế tắc về đất nước Chiêm Thành với nỗi niềm hoài cổ.

+ Trong giai đoạn chống Mĩ, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh
hướng sử thi hào hùng, chính luận và đậm tính thời sự.

+ Sau đổi mới, thơ Chế Lan Viên trở về đời sống thế sự và những
trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của
đời sống.

- Phong cách sáng tác: Thơ Chế Lan Viên giàu tính triết lí - suy
tưởng, mang vẻ đẹp trí tuệ; ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, giàu
ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962.

- Bài thơ được in trong tập “Hoa ngày thường - Chim báo bão” năm
1967.
b. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò

- Con cò là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa của
người Việt và giàu ý nghĩa biểu tượng:

+ Biểu tượng cho những số phận vất vả, cực nhọc của người
nông dân trên đồng ruộng: “Con cò bay lả bay la/ Bay từ cổng phú
bay ra cánh đồng”,...

+ Biểu tượng cho những người phụ nữ, người mẹ lam lũ, nhọc
nhằn, giàu đức hi sinh: “Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa
chồng tiếng khóc nỉ non”,…

- Trong bài thơ, hình ảnh con cò không phải là sự đơn giản từ những
ý tứ có sẵn trong ca dao. Mà hình ảnh con cò đã được tác giả phát
triển, mở rộng ý nghĩa biểu tượng: khi là mẹ; khi là con; khi là trời, là
đất; khi là cuộc đời; khi là hiện tại và tương lai...

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Đoạn 1: Hình ảnh con cò đến với tuổi thơ của con qua lời
ru của mẹ.

- Phần hai: Đoạn 2: Hình ảnh con cò song hành bên con trên những
chặng đường đời.

- Phần ba: Đoạn 3: Hình ảnh cánh cò và những suy ngẫm sâu xa về
tình mẫu tử.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh con cò đến với tuổi thơ của con qua lời ru của mẹ

Bằng lời ru ngọt ngào, thấm đẫm chất ca dao, hình ảnh của những
con cò dần xuất hiện:

“Con còn bế trên tay


Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

- Cụm từ “con còn bế trên tay”, “con chưa biết” gợi đến một sinh linh
bé bỏng, ngây thơ và đang nằm trong vòng tay yêu thương, bao bọc
của mẹ.

- Thế nhưng, trong những nhận thức đầu đời, qua lời ru của mẹ con
đã có thể cảm nhận được về những cánh cò đang bay.

Theo lời ru của mẹ đã đưa con đến một thế giới rộng lớn bên ngoài:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cống phủ,

Con cò Đông Đăng...”

- Điệp từ “con cò” được lặp lại 4 lần ở đầu dòng thơ gợi lên giai
điệu êm đềm, tha thiết trong lời ru của mẹ.

- Hình ảnh “bay la”, “bay lả” gợi liên tưởng đến một không gian
cao, rộng, để cò sải cánh bay lên.

- Vận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo về hình ảnh con cò
để gợi ra ý nghĩa biểu tượng:

+ Tác giả đã nhắc đến những câu ca dao hay nhất về hình ảnh con
cò:

“Con cò bay lả, bay la

Bay từ công phủ, bay ra cánh đồng


Con cò bay lả, bay la

Bay từ cửa phủ, bay về Đông Đăng”

+ Gợi hình ảnh không gian thân thuộc của làng quê Việt Nam bình
yên, thơ mộng.

+ Gợi và nuôi dưỡng tâm hồn con niềm tự hào về tình yêu quê
hương, đất nước.

Lời ru của mẹ bỗng như chùng xuống trước hình ảnh một cánh cò
mồ côi, phải vất vả, lẻ loi giữa dòng đời:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

“Con cò ăn đêm,

Con cò xa tổ,

Cò gặp cành mềm,

Cò sợ xáo măng...” ”

- Hình ảnh tương phản, đối lập:

+ Một bên là một con cò gặp phải cảnh ngộ éo le, mồ côi, chỉ có một
mình, phải lặn lội, nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh.

+ Một bên là con, có mẹ bên cạnh, được sống trong tình yêu thương,
nên vô tư hết chơi rồi lại ngủ.

- Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo hình ảnh của ca dao, dân
ca để nhấn mạnh sự tương phản, đối lập giữa hai hoàn cảnh.

Qua hình ảnh tương phản, đối lập nhà thơ đã tô đậm tuổi thơ hạnh
phúc, sung sướng của con khi được năm trong vòng yêu thương,
bao bọc, chở che của mẹ. Đồng thời, ca ngợi tình mẫu tử và đức hi
sinh to lớn của mẹ.

Từ hình ảnh cánh cò mồ côi, lời ru ngọt ngào của mẹ như trở nên
thiết tha hon để tô dậm tuổi thơ bình yên, hạnh phúc của con:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

- Dòng thơ đầu có cấu trúc đặc biệt, được tách ra thành 3 câu
với nhịp 2/272/2 và điệp từ “ngủ yên” vừa tái hiện âm điệu lời ru,
vừa thể hiện được tình yêu, sự vỗ về của người mẹ để con chìm vào
giấc ngủ êm đềm.

- Sử dụng hệ thống hình ảnh ẩn dụ:

+ Hình ảnh “lời ru của mẹ thẩm hơi xuân” ẩn dụ cho những ngọt
ngào, yên ấm của tuổi thơ con.

+ Hình ảnh “con cò, con vạc” ẩn dụ cho những cảnh ngộ éo le,
những số phận vất vả, gian nan của cuộc đời.

+ Hình ảnh “những cành mềm mẹ hát” ẩn dụ cho những gập ghềnh,
bất trắc, những dông gió sẽ gặp trong cuộc đời.

+ Hình ảnh “sữa mẹ nhiều” ẩn dụ cho tình yêu thương dào dạt, vô bờ
bến của mẹ.
+ Tác giá đã sử dụng nghệ thuật tương phản tài tình: Một bên là
cuộc sống éo le, vất vả, dông gió, gập ghềnh với một bên là tuổi thơ
ngọt ngào, yên ấm của con, để từ đó tô đậm đức hi sinh, tình mẫu tử
bao la khi mẹ nhận hết những lo toan, nhọc nhằn để dành cho con
sự bình yên và niềm hạnh phúc.

Qua lời ru ngọt ngào, tha thiết của mẹ, hình ảnh “con cò” đã đến
với tâm hồn tuổi thơ con một cách vô thức. Ở tuổi nằm nôi, con chưa
thể hiểu và cũng chưa cần hiểu ý nghĩa của những lời ru, nhưng tình
yêu, sự vỗ về, âu yếm hẳn sẽ cảm nhận được đầy đủ.

2. Hình ảnh con cò song hành bên con trên những chặng đường
đời

Cánh cò gắn bó với con từ tuổi thơ nằm nôi êm đềm, hạnh phúc:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ,

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi”

- Dòng thơ đầu có cấu trúc đặc biệt, được tách thành ba câu, điệp
từ “Ngủ yên” gợi lời ru êm đềm, bàn tay đưa nôi êm ái, vỗ về của
mẹ trong suốt tuổi thơ con.

- Trong suốt tuổi thơ của con, luôn có cánh cò xuất hiện: cò trắng
đến làm quen; cò đứng ở quanh nôi; cò vào trong tổ; con ngủ thì cò
cũng ngủ; cánh của cò hai đứa đắp chung đôi,...
+ Con cò đã như một người bạn thân thiết trong suốt những năm
tháng tuổi thơ của con.

+ Hình ảnh cánh cò được nhân hóa trở thành người bạn tuổi thơ gần
gũi bên con.

+ Trình tự miêu tả cho thấy cánh cò ngày càng gần gũi, thân thiết
hơn với tuổi thơ của con.

Cánh cò từ trong lời ru của mẹ đã dần đi vào tiềm thức của con
giúp con có được một người bạn tuổi thơ gần gũi, thủy chung và theo
dõi sự trưởng thành của con.

Cánh cò vẫn song hành bên con khi khôn lớn, trưởng thành:

“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Lớn lên, lởn lên, lớn lên...

Con làm gì?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn...”

- Sự thay đổi vị trí giữa hai hình ảnh con và cánh cò: Nếu ban đầu
con theo cò đi học thì sau đó cánh cò bay theo gót đôi chân, gợi cho
chúng ta thấy từng bước, từng bước trong sự trưởng thành của
người con.
- Điệp từ “lớn lên” được lặp lại ba lần kèm theo dấu ba chấm cuối
dòng, cho thấy con khôn lớn, trưởng thành, vững vàng hơn trước
những lựa chọn của cuộc đời.

+ Câu hỏi tu từ “Con làm gì?” khiến câu thơ như là lời tâm sự, thủ
thỉ, chia sẻ của hai mẹ con về những ước mơ, hoài bão trong cuộc
đời.

+ Làm “thi sĩ” là ẩn dụ cho khát vọng đẹp đẽ mà con đang theo đuổi
và hướng đến. Đó là công việc đòi hỏi con phải yêu chân thành, sống
hết mình để chắp cánh cho những ước mơ bay cao, bay xa.

Cánh cò luôn hiện diện trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời con,
hay đó còn là sự hóa thân của tấm lòng người mẹ để chở che, vỗ về
con trên mỗi chặng đường đời.

3. Hình ảnh cánh cò và suy ngẫm sâu xa về tình mẫu tử

Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, tác giả đã đi đến khái quát một
qui luật tình cảm có ý nghĩa bền vững, thiêng liêng:

“Dù ở gần con,

Dù ở xa con,

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn vẫn là con của mẹ,

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

- Điệp ngữ và điệp cấu trúc câu đã làm cho nhịp thơ uyển chuyển,
linh hoạt, rất gần với những điệu hát ru.
- Nghệ thuật tương phản: “dù ở gần” >< “dù ở xa”; “lên rừng” ><
“xuống bể” gợi đến những khoảng không gian địa lí có thể trở thành
trở ngại ngăn cách tình cảm nhưng chẳng thể nào cản trở được tình
yêu thương bao la mẹ dành cho con.

- Dưới hình thức tự do, kết hợp thành ngữ, tục ngữ dân
gian: “Lên rừng xuống bể” đã gợi lên một bầu trời yêu thương bao la
mà đặc điểm của nó là không giới hạn.

- Chế Lan Viên đã khái quát một qui luật tình mẹ: con dù lớn vẫn là
đứa con bé bỏng của mẹ, con có thể trưởng thành về cả tuổi đời, cả
nhân cách, trí tuệ, nhưng trong trái tim mẹ con vẫn luôn bẻ bỏng, vẫn
cần yêu thương, chở che.

Tình yêu thương bao la của mẹ luôn theo con, ôm trọn cuộc đời
con. Mẹ mãi là điểm tựa tinh thần, là chốn bình yên con tìm về.

Bài thơ tiếp tục với âm điệu, lời ru ngọt ngào như một giai điệu tự
hào nâng bước con đi:

“À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh theo nôi”

- Hai tiếng “À ơi!” cùng với cấu trúc câu đặc biệt ngân lên nghe
thật mượt mà, thấm thía, gửi gắm trong đó biết bao tình cảm, nỗi
lòng của mẹ.

- Lời ru của mẹ không chỉ mang đến cho con giấc ngũ êm đềm mà
còn mang đên cho con cả một cuộc đời và thế giới xung quanh.
Lời ru của mẹ không chỉ có tình yêu thương mà còn mở ra cả cuộc
đời, đất nước, quê hương. Bởi mẹ muốn vun đắp cho tâm hồn con từ
rất sớm tình công dân đẹp đẽ và bổn phận, trách nhiệm to lớn của
mình.

Khép lại bài thơ là lời vỗ về của mẹ để con chìm trong giấc ngủ êm
đềm tuổi thơ:

“Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi.”

- Điệp từ “cho” đà gợi được tấm lòng bao la, luôn sẵn sàng dâng
hiến cho con những điều tuyệt vời nhất. Mẹ không chỉ cho con những
lời ru ngọt ngào với cánh cò, cánh vạc, mà còn cho con cả một bầu
trời tươi sắc.

- Câu thơ “cho cả sắc trời” gợi mở ra một thế giới hài hòa, tươi
sáng, bình yên cho cuộc đời con.

- Hình ảnh “Đến hát quanh nôi”:

+ Gợi về tuổi thơ “nằm nôi” đẹp nhất của mỗi con người.

+ Gợi đến người mẹ đang vỗ về, chăm chút cho con qua những lời ru
ngọt ngào.

Lời ru của mẹ đã nâng bước cho con đến những chân trời bình
yên và hạnh phúc.

III. Tổng kết


1. Nội dung

Bài thơ “Con cò” là khúc ca thiết tha, sâu lắng để ngợi ca tình mẹ và
ý nghĩa của lời ru.

2. Nghệ thuật

- Sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình sâu lắng và chất trí tuệ sắc
sảo.

-Vận dụng sáng tạo ca dao.

- Ngôn ngữ, hình ảnh sáng tạo độc đáo, giàu ý nghĩa ẩn dụ tượng
trưng.

