Professional Documents
Culture Documents
- Đặt vấn đề
- Khái niệm
- Tính chất
- Ý nghĩa
- Kết luận (liên hệ bản thân)
I. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Đặt vấn đề:
Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề giữa tư duy và tồn tại và thực chất là mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Lịch sử của triết học từ trước đến nay luôn là lịch sử đấu tranh không ngừng nghỉ của các trường phái triết học, đấu
tranh của các hệ tư tưởng, các khuynh hướng khác nhau trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Mỗi chủ nghĩa lại cho
rằng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức khác nhau. Vậy trong triết học Mác – Lê nin, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ
bản thân như thế nào với mỗi người.
Sau đây, em sẽ trình bày những thông tin cần thiết liên quan đến mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Liên hệ:
Ví dụ 1:
- Cá nhân A sinh sống ở vùng sâu. vùng xa không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế,
cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức là về điều kiện cơ sở hạ tầng không đáp ứng nên cá nhân A
không có kiến thức, hiểu biết nhiều về các sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với cá nhân
B - sống ở Thủ đô, từ nhỏ cá nhân B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông tin hiện đại, có cha mẹ cũng như thầy cô
chỉ dạy, vì vậy cá nhân B dễ dàng sử dụng và tiếp cận các công nghệ thông tin dù là những công nghệ mới nhất. Như vậy, có thể
thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức.
- Hiểu được tính chất vật lý của thép chế tạo máy như:
- mật độ của thép: 1,85 kg/vm3
- Hệ số co giãn nhiệt: 12,2
- Độ dẫn nhiệt: 42,6 w
- Nóng chát ở môi trường nhiệt độ trên 1000 độ C. Do đó, thay vì thực hiện các phương pháp thủ công như trước kia thì con người
đã đầu tư, sản xuất ra được những nhà máu gang thép để sản xuất ra các máy móc, sản phẩm với đủ mọi loại kích cỡ.
Ví dụ 2:
Áp lực đồng trang lứa (Peer pressure) là sự tác động, ảnh hưởng từ những người cùng lứa tuổi hoặc cùng một nhóm xã hội được
cho là thành công hơn, hạnh phúc hơn đối với một cá nhân. Điều này có thể gây ra các cảm xúc như tự ti, bất an và lo lắng với
người bị áp lực. Áp lực đồng trang lứa có thể xuất phát từ từ bên trong cá nhân hoặc do các yếu tố xung quanh tác động vào.
1. Kinh tế phát triển:
- Vật chất: Kinh tế phát triển qua từng năm (VD: Kinh tế những năm 1995-2012 đang phát triển sau thời kỳ khủng hoảng năm 1980
và quá trình phục hồi kinh tế thập niên 80 và đầu 90 (genY))
=> giới trẻ lớn lên trong điều kiện vật chất đủ đầy hơn các thế hệ khác.
- Ý thức: Vì đã quen sống trong sự đầy đủ về vật chất => Họ kỳ vọng bản thân phải tiếp tục duy trì và phát triển bối cảnh đó.
=> Từ ý thức đó, nó đã tác động ngược trở lại và quyết định hành động thực tiễn của người trẻ (vật chất) đó là họ phải tiếp tục lao
động không ngừng để có duy trìphát triển kinh tế.
Thế nhưng khi thế hệ trẻ đến độ tuổi lao động, nền kinh tế thị trường ngày càng có sự cạnh tranh sâu sắc, trong khi hoạt động của
các doanh nghiệp lại gặp tình trạng khó khăn, lực lượng lao động đông hơn, vì vậy không thể đáp ứng đủ nhu cầu việc làm.
- Thị trường lao động cạnh tranh và ít cơ hội việc làm => Giới trẻ phải cạnh tranh hơn dẫn đến những áp lực về mặt tâm lý, chẳng
hạn như áp lực đồng trang lứa
- Nền kinh tế gặp khó khăn => Việc duy trì và phát triển hoàn cảnh vật chất ngày càng khó hơn cũng dẫn đến áp lực
- Kết luận:
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức
nên con người cần phải ý thức được những vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách
quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất
nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể
hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh
trung học hay một học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này
khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp
thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là
những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một
lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt
nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục
diễn ra, tạo nên sự vận động không ngừng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt
đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.
● Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
- Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng kiến thức ở bậc đại học tăng lên đáng kể
so với học ở bậc trung học phổ thông.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ
ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức
mà còn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc đại học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay
đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới.
Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là hoàn thành các
mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên
lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức
tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy
rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà
mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích
cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
- Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới
hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu
cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng, điểm
nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về
lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải đến trường để học tập, tiếp
thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô hay
các kì thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh
viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là
một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống
và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức
của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích
luỹ về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử, sinh viên có thể gian
lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
- Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có
ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh
viên phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn
học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước
nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy,
trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả
học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa là sau khi hoàn
thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ
như trước khi lên Đại học sinh viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra. Hay trong
quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt
đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học
cũng không thể đảm bảo đủ lượng kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao
trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự
biến đổi về chất theo hướng tích cực
- Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao
tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua
hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những
kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên
liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt
hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn
tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu
cho mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được những thứ “chất” lượng
nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn
ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành
trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và
tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, VN đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng kinh tế
- xã hội diện mạo đất nước có nhiều thay đổi.
1. Trước CM tháng 8:
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hơn 80
năm đó hộ của thực dân Pháp, kinh tế VN chìm đắm trong đói nghèo và lạc hậu. Nông nghiệp và công nghiệp chịu tác động nặng
nề của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc hậu.
Nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật, hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và phụ thuộc
vào thiên nhiên. Năng suất các cây trồng rất thấp. Vào thời kỳ 1930-1944, năng suất lúa bình quân 12 tạ/ ha trong khi Thái Lan là
18
tạ/ha, Nhật Bản là 34 ta ha. Sản xuất công nghiệp rất nhỏ bé và quẻ quật, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ.
Nguyên nhân: Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất một thành
phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là một bộ phận đối lập với kinh tế
XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xóa bỏ, làm như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ SX đi quá xa so với trình độ phát triển
của lượng lực sản xuất. Tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một bên là quan hệ sản xuất đã được
xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LL.SX. Hay nói cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém, chưa tích
lũy đủ về lượng (tính chất và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ sản xuất) làm cho đất nước lắm vào tỉnh trang khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 1981-1985 nhiều Nghị quyết và Quyết định quan trọng của Đảng và chính phủ được ban hành
từng bước nhằm sửa đổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp.
Đại hội toàn quốc lần thứ V bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần. Thừa nhận nền kinh tế miền Bắc tồn tại 3
thành phần quốc doanh, tập thể và cả thể. Nền kinh tế phía Nam gồm 5 thành phần: quốc doanh, tập thể, công tu hợp danh, tư
bản tư nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu cho sự thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh tạo tiền đề cơ bản cho sự
phát triển kinh tế thị trường
Năng suất lúa không ngừng tăng, không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà VN đã xuất khẩu lương thực ra quốc tế, sản lượng
không ngừng tăng. Từ nước thiếu lương thực VN trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới liên tục từ năm 1989 đến
nay.
Sản xuất các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên thành tựu và khởi sắc của công nghiệp
thực sự bắt đầu trong những năm 90.
Bình quân 5 năm 1991-1995, tốc độ tăng trường giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7% trong đó khu vực nhà nước
tăng 15%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6% Trong 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển ổn định và tăng
trường với nhịp độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13.8% năm 1998 tăng 12.1%, năm
1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17.5%
Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và cả số lượng, đáp ứng
nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu Các sản phẩm xuất khẩu thường là các sản phẩm thỏ như than, dầu thô, kim loại
nặng...
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước
khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn
hẳn khu vực trong nước.
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản
phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp FDI. Trong đó công nghiệp quốc
doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Hơn nữa với phương châm VN muốn làm bạn và đối tác chiến lược kinh tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác
chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết
WTO.
- Kết luận:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dẫn dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực
hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên chúng ta cũng sẽ không thể nằm ngoài điều đó. Để có một tấm
bằng Đại học chúng ta phải tích lũy đủ số lượng các học phần và để học phân có kết quả tốt chúng ta cần phải tích lũ dù sống
lượng đơn vị học trình của các môn học. Như vậy các kỳ thi có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thì là các điểm nút và kết quả kỳ
thi đạt yêu cầu là bước
nhảy, bởi kết quả kỳ thi tốt - bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn tích lũ trí thức trong quá trình học tập rèn luyện của chúng ta.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) để làm biến đổi về
chất (Kết quả học tập) theo quy luật. Cũng như trong hoạt động của mình ông cho ta chẳng thường có câu "tích tiều thành đại",
"năng nhật, chặt bị” đó sao
Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Quy luật
này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.
- Liên hệ:
● Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất: ta xét đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất là vấn đề rất phức
tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác – Lênin thì: lực lượng sản
xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất
là yếu tố vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn
phù hợp nữa. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Để mở đường cho lực
lượng sản xuất cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt, cần
được giải quyết.
Để giải quyết được mâu thuẫn đó cần tiến hành cách mạng xã hội. Ví dụ như công cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta hiện
nay. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thể hiện tính chất cách mạng rõ nhất của công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay là phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa,”dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính khoa học. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nghĩa là từng bước xây dựng nền sản xuất tiên tiến lực lượng sản xuất phát triển phù hợp với sự phát
triển của quan hệ sản xuất. Đây là phương thức tốt nhất để đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ nghèo nàn,
lạc hậu, nhằm tạo điều kiện cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển.
Thứ hai: ta xét mâu thuẫn giữa cái hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị trường.
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
được áp dụng triệt để. Sự tồn tại của hai hình thức sở hữu này là tất yếu khách quan vì nó phù hợp với điều kiện lịch sử khi tiến
hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH. Sau khi giành được chính quyền, công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư
nhân khác nhau. Một là hình thức sở hữu tư nhân TBCN, có thể giải quyết bằng cách tước đoạt hoặc “chuộc lại” để chuyển sang
sở hữu toàn dân. Hai là với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì có thể dùng biện pháp giáo
dục, vận động, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển sang sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hóa hai hình thức. Sở
hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện nhiều mâu
thuẫn. Thực tiễn cho thấy rằng một nền kinh tế nhiều thành phần sẽ kéo theo sự đa dạng về hình thức sở hữu chứ không phải chỉ
hai hình thức sở hữu như trong nền kinh tế cũ.
Như chóng ta biết,hợp tác xã không phải là hình thức đặc trưng cho nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà là
hình thức sở hữu tiến bọ trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lênin đã khẳng định: “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ
nghĩa”.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất
phải hợp tác với nhau mới có khả năng phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời
cho nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù
hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Thứ ba: xét mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN, yếu tố con người giữ vai trò
cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và
văn hóa con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của XHCN, chóng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu
thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển con người xã hội
chủ nghĩa.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống nhanh chóng, góp
phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn.
Đây là kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật xã hội. Quá trình
biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.
