Professional Documents
Culture Documents
Khái niệm: 5nguyen.xuanhuongmai
Khái niệm: 5nguyen.xuanhuongmai
xuanhuongmai
Khái niệm
Văn hóa nghệ thuật là toàn bộ những kết quả và những thành tựu của quá trình hoạt
động sáng tạo của con người hướng tới cái chân – thiện – mỹ. Văn hóa nghệ thuật
còn được hiểu như là các thiết chế nhằm bảo lưu, phổ biến, tiêu thụ các thành quả,
sản phẩm văn hóa nghệ thuật, các nhà văn hóa, rạp chiếu bóng, thư viện….
Chức năng thẩm mỹ: định hướng cho công chúng những giá trị nghệ thuật cao cả
như cái chân, cái thiện, cái mỹ. .. và từ đó tạo ra cho họ những giá trị cảm xúc thẩm
mỹ.
Chức năng giải trí: đem lại cho công chúng sự thưởng thức nghệ thuật, giải toả
những căng thẳng trong đời sống hằng ngày hòng đem lại sự sảng khoái trong tâm
hồn.
Chức năng giao tiếp: Giúp con người có thể thực hiện nhu cầu giao tiếp, quan hệ
bạn bè, quan hệ anh em trong gia đình…
8phiyen1525
“Abhiññāyāhaṁ, bhikkhave, dhammaṁ desemi, no anabhiññāya.
22huyenhuyen191203
Như vậy chúng ta có tám ý nghĩa của từ Như Lai – và sẽ là mười nghĩa
nếu chúng ta xét đến những biến nghĩa của nghĩa thứ tư và thứ tám.
Bây giờ, nếu có ai hỏi quý vị Tathāgata nghĩa là gì, quý vị sẽ nói, “Tôi
không biết — vì có quá nhiều nghĩa!” Tuy nhiên quý vị có thể chọn một
trong nhiều nghĩa ấy để giải thích. Nói chung Tathāgata là một từ rất
phong phú và chứa đựng nhiều thành tố của giáo pháp đức Phật.
https://theravada.vn/tai-sao-goi-nhu-lai-la-sayadaw-u-silananda/
https://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin054.htm
HDDDUY2911@GMAIL.COM
Chanda (dục) ???
Chanda (dục) từ ngữ căn chad: ao ước, muốn, đặc tánh của Chanda là muốn làm (kattukamyatà),
giống như đưa tay để nắm đối tượng.
Có 3 loại chanda:
1.Kàmacchanda nghĩa là tham dục, hoàn toàn bất thiện;
2. Kattukamyatà chanda chỉ là sự ao ước muốn làm, không thiện không ác;
3. Dhammachanda, pháp dục, tức là ham muốn chơn chánh. Chính Dhammachanda này đã khiến
Thái tử Tất Đạt Ta xuất gia.
MAHASI SAYADAW
GIẢNG GIẢI KINH THỪA TỰ PHÁP
Đế-thích (Sakka) sau đó hỏi Phật về nguyên nhân của thích và ghét?
Đức Phật nói rằng nguyên nhân của thích và ghét là dục.
Dục (chanda) Đức Phật đề cập ở đây không phải là dục thiện mà là dục kết hợp với lạc và ái hay
nói khác hơn đó là Ái Dục (taṇhā chanda).
Dục — chanda có 5 loại:
(1) dục hay ước muốn không thể thỏa mãn trong việc tìm kiếm các dục trần. Loại dục này là lực
đẩy nằm đằng sau mọi hoạt động của người đàn ông trong mỗi kiếp sống.
(2) dục hay ước muốn không thể thỏa mãn trong việc giành được các dục trần. Khi một ước muốn
thành tựu, ước muốn khác liền sanh và vì vậy, theo cách này ước muốn giành được các dục trần
không bao giờ đi đến chấm dứt. Thảo nào ngay cả những người giàu có bạc tỷ vẫn khao khát có
được của cải và tiền bạc nhiều hơn nữa thay vì biết đủ với những gì mình có.
(3) dục hay ước muốn không thể thỏa mãn trong việc thọ hưởng những dục trần và những của cải
vật chất. Những người thích phim ảnh, ca nhạc,… không bao giờ biết chán trong việc hưởng thụ
chúng.
(4) dục hay ước muốn không thể thỏa mãn trong việc tích chứa vàng, bạc, … hay tích trữ tiền bạc
bằng bất cứ hình nào để sử dụng khi cần thiết trong tương lai.
(5) dục hay ước muốn không thể thỏa mãn của một số người muốn chia xẻ hay phân phát tiền bạc
cho những người theo mình hay cho những người làm công cho mình.
Năm loại dục này làm phát sanh thích và ghét. Các đối tượng và chúng sanh giúp hoàn thành ước
muốn hay dục thì khiến cho thích sanh khởi trong khi các đối tượng và chúng sanh cản trở ước
muốn ấy khiến ghét phát sanh.
Kế đó Đế thích (Sakka) hỏi Đức Phật về nguồn gốc của thích?
MAHASI SAYADAW
GIẢNG GIẢI KINH THỪA TỰ PHÁP
1. Dục ái (Kāmataṇhā), sự khát vọng, mong muốn hưởng ngũ dục lạc; sự tham ái
duyên theo cảnh sắc, thinh, hương, vị và xúc.