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tư từ: ẩn dụ, tương phản, nhân
hóa,...

Văn bản 16: Mùa xuân nho nhỏ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Thanh Hải (1930 - 1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Ông tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống
Pháp. Sự nghiệp thơ văn Thanh Hải gắn liền với hai cuộc kháng
chiến trường kì của dân tộc.

- Phong cách sáng tác: ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, cảm
xúc chân thành, đằm thắm,...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác


Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết tháng 11 năm 1980. Đây là
thời điểm Thanh Hải đang bệnh nặng và chỉ mấy tuần sau ông qua
đời. Bài thơ là những dòng chữ cuối cùng mà nhà thơ để lại. Nó như
một sự tổng kết về cuộc đời của ông và gửi gắm về lẽ sống cao cả,
đẹp đẽ.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Tính từ “nho nhỏ” ở nhan đề bài thơ đã cụ thể hóa, hữu hình hóa
mùa xuân và mang đến những lớp nghĩa khác nhau:

+ Lớp nghĩa thực: Gợi về mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên vũ
trụ.

+ Là hình ảnh ẩn dụ độc đáo thể hiện khát vọng, lí tưởng muốn cống
hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, quê
hương, đất nước của nhà thơ.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 1 khổ thơ đầu: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân
thiên nhiên.

- Phần hai: 2 khổ tiếp theo: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất
nước.

- Phần ba: 3 khổ còn lại: Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của tác
giả.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên

Bài thơ mở ra một khung cảnh thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức
sống của mùa xuân:

“Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiên

Hót chi mà vang trời”

- Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ:

+ Đảo động từ “mọc” lên đầu câu thơ để tô đậm sức sống mạnh
mẽ đến bất ngờ của một bông hoa trên dòng sông xanh.

+ Gợi liên tưởng về một bông hoa đang từ từ vươn lên trên mặt
nước tràn đây sức xuân và sắc xuân.

- Bức tranh xuân xứ Huế được chấm phá bằng hình ảnh chọn lọc và
giàu sức gợi: “Dòng sông xanh”, “hoa tím biếc”, “chim chiền chiện”.

+ Đó là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân xứ Hue.

+ Gợi lên không gian mênh mông sóng nước và một bầu trời cao
rộng, trong veo.

- Để cho bức tranh thiên nhiên mùa xuân hài hòa, tươi sáng, ông
đã sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”.

- Các từ cảm thán “ơi”, “chi” gợi lên một chất giọng ngọt ngào,
thân thương, gần gũi.

Khi đối diện với vẻ đẹp ấy, cho dù là ai cũng phải ngỡ ngàng, xao
xuyến đến say sưa:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

- Hình ảnh “giọt long lanh rơi” thật giàu sức gợi:
+ Đó có thể là giọt mưa mùa xuân, giọt sương buổi sớm long lanh
trong ánh sáng.

+ Trong mối quan hệ với câu thơ trước, tiếng hót của con chim chiền
chiện vang vọng nhưng không tan biến trong không gian mà đọng lại
thành từng giọt trong vắt, “long lanh”. Như một thứ quà tặng của
thiên nhiên xứ Huế, thi nhân đã vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng
lấy. Tiếng chim từ chỗ được cảm nhận bằng thính giác chuyển thành
thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình.

- Đại từ “tôi” được điệp hai lần và đi liền với hành động
“hứng” cho thấy thái độ trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của
thiên nhiên. Đồng thời, gợi sự tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với
mùa xuân.

Chỉ với vài nét vẽ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác
họa được một bức tranh có cái hồn mùa xuân xứ Huế. Nó đủ đầy cả
màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Từ đó, bộc lộ được niềm say xưa,
ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

2. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân đất nước

Từ vẻ đẹp của mùa xuân quê hương, Thanh Hải đã mở rộng để


khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của mùa xuân đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả


Tất cả như xôn xao...”

- Nhà thơ cảm nhận mùa xuân đất nước qua hình ảnh “người cầm
súng” và “người ra đồng”:

+ Biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta
là cùng chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương
vững chắc.

+ Hình ảnh “người cầm súng” đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy trên
lưng” gợi liên tưởng đến vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ đang
nảy những chồi non, lộc biếc cùng các anh ra trận để bảo vệ tổ quốc.

+ Hình ảnh “người ra đồng” đi liền với hình ảnh “lộc trải dài nương
mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi của
những bàn tay khéo léo gieo trồng.

- Điệp từ “mùa xuân”, “lộc”:

+ Gợi quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn những chồi non lộc
non.

+ Gợi thành quả trong công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước.

- Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm
cho nhịp thơ trở nên nhanh, gấp, gợi một nhịp sống sôi động, hối hả,
khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ đã bày tỏ niềm tự hào và
niềm tin vào tương lai tươi sáng:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao


Cứ đi lên phía trước”

- Hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao” đã giúp tác giả đúc kết
chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước với biết bao thăng
trầm, thử thách. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, đất nước ta đã trải
qua biết bao đau thương và mất mát, song đã khẳng định được sức
mạnh, ý chí và bản lĩnh của dân tộc mình.

- Hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” gợi lên những liên tưởng
và ý nghĩa thật sâu sắc:

+ Gợi liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh, tồn tại vĩnh hằng trong
không gian và thời gian.

+ Gợi ý nghĩa về dân tộc Việt Nam ta trong suốt chiều dài lịch sử, từ
trong đêm tối nô lệ đã phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực
dân để tỏa sáng.

+ Gợi niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở với
khí thế đi lên mạnh mẽ không gì cản nổi.

- Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn
ngàn năm... đất nước như vì sao...” diễn tả sự vận động đi lên của
lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.

- Cụm từ “cứ đi lên” thể hiện ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt
đá của nhà thơ và cả dân tộc về tương lai tươi sáng của đất nước.

Giọng thơ vừa tha thiết sôi nổi, vừa trang trọng đã gói trọn niềm
yêu mến tự hào, tin tưởng của nhà thơ vào đất nước.

3. Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của nhà thơ

Từ những cảm xúc vui mừng, say xưa, ngây ngất trước vẻ đẹp của
thiên nhiên đất trời xứ Huế vào xuân, vào tương lai tươi sáng của đất
nước, Thanh Hải đã có những lời ước nguyện thật thiết tha, cảm
động:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

- Đại từ “ta” bộc lộ một cách trực tiếp tâm niệm của thi nhân.

- Điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm... Ta nhập...” được đặt ở vị trí đầu
của ba câu thơ đã khiến cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng, khiến
cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân,
hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.

- Hệ thống hình ảnh “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao
xuyến” là những hình ảnh giản dị nhưng cũng thật hàm xúc:

+ Con chim cất cao tiếng hót để làm vui cho đời; cành hoa điểm sắc
để thắm cho mùa xuân; một nốt trầm trong muôn nốt nhạc của bản
hòa ca muôn điệu. Đó là những hình ảnh hết sức giản dị, nhỏ bé
song đã cho thấy ước nguyện khiêm nhường mà cao quý của thi
nhân.

+ Những hình ảnh này có sự đổi ứng chặt chẽ với những hình ảnh
mở đầu của bài thơ để khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: con chim
sinh ra là để dâng tiếng hót cho đời; bông hoa sinh ra là để tỏa
hương sắc; bản hòa ca tưng bừng, rộn rã song không thể thiếu nốt
trầm.

+ Gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
con người và đất nước.
Cống hiến cho đời, cho đất nước là một lẽ sống tốt đẹp mà Thanh
Hải luôn theo đuổi.

Từ cái khát vọng sống cao quý, tác giả đã nâng lên thành một lí
tưởng sống cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dáng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

- Tác giả xin được làm một “mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm đẹp
cho mùa xuân lớn của dân tộc. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ đặc
sắc của nhà thơ Thanh Hải.

- Từ láy “nho nhỏ”:

+ Thể hiện ước muốn, khát vọng khiêm tốn và giản dị của nhà thơ.

+ Gợi về những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời con người để
góp cho mùa xuân đất nước.

- Tính từ “lặng lẽ” đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và
nhân cách. Mùa xuân của Thanh Hải không hề ồn ào, khoa trương,
náo nhiệt mà lặng lẽ hiến dâng. Dâng cho đời là dâng một cách tự
nguyện, không đòi hỏi sự đền đáp. Đó chính là lối sống, cống hiến
đẹp đẽ, vô tư, trong sáng nhất mà con người cần hướng tới.

- Điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là... Dù là...” và hình ảnh tương
phản “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” khiến cho lời thơ như một lời
hứa, lời tự nhủ với mình.

Đồng thời, khẳng định sự tồn tại bền vững của những khát vọng
sống, lí tưởng sống là cống hiến, hi sinh.
Lời tổng kết của nhà thơ về cuộc đời mình, một cuộc đời thật đẹp
xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo.

Bài thơ khép lại trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca
trữ tình xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huê”

- Câu “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương, da diết để gợi con
đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước đã đi qua.

- Câu “Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt để gợi mùa xuân
hiện tại với cuộc sống thanh bình, no ấm.

- “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng để khép lại bài thơ, đó là
giai điệu của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc.

Tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt, trở thành khúc
hát tâm tình trong những dòng thơ cuối. Khúc hát đó thật cảm động,
cao quý và đáng trân trọng biết bao.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, tác giả đã tái hiện thành công vẻ
đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước. Qua đó bày tỏ lẽ
sống cao đẹp, là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước.
2. Nghệ thuật

- Thể thơ năm chữ, cách gieo vần liền giữa các khổ thơ đã tạo ra sự
liền mạch của cảm xúc.

- Ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng, giàu sức gợi.

- Cảm xúc rất đỗi chân thành, tha thiết, cho nên bài thơ trở thành
tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.

Văn bản 17: Viếng Lăng Bác

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Viễn Phương (1928 - 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê
ở tỉnh An Giang.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của lực lượng
văn nghệ giải phóng miền Nam.

- Thơ Viễn Phương tập trung khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của nhân
dân, đất nước trong công cuộc chiến đấu trường kì, gian khổ của dân
tộc.

- Phong cách sáng tác: cảm xúc sâu lắng, thiết tha; giọng thơ nhỏ
nhẹ, trong sáng; ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, một năm sau
ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là khoảng
thời gian công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mới khánh thành.
Viễn Phương là một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền Nam sớm
được ra viếng lăng Bác. Trước lăng Bác, trong phút xúc động thiêng
liêng, sự thành kính, lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tác
bài thơ này.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” năm 1978.

b. Giọng điệu bài thư: Thành kính, trang nghiêm, trầm lắng, phù
hợp với tâm trạng của tác giả và không khí ở trong lăng.

c. Bố cục: Ba phần.

- Phần một: Khổ 1: Cảm xúc ban đầu khi đứng trước lăng Bác.

- Phần hai: Khổ 2: Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng
viếng Bác.

- Phần ba: Khố 3: Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài
Bác.

- Phần bốn: Khổ 4: Cảm xúc của nhà thơ khi từ biệt lăng Bác.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác

Viễn Phương là một người con miền Nam, tham gia hoạt động và
chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cùng như nhiều đồng bào
và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi một ngày ra thăm Bác. Bởi
vậy, khi đứng trước lăng Người, nhà thơ không giấu nỗi niềm xúc
động: cảm xúc bồi hồi pha lẫn nỗi xúc động sâu xa:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

- Với lời lẽ giản dị, câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn: Nhà
thơ ở miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm
mong mỏi nay cũng được về thăm Người.
- Sử dụng đại từ nhân xưng “Con - Bác”:

+ Đó là lối nói, lối xưng hô quen thuộc của người miền Nam để gợi
sự gần gũi, thân thiết.

+ Thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt.

+ Gợi một liên tưởng, đó là Viễn Phương như một đứa con xa nay
mới được trở về bên vị cha già của dân tộc.

- Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh khi sử dụng từ “thăm” để thay
cho từ “viếng”

+ Để giảm bớt nỗi đau thương, mất mát của những đứa con xa về
muộn.

+ Đồng thời, bất tử hóa hình tượng Bác trong lòng nhừng người con
miền Nam và đối với cả dân tộc Việt Nam.

Câu thơ giản dị như một lời kể, song nó lại gói gém bao tình cảm
của người con miền Nam sau bao mong nhớ, đợi chờ mới được về
thăm lăng Người.

Đứng trước lăng vị cha già kính yêu của dân tộc, ấn tượng đầu tiên
trong lòng nhà thơ chính là hàng tre xanh mát:

“Đã thấy trong sương hàng tre hát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

- Từ cảm thán “Ôi!” biểu thị niềm xúc động, tự hào trước hình ảnh
hàng tre quanh lăng Bác.
- Hình ảnh “hàng tre bát ngát” là một hình ảnh tả thực về quang
cảnh quanh lăng Bác; đồng thời gợi sự gần gũi, thân thương của
những xóm làng Việt Nam.

