You are on page 1of 20

Cách trả lời 1 câu hỏi:

- Đặt vấn đề
- Khái niệm
- Tính chất
- Ý nghĩa
- Kết luận (liên hệ bản thân)
I. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Đặt vấn đề:
Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề giữa tư duy và tồn tại và thực chất là mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Lịch sử của triết học từ trước đến nay luôn là lịch sử đấu tranh không ngừng nghỉ của các trường phái triết học, đấu
tranh của các hệ tư tưởng, các khuynh hướng khác nhau trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Mỗi chủ nghĩa lại cho
rằng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức khác nhau. Vậy trong triết học Mác – Lê nin, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ
bản thân như thế nào với mỗi người.
Sau đây, em sẽ trình bày những thông tin cần thiết liên quan đến mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Liên hệ:
Ví dụ 1:
- Cá nhân A sinh sống ở vùng sâu. vùng xa không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế,
cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức là về điều kiện cơ sở hạ tầng không đáp ứng nên cá nhân A
không có kiến thức, hiểu biết nhiều về các sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với cá nhân
B - sống ở Thủ đô, từ nhỏ cá nhân B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông tin hiện đại, có cha mẹ cũng như thầy cô
chỉ dạy, vì vậy cá nhân B dễ dàng sử dụng và tiếp cận các công nghệ thông tin dù là những công nghệ mới nhất. Như vậy, có thể
thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức.
- Hiểu được tính chất vật lý của thép chế tạo máy như:
- mật độ của thép: 1,85 kg/vm3
- Hệ số co giãn nhiệt: 12,2
- Độ dẫn nhiệt: 42,6 w
- Nóng chát ở môi trường nhiệt độ trên 1000 độ C. Do đó, thay vì thực hiện các phương pháp thủ công như trước kia thì con người
đã đầu tư, sản xuất ra được những nhà máu gang thép để sản xuất ra các máy móc, sản phẩm với đủ mọi loại kích cỡ.

Ví dụ 2:
Áp lực đồng trang lứa (Peer pressure) là sự tác động, ảnh hưởng từ những người cùng lứa tuổi hoặc cùng một nhóm xã hội được
cho là thành công hơn, hạnh phúc hơn đối với một cá nhân. Điều này có thể gây ra các cảm xúc như tự ti, bất an và lo lắng với
người bị áp lực. Áp lực đồng trang lứa có thể xuất phát từ từ bên trong cá nhân hoặc do các yếu tố xung quanh tác động vào.
1. Kinh tế phát triển:
- Vật chất: Kinh tế phát triển qua từng năm (VD: Kinh tế những năm 1995-2012 đang phát triển sau thời kỳ khủng hoảng năm 1980
và quá trình phục hồi kinh tế thập niên 80 và đầu 90 (genY))
=> giới trẻ lớn lên trong điều kiện vật chất đủ đầy hơn các thế hệ khác.
- Ý thức: Vì đã quen sống trong sự đầy đủ về vật chất => Họ kỳ vọng bản thân phải tiếp tục duy trì và phát triển bối cảnh đó.
=> Từ ý thức đó, nó đã tác động ngược trở lại và quyết định hành động thực tiễn của người trẻ (vật chất) đó là họ phải tiếp tục lao
động không ngừng để có duy trìphát triển kinh tế.
Thế nhưng khi thế hệ trẻ đến độ tuổi lao động, nền kinh tế thị trường ngày càng có sự cạnh tranh sâu sắc, trong khi hoạt động của
các doanh nghiệp lại gặp tình trạng khó khăn, lực lượng lao động đông hơn, vì vậy không thể đáp ứng đủ nhu cầu việc làm.
- Thị trường lao động cạnh tranh và ít cơ hội việc làm => Giới trẻ phải cạnh tranh hơn dẫn đến những áp lực về mặt tâm lý, chẳng
hạn như áp lực đồng trang lứa
- Nền kinh tế gặp khó khăn => Việc duy trì và phát triển hoàn cảnh vật chất ngày càng khó hơn cũng dẫn đến áp lực

2. Thời đại công nghệ thông tin bùng nổ :


- Vật chất: Giới trẻ được sinh ra vào thời đại CNTT bùng nổ, khi mạng Internet được phổ biến mạnh mẽ cùng sự phát triển của các
thiết bị di động và mạng xã hội => tiếp xúc cực sớm với công nghệ
-Ý thức: Giới trẻ quen với việc sử dụng công nghệ để giải quyết các vấn đề của mình
=> Từ ý thức đó, nó đã tác động ngược trở lại hành vi của con người và tạo nên một thực tế (vật chất): Giới trẻ bị phụ thuộc vào
công nghệ, đặc biệt là mạng xã hội nói riêng.
+ Chẳng hạn trên mạng xã hội hiện nay có không ít các bài báo chia sẻ về sự thành công của người khác, hoặc các bài đăng của
bạn bè xung quanh về cuộc sống cùng những thành tựu mà họ đạt được. Điều này sẽ vô tình tạo áp lực và khiến bản thân người
khác cảm thấy kém cỏi, không giỏi như người ta.

3. Kỳ vọng cao về giới trẻ:


- Vật chất: Thực tế giới trẻ được gia đình cung cấp đầy đủ vật chất, đặc biệt là được chú trọng vào việc học tập từ khi sinh ra.
+ Thế hệ trước luôn quan niệm rằng giới trẻ được đầu tư nhiều về học thức, có bối cảnh xã hội tốt hơn, vì vậy họ đặt ra kỳ vọng
cho thế hệ trẻ phải giỏi giang hơn, thành công hơn, có địa vị xã hội cao hơn cũng như có kinh tế khá giả hơn so với thế hệ trước.
Thực tế ấy dẫn đến việc giới trẻ phải chịu những sự kỳ vọng đến từ gia đình và xã hội.
- Ý thức: Giới trẻ luôn phải cố gắng để đáp ứng được những kỳ vọng ấy.
- Từ ý thức ấy, nó đã tác động ngược trở lại thực tế và gây ra 1 thực trạng (vật chất): Giới trẻ đang tự tạo áp lực lớn cho bản thân
để làm hài lòng mọi người, luôn muốn bản thân mình phải thật nổi bật, thành công vượt trội hơn người khác và khi không thể đáp
ứng được những kỳ vọng đó, họ bị chê trách,dẫn đến sự mệt mỏi và chán nản, mất động lực và gây ra các vấn đề liên quan đến
sức khỏe tinh thần.

- Kết luận:
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức
nên con người cần phải ý thức được những vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách
quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất
nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan.

II. Quy luật lượng và chất


- Đặt vấn đề:
Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mac – Lênin. Quy luật lượng chất
tác động đến toàn bộ quá trình hình thành, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội.
Sau đây, em sẽ trình bày những thông tin cần thiết liên quan đến mối quan hệ giữa Quy luật lượng và chất
- Ví dụ:
Liên hệ 1:
● Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của
bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích
lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,…thành
quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ
lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc học sinh được sang một cấp học
cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để
chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới
trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học
để trở thành một sinh viên. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua
những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng
muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại
học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên
bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.

Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể
hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh
trung học hay một học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này
khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp
thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là
những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một
lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt
nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục
diễn ra, tạo nên sự vận động không ngừng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt
đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.

● Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.

- Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng kiến thức ở bậc đại học tăng lên đáng kể
so với học ở bậc trung học phổ thông.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ
ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức
mà còn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc đại học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay
đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới.
Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là hoàn thành các
mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên
lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức
tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy
rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà
mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích
cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
- Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới
hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu
cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng, điểm
nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về
lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải đến trường để học tập, tiếp
thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô hay
các kì thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh
viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là
một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống
và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức
của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích
luỹ về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử, sinh viên có thể gian
lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.

- Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có
ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh
viên phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn
học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước
nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy,
trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả
học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa là sau khi hoàn
thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ
như trước khi lên Đại học sinh viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra. Hay trong
quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt
đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học
cũng không thể đảm bảo đủ lượng kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao
trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự
biến đổi về chất theo hướng tích cực

- Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao
tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua
hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những
kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên
liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt
hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn
tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu
cho mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được những thứ “chất” lượng
nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn
ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành
trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và
tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.

- Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên


Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như
không được bảo thủ. Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến
thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và
không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để
được học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới được hình
thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy
ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận động
của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không
vội vàng mà bỏ bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có
đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó chỉ được
xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất. Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật,
hiện tượng để lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được
mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
Liên hệ 2:

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, VN đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng kinh tế
- xã hội diện mạo đất nước có nhiều thay đổi.

1. Trước CM tháng 8:
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hơn 80
năm đó hộ của thực dân Pháp, kinh tế VN chìm đắm trong đói nghèo và lạc hậu. Nông nghiệp và công nghiệp chịu tác động nặng
nề của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc hậu.

Nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật, hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và phụ thuộc
vào thiên nhiên. Năng suất các cây trồng rất thấp. Vào thời kỳ 1930-1944, năng suất lúa bình quân 12 tạ/ ha trong khi Thái Lan là
18
tạ/ha, Nhật Bản là 34 ta ha. Sản xuất công nghiệp rất nhỏ bé và quẻ quật, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ.