2. Hữu ái (Bhavataṇhā), sự khát vọng, mong muốn cõi tái sanh; sự ái luyến thiền
lạc; và sự tham ái có liên hệ với hữu kiến hoặc thường kiến (Sassa-tadiṭṭhi).
3. Phi hữu ái (Vibhavataṇhā), sự khát vọng, ái tham có liên hệ đến tà kiến đoạn
diệt, tức là ái vô hữu kiến hoặc đoạn kiến (Ucchedadiṭṭhi) .
doanhuan2010@gmail.com
minhbachlkk@gmail.com
Ác Ma Thiên là thiên vương có quyền lực bậc nhất ở cõi Tha hóa tự tại
thiên (Paranimmitavasavatti), là tầng trời thứ sáu tột cùng của cõi trời Dục giới,
Chúa cõi này có tên là Paranimmita,
Vị có Đại quyền lực, thù thắng hơn tất cả Chư Thiên trong sáu cõi trời dục là Thiên
tử Vasavattīmāra, ở cõi Tha-hóa-tự-tại. Thiên tử Māra này là vị tà Chư Thiên,
không có tâm tịnh tín với Phật-giáo, thường gây trở Ngại cho đấng Chánh-giác.
huyenhuyen191203@gmail.com
[466] Mười điều phản tỉnh của bậc xuất gia (Pabbajitābhiṇhapacavekkhana):
1. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Ta có tướng mạo khác kẻ thế"
(Vevaṇṇiy' amhi ajjhūpagato' ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ).
Điều này, tiếng vevaṇṇiya vừa có nghĩa là hình dạng khác, như cạo bỏ râu tóc, mặc
y ca sa..., vừa có nghĩa là "Vô giai cấp", tức là vị sa môn không thuộc giai cấp nào
trong xã hội.
Theo chú giải, vị tỳ-kheo phản tỉnh điều này để dứt trừ kiêu mạn.
2. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Sự nuôi mạng của ta tùy thuộc vào
người khác" (Parap-paṭibaddhā me jīvikā' ti pabbajitena abhiṇhaṃ
paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để tự nhắc nhở mình không nên dể duôi, phải sống chánh
mạng và sống xứng đáng với sự cấp dưỡng của người.
3. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Hành vi của ta phải làm khác kẻ thế"
(Añño me ākappo karaṇīyo' ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để tự nhắc mình phải thu thúc oai nghi, nghiêm tịnh sở
hành.
4. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Phải chăng ta không tự trách giới hạnh
của mình được chứ?" (Kacci nu kho me attā sīlato na upavadatī' ti pabbajitena
abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm tự kiểm điểm lỗi lầm và sanh tâm hổ thẹn tội lỗi.
5. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Phải chăng các bạn đồng phạm hạnh trí
thức khi xét đến ta, sẽ không chê trách ta về giới hạnh chứ?" (Kacci nu kho maṃ
anuvicca viññū sabrahmacārī sīlato na upavadatī' ti pabbajitena abhiṇhaṃ
paccavekkhitab-baṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để giúp cho vị tỳ-kheo cẩn trọng về giới hạnh, có tâm
ghê sợ lỗi lầm.
6. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Ta cũng phải biệt ly với tất cả những
người thân kẻ mến" (Sabbehi me piyehi manāpehi nānabhāvo vinā-bhāvo' ti
pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để diệt giảm tâm dính mắc ái luyến với người vật vừa
lòng, và cũng để dạy tâm quán niệm sự vô thường.
7. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Ta có nghiệp là sở hữu, ta thừa tự
nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là chỗ nương, ta tạo
nghiệp tốt hay xấu gì thì sẽ hưởng quả của nghiệp ấy" (Kammassako' mhi
kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ
karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmī' ti pabbajitena
abhiṇhaṃ paccavek-khitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để ngăn ngừa sự hành ác nghiệp do thân, khẩu, ý.
8. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Ngày và đêm trôi qua, ta đã làm gì?"
(Kathaṃ bhūtassa me rattindivā vītivattantī' ti pabbajitena abhiṇ-haṃ
paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để nhắc nhở phải tinh tấn nỗ lực bổ túc pháp tu còn thiếu
sót.
9. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Ta có ưa thích ở nơi thanh vắng chăng?"
(Kacci nu kho' haṃ suññāgāre abhiramāmī' ti pabbajitena abhiṇhaṃ
paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để khích lệ nhắc nhở mình sống hạnh viễn ly.
10. Bậc xuất gia phải luôn phản tỉnh rằng: "Ta có chứng được pháp thượng nhân,
tri kiến thù thắng của bậc thánh hay chưa? để lúc lâm chung các bạn đồng phạm
hạnh hỏi đến, ta sẽ không hổ thẹn". (Atthi nu kho me uttarimanussadhammo
alamariyañāṇadassanaviseso adhigato so' haṃ pacchime kāle sabrahmacārīhi
puṭṭho na maṅku bhavissāmī' ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ).
Điều phản tỉnh này nhằm để nhắc nhở mình phải chết có giá trị, không là người
chết vô vị.
A.V.87; Netti.185