- Hình ảnh “hàng tre xanh xanh Việt Nam” là hình ảnh ẩn dụ mang ý
nghĩa tượng trưng:

+ Hàng tre ấy tượng trưng cho những con người, dân tộc Việt Nam
với sức sống tràn trề.

+ Gợi tả một quân đội với tinh thần kiên cường, bất khuất, trong “bão
táp mưa sa” vẫn đứng bên cạnh giữ giấc ngủ ngàn thu của Người.

+ Thành ngữ “bão táp mưa sa” gợi về những khó khăn, gian khổ
mà nhân dân ta đã cùng nhau “chung lưng, đấu cật” để dựng nước
và giữ nước.

+ Lối miêu tả “đứng thẳng hàng” gợi những hàng tre mang dáng
dấp cứng cỏi, kiên cường, hiên ngang, bất khuất như tính cách của
người dân Việt Nam.

Khổ thơ là niềm xúc động sâu sắc, niềm thành kính của Viễn
Phương khi đến thăm và đứng trước lăng Bác.

2. Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác

Đứng trước lăng, sau ấn tượng về “hàng tre xanh xanh” là hình ảnh
của dòng người vào lăng viếng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết
ơn sâu nặng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ


Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa
xuân.”

- Nghệ thuật sóng đôi: Giữa hình ảnh “mặt trời” thực và “mặt
trời” ẩn dụ:

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên
lăng”, là hình ảnh thực. Đây là mặt trời của thiên nhiên soi sáng
không gian vũ trụ và mang lại sự sống cho muôn loài.

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ: “Thấy một mặt trời trong lăng rất
đỏ” là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ: Bác chính là mặt trời chân lí, soi
sáng giúp dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ khổ đau, và mang đến một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, ta thấy được sự tôn kính, lòng
biết ơn sâu sắc mà cả dân tộc dành cho Bác.

- Mặt trời thiên nhiên được nhân hóa với hai hành động: ngày
ngày “đi qua trên lăng” và nhìn thấy mặt trời “trong lăng rất đỏ” đã tô
đậm hơn tầm vóc vĩ đại của Người.

- Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì
nhân dân của Bác. Mặt trời đó sẽ mãi mãi soi sáng, sưởi ấm, tô thắm
cho đời.

- Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày”:

+ Gợi một dòng thời gian vô tận, từ ngày này sang ngày khác, biết
bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn thành kính vào lăng viếng
Bác.

+ Mang giá trị tạo hình, gợi quang cảnh những đoàn người nối hàng
dài vào lăng để viếng Bác.
- Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ, gợi liên tưởng đến dòng
người vào lăng viếng Bác với tấm lòng thành kính, dâng trào như
được kết từ hàng vạn trái tim, tấm lòng con người Việt Nam.

- Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để chỉ 79 năm trong
cuộc đời của Người - 79 mùa xuân Người hi sinh cho đất nước.

Khổ thơ đã diễn tả được một cách sâu sắc tấm lòng của nhân dân
cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn
sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

3. Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài Bác

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian,
không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, thật tinh tế sự
yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong treo của không
gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

- Sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm, nói tránh để phủ nhận
một sự thật đau lòng: Người đang ngủ một giấc bình yên, giữa vầng
trăng sáng dịu hiền.

- Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền”:

+ Gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, nhân cách sống cao đẹp, sáng
trong của Bác.

+ Bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc của tác giả dành cho Bác.

+ Gợi đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình
ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.
+ “Trời xanh”, trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực, đó là thiên
nhiên gần gũi với chúng ta, tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn
còn mài với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng.

- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau
xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác: “Mà sao nghe
nhói ở trong tim”.

+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột,
quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận đáy sâu tâm
hồn mình, nỗi đau ấy uất nghẹn tột cùng không nói thành lời.

+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả sự mâu thuẫn. Cảm giác nghe
nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Giữa
tình cảm và lí trí có sự mâu thuẫn. Và con người đã không kìm nén
được khoảnh khắc yếu lòng.

Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót.
Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài
thơ.

4. Cảm xúc của nhà thơ khi tạm biệt lăng Bác

Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nước mắt luyến tiếc, bịn
rịn không muốn rời Bác. Khổ thơ đã diễn tả tâm trạng lưu luyến của
nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

- Từ chỉ thời gian “Mai” đi liền với địa danh “miền Nam” gợi sự
chia xa, gợi khoảng cách, gợi cả tấm lòng, tình cảm của những
người con miền Nam.
- Lối nói “thương trào nước mắt” đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương da
diết, gợi chiều sâu của sự gắn bó với miền Bắc, với Bác Hồ của
những người miền Nam. Nhà thơ bày tỏ ước muốn hóa thân để ở lại
bên cạnh Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

- Nhịp điệu dồn dập và điệp từ “muốn làm” khởi đầu cho mỗi dòng
thơ giúp nhà thơ tô đậm mức độ thiết tha, mãnh liệt của niềm mong
ước.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”

+ Lớp nghĩa thực: Tác giả muốn góp cuộc đời mình để làm đẹp cho
cảnh quan quanh lăng, ao ước được hóa thân thành con chim để cất
tiếng hót làm vui lăng Bác; làm đóa hoa để đem lại sắc hương, tô
điểm cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “muốn làm
cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bát ngát, tỏa bóng mát cho
lăng.

+ Lớp nghĩa ẩn dụ: Khát vọng ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho
người; Bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc;
góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang, trung hiếu của tâm
hồn Việt Nam.

- Hình ảnh cây tre có tính tượng trưng, một lần nữa nhắc lại khiến bài
thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng
Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn
tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tạo nên một kết
cấu đầu cuối tương ứng, nhăm bày tỏ khát vọng và tâm lòng nhà thơ
dành cho Bác.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà
thơ và đồng bào miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang
nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.

- Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ
yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm
xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối, nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc
thái của niềm mong ước.

- Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh
ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng như “mặt trời
trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với
hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và mang giá trị biểu
cảm.

Văn bản 18: Sang thu

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh. Ông sinh năm 1942,
quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp nhà thơ
chiến sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước, bao trùm trong toàn bộ sáng
tác của Hữu Thỉnh là cảm hứng về quê hương, đất nước, nhân
dân.

+ Sau chiến tranh, ngòi bút của ông hướng về những cảm xúc đời
thường hay những thân phận cá nhân.

- Phong cách sáng tác: cảm xúc tinh tế, lãng mạn; hình ảnh giản dị
mà giàu sức gợi cảm...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Sang thu” được sáng tác vào năm 1977.

- Tác phẩm được in nhiều lần trong các tập thơ và gần đây nhất là
tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” năm 1991.

b. Ý nghĩa nhan đề

- “Sang thu” trước hết gợi lên khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên,
khi đất trời chuyền từ hạ sang thu.

- Gợi khoảnh khắc chuyển giao giữa tuổi trẻ sang độ tuổi trưởng
thành vững vàng, từng trải.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: (Khổ 1) Những tín hiệu giao mùa.

- Phần hai: (Khổ 2) Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa.

- Phần ba: (Khổ 3) Những suy ngẫm về cuộc đời lúc chớm thu.
II. Trọng tâm kiến thức

1. Những tín hiệu giao mùa

“Sang thu” là một khoảnh khắc rất đặc biệt của thiên nhiên. Đó là lúc
hạ vẫn chưa kịp đi mà hương thu đã lặng lẽ đến rồi.

Trước sự thay đổi ấy, hẳn phải là một hồn tinh tế và giàu cảm xúc
lắm thì nhà thơ mới cảm nhận được:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

- Hữu Thỉnh đã lựa chọn một hình ảnh quen thuộc, gần gũi để làm
nên một tứ thơ mới mẻ khi ông sử dụng một làn “hương ổi” để
làm tín hiệu giao mùa:

+ “Hương ổi” đi liền với từ “bỗng” được đặt ở đầu câu thơ đã diễn
tả cảm giác bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình.

+ “Hương ổi” đi liền với động từ “phả” diễn tả một làn hương
ngào ngạt, sánh đậm. Đồng thời gợi cho ta liên tưởng đến không
gian thân thuộc của những làng quê. Đó có thể là một làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ với những khu vườn, những lối ngõ sum suê cây
trái.

Làn “hương ổi” trở thành phong vị riêng trong thơ thu Hữu Thỉnh.

- Tác giả lựa chọn làn “gió se” làm tín hiệu thứ hai cho khoảnh
khắc giao mùa:
+ "Gió se” là ngọn gió heo may đặc trưng của mùa thu đất Bắc. Đó là
một thứ gió khô và thoáng chút se lạnh.

+ Làn "gió se” ấy đã làm dịu đi cái nắng oi ả, gay gắt của mùa hạ và
khiến cho làn "hương ổi” như sánh lại và trở nên ngọt ngào hơn.

- Những tín hiệu từ "hương ổi”, "gió se” dường như vẫn còn chưa đủ
để đánh giá cho khoảnh khắc giao mùa. Bởi vậy, tác giả đã vội vã
kiếm tìm ở một tín hiệu tiếp theo là những màn sương.

+ Cảm nhận của tác giả có sự thay đổi từ khứu giác, xúc giác
sang cảm nhận bằng thị giác.

+ Nghệ thuật nhân hóa qua từ láy "chùng chình” đã gợi lên dáng vẻ
lãng đãng như đợi chờ, cố ý chậm lại đầy lưu luyến của màn sương.

+ Cụm từ “qua ngõ” gợi liên tưởng đến những đường làng, ngõ
xóm hay cũng là cửa ngõ của thời gian thông giữa hai mùa (cuối hạ,
đầu thu).

- Trước khoảnh khắc giao mùa ấy, tác giả đã giật mình, bối rối: “Hình
như thu đã về”

+ ‘'Hình như” là một lối nói giả định, phán đoán không chắc chắn,
với một chút nghi hoặc. Nhưng lại rất phù hợp để diễn tả về cảm
nhận mơ hồ lúc giao mùa.

+ Sự kết hợp một loạt các từ “bỗng”, “phả”, “hình như” đã thể
hiện tâm trạng ngờ ngàng, vui mừng, hạnh phúc của tác giá trong
phút giao mùa của vạn vật.

Đó là những cảm nhận tinh tế của tác giả lúc thu sang, và đối diện
với những khoảnh khắc ấy là niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ.

2. Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa


Quang cảnh thiên nhiên được tái hiện chân thực và sống động qua
việc lựa chọn những hình ảnh đặc trưng:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim hát đâu vội vã”

- Hai câu thơ đầu có cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ đã diễn tả vẻ đẹp
thiên nhiên và lòng người phút giao mùa.

- Hình ảnh “dòng sông” được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”:

+ Tả thực một dòng sông tĩnh lặng, trong trẻo với dòng chảy êm đềm.

+ Con sông được nhân hóa như đang được nghỉ ngơi sau một mùa
hạ vất vả với bão giông.

+ Đi liền với từ “được lúc” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh những con
người đã đi qua thời chiến, trải qua lửa đạn giờ đang được sống
chậm lại, đến lúc phải nghỉ ngơi.

- Hình ảnh những chú “chim” được nhân hóa qua từ láy “vội
vã”:

+ Tả thực những cánh chim di cư bay về phương Nam để tránh rét.

+ Những cánh chim được nhân hóa như bắt đầu nhanh hơn, gấp gáp
hơn khi nhận ra những đợt gió heo may se lạnh đang ùa về.

+ Đi liền với từ “bắt đầu” gợi ta liên tưởng đến những người lính
bước ra từ trong chiến tranh. Họ cứ ngỡ đã đến lúc phải nghỉ ngơi để
suy ngẫm, song lại chính là lúc họ “bắt đầu” phải vội vã, tất bật trong
những lo toan của cuộc sống mới.

- Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng một cách nhịp nhàng, tài tình
qua hình ảnh “dềnh dàng” >< “vội vã”:
+ Làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên trong khoảnh
khắc giao mùa.

+ Làm nổi rõ hai tâm trạng trái ngược nhau của con người khi bước
từ chiến tranh sang hòa bình.

Quang cảnh thiên nhiên tiếp tục tái hiện qua những sáng tạo vô cùng
độc đáo, ấn tượng:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

- Nghệ thuật nhân hóa qua cụm từ có ý nghĩa tượng hình “vắt nửa
mình”:

+ Gợi lên không gian của một bầu trời cao rộng, trong trẻo lúc thu về.

+ Khiến cho đám mây như có hình, có hồn và trở nên gần gũi, sinh
động.

+ Gợi liên tưởng đến bước đi cúa thời gian, đám mây như một cây
cầu đặc biệt để nối liền những ngày cuối hạ và đầu thu.

- Hình ảnh “đám mây” còn mang nghĩa thế sự. Gợi sự giao thời của
đời sống khi đất nước đang chuyển giao từ chiến tranh sang hòa
bình.

Khoảnh khắc giao mùa được tái hiện rất tinh tế, sống động bằng
những câu thơ giàu giá trị tạo hình. Và ẩn sau khoảnh khắc đó còn là
hình ảnh của đời sống lúc sang thu với biết bao biến chuyển.