2. Sau CMT8 đến năm 1975:


CMT8 thành công, chủ tịch HCM đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra mước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ mới ra đời
đã phải đối mặt với hàng loạt khó khăn và thách thức. Trong thời kỳ này, kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc
biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng năng suất, chính phủ từng bước cải cách về ruộng đất giảm
tô, giảm tức Nhờ đó trong các vùng giải phóng sản xuất nông nghiệp phát triển tăng 13,7% so với năm 1946, nhiều cơ sở công
nghệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở rộng

3. Từ 1976 đến 1986:


Sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước, nhân dân VN đã đạt được những thành tựu. Khôi phục cơ sở công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông ở Miền Bắc, cũng có nền kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở Miền bắc XD lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá, cải tạo và sắp xếp công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đưa bộ phần nông dân Nam Bộ
và Nam Trung Bộ vào con đường làm ăn tập thể. Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong những năm này chưa tương xứng với sực lao
động và vốn đầu tư bỏ ra, mất cần đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng
của xã hội, đời sống nhân dân lao động còn khó khăn, lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của
Nhà nước giảm sút

Nguyên nhân: Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất một thành
phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là một bộ phận đối lập với kinh tế
XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xóa bỏ, làm như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ SX đi quá xa so với trình độ phát triển
của lượng lực sản xuất. Tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một bên là quan hệ sản xuất đã được
xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LL.SX. Hay nói cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém, chưa tích
lũy đủ về lượng (tính chất và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ sản xuất) làm cho đất nước lắm vào tỉnh trang khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 1981-1985 nhiều Nghị quyết và Quyết định quan trọng của Đảng và chính phủ được ban hành
từng bước nhằm sửa đổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp.
Đại hội toàn quốc lần thứ V bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần. Thừa nhận nền kinh tế miền Bắc tồn tại 3
thành phần quốc doanh, tập thể và cả thể. Nền kinh tế phía Nam gồm 5 thành phần: quốc doanh, tập thể, công tu hợp danh, tư
bản tư nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu cho sự thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh tạo tiền đề cơ bản cho sự
phát triển kinh tế thị trường

4. Thời kỳ 1996 đến nay


Trước tình hình khó khăn đó, đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế Tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ, khuyến khích các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp.

Năng suất lúa không ngừng tăng, không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà VN đã xuất khẩu lương thực ra quốc tế, sản lượng
không ngừng tăng. Từ nước thiếu lương thực VN trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới liên tục từ năm 1989 đến
nay.

Sản xuất các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên thành tựu và khởi sắc của công nghiệp
thực sự bắt đầu trong những năm 90.

Bình quân 5 năm 1991-1995, tốc độ tăng trường giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7% trong đó khu vực nhà nước
tăng 15%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6% Trong 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển ổn định và tăng
trường với nhịp độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13.8% năm 1998 tăng 12.1%, năm
1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17.5%

Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và cả số lượng, đáp ứng
nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu Các sản phẩm xuất khẩu thường là các sản phẩm thỏ như than, dầu thô, kim loại
nặng...
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước
khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn
hẳn khu vực trong nước.

Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản
phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp FDI. Trong đó công nghiệp quốc
doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.

Hơn nữa với phương châm VN muốn làm bạn và đối tác chiến lược kinh tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác
chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết
WTO.

- Kết luận:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dẫn dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực
hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên chúng ta cũng sẽ không thể nằm ngoài điều đó. Để có một tấm
bằng Đại học chúng ta phải tích lũy đủ số lượng các học phần và để học phân có kết quả tốt chúng ta cần phải tích lũ dù sống
lượng đơn vị học trình của các môn học. Như vậy các kỳ thi có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thì là các điểm nút và kết quả kỳ
thi đạt yêu cầu là bước

nhảy, bởi kết quả kỳ thi tốt - bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn tích lũ trí thức trong quá trình học tập rèn luyện của chúng ta.

Do đó, trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) để làm biến đổi về
chất (Kết quả học tập) theo quy luật. Cũng như trong hoạt động của mình ông cho ta chẳng thường có câu "tích tiều thành đại",
"năng nhật, chặt bị” đó sao

Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Quy luật
này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.

III. Quy luật đấu tranh các mặt đối lập


- Đặt vấn đề:
Mâu thuẫn có từ khi sự vật, hiện tượng xuất hiện và chính nó là động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc của sự vận động bên
trong sự vật, hiện tượng. Dưới đây là nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với việc phân tích các mâu
thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

- Liên hệ:
● Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất: ta xét đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất là vấn đề rất phức
tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác – Lênin thì: lực lượng sản
xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất
là yếu tố vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn
phù hợp nữa. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Để mở đường cho lực
lượng sản xuất cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.

Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt, cần
được giải quyết.

Để giải quyết được mâu thuẫn đó cần tiến hành cách mạng xã hội. Ví dụ như công cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta hiện
nay. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thể hiện tính chất cách mạng rõ nhất của công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay là phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa,”dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính khoa học. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nghĩa là từng bước xây dựng nền sản xuất tiên tiến lực lượng sản xuất phát triển phù hợp với sự phát
triển của quan hệ sản xuất. Đây là phương thức tốt nhất để đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ nghèo nàn,
lạc hậu, nhằm tạo điều kiện cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển.

Thứ hai: ta xét mâu thuẫn giữa cái hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị trường.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
được áp dụng triệt để. Sự tồn tại của hai hình thức sở hữu này là tất yếu khách quan vì nó phù hợp với điều kiện lịch sử khi tiến
hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH. Sau khi giành được chính quyền, công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư
nhân khác nhau. Một là hình thức sở hữu tư nhân TBCN, có thể giải quyết bằng cách tước đoạt hoặc “chuộc lại” để chuyển sang
sở hữu toàn dân. Hai là với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì có thể dùng biện pháp giáo
dục, vận động, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển sang sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hóa hai hình thức. Sở
hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.

Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện nhiều mâu
thuẫn. Thực tiễn cho thấy rằng một nền kinh tế nhiều thành phần sẽ kéo theo sự đa dạng về hình thức sở hữu chứ không phải chỉ
hai hình thức sở hữu như trong nền kinh tế cũ.

+ Hình thức thứ nhất: sở hữu toàn dân


Theo quan niệm cũ, sở hữu toàn dân thuộc về công hữu, do nhà nước trực tiếp đứng ra quản lý.
+ Hình thức sở hữu thứ hai: sở hữu nhà nước
Trong cơ chế cũ, sở hữu nhà nước thường không có sự tách biệt với sở hữu toàn dân.
+ Hình thức thứ ba: sở hữu tập thể
Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp) mà các xã viên là chủ sở hữu chính.

Như chóng ta biết,hợp tác xã không phải là hình thức đặc trưng cho nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà là
hình thức sở hữu tiến bọ trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lênin đã khẳng định: “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ
nghĩa”.

Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất
phải hợp tác với nhau mới có khả năng phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời
cho nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù
hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.

Thứ ba: xét mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN, yếu tố con người giữ vai trò
cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và
văn hóa con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của XHCN, chóng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát.

Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu
thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển con người xã hội
chủ nghĩa.

Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống nhanh chóng, góp
phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn.
Đây là kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật xã hội. Quá trình
biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.

Những phân tích trên cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực
tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội, giữa quá trình xây dựng con người vừa có sự thống
nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra
những độc tố hủy hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Ở nước ta, mâu thuẫn giữa nền
kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người CNXH được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hộ mà là thành tựu nền phát
triển văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Như
vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa nền kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị
trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị
sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần phát huy tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngõa, hạn chế, khắc
phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động kinh doanh phải hướng vào phục vụ xây dựng nguồn lực
con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm xóa bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bấp chấp đạo lý, coi
thường các giá trị nhân văn. Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mĩ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân
téc như nội dung của nghị quyết T.W V đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết
mâu thuẫn này.

Ví dụ 2:
- Ví dụ về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập được thể hiện qua mối quan hệ giữa giai cấp
thống trị và bị trị trong xã hội xưa. Họ đối lập với nhau về quyền lợi, ý chí. 2 giai cấp này luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quyền
lợi của mình, luôn luôn tác động đến nhau.
- Ví dụ khác như người kinh doanh và người tiêu dùng. Người kinh doanh thì mong muốn bán được giá cao để thu được nhiều
lợi nhuận còn người tiêu dùng thì mong muốn có giá thành rẻ và hợp lý. Hai lợi ích của hai đối tượng này đối lập với nhau giúp
điều chỉnh thị trường và quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
- Ví dụ nữa là sự đối lập về lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động. Người lao động thì mong muốn mức
lương cao hơn cho công sức của mình làm việc. Còn người lao động lại muốn trả tiền lương thấp cho người lao động. Hai lợi ích
đối lập này đã có sự tác động, đấu tranh lẫn nhau.
- Kết luận:
1. Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn, ta phải đi
sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra
những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa những mặt đối lập đó.
2. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn.
Khi phân tích mâu thuẫn, ta phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn. Ta phải xem xét vai trò, vị trí và mối
quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác
động qua lại giữa chúng.
Chỉ có như vậy ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn.
3. Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn.
Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và
lực lượng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Một mặt, ta phải chống thái độ chủ quan, nón vội. Mặt khác, ta phải cực kỳ thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều
kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi.
Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Do đó, ta phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một
cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.

