Professional Documents
Culture Documents
THẢO LUẬN VÀ TRÌNH BÀY VỀ TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG CỦA CÁC
NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Nhóm 10: Trương Thị Mỹ Nhân (Nhóm trưởng),Cù Thị Ái Nhi,Nguyễn Hoàng Yến
Nhi,Nguyễn Thảo Nhi,Bùi Thị Thảo Như,Nguyễn Quỳnh Như,Nguyễn Thị Quỳnh
Nhung,Phạm Thị Bích Nhung
Khóa: 14CNĐPH
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh, ThS. Nguyễn Võ Huyền Dung
16,4%
Việt Nam 14.380.000
Campuchia vào cuối thế kỷ thứ IV, ảnh hưởng của Ấn Độ lan rộng trên khắp vương
quốc Campuchia. Phật giáo lại bắt đầu nhận được sự ủng hộ từ phía những nhà cầm
quyền. Cuối thế kỷ XII đến những năm đầu thế kỷ XIII đức vua Jayavarman cai trị đất
nước là người tôn sùng đạo Phật. Phật giáo Đại thừa trong một thời gian ngắn đã trở
thành tôn giáo có ưu thế vượt trội trong vương quốc.
Lào nằm ở giữa lòng bán đảo Đông Dương, hầu hết nhân dân Lào theo đạo Phật. Năm
1350, với sự giúp đỡ của quốc vương Campuchia về mặt quân sự, Fa Ngoun đã có thể
giành lại được quyền thừa kế ngôi vị vốn đã bị mất của cha mình. Năm 1353, Fa
Ngoun lên ngôi, theo yêu cầu của công chúa, Fa Ngoun đã mời những vị sư từ
Campuchia đến giảng dạy tại hoàng cung. Dưới sự tác động của vua, Phật giáo
Theravada đã khẳng định được vị thế của mình tại Lào đã và trở thành quốc giáo. Phật
Giáo có ảnh hưởng đến việc hình thành tính cách dân tộc, nhân sinh của người Lào.
Việt Nam từ những năm 194-195 Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang nước ta, trở thành
một trong những nơi để Phật giáo truyền đi các nước phía Bắc. Sau đó chịu ảnh hưởng
ngược lại của Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang. Bên cạnh đó trong lịch sử cận đại
chịu ảnh hưởng của Phật giáo các nước lân cận, như của Phật giáo Campuchia. Phật
giáo Việt Nam chia theo hai miền: miền Bắc chủ yếu theo Trung Hoa, còn miền Nam
chủ yếu theo người Chămpa
Indonesia thế kỷ II phật giáo đại thừa xuất hiện. Đến thế kỷ XII và XIII, một tập hợp
pha trộn các kinh điển thần bí gồm các yếu tố Phật giáo và Siva giáo và được sự bảo
trợ của vua, đã phát triển nhưng đã bị quét sạch cùng với các nhà cai trị sau cuộc nổi
dậy của Hồi giáo vào thế kỷ XV. Năm 1934 Phật giáo bắt đầu có sự hồi sinh sau sự có
mặt của các tu sĩ người Srilanka, họ đã đề ra những mục tiêu để truyền bá Phật giáo tại
nơi đây đánh dấu bằng một buổi lễ trồng cây Bồ đề tại Borubudur.
Số lượng tín đồ:
Nếu tính tổng số các nước Đông Nam Á thì tín đồ Phật giáo khoảng 147,9 triệu người
(25,7% dân số Đông Nam Á), tuy nhiên trong đó số lượng tín đồ Phật giáo ở 6 nước
vùng hải đảo chỉ có 12 triệu người (3,5% dân số các nước hải đảo) và chỉ phổ biến
trong cộng đồng người Hoa, Thái Lan, Srilanka và một vài nhóm sắc tộc khác.
1.1.2 Ảnh hưởng của Phật giáo ở các nước Đông Nam Á
Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân bản địa Đông
Nam Á, đã biết hoà đồng với các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã biết dung nạp các
yếu tố của các tôn giáo ngoại lai khác.
Phật giáo đã có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng một nền văn hoá thống
nhất, trong nền văn hoá dân tộc đều mang màu sắc Phật giáo, Phật giáo gắn liền với Tổ
quốc và Dân tộc.
Là công cụ để giải quyết mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình “bất bạo động”
Xây dựng một thế giới hoà bình, an lạc, giàu mạnh và ổn định.