3. Những suy ngẫm về đời người lúc chớm thu

Những biến chuyển của thiên nhiên:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa”

- Nghệ thuật đối qua hình ảnh “vẫn còn” >< “vơi dần”; “nắng” ><
“mưa” đã tái hiện sự vận động trái chiều của hai hiện tượng thiên
nhiên.

- Hình ảnh “nắng” và “mưa” là những hiện tượng của thiên nhiên, vận
hành theo quy luật và có thể dự báo.

- Tác giả đã mượn những hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, dễ
nắm bắt để cụ thể hóa khoảnh khắc giao mùa.

- Những từ ngừ chỉ mức độ, ước lượng: “vẫn còn”, “bao nhiêu”,
“vơi”, “bớt” được sắp xếp theo trình tự giảm dần, cho thấy dấu hiệu
của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của mùa thu ngày một
đậm nét hơn.

Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời.

Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy
ngẫm về đời người lúc chớm thu qua những hình ảnh giàu sức gợi:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

- Hình ảnh của “sấm”:

+ Là một hiện tượng, dấu hiệu cho những cơn mưa rào mùa hạ.

+ Ẩn dụ cho những biến động, bất thường, thử thách trong cuộc đời
của mỗi một con người.

- Hình ảnh “sấm” đi liền với lối miêu tả “bớt bất ngờ” và “hàng cây
đứng tuổi”:
+ Tả thực về một hiện tượng, đó là sang thu, tiếng sấm như nhỏ dần,
không còn đủ sức làm lay động những hàng cây đã qua bao mùa
thay lá.

+ Là một ẩn dụ về những con người từng trải, giờ đến tuổi xế chiều
thì trở nên vững vàng hơn, ung dung hơn trước những đổi thay, biến
động của cuộc đời.

Khổ thơ đã bộc lộ trọn vẹn những khoảnh khắc thiên nhiên và đời
người sang thu, với những cảm nhận tinh tế và suy ngẫm sâu sắc
của nhà thơ.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Sang thu” là sự cảm nhận tinh tế của tác giả về vẻ đẹp thiên
nhiên với những bước chuyển mình từ hạ sang thu. Đồng thời, qua
tác phẩm còn nói lên niềm xúc động, những suy ngẫm và triết lí trong
khoảnh khắc giao mùa của nhà thơ.

2. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, tự nhiên nhưng giàu sắc gợi, độc đáo
và mới lạ.

- Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng.

Văn bản 19: Nói với con

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Y Phương sinh năm 1948. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
thấm nhuần văn hóa, truyền thống của dân tộc Tày, huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ
dân tộc miền núi.

- Cảm hứng chủ đạo trong thơ Y Phương là gia đình, quê hương,
đất nước.

- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ giản dị, hồn nhiên, in đậm lối
tư duy của người vùng cao; hình ảnh phong phú, mang giá trị biểu
tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, năm năm sau ngày
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó là giai đoạn mà đời
sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và đồng
bào miền núi nói riêng còn rất nhiêu khó khăn, vất vả.

- Y Phương tâm sự: “Đó là thòi diêm đất nước ta gặp vô vàn khó
khăn... Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự
với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí
do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy
gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bây giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm
tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải
bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của
văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta
phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”. Từ hiện thực
khó khăn ấy, nhà thơ đã viết nên bài thơ này. Bài thơ như một lời
tâm sự với chính mình để động viên mình, đồng thời để nhắc nhở
cho các thế hệ mai sau.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam” (1945 - 1975).

b. Bố cục: Hai phần


- Phần một: Đoạn 1: Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con.

- Phần hai: Đoạn 2: Những phẩm chất cao quỳ của người đồng mình
và lời khuyên của người cha.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con

• Trong những lời tâm tình, tác giả nói với con cội nguồn sinh thành
và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

- Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình: “chân phải”, “chân
trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những
bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng
của cha mẹ.

- Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười”:

+ Tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập
nói.

+ Gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn
đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.

- Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ”.

+ Tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào
lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha.
+ Gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi
của cha mẹ.

- Nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng đã tạo nên một âm điệu,
không khí tươi vui và gợi đến một mái ấm gia đình đề huề, hạnh
phúc.

Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với
con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì
thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép
quên.

• Cùng với gia đình, thì quê hương chính là mạch nguồn không
thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken cảu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”

- Quê hương được giới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng
cao - "người đồng mình”.

- Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “con ơi” khiến lời
của cha với con thật trìu mến, thân thương.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi:

+ “Đan lờ cài nan hoa”: tả thực công cụ lao động còn thô sơ
được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần
cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã
khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “nan
hoa”.

+ “Vách nhà ken cảu hát”, tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng,
gia đình của “người đồng mình”, khiến cho những vách nhà như
được ken dầy trong những câu hát si, hát lượn; gợi một thế giới tâm
hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người miền cao.

- Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả được động tác khéo léo
trong lao động vừa gợi sự gắn bó của những “người đồng
mình” trong cuộc sống lao động.

- Thủ pháp nhân hóa:

+ “Rừng cho hoa”, tả thực vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên
nhiên, quê hương ban tặng; gợi sự giàu có và hào phóng của thiên
nhiên, quê hương.

+ “Con đường cho những tẩm lòng”, gợi liên tưởng đến những con
đường trở về nhà, về bản; gợi đến tấm lòng, tình cảm của “người
đồng mình” với gia đình, quê hương, xứ sở.

- Điệp từ “cho” cho thấy tấm lòng rộng mở, hào phóng, sẵn sàng
ban tặng tất cả nhưng gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của quê hương,
thiên nhiên.

Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng dục con, thì
quê hương bằng văn hóa, lao động đã nuôi dưỡng và che chở cho
con thêm khôn lớn, trưởng thành.

• Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc
nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để sinh thành nên con:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”


- “Nhớ về ngày cưới”, là nhớ về kỷ niệm cho sự khởi đầu của một gia
đình. Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh từ tình
yêu ấy.

- “Ngày đầu tiên đẹp nhất” đó có thể là ngày cưới của cha mẹ, nhưng
cũng có thể là ngày đầu tiên con chào đời.

Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội
nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con: Gia đình, quê hương chính là
những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng
thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự
hào.

2. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình và lời
khuyên của cha

a. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình

• Trong lời tâm tình về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con,
người cha đã khéo léo “đan”, “cài” những phẩm chất tốt đẹp của
người đồng mình:

“Người đông mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

- Vẫn sử dụng lối nói hình ảnh cúa người vùng cao: “người đồng
mình” để gợi lên sự gần gũi, thân thương trong một gia đình.

- Động từ “thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” để bày tỏ sự


đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương.

- Hệ thống từ ngữ giàu sức gợi qua hai tính từ “cao”, “xa”:
+ Gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của
đồng bào vùng cao.

+ Những tính từ này được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, gợi những
khó khăn như chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người.

- Hệ thống hình ảnh mang tư duy của người miền núi, khi tác giả
lấy cao của trời, của núi để đo nỗi buồn, lấy xa của đất để đo ý chí
cúa con người.

Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống
còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng
thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ.

• Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con
về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê


hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

- Nghệ thuật tương phản:

+ Hình ảnh “thô sơ dci thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhở bé
của “người đồng mình”.

+ Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt
lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình”

Nghệ thuật tương phản đã làm tôn lên “tầm vóc”, “vóc
dáng” của “người đồng mình” họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ
không hề yếu đuổi.
- Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực,
vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:

+ Tả thực quá trình dụng nhà, dựng bản của người vùng cao, được
kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt.

+ Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã dựng xây và nâng tầm
quê hương.

- Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng xây quê hương ấy,
chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng.

Câu thơ tràn đầy niềm tự hào về những phẩm chất cao quý của
người đồng mình. Từ đó, Y Phương nhắn nhủ, răn dạy con phải biết
kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương.

b. Lời khuyên của người cha

• Hãy biết sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng
mình:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo


đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

- Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại liên tiếp đã tô đậm được mong
ước mãnh liệt của cha dành cho con.
- Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê “đá gập ghềnh” và “thung nghèo
đói”

+ Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác.

+ Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo.

Từ đó, người cha mong muốn ở con: hãy biết yêu thương, gắn bó,
trân trọng quê hương mình.

- Hình ảnh so sảnh: “Sống như sông như suối”

+ Gợi về cuộc sống bình dị, hồn nhiên, gắn bó với thiên thiên.

+ Gợi lối sống trong sáng, phóng khoáng, dào dạt tình cảm như
sông, như suối

Từ đó, người cha mong muốn ở con: một tâm hồn trong sáng,
phóng khoáng như thiên nhiên.

- Thủ pháp đổi: “lên thác” >< “xuống ghềnh” gợi một cuộc sống
vất vả, lam lũ, nhọc nhằn, không hề bằng phẳng, dễ dàng. Từ đó,
người cha mong muốn ở con: Phải biết đối mặt, không ngại ngần
trước những khó khăn và phải biết vươn lên, làm chủ hoàn cảnh.

Đoạn thơ là lời khuyên của cha, khuyên con hãy tiếp nối cái tình
cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra. Hãy tiếp
nối cả ý chí can đảm, lòng kiên cường của người đồng mình.

• Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm
khắc của người cha:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé


Nghe con”

- Hai tiếng “lên đường”, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng
thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời.

- Hình ảnh thơ được lặp lại “thô sơ da thịt” như là lời khẳng định để
khắc sâu trong tâm trí con, rằng: con cũng là người đồng mình, cũng
mang hình hài, vóc dáng nhỏ bé.

- Nhưng con “không bao giờ được nhỏ bé” mà phải kiên cường, bản
lĩnh để đương đầu với những gập ghềnh, gian khó của cuộc đời.

- Hai tiếng “nghe con” nghe thật thiết tha, ân cần, xúc động, ẩn
chứa biết bao mong muốn của người cha.

Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm
cho con những bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời con mãi mãi khắc ghi.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha dành
cho con. Đồng thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và lòng tự hào
về người đồng mình.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, phóng khoáng, phù hợp với lối nói, diễn đạt và tư
duy của người vùng cao.

- Giọng điệu thơ khi tâm tình, tha thiết, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc,
rất phù hợp với lời của người cha nói với con mình.

Văn bản 20: Làng


I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh
ra và lớn lên trên một làng quê trù phú và giàu truyền thống văn hóa
ở Từ Sơn - Bắc Ninh.

- Con người: Kim Lân là người nghiêm khắc với bản thân, nghiêm
túc với công việc.

- Kim Lân bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1941, lựa chọn cho mình
sở trường truyện ngắn và nhanh chóng trở thành một cây bút xuất
sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Ông là một trong những nhà văn am hiểu sâu sắc về nông thôn và
người nông dân. Bởi vậy, ông lựa chọn đề tài về người nông
dân để phát huy sở trường của mình.

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Tái hiện được cuộc sống, sinh hoạt
văn hóa và những thú vui bình dị chốn thôn quê như: đánh vật, chọi
gà, thả chim,...

+ Sau Cách mạng tháng Tám: Khám phá vẻ đẹp tâm hồn người nông
dân. Đó là những con người với cuộc sống cực nhọc, khổ nghèo
nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng, tràn đầy niềm tin vào tương lai.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết tự nhiên, chậm
rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi,
chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác


- Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948. Đây là thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp.

-Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ năm 1948.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không lấy
tên tác phẩm là “Làng Chợ Dầu” Nếu lấy tên tác phẩm là “Làng chợ
Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một cái làng cụ
thể; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu
ấy. Như vậy, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý
nghĩa khái quát.

- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là “Làng”, mang ý nghĩa khái
quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những
làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp;
ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân Việt
Nam yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của
truyện được mở rộng.

c. Tóm tắt

Ông Hai người làng chợ Dầu, trong kháng chiến, buộc phải rời
làng đi tản cư. Là một người nông dân yêu làng tha thiết: ông hay
khoe về làng mình; ngày nào cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh
ảnh để lắng nghe tin tức về làng. Ruột gan ông cứ múa lên, trong
đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích khi nghe về những chiến công của
làng.

Một hôm, tại quán nước, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt
gian theo giặc. Ông cảm thấy khổ tâm, nhục nhã và xấu hổ vô cùng,
về nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà nước mắt trào ra. Ông
không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà, norm nớp lo sợ. Ông Hai lâm vào
hoàn cảnh bế tắc khi bà chủ nhà có ý đuổi khéo gia đình ông, nhưng
không thể về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Ông chỉ
biết tâm sự với đứa con về nỗi lòng của mình.

Chỉ khi thông tin được cải chính, rằng làng chợ Dầu vẫn kiên
cường đánh giặc ông mới vui vẻ và phấn chấn hẳn lên. Ông đi khoe
với bác Thứ, với mọi người: nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc
phá, về nhà, ông vui vẻ mua quà cho lũ con.

d. Ngôi kể

- Truyện được kể theo ngôi thứ ba.

- Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm
nhận giác chân thực cho người đọc.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện

- Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt
gian theo Tây.