IV. Xã hội, tồn tại xã hội, ý thức xã hội


-Đặt vấn đề:
Trước khi đi đến Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? chúng ta cần tìm hiểu về các khái
niệm liên quan đến tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
-Liên hệ:
Về tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội, là phương diện sinh hoạt vật chất và điều kiện tự nhiên, phương thức sản xuất xã
hội. Ví như Thời tiền sử là thời đại Việt Nam được tính từ tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lành thổ Việt Nam cho tới
khoảng thế kỉ I trước công nguyên.
Thời tiền sử là các bộ lạc săn bắt (bán), hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những
bước tiến lớn trong kỉ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết, tận
dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…
Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng phong phú của các loài quán động thực vật
phương Nam nên nguồn tài nguyên rất phong phú.
Về ý thức xã hội
Ý thức xã hội điển hình có sự nổi bật trong truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa của dân tộc và nhân dân Việt Nam thì rất
cần cù chăm chỉ với truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và
chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỉ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.

Sự vận dụng tồn tại xã hội và ý thức xã hội


Sự vận dụng tồn tại xã hội và ý thức xã hội ngày nay thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau. Sau đây là một số ví dụ:
- Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra một cuộc cách mạng về cách mà chúng ta giao tiếp và tương tác
với nhau. Việc sử dụng các mạng xã hội như Facebook, Instagram, Twitter, TikTok... đã thay đổi cách chúng ta kết nối và tương
tác với nhau.
- Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu đã tạo ra một thế giới liên kết mật thiết hơn bao giờ hết. Việc vận chuyển hàng hóa, người
và thông tin giữa các quốc gia đã mở ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức về môi
trường, an ninh và chính trị.
- Sự đa dạng về văn hóa và giá trị đã tạo ra một thế giới đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên, đồng thời cũng tạo ra nhiều khác
biệt và xung đột giữa các văn hóa và giá trị khác nhau.
- Sự phát triển của các chính sách và pháp luật đã thúc đẩy sự bình đẳng và đa dạng hóa trong xã hội. Việc thực hiện các chính
sách như bình đẳng giới, bảo vệ quyền của người đồng tính, bảo vệ quyền của người khuyết tật... đã tạo ra nhiều cơ hội mới cho
những người bị kìm hãm trong quá khứ.
Đặc biệt là sự vận dụng mốỉ quan hệ biện chứng giữa đời sống tinh thần xã hội và ý thức xã hội trong công tác phòng, chông dịch
Covid -19 hiện nay:
Đại dịch Covid - 19 bùng phát tại Việt Nam kể từ đầu năm 2020 đến nay, trải qua đợt dịch lần thứ 4 (kể từ 27/04/2021), có phần
diễn biến phức tạp hơn, phạm vi lan rộng, nhanh ở nhiều tỉnh thành, có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội nước ta. Điều đó, đem lại thách thức to lớn cho Đảng và Nhà nước ta trong việc đề ra những c lủ trương, chính sách hợp lý để
thực hiện “mục tiêu kép”: vừa thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch đem cuộc sống trở lại bình thường với người dân, đồng
thời nỗ lực khôi phục phát triển kinh tế - xậ hội gắn với thực hiện an sinh xã hội, trong đó có việc chăm lo đời sống tinh thần của
người dân. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù ý thức xã hội và đời sống tồn tại xã hội, soi rọi vào tình hình thục tế
trong công tác phòng, chống dịch hiện nay của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, có những điểm nổi bật cụ thể như sau:
Trước tình hình phức tạp của dịch bệnh, xét về mặt tư tưởng, quan điểm, Đảng và Nhà nước ta chủ động, linh hoạt, kịp thời đề ra
nhiều chủ trương, Chỉ thị, Kết luận, Quyết định góp phần gọi toàn dân đồng sức, đồng lòng nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm
cùng nhau đẩy lùi dịch bệrh. Với những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước qua những lời kêu gọi tuyên truyền, Chỉ thị nêu
trên (biểu hiện của quan điểm, tư tưởng trong ý thức xã hội) đã góp phần nâng cao được ý thức công dân về phòng, chống dịch,
mặt khác, phát huy được tinh thần đoàn kết, truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, cùng với giải pháp vắc-xin,
tin chắc rằng chúng ta sẽ chiến thắng được đại dịch, nhân dân sẽ được trở lại cuộc sống bình thường mới, đời sống tinh thần của
người dân, của xã hội được nâng cao hơn nữa.
Thông qua các hoạt động chống phá, bọn phản động, bọn thời cơ không chỉ tác động đến ý thức xã hội của người dân mà còn tác
động mãnh liệt đến đời sống tồn tại xã hội. Trong thời gian qua, trên các website, facbook, youtube, bloger cá nhân, các đài truyền
hình nước ngoài đã xuất hiện hàng loạt những bài viết, video clip bình luận, những thông tin sai sự thật, giả mạo về tình hình
chống dịch như: “cần thay đổi kịch bản chống dịch; Phong tỏa mà cấm người dân giúp nhau, thì dân làm sao sống?”; “chính quyền
Việt Nam lừa dối dân bằng chiêu bài “xã hội hóa vaccine”, đến khi nào dân mới được tiêm vaccine?”; nào là “Kêu cứu”, nào là
“thành phố Hồ Chí Minh vỡ trận”; “Đại dịch Covid-19, kinh tếsuy thoái cộng thêm lũ lụt, người dân lâm vào khó khăn, đói kém, vậy
mà Đảng Cộng sản vẫn tưng bừng tổ chức đại hội...”. Đó là những luận điệu mang tính chất phản động, mị dân, kích động, lôi kéo
những phần tử cơ hội, bất mãn trong và ngoài nước, nhất là người lao động, công nhân, những tầng lớp yếu thế, đi đến dao động,
suy giảm lòng tin đối với Đảng, thủ đoạn này thể hiện tính chất thâm độc, tàn ác và vô trách nhiệm đối với những kẻ tự xưng là
những người nêu quan điểm của mình là “vì dân”.
Có thể khẳng định một điều rằng, giữa “đời sống tồn tại xã hội” và “ý thức xã hội” là hai khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, có
mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa tương đồng, vừa có điểm khác biệt. Điều đó hoàn toàn không mâu thuẫn với lý luận nhận
thức mácxít, bởi vì sự khác biệt giữa chúng là nằm ngoài vấn đề nhận thức luận. Trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh Covid-
19 hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã biết vận dụng linh hoạt và sáng tạo mối quan hệ giữa hai phạm trù này, để nâng cao đời
sống tồn tại xã hội, cho người dân, cần có sự đoàn kết, nhất trí của cả hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa quan điểm của Đảng,
Nhà nước, lời kêu gọi của Tổng Bí Thư, đòi hỏi cần phải phát huy được “liều vắc-xin hữu hiệu nhất” trong các liều vắc-xin hữu hiệu
- đó là “ý thức công dân”. Đồng thời, cần phải luôn luôn cảnh giác với các thế lực thù địch, những tư tưởng phản động tác động
xấu đến ý thức, đời sống tinh thần của người dân, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giải quyết hài hòa vấn đề này,
tin chắc rằng, với tinh thần, “chống dịch như chống giặc”, với quyết tâm “không ai bị bỏ lại phía sau”, “chiến thắng đại dịch cho
bằng được”, chúng ta nhất định sẽ vượt qua khó khăn trước mắt, chúng ta nhất định sẽ thắng lợi.

V. Phân biệt vận động và phát triển


- Vận động:
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vật chất tồn tại khách quan nên vận động cũng tồn tại khách quan và vận động của vật chất là tự thân vận động.
+ Vận động có 5 hình thức cơ bản:
– Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian);
– Vận động vật lý (vận động của các phân từ, điện từ, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, v.v);
- Vận động hóa học (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải);
– Vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cầu trúc gen, v.v);
Vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, vv của đời sống xã hội). + Vận động là tuyệt đối, vĩnh
viễn.
+ Vận động có trạng thái đặc biệt là đứng im, đó là vận động trong thể cân bằng và đứng im là hiện tượng tương đối, tạm thời.
+ Vi dụ:
- Mặt Trời mọc. Nước chảy đá mòn
- Phát triển:
+ Phát triển là quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
+ Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng, phong phủ
+ Là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong
hình thái của sự vật hiện tượng mới.
+Ví dụ:
- Sự biển hóa của sinh vật từ đơn bào đến đa bào.
- Quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thắp lên bậc cao,
VI. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Đặt vấn đề:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ với nhau và có ý nghĩa quan trọng. Qua bài viết dưới đây chúng tôi xin
đưa ra nội dung Ví dụ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đến bạn đọc có thể hiểu hơn về vấn đề.
- Liên hệ:
Ví dụ 1:
1. Cơ sở hạ tầng
- Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu
khác nhau.
- Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng cùng tồn tại trong một
cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện
của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư
nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.