Những phân tích trên cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực
tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội, giữa quá trình xây dựng con người vừa có sự thống
nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra
những độc tố hủy hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Ở nước ta, mâu thuẫn giữa nền
kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người CNXH được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hộ mà là thành tựu nền phát
triển văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Như
vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa nền kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị
trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị
sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần phát huy tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngõa, hạn chế, khắc
phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động kinh doanh phải hướng vào phục vụ xây dựng nguồn lực
con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm xóa bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bấp chấp đạo lý, coi
thường các giá trị nhân văn. Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mĩ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân
téc như nội dung của nghị quyết T.W V đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết
mâu thuẫn này.
Ví dụ 2:
- Ví dụ về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập được thể hiện qua mối quan hệ giữa giai cấp
thống trị và bị trị trong xã hội xưa. Họ đối lập với nhau về quyền lợi, ý chí. 2 giai cấp này luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quyền
lợi của mình, luôn luôn tác động đến nhau.
- Ví dụ khác như người kinh doanh và người tiêu dùng. Người kinh doanh thì mong muốn bán được giá cao để thu được nhiều
lợi nhuận còn người tiêu dùng thì mong muốn có giá thành rẻ và hợp lý. Hai lợi ích của hai đối tượng này đối lập với nhau giúp
điều chỉnh thị trường và quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
- Ví dụ nữa là sự đối lập về lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động. Người lao động thì mong muốn mức
lương cao hơn cho công sức của mình làm việc. Còn người lao động lại muốn trả tiền lương thấp cho người lao động. Hai lợi ích
đối lập này đã có sự tác động, đấu tranh lẫn nhau.
- Kết luận:
1. Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn, ta phải đi
sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra
những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa những mặt đối lập đó.
2. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn.
Khi phân tích mâu thuẫn, ta phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn. Ta phải xem xét vai trò, vị trí và mối
quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác
động qua lại giữa chúng.
Chỉ có như vậy ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn.
3. Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn.
Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và
lực lượng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Một mặt, ta phải chống thái độ chủ quan, nón vội. Mặt khác, ta phải cực kỳ thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều
kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi.
Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Do đó, ta phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một
cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Ví dụ:
- Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…
- Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các địa phương.
- Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…
- Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển
hết mọi tiềm năng.
Ví dụ 2:
1. Vai trò của nhà nước trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay
-Nhà nước ta đã có những phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế trong nước và thế giới một cách khách quan, để ra
những đường lối, chính sách, pháp luật đúng dẫn xóa bỏ cơ chế quân lý tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới đất nước nói chung và kinh tế nói riêng tiến hành 25 năm đã đạt được
những thành tựu to lớn.
- Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô Bằng pháp luật nhà nước điều tiết, quản lí nền kinh tế, ban hành những
chính sách kinh tế, điều 26 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân,
của tập thể với lợi ích của Nhà nước”. Thông qua pháp luật Nhà nước hoạch định các chính sách kinh tế, điều tiết quá trình sản
xuất trao đổi và phân phối trong xã hội, xác định các hành vi bị cấm đối với các chủ thể kinh tế và hành vi được phép đối với cơ
quan và cản bộ công chức nhà nước, tạo môi trường thuận lợi vững chắc
Chính sách đối với các thành phần kinh tế: nhà nước tôn trọng và thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Trong đó,
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là công cụ để nhà nước thực hiện vai trò định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Nhà nước đã chú trọng thực hiện hàng loạt các biện pháp pháp lí và tổ chức thực hiện để thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài
nước. Nhà nước chủ trương phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn dài hạn và trung hạn...chỉnh sách thu hút vẫn đầu tư
trong thời gian qua đã tập trung động viên các nguồn tài chính với quy mô ngày càng cao cho sự phát triển kinh tế, khối lượng đầu
tư nước ngoài những năm gần đây tăng nhanh, Trong năm 2010, Việt Nam có 107 dự án đầu tư ra nước ngoài tại 25 quốc gia và
vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,969 tỉ USD.
- Chính sách hội nhập nền kinh tế quốc tế: Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nhà nước, quan hệ
kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)....Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký
hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
- Nhà nước định hướng, hướng dẫn, dư bảo cho các chủ thể kinh tế hoàn thiện kế hoạch của chính họ và thông qua đó đạt đến sự
tăng trường cho toàn bộ nền kinh tế, hoạt động kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân của nhà nước đã tập trung nguồn lực cho mục
tiêu phát triển, bảo đảm được các cân đối tổng thể và gắn được mục tiêu tăng trường kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội một
cách chủ động, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách bền vững trong hiện tại và tương lai.
- Công tác kế hoạch hóa của Việt Nam được đổi mới theo những hướng thích hợp, cụ thể là nhà nước thực hiện giảm mạnh mẽ
hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, tạo điều kiện chủ động sản xuất kinh doanh cho các thành phần kinh tế, xóa bỏ mạnh mẽ
chế độ bao cấp với sản xuất, kinh doanh, áp dụng chế độ huy động vốn theo cơ chế tín dụng nhằm phát huy các nguồn lực cho cơ
chế phát triển kinh tế.
- Các chương trình mục tiêu mà nhà nước ban hành đã tập trung giải quyết nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế nhất là vấn đề việc
làm cho người lao động.