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn học nghệ thuật Đông Nam á là khá toàn diện và
sâu sắc.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc chùa chiền Phật giáo ở khắp các nước Đông Nam
Á ,thể hiện rõ nét ở những ngôi chùa nổi tiếng là công trình kiến trúc đồ sộ như
Borobudur (Inđônêxia) và Thạt luổng (Lào) chùa Bạc (Campuchia), chùa Vàng (Thái
Lan), Chùa Shwedagon (Myanma) đã trở thành niềm tự hào và là biểu tượng thịnh
vượng của đạo Phật Tiểu thừa ở khu vực
Lễ hội: ngày lễ phật đản,
Ẩm thực: ăn chay vào các ngày rằm
Sự đan xen hoà hợp dung nạp giữa của yếu tố văn hoá và tôn giáo đã tạo sự đặc trưng
riêng của Phật giáo không gò bó, ép buộc. Cũng chính vì vậy Phật giáo tồn tại và phát
triển, trở thành tôn giáo chính và có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hoá, xã
hội của cư dân Đông Nam Á.
1.2 Hindu giáo
1.2.1 Quá trình du nhập Hindu giáo vào Đông Nam Á
Hindu giáo cũng như các tôn giáo lớn khác hòa nhập được vào ý thức hệ
văn hóa Đông Nam Á từ rất sớm là nhờ các tín ngưỡng bản địa của các cộng đồng
dân cư vốn đã phong phú, đa dạng. Với sự phát triển kinh tế còn trì trệ, nghèo đói,
tham vọng chính đáng của các tộc người Đông Nam Á muốn vươn lên, nên có tư
tưởng cầu an hưởng lạc khiến cho quá trình hòa nhập giữa tôn giáo và văn hóa
diễn ra suôn sẻ ngay từ khi mới tiếp xúc. Hai nguyên nhân trên tạo điều kiện cho
bốn tôn giáo lớn cắm rễ sâu bền được ở Đông Nam Á. Đạo Hindu hình thành ở Ấn Độ
khoảng 800 năm trước công nguyên rồi du nhập vào Đông Nam Á từ đầu công
nguyên.
1.2.2 Nội dung cơ bản về giáo lí của Hindu giáo
Đạo Hindu nảy mầm qua nhiều thế kỷ phát triển trong đời sống tôn giáo và tư tưởng ở
Ấn Độ. Đạo được khởi đầu với tứ kinh Veda (kho tàng trí tuệ) và các chú giải về
Hindu giáo vào khoảng năm 1500 đến 500 TCN. Mặc dù đạo thờ đa thần nhưng niềm
tin vào Brahman (Đấng Sáng tạo) cùng hai hiện thân sóng đôi - Vishnu (Đấng Bảo vệ),
Shiva (Đấng Hủy diệt) vẫn là sợi dây độc thần xuyên suốt. Theo vũ trụ quan Hindu
giáo, bốn sắc đẳng varna do thủy tổ sinh ra gồm: Brahman (thầy tư tế, học giả, chiêm
tinh gia) sinh ra từ miệng; Kshatriya (chiến binh) từ cánh tay; Vaishya (thương gia) từ
đùi; và Shudra (kẻ hầu hạ) thì từ bàn chân. Vào khoảng thế kỷ VIII TCN, hệ thống sắc
đẳng có phần trở nên hà khắc hơn, và tôn giáo hoàn toàn nằm trong tay giới Brahman.
Lúc này, các Brahman nâng việc hiến sinh và những nghi lễ kèm theo lên thành biện
pháp duy trì rita (trật tự thế giới). Sang khoảng thế kỷ VI – V TCN, một số luận thuyết
triết học – các Upanishad - đã đặt ra vấn đề cơ bản về sự sống và cái chết, về thế giới
vi mô của linh hồn (Atman) và thế giới vĩ mô tinh thần (Brahman). Và sự hòa trộn
giữa Atman và Brahman sẽ đưa ta đến Chân lý tối cao.
Cốt lõi Hindu giáo là thuyết luân hồi và thuyết karma (nghiệp chướng), lấy luật nhân
quả làm nền tảng – hành động của một người ở kiếp này sẽ khiến anh ta được hưởng
phúc hay phải thọ nghiệp báo ở kiếp sau, và vì lẽ đó anh ta có thể hạnh phúc hơn hoặc
ngược lại. Karma không loại trừ ý nguyện vì karma một người có thể tốt lên nhờ quá
trình sống có đạo đức, hiểu biết, tu thiền và tín lễ. Cách sống như vậy cũng có thể là
“con đường” diệt bỏ luân hồi sinh, tử , tái sinh, và đạt đến moksha (niết bàn).