Ví dụ:
- Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…
- Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các địa phương.
- Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…
- Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển
hết mọi tiềm năng.

2. Kiến trúc thượng tầng


– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:
- Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang
tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân
dân là người làm chủ xã hội.
- Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng…
không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều
thuộc về nhân dân.
- Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng.
- Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình lâu dài,
gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

Ví dụ 2:
1. Vai trò của nhà nước trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay

-Nhà nước ta đã có những phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế trong nước và thế giới một cách khách quan, để ra
những đường lối, chính sách, pháp luật đúng dẫn xóa bỏ cơ chế quân lý tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới đất nước nói chung và kinh tế nói riêng tiến hành 25 năm đã đạt được
những thành tựu to lớn.

- Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô Bằng pháp luật nhà nước điều tiết, quản lí nền kinh tế, ban hành những
chính sách kinh tế, điều 26 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân,
của tập thể với lợi ích của Nhà nước”. Thông qua pháp luật Nhà nước hoạch định các chính sách kinh tế, điều tiết quá trình sản
xuất trao đổi và phân phối trong xã hội, xác định các hành vi bị cấm đối với các chủ thể kinh tế và hành vi được phép đối với cơ
quan và cản bộ công chức nhà nước, tạo môi trường thuận lợi vững chắc
Chính sách đối với các thành phần kinh tế: nhà nước tôn trọng và thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Trong đó,
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là công cụ để nhà nước thực hiện vai trò định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

- Nhà nước đã chú trọng thực hiện hàng loạt các biện pháp pháp lí và tổ chức thực hiện để thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài
nước. Nhà nước chủ trương phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn dài hạn và trung hạn...chỉnh sách thu hút vẫn đầu tư
trong thời gian qua đã tập trung động viên các nguồn tài chính với quy mô ngày càng cao cho sự phát triển kinh tế, khối lượng đầu
tư nước ngoài những năm gần đây tăng nhanh, Trong năm 2010, Việt Nam có 107 dự án đầu tư ra nước ngoài tại 25 quốc gia và
vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,969 tỉ USD.

- Chính sách hội nhập nền kinh tế quốc tế: Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nhà nước, quan hệ
kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)....Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký
hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.

- Nhà nước định hướng, hướng dẫn, dư bảo cho các chủ thể kinh tế hoàn thiện kế hoạch của chính họ và thông qua đó đạt đến sự
tăng trường cho toàn bộ nền kinh tế, hoạt động kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân của nhà nước đã tập trung nguồn lực cho mục
tiêu phát triển, bảo đảm được các cân đối tổng thể và gắn được mục tiêu tăng trường kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội một
cách chủ động, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách bền vững trong hiện tại và tương lai.

- Công tác kế hoạch hóa của Việt Nam được đổi mới theo những hướng thích hợp, cụ thể là nhà nước thực hiện giảm mạnh mẽ
hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, tạo điều kiện chủ động sản xuất kinh doanh cho các thành phần kinh tế, xóa bỏ mạnh mẽ
chế độ bao cấp với sản xuất, kinh doanh, áp dụng chế độ huy động vốn theo cơ chế tín dụng nhằm phát huy các nguồn lực cho cơ
chế phát triển kinh tế.
- Các chương trình mục tiêu mà nhà nước ban hành đã tập trung giải quyết nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế nhất là vấn đề việc
làm cho người lao động.

- Nhà nước với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng đã để những quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật đúng
đắn, những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được các thành tựu quan trọng. Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838
nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt
gần 45 tí USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gần
sản xuất với thị trường. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ
tăng nhanh và liên tục, phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản
xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn
pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.

- Tăng cường công tác giám sát, đặc biệt là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị
trường. Từng bước tổ chức sắp xếp nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lí, phù hợp với điều kiện thị trường, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, hình thành
hoàn chỉnh, đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng
hóa tiền tệ, sử dụng kết nhiều phương pháp quản lí trong đó các phương pháp kinh tế là chủ yếu. Phát huy mạnh mẽ động lực
khoa học kĩ thuật để đầy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế, các chủ thể kinh doanh. Không ngưng xây dựng hoàn thiện hệ thống
pháp luật, nhất là pháp luật về kinh tế. Tăng cường pháp chế và trật tự pháp luật trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chuẩn
bị các điều kiện và thể chế cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức trong tương lai.

VII. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến


- Liên hệ:
Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ biến: Khi làm bài kiểm tra Toán, Lý, Hóa, chúng ta phải vận dụng kiến thức văn học để phân
tích đề bài, đánh giá đề thi. Đồng thời khi học các môn xã hội, chúng ta cũng phải vận dụng tối đa tư duy, logic của các môn tự
nhiên.
- Trong tư duy con người có những mối liên hệ kiến thức cũ và kiến thức mới.
- Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất: cá sống không thể thiếu nước; chó chết thì bọ chó
cũng chết theo
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
- Mối liên hệ giữa cung và cầu (hàng hóa, dịch vụ trên thị trường cùng với những yêu cầu cần đáp ứng của con người có mối quan
hệ sâu sắc, chặt chẽ). Chính vì thế nên cung và cầu tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát
triển không ngừng cả cung và cầu trên thị trường
- Mối liên hẹ giữa các cơ quan trong cơ thể con người.
- Trong tự nhiên có các mối liên hệ giữa động vật, thực vật, nước,... các nhân tố của môi trường xung quanh như cây xanh quang
hợp nhả khí oxi cho động vật hít khí oxi. Sau đó động vật thải ra chất thải tạo thành chất dinh dưỡng trong đất cho cây sinh sống
và phát triển.
-Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng...) chứ không ở
một lĩnh vực nào. Như Đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “Một là phải giữ vững định hướng XHCN trong quá
trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, dồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi hình thức và cách làm phù hợp”. Thực tiễn cho
thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều
mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.

+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường để
tạo ra dộng lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước
ngoài, nâng cao tay nghề, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của thể giới.

Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN ngày càng đi lên hội nhập toàn cầu
hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào sự nghiệp cách mạng VN đặc biệt là vận
dụng nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.