+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với
tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh
diện về nó thì bỗng nghe tin làng lập tề theo giặc.

+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình
yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến
của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt
Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai.
+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống truyện đã tạo nên một cái thắt nút
cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm
chất của nhân vật, góp phần thế hiện chủ đề của tác phẩm.

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết

- Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể về nó với niềm say mê, náo
nức đến lạ thường:

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Ông khoe con đường làng lát toàn
đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị
quan tổng đốc trong làng;...

+ Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng
chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ,
những giao thông hầm hào;...

- Khi buộc phải tản cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:

+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện
về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng.

+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết
người nghe có thích hay không.

+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình
chiến sự.

Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất
tự nhiên, chân thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai với làng chợ
Dâu của mình.

b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc


• Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hồ như không thế điều khiển
được cơ thê của mình: “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân
rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”.

- Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin
vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người tản cư kể rành rọt quá, lại
khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông
không thể không tin.

• Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám
ảnh, lo lắng, day dứt:

- Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn
Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.

- Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “nước
mắt ông cứ tràn ra”.

- Muôn vàn nỗi lo ùa về trong tâm trí ông:

+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì
là trẻ con làng Việt gian: “Chúng nó cùng là trẻ con làng Việt gian đấy
ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn,
bằng ấy tuổi đầu”.

+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay,
thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt
cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống
Việt gian bán nước...”

+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh
sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta
chứa”.
Một loạt những câu hỏi gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối rắm,
không có lối thoát của ông Hai.

- Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nam chặt hai tay mà
rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm
cái giống Việt gian bán nước để nhục nhà thế này”.

- Niềm tin bị phản bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé
trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.

• Mấy ngày sau đó, ông hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với
cuộc sống xung quanh:

- Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình
hình bên ngoài: “một đám đông tủm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng
nói cười xa xa ông cũng chột dạ”.

- Lúc nào ông cũng nơm nớp, hoang mang, lo sợ tưởng như người
ta để ý đến, bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng
Tây, Việt gian, cam nhông... là ông lùi ra một góc, nín thít: “Thôi lại
chuyện ấy rồi!”

- Ông không dám nói chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn
thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông đớn đau.

• Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã dẫn đến cuộc xung
đột nội tâm ở ông Hai.

- Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và bế tắc hoàn
toàn:

+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trơ về làng” - rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ
về làng, bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ
Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”.
+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn
nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải
thù”.

Quyết định của ông Hai đã khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ,
thiêng liêng, rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Điều gì đã
khiến ông có sự lựa chọn dứt khoát đó? Phải chăng chính niềm tin
vào Đảng, cách mạng, kháng chiến đã hướng ông có được sự lựa
chọn đó.

- Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình
cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó gần hết cuộc đời.
Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi
bỏ nỗi lòng.

+ Ông trút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con
ngây thơ, bé bỏng.

+ Tình yêu sâu nặng với làng, nên ông muốn lí trí và trái tim bé bỏng
của con phải khắc sâu, ghi nhớ câu: “Nhà ta ở làng chợ Dầu” - nơi
chôn rau cắt rốn của bố con ông.

+ Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với
cụ Hồ của bố con ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ
trên đầu, trên có soi xét cho bố con ông”.

+ Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền vững và rất thiêng
liêng ấy: “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám
đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

Dưới hình thức trò chuyện, tâm với đứa con, nhưng thực chất là
lời tự vấn, để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của
mình với làng, kháng chiến, cách mạng; để làm vơi đi phần nào
những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay.
Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai, Kim Lân đã khám phá và
làm nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân cách
mạng: hài hòa giữa lòng yêu làng và tình yêu nước, nhiệt tình cách
mạng.

c. Khi nghe tin làng cải chính

- Khi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc, như có một
phép hồi sinh khiến thái độ ông Hai thay đổi hẳn: “Cái mặt buồn thiu
mọi ngày bong tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.

- Nó giúp rũ sạch mọi đau khổ, tủi nhục, bế tắc và đưa ông trở lại
với “thói quen” cũ, lật đật đi khắp nơi khoe làng: “Tây nó đốt nhà tôi
rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính
cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo, Láo hết! Toàn là
sai sự mục đích cả”.

- Phải chăng, khi niềm tin và tình yêu bị phản bội, bị dồn nén trong
những dằn dặt, khủng hoảng quá lâu dễ khiến con người ta có
những suy nghĩ không bình thường?

+ Đối với người nông dân, căn nhà là tất cả cơ nghiệp, là biết bao
công cày cuốc mà nên. Vậy mà ông sung sướng, hê hả loan báo cho
mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn!” một
cách tự hào như một niềm vui, niềm hạnh phúc.

+ Nhưng ngôi nhà là tài sản riêng, dù có mất nhưng danh dự vẫn
còn, thế là ông vui, ông hạnh phúc.

+ Đó là minh chứng hùng hồn, chứng minh cho làng ông, cho bố con
gia đình ông và những người tản cư trên đây không theo giặc, vẫn
một lòng thủy chung, tình nghĩa và sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng
chiến.
Ông Hai chỉ là một người nông dân bình thường như bao người
nông dân khác nhưng ông đã biết hi sinh tài sản riêng của mình cho
kháng chiến. Điều này cho thấy cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi
sâu vào tiềm thức của người dân để trở thành cuộc kháng chiến toàn
dân.

- Ông phấn khởi mua quà về chia cho các con và có ý định nuôi con
lợn để ăn mừng,...

Tình yêu làng và lòng yêu nước của ông Hai thực sự sâu sắc và
khiến người đọc vô cùng cảm động. Tin cải chính đã trả lại cho ông
tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về làng. Nó đã xây dựng lên trong ông
những “bức tường thành” vững chắc không súng đạn nào có thể
công phá, cháy rụi được.

3. Những đặc sắc về nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tác giả đặt nhân vật
vào tình huống cụ thể để thử thách nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ
chiều sâu tư tưởng và chủ đề của truyện.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:

+ Khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu
làng, yêu nước tha thiết,...

+ Tác giả miêu tả rất cụ thể những diễn biến nội tâm từ suy nghĩ,
hành động đến ngôn ngữ,...

+ Với thủ pháp nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm đã diễn tả
một cách chính xác và mạnh mẽ những ám ảnh, day dứt của nhân
vật.

Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và
thế giới tinh thần của họ.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đặc sắc:

+ Ngôn ngữ truyện mang tính khẩu ngữ và lời ăn, tiếng nói hàng
ngày của người nông dân.

+ Lời kể chuyện và lời nói của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái,
giọng điệu.

+ Ngôn ngữ nhân vật vừa có nét chung của người nông dân Việt
Nam cần cù, chịu khó, lại vừa mang đậm những nét cá tính riêng của
nhân vật nên rất sinh động.

- Cách trần thuật truyện tự nhiên, linh hoạt với những chi tiết sinh
hoạt, đời sống hàng ngày xen vào với mạch tâm trạng khiến cho
truyện sinh động hơn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Kim Lân đã tái hiện thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông
Hai để mà qua đó làm nổi bật nét đẹp trong tâm hồn người nông dân
Việt Nam: vẻ đẹp của tấm lòng chất phác, nồng hậu, vừa yêu làng,
lại vừa yêu nước, nhiệt tình với cách mạng.

2. Nghệ thuật

- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

- Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.

- Sự kết hợp giữa ngôn ngừ độc thoại và đối thoại.

- Hệ thống hình ảnh chi tiết, giàu sức gợi.

Văn bản 21: Lặng lẽ Sa Pa


I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Thành Long (1925 - 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ kháng chiến chống Pháp và chọn truyện
ngắn cùng bút kí làm sở trường của mình.

- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút có nhiều đóng góp
cho nền văn xuôi cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại
nói chung.

-Tác phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: cuộc đấu tranh
chống Mĩ của nhân dân Liên khu V và công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Phong cách sảng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ
nhàng, tình cảm, thường pha chút chất kí; ngôn ngữ trong sáng, giàu
chất thơ; và luôn xây dựng được những nhân vật mang tính hình
tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970. Tác phẩm
là kết quả của chuyến đi thâm nhập thực tế Lào Cai về đề tài cuộc
sống, con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc.

- Tác phẩm được in trong tập “Giữa trong xanh” năm 1972.

b. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” là một nhan đề giàu chất thơ, góp phần
khắc họa chủ đề, tư tưởng của tác phẩm:

+ Lặng lẽ gợi đến một khung cảnh rất êm đềm, thanh tĩnh của Sa Pa.

+ Nhưng “Lặng lẽ” chỉ là cái không khí bên ngoài của cảnh vật. Đằng
sau vẻ lặng lẽ ấy là sự miệt mài, nhiệt huyết, hăng say để cống hiến
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Dưới vẻ lặng lẽ của Sa Pa luôn có những con người âm thầm làm


việc, cống hiến cho sự đổi thay của đất nước. Họ chính là những
dòng sông cuộn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất nước thêm đẹp
giàu.

c. Tóm tắt

“Lặng lẽ Sa Pa” kể về nhân vật anh thanh niên hai bảy tuổi, sống
một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù
bao phủ. Công việc chính của anh là công tác khí tượng kiêm vật lí
địa cầu. Trước những trách nhiệm nặng nề của công việc, bốn năm
anh chưa về nhà một lần. Anh luôn thèm cảm giác được gặp gỡ và
trò chuyện với mọi người. Bởi vậy, anh đã dùng cây chắn ngang
đường để mong được tiếp xúc, làm quen với mọi người.

Trong một lần tình cờ, anh có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với
một ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Anh mời họ lên nhà chơi. Nơi anh
ở ngăn nắp, gọn gàng đã tạo được ấn tượng tốt với ông họa sĩ. Anh
thanh niên tâm sự, chia sẻ với họ về cuộc sống, niềm đam mê công
việc và sở thích đọc sách, nuôi gà, trồng hoa của mình.

Ông họa sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh
niên và định vẽ một bức chân dung về anh. Nhưng anh đã từ chối và
giới thiệu ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu
bản đồ đất sét, mà theo anh là đáng để vẽ hơn. Cô kĩ sư sau khi trò
chuyện với anh đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và yên tâm
nhận công tác ở Lai Châu.

Sau ba mươi phút trò chuyện, họ chia tay. Anh thanh niên tiếp tục
với công việc của mình. Trước khi tạm biệt, anh không quên biếu hai
người một làn trứng gà và tặng cô gái một bó hoa đẹp.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và hệ thống nhân vật

- Tình huống truyện khá đơn giản, đó chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ
giữa một anh thanh niên làm công tác khi tượng trên đỉnh Yên Sơn
với bác lái xe và hai hành khách.

- Tác dụng:

+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự
nhiên, khách quan, không đột ngột.

+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ
những nhân vật khác.

+ Các nhân vật trong truyện dần xuất hiện một cách tự nhiên, lặng lẽ
đã góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

- Hệ thống nhân vật:

+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung.
Song chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu
như chưa có cá tính.

+ Các nhân vật trong truyện, từ nhân vật chính đến các nhân vật
phụ đều không có tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới
tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh niên, bác lái xe, ông họa sĩ già,
cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,...).
+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của
nhân vật chính

Hệ thống nhân vật được xây dựng theo dụng ý nghệ thuật của tác
giả để thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Họ là những con
người vô danh (không tên), ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, ở
nhiều nơi trên đất nước đang ngày đêm lặng lẽ, say mê trong công
việc để cống hiến cho đất nước. Điều đó làm tăng thêm sức khái
quát của tác phẩm.

2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa

- Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống


động: “Nắng bất ngờ bắt đầu lên tới, đốt cháy rừng cây. Những cây
thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc
dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái
đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xưa, cuộn
tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường
cái, luồn cả vào gầm xe...”

+ Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc
trưng và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng
người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá,
thưởng thức.

+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng... đốt cháy
rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng,
khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.

- Nghệ thuật nhân hóa “nắng... đốt cháy rừng cây”, “mây bị nắng
xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của
thiên nhiên Sa Pa.

Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ
mộng với những đường nét, hình khối, màu sắc đặc trưng của thiên
nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để Nguyễn Thành Long tô đậm,
khắc sâu vẻ đẹp của con người.

3. Nhân vật anh thanh niên

a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công
việc

- Một người yêu nghề, dám chấp nhận hi sinh:

+ Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc
biệt: Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và
mây mù lạnh lẽo.

+ Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc, ta với công
việc là đôi, sao gọi là một mình được?... Công việc của cháu gian khổ
thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”.

+ Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng
ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”.

+ Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà
cả trong chiến đấu: Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta
hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

- Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:

+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát song
anh vẫn luôn tự giác, tận tụy: Mỗi ngày đều bốn lần đi “ốp” để báo
về nhà, không ngần ngại những đêm mưa tuyết,...

+ Tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc, đúng giờ giấc và
chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ
hết ba mươi phút.

+ Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình.
Anh thanh niên là hiện thân cho những con người lao động mới
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước thêm giàu
đẹp.

b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống

- Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc
trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi
gà, nuôi ong để làm giàu nguồn lương thực cho mình.