1.2.3 Ảnh hưởng của Hindu giáo ở các nước Đông Nam Á
Tất cả các thành viên của Tam vị Ấn Độ giáo – Brahma, Vishnu và Siva – đều được
phản ánh trong những di tích của Đông Nam Á, nhưng Siva là vị thần được sùng kính
rộng khắp nhất. Sự tôn kính Siva được nối kết chặt chẽ với quyền lực hoàng gia. Các
quốc vương Champa tiếp nhận việc thờ cúng Siva vào nửa sau thế kỷ thứ 4, theo các bi
ký. Một sứ thần từ Phù Nam tới triều đình Trung Hoa đã báo cáo rằng việc thờ cúng
Siva thịnh hành ở đó. Và các vị vua Khmer được sùng kính và được đồng nhất với
Siva, ban đầu dưới hình thức một linga (tượng dương vật), sau đó là một pho tượng cụ
thể. Khi tiếp thu văn hóa Ấn Độ, các dân tộc ở Đông Nam Á tiếp thu tục thờ cúng
Linga (giới vật nam), Yoni (giới vật nữ) và được coi là thờ năng lực sáng tạo, biểu
tượng của thần Siva trong Ấn Độ giáo. Tục này đã có sự kết hợp, giao thoa với tục thờ
sinh thực khí, với tín ngưỡng phồn thực vốn có ở Đông Nam Á và trở thành tục lệ phổ
cập trong nhiều thế kỷ ở các dân tộc Đông Nam Á. Ở một số dân tộc ít người, cho đến
nay, tục thờ sinh thực khí còn được thể hiện trong các tượng nhà mồ, trong các hang
động biểu diễn dân gian ở các vùng núi, hải đảo, thể hiện trong các hình thức nặn
tượng bằng đất sét để nung, trong các lễ vật những người phụ nữ mang theo có hình
giới vật nam được đẽo gọt bằng gỗ, bằng xương thú. Ngày nay, trong các di tích lịch
sử ở một số quốc gia Đông Nam Á, người ta có thể thấy các ngẫu tượng (sinh thực
khí) bằng đá và một số dân tộc vẫn trang trí trong các đền thờ, trong các bảo tàng và
trước vườn hoa, cửa khách sạn dành cho du khách. Một số lễ hội liên quan đến tín
ngưỡng phồn thực vẫn được tái hiện khá sinh động.
Ở các nước hải đảo, chỉ có Indonesia và Malaysia ảnh hưởng nhiều bởi Ấn Độ giáo,
Cho đến nay, hai hồ nước Jalatunda và Belahan, bên cạnh gần tám mươi cụm kiến trúc
Ấn Độ giáo vẫn thu hút sự chú ý của nhiều người. Lễ hội Ấn Độ của người Ba Tắc ở
Indonesia dùng tiết gà trống bôi vào gậy múa cầu mưa làm bùa. Lễ hội Navraatri ở
Singapore tôn vinh ba vị nữ thần – truyền thuyết kể là ba bà vợ của các vị thần
Brahma, Vishnu, Shiva ở đảo này. Một người con trai thần Shiva (với nữ thần Shakti)
chậm trễ khi mang vật dâng lễ cho cha, mà nay tín đồ Ấn Độ giáo phải móc vật tượng
trưng vào da thịt, đi diễu hành trong lễ hội.
Cụm công trình Lôrô Giông Grang là công trình kiến trúc gồm hàng trăm ngôi đền lớn,
nhỏ được xây dựng trong khuôn viên khá rộng với việc xây nền ba sân vuông vắn,
lồng vào nhau – biểu tượng của ba thế giới: Thần linh, Thánh, trần tục. Công trình
được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ IX tại vùng đồng bằng Prambanan của đảo Java
(Indonesia). Công trình Lôrô Giông Grang để thờ ba vị Thần tối cao của đạo Hindu là
Shiva, Brama và Vishna. Đền thờ Shiva ở chính giữa, hai đền thờ hai Thần còn lại ở
Hai bên và bao bọc là hàng trăm đền khác. Trong đền thờ hiện còn tượng của một số vị
thần được tạc bằng đá, đặc biệt là tượng Shiva Mahadeva cao 3m trên bệ. Nhiều tượng
thần khác cũng khá sinh động, vừa tạo nên sự trang nghiêm của đền, vừa lôi cuốn con
người vào thế giới tâm linh, thế giới huyền bí. Khi nghiên cứu công trình này, các nhà
khoa học còn phát hiện bao điều lý thú: gần nghìn bức tượng và 224 chiếc giếng.