VIII. Nguyên lý về sự phát triển


- Liên hệ:
1. Thực tiễn
Việc vận dụng phương pháp luận, nguyên lý về sự phát triển góp phần quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn góp phần thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có
của nó đòi hỏi mỗi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy
được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp.
2. Học tập
Học tập luôn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi
lên của xã hội thì học sinh, sinh viên cần phải nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó vận dụng một cách tối ưu
nhất, sáng tạo vào hợp lý.
- Khuynh hướng chung của sự phát triển là vận động đi lên, tức là phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật hiện tượng
trong quá trình phát triển của nó. Sinh viên có thể nhìn nhận và xác định trước, vạch ra trong đàu các giai đoạn phát triển của bản
thân, từ đó học cách vượt qua gián đoạn và thúc đẩy sự vật hiện trượng đó phát triển trong hiện tại và tương lai. Trong công cuộc
học tập, có những lúc học sinh, sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta
tránh bi quan và tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên phải có sự phát triển về trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các
phương pháp học tập, rèn luyện khác nhau để nâng cao trí tuệ và cảm xúc. Mỗi người sẽ có một thước đo cuộc sống khác nhau
không thể từ đố mà áp vào bản thân mình rồi tự cảm thấy tự ti, áp lực đối với những người cùng tranh lứa, những người thành
công hơn mình. Quá trình học tập và rèn luyện luôn là quá trình tích luỹ kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ dựa vào điểm
số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp tát cả, mà cần xem xét cả quá trình phấn đấu, tìm ra nguyên nhân và nỗ lực cải thiện vấn
đề đó để trở lên tốt hơn.
- Nhận diện và phê phán các quan điểm bảo thủ, cổ hủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và hành động. Bệnh bảo thủ là trì trệ, là
tình trạng ỷ lại, chậm đổi mói, ngại thay đổi, dựa dẫm vào người khác thậm chí cản trở cái mới. Để ngăn chăn các vấn đề này, sinh
viên cần rèn luyện ý thức tự chủ, độc lập ham học hỏi và sẵn sàng tiếp thu các tư tưởng, văn hóa, khoa học tiến bộ một cách có
chọn lọc phù hợp với văn hóa của dân tộc. Cần loại bỏ những phương pháp cũ, những tư duy lạc học khi vận dụng vào quá trình
học tập. Không phải lúc nào lựa chọn của chúng ta cũng là đúng, sinh viên cần lắng nghe ý kiến của bạn bè, thầy cô, cha mẹ, ...
Không bác bỏ ngay lập tức, cần tôn trọng những ý kiến đó, không áp đặt suy nghĩ của bản thân mình lên người khác. Việc bảo thủ,
khăng khăng giữ ý kiến của ban thân sẽ làm trì trệ, không mang lại kiến thức cho bản thân hay giá trị của mình. Giáo dục mỗi
ngày không ngừng thay đổi và đổi mới để phù hợp với nhu cầu và tình hình của xã hội, sinh viên cần không ngừng học tập, cập
nhập kiến thức, tra cứu tài liệu, nâng cao kỹ năng mềm. Khi học tập một kiến thức mới thì sinh viên cần dựa trên những kiến thức
cũ mà mình đã tích lũy được, phân tích, so sánh và tim ra sự liên kết giữa chúng. Từ đó, việc tiếp thu kiến thức trong quá trình học
tập sẽ giúp sinh viên dễ dàng nắm bắt nhanh chóng và tạo động lực trong việc học tập.
- Xác định khuynh hướng phát triển trong tương lai của sự vật, không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được những biến
đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Đối với sinh viên khi lựa chọn môn học, chuyên ngành học, cần nắm rõ
chương trình học, những điều cần biết về môn học đó và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai đòi hỏi những
gì, qua đó hoàn thiện bản thân và nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ngày nay, để trở thành một công dân
toàn cầu việc học thêm ngoại ngữ, áp dụng các phần mềm, máy móc của nước ngoài trong học tập là điều cần thiết. Cuộc sống
luôn luôn thay đổi và chúng ta không chỉ sống cho hiện tại mà cần cập nhập những khuynh hướng phát triển của cuộc sống và
không bị đào thải.
- Trong quá trình học tập cần phải phân biệt rõ các mối liên hệ của bản thân, những ưu điểm đang có và những hạn chế còn tồn tại
và xây dựng phương pháp tác động đúng đắn, kịp thời nhằm đem lại khả năng tiềm ẩn như năng khiếu, sở thích, sự tiến bộ tích
cực ... được phát triển hiệu quả nhất. Mỗi sinh viên đều có những ưu điểm của ban thân khác nhau. Người có khả năng vẽ, người
có khả năng lập trình, người có khả năng ghi nhớ tốt, người có khả năng thuyết trình ... thì người đó cần tập trung tạo điều kiện và
phát huy, nâng cao khả năng đó, cùng với việc học tập vã tích lũy kiến thức chuyên môn.
Như vậy, sự vận dụng nguyên lý của sự phát triển cho bản thân trong công việc học tập có thể được hiểu đơn giản là những việc
sau đây: Hoàn thành tốt các bài tập, bài kiểm tra để rút ra kinh nghiệm và mày mò thêm phương pháp để làm bài tập nhanh hơn;
Tìm hiểu các phương pháp học tập mới để so sánh với bản thân xem có phù hợp, điều chỉnh lại phương pháp học tập so cho phù
hợp với môi trường học và điều kiện học tập; Đặt ra cho bản thân những câu hỏi, những mục tiêu cần hoàn thành để thúc đẩy bản
thân làm việc, học tập tránh tình trạng trị trệ mọi thứ; Lắng nghe ý kiến, nhận xét của thầy cô về bài làm của mình để rút kinh
nghiệm cho bản thân, tiếp thu cách làm bài mới cũng như thay thế các phương pháp làm bài cũ của mình; Học nhóm, trao đổi kiến
thức và bài tập với các bạn, chia sẻ những kiến thức mà mình nắm được và học hỏi những kiến thức mới, đồng thời phát triển kỹ
năng làm việc nhóm của bản thân, ...
IX. Cặp phạm trù chung-riêng
- Liên hệ:
Ví dụ 1:
- Một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế
- xã hội, có thể thông qua các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn
nhất đã trở thành cái chung…

Ví dụ 2:
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Với nền kinh tế còn non yếu Đảng và nhà nước đã quyết định xu hướng phát triển nền
KTTT nhưng theo định hướng XHCN.

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. ở đây cái chung là nền KTTT trong xu
hướng, đặc điểm phát hiên chung là nền kinh tế mở cửa nhưng nó được đưa vào ứng dụng tạ môi trường và hoàn cảnh Việt Nam
chúng ta thì nó tồn tại trong nền kinh tế nước nhà đi theo định hướng XHCN. Thông qua môi trường hoàn cảnh xu hướng của nến
kinh tế Việt Nam hoà nến KTTT có những đặc điểm chung, nhưng khi nó đuiược đưa vào nền kinh tế nước ta theo định hướng
XHCN thì ngoài những đặc điểm chung nó còn mang những đặc thù riêng mà chỉ thông qua cái đặc thù riêng đó nó biểu hiện sự
tồn tại thích nghi của mình.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung: tức là không có cái riêng tồn tại độc lập, mà chỉ tồn tại trong mối quan hệ với
cái chung. Nền KTTT được ứng dụng vào nước ta theo định hướng XHCN nó trở thành KTTT với
những cái đặc thù mới. Nó hoà nhập, tồn tại và thể hiện trong nền KTTT thế giới.

Điều cần đưa ra ở đây là cái chung và cái riêng luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chúng luôn xen lẫn và ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau.

3/ Nguyên tắc hình thành


Với tư cách là cái chung KTTT đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố cơ sở kinh tế mang tính
đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế. Cập phạm trù vốn có của nền KTTT, các quy luật nến KTTT, cơ chế vận hành. Nến
KTTT là một phạm trù để chỉ một nền kinh tế mở rộng. một nền kinh tế luôn biến động, một nền kinh tế có đầy đủ qui luật canh
tranh và đào thải, được ứng dụng phát triển mạnh mẽ. Được thâm nhập và vận hành với sự kết hợp của mọi thành phần kinh tế.
Nến KTTT nó có những đặc tính chung những qui luật chung. Và nó mang cavs đặc tính chung này vào mọi quốc gia có nền KTTT
( những thuộc tính chung được lạap lại trong nhiều sự vật hay quá trình riêng lẻ ).

Với tư cách là cái riêng, cái đặc thù định hướng XHCN, trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu, nguyên tắc và
nhiệm vụ kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta câní xây dựng. Việt Nam là quốc gia có nền
kinh tế còn lạc hậu non nớt. Với quá nhiều tàn dư của xã hội cũ, những quan điểm cổ hủ về nền kinh tế bao cấp đã dần dần được
xoá bỏ.

Với môi trường kĩ thuật công nghệ còn yếu kém. Với thời kì dang quá độ lên CNXH nó còn phức tạp và quá nhiều khó khăn phải
giải quyết, những mục tiêu để đạt được. Vây với môi trường, hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam theo định hướng mà Đảng đã đề ra.
Nền kinh tế Việt Nam theo định hướng XHCN ( là một chủ thể riêng ) có những đặc thù riêng. Vậy để kết hợp cái chung với nền
KTTT thì nền kinh tế Việt Nam sẽ có một nền KTTT mang nhiều đặc tính riêng phát triển theo xu hướng mà Đảng đã đề ra.

Trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng này, không thể lấy các chung làm cái chủ đạo, cũng như không thể lấy nền KTTT
làm cái quyết định mà nhất thiết phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ cái chung-
KTTT với cái đặc thù định hướng XHCN.
X. Cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả
-Liên hệ:
● Ôi nhiễm môi trường:
- Nguyên nhân

- Về ý thức của người dân: Nhiều người hiện nay thường có thói quen xả rác không đúng nơi quy định; xả nước thải sinh hoạt trực tiếp ra bên
ngoài môi trường, kể cả là chất thải rắn; tự ý đốt rác thải như bao bì nilon, rơm rạ; xử lý xác chết động vật như gà, vịt, lợn không đúng nơi quy
định; chặt phá khai thác rừng quá mức,...

- Về phía các cơ quan ban ngành: Nhiều cơ quan quản lý không thực sự nghiêm ngặt trong việc xử phạt các doanh nghiệp xả thải ra bên ngoài
môi trường. Không thường xuyên tổ chức kiểm tra, răn đe các nhà máy, xí nghiệp sản xuất,... Nước thải từ đây bị đổ thẳng trực tiếp ra bên ngoài
môi trường mà không được thông qua xử lý.

- Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho môi trường bị ô nhiễm là do yếu tố thiên nhiên. Các hiện tượng như động đất, sóng thần, bão lũ, vòi
rồng,... làm biến đổi các tính chất và thay đổi cấu trúc của đất, từ đó dẫn tới nhiều hiện tượng ô nhiễm môi trường nói chung.

- Kết quả:

- Về vấn đề sức khỏe của con người: Ô nhiễm môi trường tác động trực tiếp qua con đường ăn uống và tiếp xúc với những khu vực bị ô nhiễm
môi trường nước hoặc đất. Khi này, sẽ dẫn đến rất nhiều loại bệnh nguy hiểm như tiêu chảy, viêm gan, dịch tả, thiếu máu,... và nhiều bệnh lý
liên quan tới hệ hô hấp và đường tiêu hóa.

- Về môi trường sống, ô nhiễm môi trường có thể dẫn tới các hiện tượng mưa axit, khiến cho các loài động - thực vật không thể sinh sôi và phát
triển.

- Ô nhiễm môi trường gây ra những tiêu cực đến vấn đề kinh tế - xã hội. Môi trường bị ô nhiễm sẽ khiến cho vấn đề cảnh quan của đất nước đó
bị ảnh hưởng, từ đó có thể khiến cho sự phát triển của ngành du lịch bị cản trở. Đồng thời, các chi phí về xử lý ô nhiễm môi trường cũng trở nên
tốn kém, làm ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia.