- Luôn tự trau dồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao
hiểu biết và chất lượng cuộc sống.

- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay
trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng, ngăn nắp: Một căn nhà ba
gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ.

c. Một con người chân thành, cởi mở và hiếu khách

- Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm, trò chuyện với
con người. Vì thế, anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng
những chuyến xe hiếm hoi.

- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất tả, cuống
cuồng như không kiềm được cảm xúc: “Anh chạy vụt đi, cũng tất tả
như khi đến”, “Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ
nghĩ".

- Anh là một người thân thiện, cởi mở ngay cả với những người mới
gặp lần đầu: Niềm nở, hồ hởi không giấu lòng, pha trà, tặng hoa và
cả quà ăn đường.

- Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ: Đem từng phút vì sợ hết
mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.
- Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn
sàng yêu thương, sẻ chia: Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị
bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để bác gái ngâm rượu uống.

Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và
con người nơi mảnh đất Sa Pa.

d. Một con người khiêm tốn

- Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những
bước chuyển mình của đất nước: phụ vụ sản xuất và phục vụ chiến
đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé
so với bao người khác.

- Khi ông hoạ sĩ xin kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không,
không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác
đáng cho bác vẽ hơn”.

Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên
hiện lên thật chân thực, sinh động, đẹp đẽ. Giữa thiên nhiên im lặng,
hắt hiu, giữa cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa đã vang lên những âm
thanh trong sáng, những sắc màu lung linh của những con người lao
động mới như anh.

4. Các nhân vật phụ

a. Nhân vật ông họa sĩ

- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có
vị trí quan trọng, mang quan điểm trần thuật của tác giả. Người kể
chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để
quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.

- Trước hết, ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi
tìm cái đẹp: “Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực
của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc
đời... Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng
nhọc, gian nan”.

- Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên, ông họa sĩ đã xúc
động và bối rối. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao
ước được biết. Ôi! Một nét thôi cùng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi
gợi một ý sáng tác”,

- Trước chàng trai trẻ đáng yêu, ông họa sĩ bồng thấy như “nhọc
quá” vì những điều người ta suy nghĩ về anh.

- Những lời tâm sự anh thanh niên, khiến ông chấp nhận những thử
thách của quá trình sáng tác.

Những cảm xúc và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và về
những vấn đề của nghệ thuật, của đời sống được gợi lên từ câu
chuyện của anh thanh niên, đã làm cho chân dung nhân vật chính
thêm sáng đẹp và tạo được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.

b. Nhân vật cô kĩ sư

- Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh
liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai
Châu nhận nhiệm vụ.

- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, được nghe những điều
anh tâm sự, chia sẻ về bản thân và những người khác khiến
cô “bàng hoàng”.

- Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình
cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ:

+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhèo mà cô đã
từ bỏ.
+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của
mình.

- Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh
niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa
nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên
anh cho thêm cô”,

Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và
những suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là
sự đồng cảm về lí tưởng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống
Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư, ta nhận ra vẻ đẹp
và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.

c. Nhân vật bác lái xe

- Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dần dắt, giới
thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của
tác phẩm - “người cô độc nhất thế gian”.

- Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã
có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa.

- Là một con người niềm nở và cởi mở: Trên khuôn mặt hồ hởi,
bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa
sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên.

- Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.

- Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: Bác mua sách
giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới;...

Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa
sĩ là một phần quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một
cách tự nhiên và góp phần dẫn dắt chuyện.
d. Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp

- Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng.
Anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng cao 3142m; ông kĩ sư vườn rau
dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong
lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào.

- Dám hi sinh cả tuổi trẻ và hạnh phúc cá nhân: Anh cán bộ


nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm
mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và
mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan.

Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách
trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh
niên. Song, họ đã thể hiện được những phẩm chất vàng trong tâm
hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của truyện
được mở rộng.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những
con người lao động lặng lẽ, say mê mà tiêu biểu là nhân vật anh
thanh niên. Qua đó tác giả đã khẳng định vẻ đẹp của những người
lao động trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện hợp lí với cách trần thuật tự nhiên.

- Truyện có sự kết hợp giữa phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm
và bình luận.

- Lời văn mượt mà, trau chuốt, giàu chất thơ và chất hội họa.
Văn bản 22: Chiếc lược ngà

CHIẾC LƯỢC NGÀ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang.

- Ông là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ.

- Nguyễn Quang Sáng bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1952 và thử
sức mình trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,
kí,...

- Ông sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường Nam Bộ.
Vì thế sáng tác của ông xoay quanh con người, cuộc sống vùng
Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến và sau hòa bình.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng là lối
viết chân chất, mộc mạc, bình dị cộng với giọng văn đậm chất Nam
Bộ...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966. Đây là giai đoạn
mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt và tác giá đang
hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên.

b. Ý nghĩa nhan đề
“Chiếc lược ngà” là hình ảnh, chi tiết trung tâm của tác phẩm, gắn kết
cuộc đời tình cách của các nhân vật và góp phần khắc họa sâu nội
dung truyện.

- Với bé Thu, chiếc lược ngà là ước mơ, là món quà đầu tiên và cũng
là kỉ vật cuối cùng của người cha. Bởi vậy, chiếc lược ngà là kỉ vật,
hình ảnh của người cha.

- Với ông Sáu, chiếc lược ngà không chỉ là món quà ông dành tặng
con mà còn là hình bóng của cô con gái yêu quý. Bởi vậy, chiếc lược
ngà là tất cả tình thương, nỗi nhớ ông gửi gắm cho cô con gái bé
bỏng.

- Với bác Ba, chiếc lược ngà là sự trao gửi thiêng liêng giữa
người cán bộ cách mạng với đứa con gái của người đồng đội đã
nằm lại nơi chiến trường.

- Với hai cha con ông Sáu, chiếc lược ngà là biểu tượng thiêng liêng
bất diệt và cầu nối tình cảm sâu nặng của hai cha con.

b. Tóm tắt tác phẩm

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi mới có dịp về thăm nhà với hi
vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, chưa hề một lần gặp
mặt. Mấy ngày đầu bé Thu không nhận ra ba do vết thẹo trên mặt
làm ông không giống với người cha chụp chung bức hình với má mà
em biết. Em bướng bỉnh và đối xử với ông Sáu như một người xa lạ.

Nghe bà ngoại kể, bé Thu nhận đã cha và tình cảm cha con đà
thức dậy một cách mãnh liệt. Song đó cũng là lúc ông Sáu phải trở
lại chiến khu. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình thương, nỗi nhớ
vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng
thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng
đội chuyển chiếc lược ngà cho con gái.
II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện đặc sắc

- Tác giả đã xây dựng hai tình huống truyện đặc sắc:

+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách,
nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra ông Sáu là ba. Đến lúc
em nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường trở về đơn vị. Tình huống
này đã bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với ba.

+ Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ và cá
sự hi vọng vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng
chưa kịp tặng con thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Trong lúc
hấp hối ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con. Tình
huống này bộc lộ tình cảm thắm thiết của ông Sáu dành cho con.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Tình huống truyện kịch tính, chứa nhiều yếu tố bất ngờ tạo nên
nghệ thuật thắt nút. Từ đó, thể hiện tình cảm cha con thiêng liêng,
sâu nặng.

+ Đật nhân vật vào những tình huống éo le để những tình cảm cha
con được đẩy lên đến cao trào. Qua đó, tác giả muốn khẳng định một
điều hết sức thiêng liêng: Tình cảm cha con là bất tử mà không một
súng đạn nào có thế chia cắt được.

1. Nhân vật bé Thu

a. Trước khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Thu là một người thương cha vô cùng. Hơn ai hết, cô luôn mong cái
ngày được gặp cha để được vỗ về, chở che. Bởi thế, cuộc gặp gỡ
sau tám năm xa cách những tưởng hai cha con sẽ vỡ òa trong niềm
hạnh phúc thì trớ trêu thay bé Thu lại bộc lộ một thái độ bất
thường.

+ Trước sự xúc động, vồ vập của ông Sáu, cô bé từ ngạc nhiên


đến hốt hoảng: “tròn xoe mắt”, mặt tái đi, vụt chạy và thét lên để gọi
má cầu cứu.

+ Trong suốt ba ngày phép, khi ông Sáu càng dồn hết tình cảm để bù
đắp cho Thu thì cô bé lại càng lạnh nhạt, xa cách, thậm chí tỏ ra
ngang ngạnh, bướng bỉnh.

+ Cô bé kiên quyết không gọi ông Sáu một tiếng ba: Nói trống
không với ông Sáu (vô ăn cơm; cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái).
Trong lúc khó khăn, nguy cấp khi phải chắt nước một nồi cơm to,
nặng quá sức thì cô bé vẫn loay hoay, tự xoay sở.

+ Cô bé từ chối mọi sự vỗ về, chăm sóc của ông Sáu: Trong bữa
cơm, ông Sáu gắp cho nó miếng trứng cá thì nó hất ra khiến cơm
bắn tung tóe,... Chi tiết này đã đẩy câu chuyện lên đỉnh điểm của kịch
tính.

+ Khi bị trách phạt, phản ứng lại hành động của ông Sáu, cô bé đã
ngay lập tức bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây
lòi tói cho kêu rổn rảng thật to.

- Nguyên nhân:

+ Gián tiếp: Bé Thu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước
đang chiến tranh. Bởi vậy, suốt tám năm cô bé chỉ biết mặt ba qua
một tấm hình ba chụp chung với má.

+ Trực tiếp: Ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt ông Sáu đã khiến cho
gương mặt ông khác lạ so với hình ảnh người ba trong hình và tâm
trí của cô bé.
+ Do cô bé rất yêu ba, muốn bảo vệ hình ảnh người ba của mình,
không cho phép người lạ mặt kia có quyền mạo nhận.

Sự ngang ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu không hề đáng trách.


Phản ứng tâm lí của cô bé là hoàn toàn tự nhiên. Bởi sinh ra trong
hoàn cảnh chiến tranh, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những khắc
nghiệt, éo le. Và người lớn cũng không ai chuẩn bị tâm lí cho em đón
nhận những điều bất thường.

Miêu tả thái độ, hành động bất thường của cô bé, tác giả đã tái
hiện hoàn cảnh cảnh éo le trong chiến tranh; đồng thời khắc họa
được một cô bé bướng bỉnh, gan góc, cá tính đến kì lạ.

b. Khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu trở về nhà đúng vào buổi
sáng ông Sáu phải lên đường về đơn vị. Cô bé đã đột ngột thay
đổi trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người.

+ Không còn ngang ngạnh, cau có, cố chấp mà thay vào đó là khuôn
mặt “sầm lại buồn rầu” và “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.

+ Khi cô bé bắt gặp cái nhìn trìu mến và buồn rầu của ba thì “đôi
mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

+ Khi ông Sáu khẽ cất lời từ biệt thì cô bé mới chịu kêu ba một
tiếng đến xé lòng: “Ba... a... a... ba”.

+ Cô bé chạy xô lại ôm chặt lấy ba mình, hôn ba và hôn lên cả cái vết
thẹo dài trên má.

+ Cô bé cất lời giữ ba ở nhà: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với
con”. Đây mà một ước mơ rất thực, nó phản chiếu tình cảm gắn bó
của bé Thu dành cho ba.
+ Cô chia tay ba với ao ước được ba mua cho cây lược ngà. Cho
thấy cô muốn có vật kỉ niệm của ba để được thấy ba luôn bên mình.

Trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, bé Thu
không che giấu sự gắn bó và tình cảm của mình dành cho ba.

Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần
nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu
bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng rất giàu tình cảm.

2. Nhân vật ông Sáu

a. Trong ha ngày về phép thẫm nhà

- Trở về sau tám năm xa cách, bao nỗi nhớ thương khiến ông
Sáu xúc động mãnh liệt.

+ Nôn nao trong lòng, không ghìm được xúc động khiến vết thẹo
trên má đỏ ửng, giật giật, trông dễ sợ.

+ Ông háo hức, vội vã như không thể ghìm thêm giây phút
nào: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên,
xô chiếc xuồng tạt ra... vội vàng với những bước chân dài”.

+ Ông kêu to hai tiếng thiêng liêng, thèm khát được gọi, được
nghe bấy lâu nay: “Thu! Con”.

- Trước thái độ bất thường của con, ông rơi vào tâm trạng đau đớn,
tủi hổ đến vô cùng: “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt
anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị
gãy”.

Những từ miêu tả “đứng sũng lại’’, “mặt anh sầm lại’’ và “tay buông
xuống như bị gãy” đã diễn tả được nỗi đau dường như quá lớn, quá
sức chịu đựng với ông Sáu.
- Trong ba ngày phép, ông Sáu làm mọi cách để bé Thu thay
đổi, kiên nhẫn chờ đợi tình cảm ở con.

+ Ông không đi đâu xa, mà luôn gần gũi, “lúc nào cũng vỗ về con”.
Ông muốn bù đắp cho con suốt tám năm trời xa cách.