- Nhà nước với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng đã để những quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật đúng
đắn, những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được các thành tựu quan trọng. Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838
nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt
gần 45 tí USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gần
sản xuất với thị trường. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ
tăng nhanh và liên tục, phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản
xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn
pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
- Tăng cường công tác giám sát, đặc biệt là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị
trường. Từng bước tổ chức sắp xếp nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lí, phù hợp với điều kiện thị trường, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, hình thành
hoàn chỉnh, đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng
hóa tiền tệ, sử dụng kết nhiều phương pháp quản lí trong đó các phương pháp kinh tế là chủ yếu. Phát huy mạnh mẽ động lực
khoa học kĩ thuật để đầy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế, các chủ thể kinh doanh. Không ngưng xây dựng hoàn thiện hệ thống
pháp luật, nhất là pháp luật về kinh tế. Tăng cường pháp chế và trật tự pháp luật trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chuẩn
bị các điều kiện và thể chế cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức trong tương lai.
+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường để
tạo ra dộng lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước
ngoài, nâng cao tay nghề, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của thể giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN ngày càng đi lên hội nhập toàn cầu
hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào sự nghiệp cách mạng VN đặc biệt là vận
dụng nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.
Ví dụ 2:
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Với nền kinh tế còn non yếu Đảng và nhà nước đã quyết định xu hướng phát triển nền
KTTT nhưng theo định hướng XHCN.
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. ở đây cái chung là nền KTTT trong xu
hướng, đặc điểm phát hiên chung là nền kinh tế mở cửa nhưng nó được đưa vào ứng dụng tạ môi trường và hoàn cảnh Việt Nam
chúng ta thì nó tồn tại trong nền kinh tế nước nhà đi theo định hướng XHCN. Thông qua môi trường hoàn cảnh xu hướng của nến
kinh tế Việt Nam hoà nến KTTT có những đặc điểm chung, nhưng khi nó đuiược đưa vào nền kinh tế nước ta theo định hướng
XHCN thì ngoài những đặc điểm chung nó còn mang những đặc thù riêng mà chỉ thông qua cái đặc thù riêng đó nó biểu hiện sự
tồn tại thích nghi của mình.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung: tức là không có cái riêng tồn tại độc lập, mà chỉ tồn tại trong mối quan hệ với
cái chung. Nền KTTT được ứng dụng vào nước ta theo định hướng XHCN nó trở thành KTTT với
những cái đặc thù mới. Nó hoà nhập, tồn tại và thể hiện trong nền KTTT thế giới.
Điều cần đưa ra ở đây là cái chung và cái riêng luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chúng luôn xen lẫn và ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau.
Với tư cách là cái riêng, cái đặc thù định hướng XHCN, trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu, nguyên tắc và
nhiệm vụ kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta câní xây dựng. Việt Nam là quốc gia có nền
kinh tế còn lạc hậu non nớt. Với quá nhiều tàn dư của xã hội cũ, những quan điểm cổ hủ về nền kinh tế bao cấp đã dần dần được
xoá bỏ.
Với môi trường kĩ thuật công nghệ còn yếu kém. Với thời kì dang quá độ lên CNXH nó còn phức tạp và quá nhiều khó khăn phải
giải quyết, những mục tiêu để đạt được. Vây với môi trường, hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam theo định hướng mà Đảng đã đề ra.
Nền kinh tế Việt Nam theo định hướng XHCN ( là một chủ thể riêng ) có những đặc thù riêng. Vậy để kết hợp cái chung với nền
KTTT thì nền kinh tế Việt Nam sẽ có một nền KTTT mang nhiều đặc tính riêng phát triển theo xu hướng mà Đảng đã đề ra.
Trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng này, không thể lấy các chung làm cái chủ đạo, cũng như không thể lấy nền KTTT
làm cái quyết định mà nhất thiết phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ cái chung-
KTTT với cái đặc thù định hướng XHCN.
X. Cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả
-Liên hệ:
● Ôi nhiễm môi trường:
- Nguyên nhân
- Về ý thức của người dân: Nhiều người hiện nay thường có thói quen xả rác không đúng nơi quy định; xả nước thải sinh hoạt trực tiếp ra bên
ngoài môi trường, kể cả là chất thải rắn; tự ý đốt rác thải như bao bì nilon, rơm rạ; xử lý xác chết động vật như gà, vịt, lợn không đúng nơi quy
định; chặt phá khai thác rừng quá mức,...
- Về phía các cơ quan ban ngành: Nhiều cơ quan quản lý không thực sự nghiêm ngặt trong việc xử phạt các doanh nghiệp xả thải ra bên ngoài
môi trường. Không thường xuyên tổ chức kiểm tra, răn đe các nhà máy, xí nghiệp sản xuất,... Nước thải từ đây bị đổ thẳng trực tiếp ra bên ngoài
môi trường mà không được thông qua xử lý.
- Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho môi trường bị ô nhiễm là do yếu tố thiên nhiên. Các hiện tượng như động đất, sóng thần, bão lũ, vòi
rồng,... làm biến đổi các tính chất và thay đổi cấu trúc của đất, từ đó dẫn tới nhiều hiện tượng ô nhiễm môi trường nói chung.
- Kết quả:
- Về vấn đề sức khỏe của con người: Ô nhiễm môi trường tác động trực tiếp qua con đường ăn uống và tiếp xúc với những khu vực bị ô nhiễm
môi trường nước hoặc đất. Khi này, sẽ dẫn đến rất nhiều loại bệnh nguy hiểm như tiêu chảy, viêm gan, dịch tả, thiếu máu,... và nhiều bệnh lý
liên quan tới hệ hô hấp và đường tiêu hóa.
- Về môi trường sống, ô nhiễm môi trường có thể dẫn tới các hiện tượng mưa axit, khiến cho các loài động - thực vật không thể sinh sôi và phát
triển.