● Nhảy việc:
- Nguyên nhân
- Vào đời trong bối cảnh thị trường việc làm đang rất sôi động

Bước vào đời trong thời kỳ thế giới phẳng, mọi thứ đều có thể hội nhập và kết nối dễ dàng khiến gen Z có nhiều cơ hội hơn các thế hệ trước
trong vấn đề tìm kiếm việc làm. Ngày càng có nhiều Doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, xu hướng khởi nghiệp đang nở rộ khiến
cho cơ hội việc làm của gen Z ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, gen Z trưởng thành và tiếp xúc với nền giáo dục tiên tiến hơn so với thế hệ trước, mạnh về kỹ năng ngoại ngữ và tin học. Do đó, họ
tự tin vào bản thân và luôn kỳ vọng vào một môi trường làm việc xứng đáng với những gì họ đang có.

Các bạn gen Z có vô số cơ hội việc làm cùng với đó là không chịu áp lực về tài chính cũng như gia đình nên tình trạng nhảy việc liên tục là điều
dễ hiểu. Gen Z nghĩ rằng được tự do làm những điều mình thích và dành nhiều thời gian để tìm kiếm thêm nhiều cơ hội việc làm trước khi lựa
chọn một nơi làm việc phù hợp.

- Ảnh hưởng quá nhiều từ mạng xã hội

Mạng xã hội là nơi cho phép mọi người được tự do bày tỏ ý kiến. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến văn hóa nhảy việc của gen Z.
Nhiều hội nhóm được thành lập và xuất hiện nhiều các khẩu hiệu như “Hãy sống vì bản thân chứ đừng sống vì suy nghĩ hay ước muốn của người
khác”, “hãy tự do làm những điều mình thích,…”

Những tư tưởng như vậy rất dễ bị các bạn trẻ hiểu lầm và đi lệch hướng. Các bạn dễ bị chi phối bởi những nguồn thông tin, xu hướng sống vì
bản thân. Bởi vậy, nếu không tự làm chủ được bản thân, các bạn rất dễ có những suy nghĩ và hành động sai lầm.

- Mong muốn được trải nghiệm

Gen Z được sinh ra và lớn lên trong thời đại số, được tiếp cận kiến thức nhanh chóng và văn hóa, công nghệ hiện đại,… Thế hệ này rất ham học
hỏi, năng động và sáng tạo. Do vậy, các bạn trẻ thường có suy nghĩ muốn khám phá và trải nghiệm những điều mới mẻ hơn trong công việc.

Nhiều bạn trẻ làm việc chưa đến 1 năm sau đó nhảy việc để tìm đến một môi trường mới. Họ cho rằng, môi trường cũ đã nhàm chán, không có
nhiều điều kiện để cho họ học hỏi và phát triển nên không ngại thay đổi.

- Chưa hình thành định hướng phù hợp trong tương lai

Các bạn chỉ mới ra trường đi làm nên vẫn chưa hình dung và định hướng rõ ràng cho tương lai của bản thân. Khi làm việc tại những môi trường
không phù hợp, gen Z thường bị áp lực ảnh hưởng đến “sức khỏe tâm lý”. Chính vì thế, nhiều bạn trẻ lựa chọn nghỉ việc khi cảm thấy rằng công
việc khó khăn và gây nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống.

- Cá tính mạnh và mong muốn thể hiện bản thân

Gen Z muốn được thể hiện bản thân, ham học hỏi và thích sáng tạo. Vì thế, các bạn rất dễ bị tổn thương trước những lời phê bình hay bất đồng
quan điểm với quản lý, đồng nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều gen Z tự tin rằng họ có thể tìm được công việc mới dễ dàng, vậy nên gen Z không quá
lo lắng về việc có nên nhảy việc hay không.

- Kỳ vọng quá cao vào Doanh nghiệp

Ngoài những vấn đề trực tiếp từ gen Z thì việc nhảy việc cũng một phần do cách thức hoạt động của doanh nghiệp. Các bạn trẻ có những kỳ
vọng cao nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa đáp ứng đủ các yêu cầu từ môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến,… Điều này khiến cho các bạn
gen Z bị vỡ mộng và có xu hướng nghỉ việc cao.

- Kết quả
1. Đối với bản thân ứng viên
- CV “không đẹp” trong mắt nhân sự
Sự trung thành và gắn kết lâu dài với công ty là điều các nhà tuyển dụng luôn mong muốn. Khi nghỉ việc quá nhiều, các nhà tuyển dụng sẽ nghi
ngờ về thái độ làm việc cũng như mức độ trung thành của bạn. Ngoài ra, chuyển đổi công việc thường xuyên khiến bạn không có thời gian để
đạt được những thành tích đáng kể.

Như vậy, nếu nhìn thấy bạn liên tục nhảy việc trong thời gian ngắn hay không có những thành tích nổi bật trong CV thì nhà tuyển dụng sẽ phải
cân nhắc rất nhiều. Bạn cũng không được chú ý đến khi không có những bằng chứng cụ thể về khả năng của bản thân.

- Không tích lũy được nhiều kiến thức chuyên sâu


Khi thay đổi công việc trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, bạn sẽ khó có thể tích lũy cho mình được nhiều kiến thức chuyên môn.
Trong thực tế, các nhà tuyển dụng thường ưu tiên hơn với những ứng viên có kỹ năng chuyên sâu và gắn bó lâu dài với công việc.

Do vậy, việc bạn biết nhiều lĩnh vực nhưng không chuyên về một công việc nào đó sẽ gây cản trở trong tương lai của chính bạn.

3.1.3 Nhà tuyển dụng cảm thấy e ngại khi đầu tư vào bạn
Khi biết bạn có thể nhảy việc bất cứ lúc nào, nhà tuyển dụng sẽ cân nhắc khi đầu tư vào bạn. Các doanh nghiệp thường đầu tư cho việc đào tạo
và phát triển nhân viên từ 1 đến 2 năm. Nếu bạn thay đổi công việc thường xuyên, các nhà tuyển dụng sẽ đánh giá bạn là người dễ bỏ cuộc và
không trao cho bạn những cơ hội để phát triển bản thân.

- Tốn thời gian để bắt đầu lại từ đầu


Mỗi công việc đòi hỏi những kỹ năng và có yêu cầu riêng. Mỗi công ty có hệ thống quản lý và quy trình làm việc khác nhau. Chính vì thế bạn
phải thích nghi làm quen với môi trường mới khi chuyển việc.

Doanh nghiệp cần nhiều thời gian để nhìn thấy sự thể hiện, kỹ năng của bạn. Do vậy, chuyển việc thường xuyên bạn cũng sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội
thăng tiến hơn.

- Ảnh hưởng xấu đến mạng lưới các mối quan hệ


Mối quan hệ trong doanh nghiệp là điều tất yếu bạn cần phải có. Tuy nhiên, việc thường xuyên thay đổi nhiều công ty sẽ khiến bạn khó duy trì
những mối quan hệ có lợi. Bạn có thể gặp khó khăn khi nhờ cấp trên viết cho bạn một lá thư giới thiệu hoặc là người tham khảo hiệu quả. Điều
này sẽ làm giảm khả năng phát triển sự nghiệp của bạn.

- Nguy cơ bị sa thải cao

Những nhân viên trung thành thường sẽ được giữ lại nếu hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn. Với kiến thức chuyên môn và có hiểu biết
rõ về công ty, những người lâu năm thường sẽ có nhiều lợi thế hơn khi công ty cắt giảm bớt nhân sự. Chính vì vậy, đối với một nhân viên
thường xuyên nhảy việc thì nguy cơ bị sa thải sẽ rất cao.

2. Đối với nhà tuyển dụng

- Tốn chi phí tuyển dụng


Khi nhân viên nhảy việc như vậy, Doanh nghiệp sẽ phải tuyển dụng liên tục. Điều này khiến doanh nghiệp tốn rất nhiều thời gian và chi phí
tuyển dụng. Các bạn genZ nghỉ việc thường xuyên cũng tạo nên những áp lực lớn cho các quản lý.

- Lãng phí nguồn lực trong việc đào tạo

Thông thường, doanh nghiệp sẽ mất khoảng 1 đến 2 tháng để đào tạo và giúp nhân viên mới học tập và làm quen với công việc với môi trường
làm việc mới. Sau đó, công ty dành 5 đến 6 tháng để mở ra các chương trình đào tạo chuyên sâu giúp nhân sự phát triển bản thân cũng như hiểu
rõ hơn về sản phẩm, khách hàng.

Chính vì vậy, nhân viên nhảy việc thường xuyên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lực trong quá trình đào tạo những nhân viên mới. Điều này gây
lãng phí chi phí của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo.

- Gây nên những biến động tiêu cực về nhân sự

Gen Z càng ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong thị trường lao động, chính vì thế việc nhảy việc thường xuyên sẽ dẫn đến nhiều biến động nhân sự
trong doanh nghiệp. Biến động nhân sự không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý của nhân viên ở lại, mà còn tác động trực tiếp tới tình hình hoạt động
kinh doanh, vận hành của doanh nghiệp.

Phần thêm hên xui ra:

1. Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
2.1. Về quan điểm chỉ đạo công tác đối ngoại
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực
hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Ba là: Nắm vững 2 mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới
hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.
Bốn là: Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan
hệ hòa bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực toàn cầu.
Năm là: Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc
của toàn dân.
Sáu là: Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảy là: Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tám là: Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp
với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
Chín là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.