Trong giếng ở đền thờ Thần Shiva có bình hài cốt (tro) và các đồ vật quý bằng vàng,
bạc, đồng, … khẳng định công trình còn là một khu mộ táng lớn. Lôrô Giông Grang
được nhìn nhận như một tổng thể các mộ táng và đền thờ các Thần trong Ấn Độ giáo
của Java. Chính xác hơn, đây là đền thờ Shiva giáo.
Vùng cao nguyên ở Tây Bắc đảo Java (Indonesia) này được coi là nơi thờ phụng các
đấng thần linh của cư dân. Từ thế kỷ thứ VII, vùng cao nguyên này là nơi các đế
vương cho xây dựng các đền tháp do ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. đến đầu thế kỷ
XIX khu đền tháp này mới được biết đến. Các công trình kiến trúc đền tháp ở Điêng
được xây dựng theo nhóm các Chandi (tên vị thần Dunga – vợ thần Shiva trong Hindu
giáo, gọi theo tiếng Indonesia) và kế cận nhau thành hàng từ Bắc xuống Nam. Chiều
cao thường từ 7 – 8m và chiều dài nền đền tháp thường là 5 – 6m. Cửa đền mở về
hướng tây. Trừ Chandi Semara có kiến trúc khác mở về hướng đông, các Chandi còn
lại đều theo phương cách kiến trúc đền tháp của Ấn Độ giáo với nền vuông, hình khối
thu lại trên đỉnh theo cấu trúc ba tầng, các mặt tháp đều có cột ốp, các ô khảm đặt
tượng Thần. Toàn bộ phần thân của đền tháp còn được lắp gờ nổi, tường khá cao và
được chia ba ô bằng các cột ốp. Các tầng mái rất hài hòa với thân tháp và gắn kết bằng
bốn tháp nhỏ ở bốn góc hành lang bao quanh các mái. Ở mỗi nhóm đền tháp cũng có
các chi tiết kiến trúc đặc sắc khác nhau.
Ngoài ra, trên cao nguyên Điêng cũng có các đền tháp khác cùng với các tượng thần
Shiva, Vishnu, Brama,… góp phần tạo nên bức tranh kiến trúc mỹ thuật tuyệt diệu ở
Đông Nam Á. Giống như những vị vua Angkor, những nhà vau Java trong lúc sống đã
được đồng nhất với các thần Ấn Độ giáo như Siva hoặc Vishnu, và trong lúc chết họ
được cho là đã tái hợp nhất với các vị thần đó trong một bức tượng thần đặt trong đền
thờ, đó vừa là ngôi mộ vừa là đài tưởng niệm. Dù vậy, chỉ có một ít khu vực nơi Ấn
Độ giáo vẫn được coi như một tín ngưỡng phổ biến. Nhiều khu như thế vẫn còn ở
Java, nhưng điển hình về Ấn Độ giáo nổi tiếng nhất là ở đảo Bali… Đẳng cấp cũng tồn
tại ở Bali, nhưng quyền lực của chúng yếu hơn so với ở Ấn Độ. Mô hình mỗi ngôi làng
có ba ngôi đền thờ Ấn Độ giáo ở Bali khiến cho tổng số các điểm thờ ở đây có đến
10.000 đền đài.
Ở Thái Lan, pho tượng thần Vishnu phát hiện được tại Chaiya cũng có phong cách
nghệ thuật gần gũi với tượng thần Vishnu ở Óc Eo. tượng thần Vishnu, Hara Hara,
Kalkil mình người đầu ngựa và các nữ thần Laksmi, Uma, Mahisasura, Mardini và
một số tượng Avlokitesvasa phát hiện được ở Campuchia đều diễn tả tương đối xác
thực vứoi giải phẫu cơ thể là biểu hiện sống động nhất ở Đông Nam Á trước thế kỷ X.