- Ô nhiễm môi trường gây ra những tiêu cực đến vấn đề kinh tế - xã hội. Môi trường bị ô nhiễm sẽ khiến cho vấn đề cảnh quan của đất nước đó
bị ảnh hưởng, từ đó có thể khiến cho sự phát triển của ngành du lịch bị cản trở. Đồng thời, các chi phí về xử lý ô nhiễm môi trường cũng trở nên
tốn kém, làm ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia.
● Nhảy việc:
- Nguyên nhân
- Vào đời trong bối cảnh thị trường việc làm đang rất sôi động
Bước vào đời trong thời kỳ thế giới phẳng, mọi thứ đều có thể hội nhập và kết nối dễ dàng khiến gen Z có nhiều cơ hội hơn các thế hệ trước
trong vấn đề tìm kiếm việc làm. Ngày càng có nhiều Doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, xu hướng khởi nghiệp đang nở rộ khiến
cho cơ hội việc làm của gen Z ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, gen Z trưởng thành và tiếp xúc với nền giáo dục tiên tiến hơn so với thế hệ trước, mạnh về kỹ năng ngoại ngữ và tin học. Do đó, họ
tự tin vào bản thân và luôn kỳ vọng vào một môi trường làm việc xứng đáng với những gì họ đang có.
Các bạn gen Z có vô số cơ hội việc làm cùng với đó là không chịu áp lực về tài chính cũng như gia đình nên tình trạng nhảy việc liên tục là điều
dễ hiểu. Gen Z nghĩ rằng được tự do làm những điều mình thích và dành nhiều thời gian để tìm kiếm thêm nhiều cơ hội việc làm trước khi lựa
chọn một nơi làm việc phù hợp.
Mạng xã hội là nơi cho phép mọi người được tự do bày tỏ ý kiến. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến văn hóa nhảy việc của gen Z.
Nhiều hội nhóm được thành lập và xuất hiện nhiều các khẩu hiệu như “Hãy sống vì bản thân chứ đừng sống vì suy nghĩ hay ước muốn của người
khác”, “hãy tự do làm những điều mình thích,…”
Những tư tưởng như vậy rất dễ bị các bạn trẻ hiểu lầm và đi lệch hướng. Các bạn dễ bị chi phối bởi những nguồn thông tin, xu hướng sống vì
bản thân. Bởi vậy, nếu không tự làm chủ được bản thân, các bạn rất dễ có những suy nghĩ và hành động sai lầm.
Gen Z được sinh ra và lớn lên trong thời đại số, được tiếp cận kiến thức nhanh chóng và văn hóa, công nghệ hiện đại,… Thế hệ này rất ham học
hỏi, năng động và sáng tạo. Do vậy, các bạn trẻ thường có suy nghĩ muốn khám phá và trải nghiệm những điều mới mẻ hơn trong công việc.
Nhiều bạn trẻ làm việc chưa đến 1 năm sau đó nhảy việc để tìm đến một môi trường mới. Họ cho rằng, môi trường cũ đã nhàm chán, không có
nhiều điều kiện để cho họ học hỏi và phát triển nên không ngại thay đổi.
- Chưa hình thành định hướng phù hợp trong tương lai
Các bạn chỉ mới ra trường đi làm nên vẫn chưa hình dung và định hướng rõ ràng cho tương lai của bản thân. Khi làm việc tại những môi trường
không phù hợp, gen Z thường bị áp lực ảnh hưởng đến “sức khỏe tâm lý”. Chính vì thế, nhiều bạn trẻ lựa chọn nghỉ việc khi cảm thấy rằng công
việc khó khăn và gây nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống.
Gen Z muốn được thể hiện bản thân, ham học hỏi và thích sáng tạo. Vì thế, các bạn rất dễ bị tổn thương trước những lời phê bình hay bất đồng
quan điểm với quản lý, đồng nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều gen Z tự tin rằng họ có thể tìm được công việc mới dễ dàng, vậy nên gen Z không quá
lo lắng về việc có nên nhảy việc hay không.
Ngoài những vấn đề trực tiếp từ gen Z thì việc nhảy việc cũng một phần do cách thức hoạt động của doanh nghiệp. Các bạn trẻ có những kỳ
vọng cao nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa đáp ứng đủ các yêu cầu từ môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến,… Điều này khiến cho các bạn
gen Z bị vỡ mộng và có xu hướng nghỉ việc cao.
- Kết quả
1. Đối với bản thân ứng viên
- CV “không đẹp” trong mắt nhân sự
Sự trung thành và gắn kết lâu dài với công ty là điều các nhà tuyển dụng luôn mong muốn. Khi nghỉ việc quá nhiều, các nhà tuyển dụng sẽ nghi
ngờ về thái độ làm việc cũng như mức độ trung thành của bạn. Ngoài ra, chuyển đổi công việc thường xuyên khiến bạn không có thời gian để
đạt được những thành tích đáng kể.
Như vậy, nếu nhìn thấy bạn liên tục nhảy việc trong thời gian ngắn hay không có những thành tích nổi bật trong CV thì nhà tuyển dụng sẽ phải
cân nhắc rất nhiều. Bạn cũng không được chú ý đến khi không có những bằng chứng cụ thể về khả năng của bản thân.
Do vậy, việc bạn biết nhiều lĩnh vực nhưng không chuyên về một công việc nào đó sẽ gây cản trở trong tương lai của chính bạn.
3.1.3 Nhà tuyển dụng cảm thấy e ngại khi đầu tư vào bạn
Khi biết bạn có thể nhảy việc bất cứ lúc nào, nhà tuyển dụng sẽ cân nhắc khi đầu tư vào bạn. Các doanh nghiệp thường đầu tư cho việc đào tạo
và phát triển nhân viên từ 1 đến 2 năm. Nếu bạn thay đổi công việc thường xuyên, các nhà tuyển dụng sẽ đánh giá bạn là người dễ bỏ cuộc và
không trao cho bạn những cơ hội để phát triển bản thân.