2.2. Về mục tiêu đối ngoại


Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế -
xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.

2.3. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
Một là, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh
tế thế giới, Việt Nam sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn
cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam
trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý,
trong đó cần vận dụng các ưu đãi WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng hội
nhập từng bước, dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù
hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các
sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục
hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai,
minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.
Bốn là, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực
điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều
chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát
triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.
Năm là, giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong qua trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa
dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế kiểm soát và chế tài quản lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa
không lành mạnh, không phương hại đến sự phát triển đất nước, văn hóa và con người Việt Nam; kết hợp hài hòa giữa giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tiên tiến trong quá trình giao lưu với các nền
văn hóa bên ngoài.
Sáu là, xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xóa đói,
giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Bảy là, giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Tám là, phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh
tế đối ngoại: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm
tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc
phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì
một hệ thống quan hệ kinh tế quốc dân bình đẳng, công bằng cùng có lợi.
Chín là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng cơ sở đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng giai cấp công nhân trong điều kiện mới;
đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính.

2. Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới

Trước hết, thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến lược đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực hiện mục tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa
Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng
Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân
đội và công an). Đảng phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang.
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực
kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính trị. Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh vực khác. Trong
đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy,
gần 30 năm qua đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển.
3. Đường lối ngoại giao cây tre
Đảng Cộng sản Việt Nam có sự vận dụng thú vị biểu tượng cây tre vào lãnh đạo công tác ngoại giao của nước ta. Biểu tượng cây
tre “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” chính là triết lý, phương pháp luận và phương châm chỉ đạo của ngoại giao Việt
Nam. Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo “Cây tre Việt Nam” thấm đượm
tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đặc sắc của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”chính là: Mềm mại, khôn khéo,
nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc
lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết
nhu, biết cương, biết thời, biết thế, biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.

Với đường lối, chính sách ngoại giao đúng đắn, Việt Nam luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 192 trong tổng số
200 quốc gia trên thế giới; trong đó 4nước có quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối
tác toàn diện". Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế
quan trọng. Đó chính là thành công của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”!

Có thể thấy, đường lối "ngoại giao cây tre" của Đảng có những nét đặc trưng đó là: Kiên định trong mục tiêu - Nhân văn trong cốt
cách - Chủ động trong tinh thần - Linh hoạt trong hành động - Đoàn kết trong cộng đồng.

Giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp từ những lĩnh vực khác nhau, như chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… và đặc biệt là ngoại giao. Với yêu cầu đó, đường lối "ngoại giao cây tre" tiếp tục phát huy
giá trị, bài học ý nghĩa của mình trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.

Một là bài học về sự kiên định, nhất quán. Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Để vươn tới mục tiêu đó, chúng ta phải kiên định với con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, kiên định với nền tảng tư tưởng
của Đảng, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thách thức an ninh phi truyền thống còn tạo ra nhiều vấn nạn tội phạm, như lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và
phương tiện đại chúng, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước. Để ứng phó, chúng ta cần phải kiên
quyết, kiên trì trong hành động đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch. Có như vậy, nền tảng tư tưởng của
Đảng được bảo vệ, nền độc lập, tự do của dân tộc không bị xâm phạm.

Hai là bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của mọi quốc gia đều gắn liền với môi
trường khu vực và quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam không thể tách rời cộng đồng quốc tế. Để tăng gấp bội “thực lực”
ứng phó với các vấn đề nan giải mà toàn thế giới đang phải đối mặt như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo…, chúng
ta luôn phải giương cao ngọn cờ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

Ba là bài học về tinh thần trách nhiệm, dấn thân. Chính tinh thần chủ động, tích cực trong đường lối "ngoại giao cây tre" đã mang
tới bài học trong việc ứng phó với các vấn đề toàn cầu, chúng ta phải thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và “cách mạng không ngừng”,
“cách mạng triệt để”.

Bốn là lấy văn hóa làm nền tảng cho chiến lược phát triển. Trong cuộc chiến với các mối đe dọa từ an ninh phi truyền thống, điều
quan trọng nhất chúng ta cần phải có là nguồn lực nội sinh vững chắc. Gốc của sức mạnh nội sinh chính là văn hóa, là bản sắc
dân tộc.

Thế giới đang biến đổi với ngày càng nhiều thách thức an ninh phi truyền thống. Điểm tựa vững chắc cho Việt Nam trong quan hệ
đối ngoại ngày nay chính là nền tảng tư tưởng của Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã được cụ thể hóa
thành đường lối “ngoại giao cây tre”. Cây tre mang hình ảnh biểu tượng của sự kiên định nhất quán, gắn liền với sự thích ứng linh
hoạt và chứa đựng sức mạnh bền bỉ từ cội nguồn dân tộc.

Điểm đặc sắc của “ngoại giao cây tre” là thông điệp về nền ngoại giao dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc “tre xanh xanh tự bao
giờ, chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”. Đó là bản sắc, là sức mạnh cội rễ, là sự giản dị chân thành, là tinh thần kiên cường của
đất nước văn hiến ngàn năm. Không chỉ là cơ sở làm nên thành tựu, vị thế của riêng Việt Nam trên trường quốc tế, “ngoại giao cây
tre” cũng trở thành trường phái ngoại giao mà các quốc gia đang phát triển khác có thể tham khảo, để xây dựng chính sách đối
ngoại ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, đồng thời chung tay góp phần tạo dựng thế giới trên tinh thần hữu
nghị, hợp tác, cùng phát triển.

4. Cuộc viếng thăm chủ tịch TBC và bí thư NPT


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng và nhiệt liệt chào mừng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình
cùng Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Trung Quốc sang thăm cấp Nhà nước Việt Nam.

Tổng Bí thư nhấn mạnh chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra đúng
vào dịp hai nước kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (2008 - 2023), thể hiện tình cảm đặc biệt
của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đối với truyền thống hữu nghị, tầm vóc quan hệ song phương hiện nay cũng như
triển vọng tốt đẹp trong thời gian tới của quan hệ hai nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và là sự lựa chọn
chiến lược; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ trân trọng sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc đối với sự nghiệp cách mạng
và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước của Việt Nam.

Hai bên nhất trí không ngừng củng cố tin cậy chính trị, tăng cường giao lưu giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, tăng cường hợp tác
quốc phòng - an ninh thực chất hơn; đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư bền vững và sâu sắc hơn; tăng cường giáo
dục về quan hệ truyền thống quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy xây dựng nền tảng xã hội vững chắc hơn cho quan hệ hai
Đảng, hai nước; tăng cường phối hợp đa phương chặt chẽ hơn, vì lợi ích của hai nước và đóng góp tích cực vào lợi ích chung của
cộng đồng quốc tế.

Về vấn đề trên biển, hai Nhà Lãnh đạo đã đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích
cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.

Cuối cùng, sau Hội đàm cấp cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã
cùng xem và nghe giới thiệu về 36 văn bản thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực được ký kết giữa các ban, bộ ngành, địa
phương hai nước, thể hiện thành quả phong phú, toàn diện mà hai bên đạt được trong chuyến thăm lần này.

7. Toàn cầu hóa ở Việt Nam


Toàn cầu hóa trở thành xu thế từ những năm 80 của thế kỷ XX, kết nối nền kinh tế các quốc gia, dân tộc lại với nhau. Để đất nước
phát triển thì xu thế toàn cầu hóa là tất yếu. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cũng vừa là thách thức đối với Việt Nam.
Ở Việt Nam, toàn cầu hóa được biểu hiện thông qua:
+ Sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế. Việt Nam ra nhập WTO năm 2006 và sau gần 15 năm Việt Nam đã có
những bước tăng trưởng vượt trội, kinh tế chuyển mình mạnh mẽ.
+ Khi gia nhập WTO, Việt Nam là một nước có thu nhập thấp, năm 2016 khi tham gia AEC và các FTA mới, Việt Nam đã gia nhập
nhóm nước thu nhập trung bình (thấp), là một trong 32 nước có kim ngạch xuất khẩu trên 100 tỷ USD, trong đó có một số mặt
hàng đứng hàng đầu thế giới, là nước thu hút FDI ổn định nhất trong ASEAN.
+ Tính đến nay, nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm “điểm đến”, như: Microsoft, Samsung, LG,
Canon, , Toyota, Honda…
+ Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam đã thu hút sự đầu tư của rất nhiều các tập đoàn, công
ty xuyên quốc gia như trong ngành công nghiệp khai thác dầu khí sẽ có Shell (Anh – Hà Lan), Mobil Oil (Mỹ), Total (Pháp),…;
trong lĩnh vực bưu chính có Nokia (Phần Lan), Samsung (Hàn Quốc),…;
+ Ngoài ra còn các lĩnh vực điện tử, may mặc, công nghệ ô tô,… đem lại nhiều công việc cho người lao động.
+ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tăng mạnh. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã liên tục rót vốn đầu tư ra nước ngoài với
hơn 30 quốc gia và hàng tỷ USD.
+ Thị trường tài chính quốc tế mở rộng. Các ngân hàng trong nước kết nối với nhau và kết nối với ngân hàng nước ngoài thông
qua mạng viễn thông điện tử. Bên cạnh các ngân hàng trong nước, Việt Nam cũng có rất nhiều những ngân hàng nước ngoài
được hoạt động tại Việt Nam như: HSBC; ANZ Việt Nam (ANZ Bank); Standard Chartered; Shinhan Vietnam; Citibank Vietnam,…
● Cơ hội
- Tham gia toàn cầu hóa, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tăng cường kết nối, thúc đẩy hợp tác và phát triển trong khu vực, phát
triển kinh tế đất nước, nâng cao vị thế quốc gia