+ Ông không trách giận mà chỉ khe khè lắc đầu cười trước sự
bướng bỉnh của con bé.

+ Thậm chí khi con bé từ chối một cách quyết liệt sự chăm sóc của
ông, ông đau đớn đến độ không giữ được bình tĩnh mà đánh con một
cái.

Ông vô cùng dịu dàng, kiên nhẫn, khoan dung với con.

- Khi chia tay thì tình cảm cha con sâu nặng đà được bộc lộ rất xúc
động:

+ Ông không dám lại gần con bé, “chỉ đứng nhìn nó,... với đôi mắt
trìu mến lẫn buồn rầu” cố gắng kìm giữ cái khát vọng được ôm con
vào lòng.

+ Khi con bé nhận ông, ông “ghìm được xúc động và không muốn
cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau
nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Ông không muốn con bé trông
thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình, đó cũng là những giọt
nước mắt hạnh phúc ứa ra từ nỗi xúc động và thương con sâu sắc.

+ Ông hứa với con bé sẽ trở về với chiếc lược ngà tặng con.

Tác giả đã tái hiện được tình cảm yêu thương con sâu sắc của
ông Sáu, nó đã chiến thắng sự tàn bạo của chiến tranh, chiến thắng
mọi biệt li, cách trở. Tình cảm ấy luôn vẹn nguyên, ấm áp và tràn
đầy.

b. Khi ông Sáu trở lại chiến trường


- Ông luôn ân hận, khổ tâm vì nỡ trách phạt con.

- Ông dồn tất cả tình yêu và nỗi nhớ vào việc làm chiếc lược
ngà tặng con.

+ Khi kiếm được khúc ngà, ông không gìm được xúc động, đã “hớn
hở như một đứa trẻ được quà”.

+ Ông cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như
người thợ bạc.

+ Ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

+ Những lúc nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và mài lên mái
tóc cho cây lược thêm bóng.

Ông Sáu đã dồn tất cả tình cảm của mình dành cho con vào việc
làm chiếc lược ngà, dẫu cây lược đó chưa lần nào được chải trên
mái tóc của bé Thu nhưng đã phần nào gỡ rối những mối tơ lòng, vơi
đi nỗi dày vò ân hận và nuôi dưỡng khát vọng đoàn viên.

- Thậm chí, cái chết cũng không lấy đi được tình yêu con của ông
Sáu.

+ Trong một trận càn, vết thương đã khiến ông kiệt sức, vậy mà ông
vẫn dốc hết tàn lực, trao cây lược ngà cho đồng đội mang về cho bé
Thu. Trong giây phút ấy, ông ủy thác, gửi gắm tất cả tình yêu, nỗi
nhớ của mình qua ánh mắt.

+ Cây lược được trao tận tay cho bé Thu, điều đó cho thấy tình cha
con đã không hề chết mà trở thành điểm tựa để nâng đỡ bé Thu
trưởng thành.

Ông Sáu trở thành một biểu tượng đẹp cho tình yêu thương; sự ân
cần và che chở của người cha dành cho con mình, qua đó ta thấy
được sự bất tử của tình cảm cha con.
III. Tổng kết

1. Nội dung

- Tái hiện thành công tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo
le của chiến tranh.

- Lên án sự tàn bạo của chiến tranh.

- Qua đó cho thấy bi kịch, tình cảm đẹp của con người trong chiến
tranh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng được tình huống truyện éo le mà độc đáo.

- Ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.

- Lối kể chuyện tự nhiên, giàu cảm xúc.

- Sáng tạo được những hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi.

Văn bản 23: Bến quê

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Minh Châu (1932 - 1989), quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An.

- Ông thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước.

- Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những cây bút xuất
sắc nhất của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của
ông được thể hiện rõ qua hai giai đoạn.
+ Trước 1975, với quan niệm con người mang vẻ đẹp của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu đã xây
dựng nên những nhân vật, hình mẫu lí tưởng, đại diện cho vẻ
đẹp của cộng đồng và mang tầm vóc lịch sử.

+ Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu
sắc trong tư tưởng nghệ thuật và quan niệm về con người. Nhà văn
đã xây dựng được những nhân vật ở góc độ đời sống riêng tư cá
nhân với tính cách lưỡng diện, đa chiều, phức tạp của xã hội.

- Phong cách sáng tác: Có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lí cuộc
đời với chất trữ tình lãng mạn; hình tượng nhân vật được soi thấu
trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp; giọng điệu thì trầm tĩnh, khắc
khoải.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Bến quê” được sáng tác năm 1985. Tác phẩm được
coi như là một bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh
Châu.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Bến quê” trước hết là một danh từ và mang đến nhiều lớp nghĩa.

+ Ở lớp nghĩa thực, nó là một bến sông gắn liền bãi bồi bên kia
sông Hồng mà nhân vật Nhĩ nhìn thấy từ khung cửa sổ nhà mình.

+ Ở lớp nghĩa biểu tượng, nó ẩn dụ cho tất cả những gì gần gũi,


bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời của mỗi con người; cho
những điều mà tâm hồn con người gắn bó, yêu thương.
c. Tóm tắt

Nhĩ là người đã từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới nhưng
cuối đời lại nằm liệt giường vì một căn bệnh hiểm nghèo. Anh không
thể tự mình dịch chuyển lấy mười phân trên chiếc giường kế bên cửa
sổ. Mọi sinh hoạt của bản thân anh phải bám níu với vợ con. Chính
những lúc ấy, anh mới cảm nhận hết được nỗi vất vả và đức hi sinh
của vợ.

Vào một buổi sáng mùa thu, Nhĩ nhìn qua cửa số và phát hiện bãi
bồi quen thuộc bên kia sông mang vẻ đẹp lạ kì mà anh chưa một lần
sang thăm. Trong anh, bỗng bừng lên khao khát được đặt chân lên
vùng đất ấy.

Anh sai thằng Tuấn - con trai thay anh sang bên kia sông. Thế
nhưng, thằng Tuấn lại mải sa vào đám cờ thế để lỡ chuyến đò ngang
duy nhất trong ngày. Nhĩ cố sức đu mình, nhoài người, giơ cánh tay
ra ngoài cửa sổ “khoát khoát” như ra hiệu một cách khẩn thiết cho
một người nào đó đi nhanh kẻo lỡ chuyến đò.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện

- Tác giả đã xây dựng được những tình huống trớ trêu và đầy
nghịch lí.

+ Nhĩ vốn là người từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng
vào lúc cuối đời, căn bệnh quái ác đã trói buộc anh trên chiếc giường
bệnh bên góc cửa sổ. Chính lúc đó, anh chợt nhận ra những vẻ đẹp
giản dị, thiêng liêng tồn tại ngay bên cạnh, nhưng bỗng hóa xa xôi.
Đó là một tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông và khao khát
được đặt chân lên đó, nhưng chính anh lại đang không thể thực hiện
được những sinh hoạt cho dù nhỏ nhất của bản thân. Anh gửi gắm
tất cả niềm khao khát ấy lên cậu con trai, nhưng vì ham chơi, Tuấn
đã để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Như vậy, tình huống
nghịch lí thứ nhất đã đẩy nghịch lí thứ hai lên cao trào.

- Tình huống truyện mang tính nhận thức và triết lí sâu sắc.

+ Nhận thức về cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy
những điều bất ngờ, những điều nghịch lí ngẫu nhiên vượt ra ngoài
những dự định, ước muốn, hiểu biết của con người.

+ Mở ra triết lí mang tính tổng kết của cuộc đời, qua những suy ngẫm
của nhân vật: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được
nhưng cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”, thường hướng đến
những điều cao xa mà vô tình bỏ quên những vẻ đẹp gần gũi, giản dị
mà đầy ý nghĩa ngay xung quanh mình.

2. Nhân vật Nhĩ

a. Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên
nhiên

- Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh
đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le:

+ Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới
không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.

+ Cuộc sống hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo khiến anh phải nằm
liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực
quan, anh cảm nhận được thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu
nữa.
Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý
nghệ thuật của nhà văn để nhân vật bộc lộ những cảm nhận và suy
nghĩ một cách tự nhiên.

- Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị,
gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế.

+ Những chùm hoa bằng lăng bên cửa số lúc cuối mùa, đang thưa
thớt và đậm sắc hơn.

+ Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì
như rộng thêm ra”.

+ Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển
từ mặt nước”.

+ Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng
thau xen lẫn màu xanh non.

Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến
xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng,
lại vừa có chiều sâu.

Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần
gũi, vậy mà bỗng trờ nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc
biệt.

b. Những phát hiện của Nhĩ về con người và cuộc sống

- Bằng những linh cảm, trực giác, anh cảm nhận một cách rõ nét
về quỹ thời gian còn lại của đời mình.

+ Anh thấy sắc màu của hoa bằng lăng trở thành một màu tím thẫm.

+ Anh hỏi Liên về tiếng lở đất ở dốc đứng của con sông khi con lũ
dồn về.
- Nhĩ cảm nhận, thấu hiểu được biết bao phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn
từ Liên.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo
vá” và “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”.

+ Anh cảm nhận được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hy
sinh. Nhĩ nói viên Liên – “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm... mà em
vẫn nín thin”, Liên chỉ trả lời — “có sao đâu... miễn là anh sống, luôn
luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”.

+ Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm
chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên.

+ Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng:
Liên lảng tránh những câu hỏi của anh về bài đất lở, bởi chị hiểu
những suy nghĩ, dự cảm không lành trong anh.

+ Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua
bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm.

Nhĩ đã cảm nhận và thấu hiểu một cách trọn vẹn những vất vả,
nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó, anh thêm trân trọng
vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn.

- Nhĩ cũng cảm nhận tình làng, nghĩa xóm qua những nét đáng yêu
của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa"...

Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm
nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình nhất, để cho
anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu
nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê
hương.

- Nhĩ phát hiện ra ý nghĩa của bãi bồi bên kia sông.
+ Đó là một mảnh đất màu mờ, mang theo hơi thở của cuộc
sống: "một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu
sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thơ của đất màu mỡ".

+ Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi
nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: "một chân trời gần gũi, mà lại xa
lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”.

+ Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên
bãi bồi song vấp phải hàng loạt những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên
là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của
mình; Nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai,
nhưng đứa con lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện
một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ
chuyến đò duy nhất trong ngày.

+ Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường
bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để
qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta
trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoặc chùng chình”.

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất thành công nhân vật Nhĩ. Anh
là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn để gửi gắm
những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái
vòng vèo, chùng chình để tìm về với bến quê đích thực.

3. Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

Trong truyện, có rất nhiều những hình ảnh được miêu tả mang hai
lớp nghĩa, đó là lớp nghĩa thực và lớp nghĩa biểu tượng.

- Hình ảnh bãi bồi: “màu vàng thau xen với màu xanh non — những
màu sắc tha thuộc quả như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”
+ Lớp nghĩa thực: Tả thực khung cảnh thiên nhiên với đất đai màu
mỡ.

+ Lóp nghĩa biểu tượng: Đó là vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc để biểu
tượng cho một bến sông quê hay rộng hơn chính là quê hương, xứ
sở.

- Hình ảnh bông hoa bằng lăng lúc cuối mùa: “hoa đã vẫn trên
cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc
hơn”; “những cánh hoa bằng lăng càng thâm màu hơn - một màu tím
thẳm như bóng tối”

+ Lóp nghĩa thực: Tả thực những bông hoa bằng lăng với những sắc
màu đặc trưng lúc cuối mùa.

+ Lóp nghĩa biếu tượng: Biểu tượng cho bước đi của không gian
và thời gian và cho biết sự sống của Nhĩ đang ở vào những ngày
cuối cùng.

- Hình ảnh của một bờ đất lơ: “một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ
bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về,
những tảng đất đá đổ òa vào giấc ngủ”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực sự dữ dội, chảy xiết của những cơn lũ đầu
nguồn mỗi khi bão về với sức công phá ghê gớm.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang vào
giai đoạn lụi tàn.

- Hình ảnh của Nhĩ với những hành động và cử chỉ lúc cuối
truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long
lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ
đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa
run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn
sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra
phía cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người
nào đó”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực một sự cố gắng, nôn nóng, thúc giục của
Nhĩ với thân tàn, lực kiệt để báo hiệu với một ai đó.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự thức tỉnh của nhân vật,
Nhĩ đã khám phá ra được những vẻ đẹp bình dị, bền vững trong sự
sống ở những giây phút cuối cùng.

Những lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất với nhau là một dụng ý
nghệ thuật của tác giả để truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho thấy những vẻ
đẹp giản dị, gần gũi xung quanh chúng ta với những nghịch lí cuộc
đời để từ đó gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của nhân vật về
giá trị đích thực của gia đình và quê hương.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và đầy nghịch lí.

- Hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật giàu chất suy tư thể hiện rất rõ nội
tâm của nhân vật Nhĩ.