Doanh nghiệp cần nhiều thời gian để nhìn thấy sự thể hiện, kỹ năng của bạn. Do vậy, chuyển việc thường xuyên bạn cũng sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội
thăng tiến hơn.
Những nhân viên trung thành thường sẽ được giữ lại nếu hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn. Với kiến thức chuyên môn và có hiểu biết
rõ về công ty, những người lâu năm thường sẽ có nhiều lợi thế hơn khi công ty cắt giảm bớt nhân sự. Chính vì vậy, đối với một nhân viên
thường xuyên nhảy việc thì nguy cơ bị sa thải sẽ rất cao.
Thông thường, doanh nghiệp sẽ mất khoảng 1 đến 2 tháng để đào tạo và giúp nhân viên mới học tập và làm quen với công việc với môi trường
làm việc mới. Sau đó, công ty dành 5 đến 6 tháng để mở ra các chương trình đào tạo chuyên sâu giúp nhân sự phát triển bản thân cũng như hiểu
rõ hơn về sản phẩm, khách hàng.
Chính vì vậy, nhân viên nhảy việc thường xuyên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lực trong quá trình đào tạo những nhân viên mới. Điều này gây
lãng phí chi phí của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo.
Gen Z càng ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong thị trường lao động, chính vì thế việc nhảy việc thường xuyên sẽ dẫn đến nhiều biến động nhân sự
trong doanh nghiệp. Biến động nhân sự không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý của nhân viên ở lại, mà còn tác động trực tiếp tới tình hình hoạt động
kinh doanh, vận hành của doanh nghiệp.
1. Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
2.1. Về quan điểm chỉ đạo công tác đối ngoại
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực
hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Ba là: Nắm vững 2 mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới
hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.
Bốn là: Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan
hệ hòa bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực toàn cầu.
Năm là: Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc
của toàn dân.
Sáu là: Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảy là: Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tám là: Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp
với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
Chín là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
Một là, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh
tế thế giới, Việt Nam sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn
cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam
trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý,
trong đó cần vận dụng các ưu đãi WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng hội
nhập từng bước, dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù
hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các
sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục
hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai,
minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.
Bốn là, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực
điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều
chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát
triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.
Năm là, giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong qua trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa
dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế kiểm soát và chế tài quản lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa
không lành mạnh, không phương hại đến sự phát triển đất nước, văn hóa và con người Việt Nam; kết hợp hài hòa giữa giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tiên tiến trong quá trình giao lưu với các nền
văn hóa bên ngoài.
Sáu là, xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xóa đói,
giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Bảy là, giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Tám là, phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh
tế đối ngoại: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm
tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc
phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì
một hệ thống quan hệ kinh tế quốc dân bình đẳng, công bằng cùng có lợi.
Chín là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng cơ sở đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng giai cấp công nhân trong điều kiện mới;
đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính.
2. Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới
Trước hết, thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến lược đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực hiện mục tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa
Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng
Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân
đội và công an). Đảng phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang.
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực
kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính trị. Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh vực khác. Trong
đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy,
gần 30 năm qua đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển.
3. Đường lối ngoại giao cây tre
Đảng Cộng sản Việt Nam có sự vận dụng thú vị biểu tượng cây tre vào lãnh đạo công tác ngoại giao của nước ta. Biểu tượng cây
tre “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” chính là triết lý, phương pháp luận và phương châm chỉ đạo của ngoại giao Việt
Nam. Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo “Cây tre Việt Nam” thấm đượm
tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đặc sắc của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”chính là: Mềm mại, khôn khéo,
nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc
lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết
nhu, biết cương, biết thời, biết thế, biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.
Với đường lối, chính sách ngoại giao đúng đắn, Việt Nam luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 192 trong tổng số
200 quốc gia trên thế giới; trong đó 4nước có quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối
tác toàn diện". Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế
quan trọng. Đó chính là thành công của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”!
Có thể thấy, đường lối "ngoại giao cây tre" của Đảng có những nét đặc trưng đó là: Kiên định trong mục tiêu - Nhân văn trong cốt
cách - Chủ động trong tinh thần - Linh hoạt trong hành động - Đoàn kết trong cộng đồng.
Giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp từ những lĩnh vực khác nhau, như chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… và đặc biệt là ngoại giao. Với yêu cầu đó, đường lối "ngoại giao cây tre" tiếp tục phát huy
giá trị, bài học ý nghĩa của mình trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.
Một là bài học về sự kiên định, nhất quán. Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Để vươn tới mục tiêu đó, chúng ta phải kiên định với con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, kiên định với nền tảng tư tưởng
của Đảng, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thách thức an ninh phi truyền thống còn tạo ra nhiều vấn nạn tội phạm, như lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và
phương tiện đại chúng, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước. Để ứng phó, chúng ta cần phải kiên
quyết, kiên trì trong hành động đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch. Có như vậy, nền tảng tư tưởng của
Đảng được bảo vệ, nền độc lập, tự do của dân tộc không bị xâm phạm.
Hai là bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của mọi quốc gia đều gắn liền với môi
trường khu vực và quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam không thể tách rời cộng đồng quốc tế. Để tăng gấp bội “thực lực”
ứng phó với các vấn đề nan giải mà toàn thế giới đang phải đối mặt như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo…, chúng
ta luôn phải giương cao ngọn cờ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Ba là bài học về tinh thần trách nhiệm, dấn thân. Chính tinh thần chủ động, tích cực trong đường lối "ngoại giao cây tre" đã mang
tới bài học trong việc ứng phó với các vấn đề toàn cầu, chúng ta phải thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và “cách mạng không ngừng”,
“cách mạng triệt để”.