- Tham gia tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa một cách tích cực, chủ động cũng là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh quảng bá lịch
sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam ra thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên
sinh thái, di sản văn hóa thế giới cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản
sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội tham
gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa,
chống lại nhân loại...
- Cơ hội tiến nhanh, bắt kịp nhờ tận dụng động lực phát triển từ CMCN 4.0, và lợi thế từ các FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham
gia để đạt mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 đã được Đảng ta xác định là: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Việt
Nam đang đẩy mạnh thực hiện kế hoạch chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

- Việc tích cực, chủ động tham gia toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập quốc tế, nhất là tham gia các FTA thế hệ mới còn tạo ra cơ
hội quan trọng để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, chuyển đổi mô hình phát triển. Các FTA nói riêng, tiến trình toàn cầu hóa,
khu vực hóa nói chung, buộc Việt Nam phải điều chỉnh những luật lệ hiện tại để chúng hiệu quả hơn, minh bạch hơn và tiến bộ
hơn, phù hợp hơn với các “sân chơi” chung của khu vực, toàn cầu.
● Một số thách thức
- Thách thức “chọn bên” sẽ gia tăng trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung diễn ra gay gắt, xu hướng tách rời giữa hai
nền kinh tế đang dần hình thành.
- Thách thức về độc lập, tự chủ, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Trong tiến trình tham gia toàn cầu hóa, khu vực hóa, Việt Nam đã
mở cửa nền kinh tế (với 17 FTA đã ký kết và đang đàm phán), hội nhập mạnh mẽ. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã mở ra nhiều cơ
hội hợp tác phát triển, đưa Việt Nam vào top 20 nền kinh tế xuất khẩu lớn nhất thế giới từ năm 2021, song đang và sẽ đặt ra
những thách thức lớn về độc lập, tự chủ.
- Gia tăng các thách thức về văn hóa. Toàn cầu hóa, khu vực hóa những thập kỷ tới diễn ra trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 diễn ra
mạnh mẽ. Theo đó, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng”
văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội nhưng cũng làm xói mòn các giá trị xã hội.
- Việt Nam cũng đối mặt nguy cơ tụt hậu và các thách thức phát triển khi tiến trình hội nhập, tham gia toàn cầu hóa, khu vực hóa
của Việt Nam vì Việt Nam hiện là nước đang phát triển có trình độ công nghệ vào loại thấp so với khu vực và toàn cầu, nếu không
có bước phát triển đột phá về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, thì sẽ tụt hậu xa hơn so với các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới trong những thập kỷ tới.

8. Sự nghiệp đổi mới:


● Chung:
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân Việt Nam đã đạt
đượcnhững thành tựu to lớn. Song, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu thuẫn phức
tạp mà trong bài viết này mới điểm danh đại thể 8 mâu thuẫn. Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn là điều kiện căn bản
để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới.

Nhà triết học Hêgen đã khẳng định: Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Thực tiễn phát triển đất nước ta hiện nay một
lần nữa khẳng định tính đúngđắn của luận điểm đó.
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tíchcực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện
thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết
định trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày
càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước.

Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân. Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế đã phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần làm
cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao phó. Những thành tựu đó đã làm
cho sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

Những bài học được rút ra từ 20 năm đổi mới giúp chúng ta hoàn thiện hơn nữa đường lối, chủ trương, chính sách và cách thức
triển khai trong tổ chức thực tiễn sẽ góp phần đẩy mạnh hơn sự phát triển của đất nước. Sắp tới, việc tham gia WTO là bước hội
nhập kinh tế quốc tế ở tầm cao nhất về cấp đối tác sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển…

Đó là những yếu tố quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới, vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt
những mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Khó khăn này sẽ tăng lên rất lớn, đặc biệt là
đối với doanh nghiệp, khi AFTA có hiệu lực đầy đủ đối với nước ta và nước ta chính thức gia nhập WTO. Nhiều nguồn lực và tiềm
năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt. Thất thoát, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong
quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
● Liên quan tới triết
1. Khai thác và phát huy tiềm năng con người: Triết học Mác-Lênin khẳng định vai trò quyết định của con người trong sự phát triển
xã hội. Việc áp dụng triết lý này trong đổi mới giúp khai thác và phát huy tiềm năng của con người, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân
phát triển và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước.

2. Xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ: Triết học Mác-Lênin theo đuổi mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, việc áp dụng triết lý này đòi hỏi chú trọng đến việc bảo đảm quyền lợi và động viên con
người, tạo điều kiện công bằng để mọi người đạt được thành công và phát triển.

3. Phát triển nhân lực chất lượng cao: Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cần xây dựng một lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn cao, linh hoạt và sáng tạo. Triết học Mác-Lênin đề cao việc đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, từ đó góp phần xây dựng
một đội ngũ công nhân, kỹ sư, và nhà quản lý chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội.

4. Xây dựng tư duy khoa học và lý luận: Triết học Mác-Lênin đặt sự coi trọng vào việc áp dụng phương pháp khoa học và lý luận
trong công cuộc phát triển xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới, việc nắm bắt và áp dụng các

nguyên lý khoa học và phương pháp lý luận giúp nâng cao hiệu quả công việc, đẩy mạnh sự sáng tạo và đổi mới trong mọi lĩnh
vực của đời sống và kinh tế.

Tóm lại, triết học Mác-Lênin về con người có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay bằng cách tôn trọng
và phát triển tiềm năng con người, xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ, phát triển nhân lực chất lượng cao, và áp dụng tư
duy khoa học và lý luận trong công cuộc phát triển xã hội.

9. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam


Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải và khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”. Trong thời kỳ đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử”(2).

Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chế độ xã hội ưu việt và vì nhân dân

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thể hiện sự nhất quán, khẳng định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
đem lại tự do, hạnh phúc của nhân dân: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không
phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ
của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng, Nhà nước luôn luôn thực hiện quan điểm nhất quán là “dân là gốc”, với phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại hiện nay

Điều ấy được kiểm chứng rõ trong tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sau khi giành được độc lập đã bỏ qua sự phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta phải
trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh với quyết tâm chống lại ách đô hộ và xâm lược
của đế quốc, thực dân, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là đường lối cơ bản, xuyên suốt và nhất
quán của cách mạng Việt Nam.

Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại bước sang giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, có nhiều thành tựu trong giải
phóng, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ, nên đã đạt được năng suất lao động cao. Song, chủ nghĩa
tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó; các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, các tệ nạn
xã hội, nhất là khi đại dịch COVID-19 diễn ra lại càng làm bộc lộ rõ bản chất chế độ chính trị - xã hội của các nước này không vì
sức khỏe, hạnh phúc của đại đa số nhân dân lao động. Các phong trào đấu tranh phản kháng xã hội đã bùng nổ mạnh mẽ, với
những nội dung và hình thức mới ở nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua, càng làm bộc lộ rõ sự thật về những mâu
thuẫn mang tính bản chất không thể hóa giải của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ gắn với thực hiện độc lập, tự chủ và hiện đại
hóa đất nước
Công cuộc đổi mới, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cùng các nguồn lực khác, như phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động, tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho
đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới.

Về định hướng phát triển lý luận thời gian tới

- Tăng cường tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn nữa lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
dưới tác động của những biến đổi của các nhân tố thời đại và của thế giới hiện nay. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế lớn, song chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, trở ngại.

- Đang ở chặng đường “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và phấn đấu trở thành “nước phát triển, thu nhập cao”,
thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..

- Đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao… đưa đất nước vững bước tiến lên, phát
triển nhanh và bền vững”(7). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững
vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn của đất nước để làm rõ
tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

- Cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa
học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại,
không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

Giá trị của nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Về giá trị lý luận: Thời gian tới, yêu cầu cấp thiết tiếp tục đặt ra cho công tác lý luận là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách quan về những thành tựu đã đạt được và
những bất cập, hạn chế, khuyết điểm; để có nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về giá trị tư tưởng: Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có
Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền
tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam trong công cuộc đổi mới.

Về giá trị thực tiễn: Với Việt Nam, những thành tựu mà đất nước đạt được trong 35 năm đổi mới chứng minh rằng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn nhất
quán, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về giá trị tổ chức và triển khai: Việc làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị dẫn dắt trong tổ chức quán
triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong thực tiễn theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ quan,
đơn vị, chức trách của mỗi cán bộ, đảng viên.

You might also like