Văn bản 24: Những ngôi sao xa xôi

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả
- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hóa.

- Bà bắt đầu cầm bút từ những năm 1967 và trở thành nữ nhà văn
chuyên viết về truyện ngắn.

- Lê Minh Khuê thuộc số ít các nhà văn đương đại Việt Nam có tác
phẩm được chọn đưa vào chương trình sách giáo khoa.

- Những sáng tác của bà có sự chuyển biến rõ nét qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, hầu hết sáng tác của Lê Minh Khuê tập trung tái hiện
cuộc chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là
những con người tự nguyện dấn thân, tham gia cuộc chiến tranh ác
liệt với tất cả sức mạnh của lí tưởng cách mạng.

+ Sau 1984, sáng tác của bà mới thực sự có sự chuyến biến trong đề
tài và cảm hứng sáng tác, phản ánh đời sống xã hội và con người
trên tinh thần đổi mới. Xuất hiện trong truyện ngắn của bà kiểu
nhân vật cô đơn, tha hóa, nghịch dị.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Lê Minh Khuê thể hiện
một ngòi bút dung dị giàu nữ tính; một giọng điệu đa sắc thái: khi thì
tự hào, ngợi ca, khi lại mỉa mai, châm biếm, lúc lại trữ tình, suy tư;
ngôn ngữ mang màu sắc trong trẻo;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm
đầu tay của Lê Minh Khuê được viết năm 1971. Đó là thời điếm mà
cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt.

- Tác phẩm được đưa vào tuyến tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế
giới” và xuất bản ở Mĩ.
b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Những ngôi sao xa xôi” vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa gợi đến ý
nghĩa tượng trưng:

+ Nó gắn liền với hình dung, tưởng tượng của Phương Định về
những ngọn đèn trên quảng trường thành phố. Và những ngọn đèn
đó lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích về xứ sở thần
tiên chợt hiện lên trong cảm xúc của Phương Định.

+ “Những ngôi sao” thường nhỏ bé, không dễ nhận ra, và lại ở một vị
trí xa xôi, vì thế nó đòi hỏi phải khám phá, kiếm tìm mới phát hiện
được vẻ đẹp, sức cuốn hút của nó.

+ “Những ngôi sao” gợi vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, mơ mộng và
lãng mạn của những thiếu nữ Hà Thành trẻ trung, xinh đẹp.

+ “Những ngôi sao xa xôi” là ước mơ, khát vọng về một cuộc sống
hòa bình giữa khoảnh khắc bàng hoàng của bom đạn, chiến tranh,
dường như trở nên xa xôi.

+ “Những ngôi sao” còn là biểu tượng cho vẻ đẹp sáng ngời của chú
nghĩa anh hùng, cách mạng trong tâm hồn của những nữ thanh niên
xung trên tuyến đường Trường Sơn nói riêng và chống Mĩ nói chung:
lạc quan, yêu đời, dũng cảm, kiên cường,...

“Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề đậm chất lãng mạn, đặc
trưng cho văn học Việt Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

c. Tóm tắt

“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống, chiến đấu của ba cô


thanh niên xung phong thuộc tổ trinh sát mặt đường: Phương Định,
Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang, dưới chân cao điểm.
Công việc của họ là hàng ngày quan sát máy bay địch ném bom, đo
khối lượng đất đá để san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom
chưa nổ và phá bom. Công việc vô cùng nguy hiểm, luôn phải đối
mặt với cái chết, song họ vẫn bình tĩnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ.

Công việc nguy hiểm là vậy nhưng họ vẫn lạc quan, hồn nhiên, mơ
mộng và rất gắn bó, yêu thương nhau cho dù mỗi người một cá tính.
Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết sức
lo lắng và chăm sóc. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong
lòng các cô gái sự tiếc nuối và biết bao nỗi niềm hoài niệm, khát
khao.

d. Ngôi kể và tác dụng của ngôi kể

- Truyện được trần thuật theo ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện là
nhân vật Phương Định. Đó là một điểm nhìn lí tưởng, phù hợp để
miêu tả hiện thực cuộc chiến đấu ở một trọng điểm trên tuyến đường
Trường Sơn một cách chân thực.

- Truyện viết về chiến tranh, những chi tiết bom đạn, chiến đấu, hy
sinh là không thể thiếu nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội
tâm để làm hiện lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những nữ thanh niên
xung phong. Tạo được hiệu quả như vậy là nhờ vào việc lựa chọn
nhân vật kể chuyện là nhân vật Phương Định.

- Mặt khác, cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã tạo ra sự gần gũi,
thân mật giữa người kể và người đọc nên dễ dàng truyền tải nội
dung.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Phương Định

a. Nữ thanh niên xung phong mang phẩm chất anh hùng


- Phương Định đảm nhiệm một công việc vô cùng vất vả và nguy
hiểm: Cô thuộc tổ trinh sát mặt đường trên tuyến đường Trường
Sơn; "khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom,
đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.

- Quả cảm, kiên cường và giàu lòng yêu nước: Ba năm đảm nhiệm
trên tuyến đường Trường Sơn, phải đảm nhận một công việc mà dầu
đã làm bao nhiêu lần cũng không thể quen, vẫn luôn thấy căng thẳng
đến mức "thần kinh căng như chão” và "tim đập bất chấp cả nhịp
điệu".

- Phẩm chất anh hùng của Phương Định được Lê Minh Khuê thử
thách trong một lần phá bom nổ chậm. Cô đã thể hiện:

+ Có tinh thần trách nhiệm, quên mình vì công việc: “Tôi có nghĩ tới
cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính:
liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm
mìn lần thứ hai?”

+ Bình tĩnh, tự tin chiến thắng nỗi sợ hãi của mình: Khi đến gần quả
bom, cô không cúi khom mà đi thẳng người như một sự thách thức.

+ Dũng cảm, gan dạ đối đầu với những nguy hiểm: “Thỉnh thoảng
lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa
vào da thịt”, nhưng cô không hề bỏ cuộc.

Phương Định là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng, quả cảm, kiên
cường của thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ.

b. Một cô gái xinh đẹp, nhạy cảm và lãng mạn

- Những tưởng bom đạn, chiến tranh khiến cho tâm hồn, cảm xúc
của những thanh niên xung phong trở nên chai sạn, thô ráp. Nhưng
Phương Định vẫn hiện lên mang những nét đẹp trẻ trung và đầy nữ
tính.
+ Cô quan tâm tới hình thức bên ngoài: Luôn chăm chút cho ngoại
hình và rất tự hào về một đôi mắt có cái nhìn sao mà xa xăm.

+ Cô rất tự tin và tự hào về nét riêng của mình: Cái cổ cao kiêu
hãnh như đài hoa loa kèn và tự đánh giá về ngoại hình của mình,
thấy bản thân mình là một cô gái khá.

+ Cô thích làm duyên và đắm mình trong những cảm xúc riêng tư:
Thích ngắm mình trong gương và làm điệu trước các anh bộ đội.

- Cô cũng rất hồn nhiên, yêu đời và mang một tâm hồn mơ mộng:

+ Trong những khoảng thời gian không làm nhiệm vụ, cô thích
hát để quên đi những căng thẳng và thêm yêu đời: Cứ thuộc một
điệu nhạc nào đó là cô lại bịa lời bài hát để ngân nga.

+ Hồn nhiên, vui thích cuống cuồng trước một cơn mưa đá bất
ngờ giữa rừng.

+ Thả hồn trong những kỉ niệm xa xôi: Cô nhớ về những căn nhà
nhỏ bên quảng trường thành phố; những khung cửa sổ, những ngôi
sao trên bầu trời Hà Nội,... Những kỉ niệm này đã nuôi dường, sưởi
ấm tâm hồn cô trong cuộc chiến gian khổ và khốc liệt.

Phương Định vào chiến trường ba năm, hàng ngày phải đối mặt
với khó khăn gian khổ nhưng cô vẫn giữ gìn vẹn nguyên thế giới tâm
hồn mình. Đó chính là biểu hiện của sức sống mãnh liệt của cô gái
trẻ đất Hà Thành.

c. Gắn bó, yêu thương với tất cả đồng đội

+ Luôn quan tâm, lo lắng cho đồng đội: Khi đồng đội ở trên cao
điểm, còn Phương Định trong hang để trực điện đài cô đã gắt với đội
trưởng; sốt ruột chạy ra ngoài một tí;...
+ Yêu thương, chăm sóc chu đáo cho đồng đội như đứa em trong
nhà: Cô bóc kẹo cho Nho ăn; khi Nho bị thương thì lo lắng, chăm sóc
tận tình cho Nho và cảm thấy đau đớn như chính mình bị thương; chỉ
muốn bế Nho ở trên tay.

+ Cô rất thấu hiểu những cảm xúc, tâm trạng chị Thao khi Nho bị
thương, và coi chị như người chị cả trong gia đình.

Lê Minh Khuê đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật
Phương Định, một người thiếu nữ trẻ trung, mơ mộng giữa chiến
tranh khốc liệt vẫn tràn đầy niềm tin yêu. Cô xứng đáng trở thành
biểu tượng nữ anh hùng trong văn xuôi chống Mĩ.

2. Nhân vật chị Thao

- Chị Thao là tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường. Khi làm nhiệm vụ, chị
tỏ ra là một người điềm tĩnh, quyết đoán và rất táo bạo.

+ Trong những khoảnh khắc người khác có thế “thần kinh căng như
chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng chị bình tĩnh đến phát
sợ: Khi sắp phải băng mình lên trên cao điểm chị vẫn bóc bánh quy
để ăn ngon lành.

+ Trở về từ trận chiến dữ dội, ác liệt trên cao điểm, chị vẫn bình thản
như không.

+ Trong mọi hoàn cảnh, chị luôn có những mệnh lệnh đầy quyết
đoán: Khi có trận chiến, chị lệnh cho Phương Định ở lại hang để trực
điện đài còn chị và Nho thì lên mặt đường; Lúc Nho bị thương, dù rất
lo lắng, mặt tái đi, mắt mờ đi như không có sự sống nhưng chị không
khóc;...

Chị Thao là người bình tĩnh, cứng cỏi nhất của tổ trinh sát mặt
đường.
- Bên ngoài công việc, chị còn hiện lên với một tâm hồn nhạy cảm,
đầy nữ tính và giàu tình cảm.

+ Một tâm hồn lãng mạn, yêu ca hát: Chị hay hát dù rằng giọng chị
rất chua và sai nhạc; Chị có ba quyển sổ dày để chép bài hát.

+ Như bao cô gái khác, chị cũng thích làm đẹp: lông mày của chị thì
tỉa nhỏ như cái tăm; áo lót của chị thì cái nào cũng thêu chỉ màu.

+ Chị Thao cũng có những nỗi sợ hãi rất nữ tinh: rất sợ máu và sợ
vắt.

+ Chị lo lắng, quan tâm cho những người đồng đội nhưng rất kín
đáo: khi Nho bị thương mặt thì tái nhợt, mắt thì mờ trắng như không
còn sự sống; chị cuống quýt quanh quẩn bên Nho;....

Qua vẻ đẹp đầy nữ tính đà tạo nên chiều sâu tư tưởng cho nhân
vật và đưa nhân vật trở nên gần gũi, sống động hơn, như một nữ
anh hùng trong cuộc sống đời thường.

3. Nhân vật Nho

- Nho là người ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường nên được các
chị yêu chiều như một cô em út trong gia đình. Nhưng trong công
việc, cô hiện lên thật cứng rắn, mạnh mẽ và can đảm.

+ Có tinh thần trách nhiệm, cứng rắn trong công việc: Cùng với các
chị trong tổ trinh sát, cô dũng cảm đối mặt với đạn bom, khói lửa để
hoàn thành công việc.

+ Cô cũng rất gan dạ, dũng cảm, kiên cường trước những khó
khăn: Khi bị thương, dù áp lực của đạn bom khiến cho cô xanh tái đi
và cảm thấy như không thở được nhưng cô không kêu rên một tiếng.

- Bên cạnh đó, Nho đã hiện lên với những nét rất đáng yêu.
+ Cô có cái cổ tròn, với những nét vẻ xinh xắn, nhỏ nhắn, dễ
thương như một que kem trắng bé nhỏ, khiến cho Phương Định yêu
thương muốn bế ở trên tay.

+ Nho rất hay vòi vĩnh, làm nũng các chị và hay đòi ăn kẹo.

Dẫu ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường, song Nho đã mang
phẩm chất tốt đẹp và những cá tính riêng khó lẫn so với các chị.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong truyện ngăn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã khắc
họa thành công những nữ thanh niên xung phong trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Với những phẩm chất anh hùng, cách
mạng, họ xứng đáng trở thành biểu tượng cho thế hệ vàng của tuổi
trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

2. Nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật, đặc biệt là ngòi bút phân tích tâm lí
nhân vật.

- Ngôn ngữ trần thuật rất phù hợp với nhân vật.

- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập gợi không khí ác liệt của chiến
trường.

You might also like