Bốn là lấy văn hóa làm nền tảng cho chiến lược phát triển. Trong cuộc chiến với các mối đe dọa từ an ninh phi truyền thống, điều
quan trọng nhất chúng ta cần phải có là nguồn lực nội sinh vững chắc. Gốc của sức mạnh nội sinh chính là văn hóa, là bản sắc
dân tộc.
Thế giới đang biến đổi với ngày càng nhiều thách thức an ninh phi truyền thống. Điểm tựa vững chắc cho Việt Nam trong quan hệ
đối ngoại ngày nay chính là nền tảng tư tưởng của Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã được cụ thể hóa
thành đường lối “ngoại giao cây tre”. Cây tre mang hình ảnh biểu tượng của sự kiên định nhất quán, gắn liền với sự thích ứng linh
hoạt và chứa đựng sức mạnh bền bỉ từ cội nguồn dân tộc.
Điểm đặc sắc của “ngoại giao cây tre” là thông điệp về nền ngoại giao dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc “tre xanh xanh tự bao
giờ, chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”. Đó là bản sắc, là sức mạnh cội rễ, là sự giản dị chân thành, là tinh thần kiên cường của
đất nước văn hiến ngàn năm. Không chỉ là cơ sở làm nên thành tựu, vị thế của riêng Việt Nam trên trường quốc tế, “ngoại giao cây
tre” cũng trở thành trường phái ngoại giao mà các quốc gia đang phát triển khác có thể tham khảo, để xây dựng chính sách đối
ngoại ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, đồng thời chung tay góp phần tạo dựng thế giới trên tinh thần hữu
nghị, hợp tác, cùng phát triển.
Tổng Bí thư nhấn mạnh chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra đúng
vào dịp hai nước kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (2008 - 2023), thể hiện tình cảm đặc biệt
của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đối với truyền thống hữu nghị, tầm vóc quan hệ song phương hiện nay cũng như
triển vọng tốt đẹp trong thời gian tới của quan hệ hai nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và là sự lựa chọn
chiến lược; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ trân trọng sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc đối với sự nghiệp cách mạng
và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước của Việt Nam.
Hai bên nhất trí không ngừng củng cố tin cậy chính trị, tăng cường giao lưu giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, tăng cường hợp tác
quốc phòng - an ninh thực chất hơn; đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư bền vững và sâu sắc hơn; tăng cường giáo
dục về quan hệ truyền thống quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy xây dựng nền tảng xã hội vững chắc hơn cho quan hệ hai
Đảng, hai nước; tăng cường phối hợp đa phương chặt chẽ hơn, vì lợi ích của hai nước và đóng góp tích cực vào lợi ích chung của
cộng đồng quốc tế.
Về vấn đề trên biển, hai Nhà Lãnh đạo đã đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích
cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.
Cuối cùng, sau Hội đàm cấp cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã
cùng xem và nghe giới thiệu về 36 văn bản thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực được ký kết giữa các ban, bộ ngành, địa
phương hai nước, thể hiện thành quả phong phú, toàn diện mà hai bên đạt được trong chuyến thăm lần này.
- Tham gia tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa một cách tích cực, chủ động cũng là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh quảng bá lịch
sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam ra thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên
sinh thái, di sản văn hóa thế giới cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản
sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội tham
gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa,
chống lại nhân loại...
- Cơ hội tiến nhanh, bắt kịp nhờ tận dụng động lực phát triển từ CMCN 4.0, và lợi thế từ các FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham
gia để đạt mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 đã được Đảng ta xác định là: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Việt
Nam đang đẩy mạnh thực hiện kế hoạch chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.
- Việc tích cực, chủ động tham gia toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập quốc tế, nhất là tham gia các FTA thế hệ mới còn tạo ra cơ
hội quan trọng để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, chuyển đổi mô hình phát triển. Các FTA nói riêng, tiến trình toàn cầu hóa,
khu vực hóa nói chung, buộc Việt Nam phải điều chỉnh những luật lệ hiện tại để chúng hiệu quả hơn, minh bạch hơn và tiến bộ
hơn, phù hợp hơn với các “sân chơi” chung của khu vực, toàn cầu.
● Một số thách thức
- Thách thức “chọn bên” sẽ gia tăng trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung diễn ra gay gắt, xu hướng tách rời giữa hai
nền kinh tế đang dần hình thành.
- Thách thức về độc lập, tự chủ, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Trong tiến trình tham gia toàn cầu hóa, khu vực hóa, Việt Nam đã
mở cửa nền kinh tế (với 17 FTA đã ký kết và đang đàm phán), hội nhập mạnh mẽ. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã mở ra nhiều cơ
hội hợp tác phát triển, đưa Việt Nam vào top 20 nền kinh tế xuất khẩu lớn nhất thế giới từ năm 2021, song đang và sẽ đặt ra
những thách thức lớn về độc lập, tự chủ.
- Gia tăng các thách thức về văn hóa. Toàn cầu hóa, khu vực hóa những thập kỷ tới diễn ra trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 diễn ra
mạnh mẽ. Theo đó, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng”
văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội nhưng cũng làm xói mòn các giá trị xã hội.
- Việt Nam cũng đối mặt nguy cơ tụt hậu và các thách thức phát triển khi tiến trình hội nhập, tham gia toàn cầu hóa, khu vực hóa
của Việt Nam vì Việt Nam hiện là nước đang phát triển có trình độ công nghệ vào loại thấp so với khu vực và toàn cầu, nếu không
có bước phát triển đột phá về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, thì sẽ tụt hậu xa hơn so với các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới trong những thập kỷ tới.
Nhà triết học Hêgen đã khẳng định: Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Thực tiễn phát triển đất nước ta hiện nay một
lần nữa khẳng định tính đúngđắn của luận điểm đó.
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tíchcực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện
thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết
định trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày
càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước.
Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân. Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế đã phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần làm
cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao phó. Những thành tựu đó đã làm
cho sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Những bài học được rút ra từ 20 năm đổi mới giúp chúng ta hoàn thiện hơn nữa đường lối, chủ trương, chính sách và cách thức
triển khai trong tổ chức thực tiễn sẽ góp phần đẩy mạnh hơn sự phát triển của đất nước. Sắp tới, việc tham gia WTO là bước hội
nhập kinh tế quốc tế ở tầm cao nhất về cấp đối tác sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển…
Đó là những yếu tố quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới, vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt
những mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Khó khăn này sẽ tăng lên rất lớn, đặc biệt là
đối với doanh nghiệp, khi AFTA có hiệu lực đầy đủ đối với nước ta và nước ta chính thức gia nhập WTO. Nhiều nguồn lực và tiềm
năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt. Thất thoát, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong
quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
● Liên quan tới triết
1. Khai thác và phát huy tiềm năng con người: Triết học Mác-Lênin khẳng định vai trò quyết định của con người trong sự phát triển
xã hội. Việc áp dụng triết lý này trong đổi mới giúp khai thác và phát huy tiềm năng của con người, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân
phát triển và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
2. Xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ: Triết học Mác-Lênin theo đuổi mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, việc áp dụng triết lý này đòi hỏi chú trọng đến việc bảo đảm quyền lợi và động viên con
người, tạo điều kiện công bằng để mọi người đạt được thành công và phát triển.
3. Phát triển nhân lực chất lượng cao: Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cần xây dựng một lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn cao, linh hoạt và sáng tạo. Triết học Mác-Lênin đề cao việc đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, từ đó góp phần xây dựng
một đội ngũ công nhân, kỹ sư, và nhà quản lý chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội.
4. Xây dựng tư duy khoa học và lý luận: Triết học Mác-Lênin đặt sự coi trọng vào việc áp dụng phương pháp khoa học và lý luận
trong công cuộc phát triển xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới, việc nắm bắt và áp dụng các
nguyên lý khoa học và phương pháp lý luận giúp nâng cao hiệu quả công việc, đẩy mạnh sự sáng tạo và đổi mới trong mọi lĩnh
vực của đời sống và kinh tế.
Tóm lại, triết học Mác-Lênin về con người có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay bằng cách tôn trọng
và phát triển tiềm năng con người, xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ, phát triển nhân lực chất lượng cao, và áp dụng tư
duy khoa học và lý luận trong công cuộc phát triển xã hội.
Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chế độ xã hội ưu việt và vì nhân dân
Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thể hiện sự nhất quán, khẳng định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
đem lại tự do, hạnh phúc của nhân dân: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không
phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ
của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng, Nhà nước luôn luôn thực hiện quan điểm nhất quán là “dân là gốc”, với phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại hiện nay
Điều ấy được kiểm chứng rõ trong tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sau khi giành được độc lập đã bỏ qua sự phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta phải
trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh với quyết tâm chống lại ách đô hộ và xâm lược
của đế quốc, thực dân, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là đường lối cơ bản, xuyên suốt và nhất
quán của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại bước sang giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, có nhiều thành tựu trong giải
phóng, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ, nên đã đạt được năng suất lao động cao. Song, chủ nghĩa
tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó; các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, các tệ nạn
xã hội, nhất là khi đại dịch COVID-19 diễn ra lại càng làm bộc lộ rõ bản chất chế độ chính trị - xã hội của các nước này không vì
sức khỏe, hạnh phúc của đại đa số nhân dân lao động. Các phong trào đấu tranh phản kháng xã hội đã bùng nổ mạnh mẽ, với
những nội dung và hình thức mới ở nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua, càng làm bộc lộ rõ sự thật về những mâu
thuẫn mang tính bản chất không thể hóa giải của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ gắn với thực hiện độc lập, tự chủ và hiện đại
hóa đất nước
Công cuộc đổi mới, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cùng các nguồn lực khác, như phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động, tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho
đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới.
- Tăng cường tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn nữa lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
dưới tác động của những biến đổi của các nhân tố thời đại và của thế giới hiện nay. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế lớn, song chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, trở ngại.
- Đang ở chặng đường “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và phấn đấu trở thành “nước phát triển, thu nhập cao”,
thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..
- Đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao… đưa đất nước vững bước tiến lên, phát
triển nhanh và bền vững”(7). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững
vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn của đất nước để làm rõ
tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa
học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại,
không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Giá trị của nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Về giá trị lý luận: Thời gian tới, yêu cầu cấp thiết tiếp tục đặt ra cho công tác lý luận là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách quan về những thành tựu đã đạt được và
những bất cập, hạn chế, khuyết điểm; để có nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về giá trị tư tưởng: Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có
Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền
tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam trong công cuộc đổi mới.
Về giá trị thực tiễn: Với Việt Nam, những thành tựu mà đất nước đạt được trong 35 năm đổi mới chứng minh rằng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn nhất
quán, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về giá trị tổ chức và triển khai: Việc làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị dẫn dắt trong tổ chức quán
triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong thực tiễn theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ quan,
đơn vị, chức trách của mỗi cán bộ, đảng viên.