Giao điểm thế kỷ X, khu đền Ăngko và Ăngko Thom ở Campuchia đã tạo ra một quần
thể kiến trúc đồ sộ với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Angkor Wat còn có vô số lan can chạm khắc vô số hình rắn Thần Nagar (tượng Bà la
môn giáo). Người thành lập Angkor, vua Yasovarman (trị vì 889 – 910), đã chuyển thủ
đô từ Hariharalaya đến một địa điểm phía bắc Biển Hồ. Ngôi đền đầu tiên của ông,
Phnom Bakheng, được xây trên một ngọn đồi và bản thân nó mô tả một ngọn núi, núi
Meru, trung tâm của vũ trụ Phật giáo và Ấn Độ giáo và là trung tâm huyền bí của
vương quốc. Bên trong Phnom Bakheng là một linga, một biểu tượng của dương vật.
1.3 Hồi giáo
Ở Đông Nam Á, bức tranh về tôn giáo rất đa dạng, bởi trong quá trình phát triển của
lịch sử, nơi này hội tụ đầy đủ các hệ ý thức tư tưởng từ cả Phương Đông (Trung Quốc,
Ấn Độ, Arập) và Phương Tây. Trong bức tranh văn hoá Đông Nam Á, Hồi giáo là một
tôn giáo mang nhiều vẻ đẹp biến hóa và là nhân tố quan trọng trong bản sắc văn hoá
Đông Nam Á.
Hồi giáo còn gọi là đạo Islam (sự phục tùng, sự tuân lệnh), là một tôn giáo độc thần
thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới và là tôn
giáo đang phát triển nhanh nhất với số tín đồ hiện nay là 1,57 tỷ, chiếm 23% dân số thế
giới. Hầu hết người theo đạo hồi thuộc hai dòng, Sunni (75 – 90%), hoặc Shia (10 –
20%). Hồi giáo được chính thức mở ra từ ngày 16/7/622 tại thành phố Medina của
nước Ả-Rập, và ngày này được chọn là ngày mở đầu kỷ nguyên Hồi giáo. Người sáng
lập ra Hồi giáo là Giáo Chủ Mohammed.
1.3.1 Quá trình du nhập Hồi giáo vào Đông Nam Á
Về quá trình du nhập Hồi giáo vào Đông Nam Á, có ý kiến cho rằng sự du nhập và
phát triển Hồi giáo ở Đông Nam Á diễn ra trong một thời gian rất dài, từ thế kỷ X đến
ngày nay, “sớm nhất là bán đảo Malacca và Bắc Indonesia vào thế kỷ X, và muộn nhất
là vùng phía Đông Indonesia vào giữa thế kỷ XX, sau khi Indonesia giành được độc
lập”. Lại có ý kiến khác cho rằng “Hồi giáo đến Đông Nam Á hơi muộn: đến vương
quốc cổ Chămpa vào thế ký XIII, rồi phổ biến sang Indonesia vào khoảng thế kỷ XIV,
tiếp đó là các nơi khác ở Đông Nam Á từ thế kỷ XV”.
Hồi giáo đến Đông Nam Á không phải bằng con đường gươm giáo và những cuộc
chiến tranh, mà họ tiếp cận bằng con đường hòa bình thông qua các thương nhân và
các nhà truyền giáo Arập, Ấn Độ, Ba Tư… Vì thế, ngay từ đầu Hồi giáo đã được cư
dân địa phương dễ dàng tiếp nhận và không gặp trở ngại gì đáng kể.
Hiện nay, Đông Nam Á là một trong những khu vực chính của Hồi giáo với hơn 3/5
dân số là tín đồ Hồi giáo, tức là khoảng gần 200 triệu người. Đông nhất là ở Inđônêxia,
khoảng trên 130 triệu, rồi đến Malasia khoảng 5 - 6 triệu, Nam Philippines. Hồi giáo là
quốc giáo ở Brunei, là tôn giáo chính ở Malaisia và Inđônêxia, là tôn giáo của các
nhóm thiểu số lớn ở Philippines, Singapore…và có mặt ở Myanmar, Thái Lan,
Campuchia, Việt Nam. Có thể nói Đông Nam Á là nơi tập trung Đạo Hồi lớn nhất của
thế giới, ngoài vành đai Hồi giáo truyền thống trải từ Tây Bắc Châu Phi đến Nam, đặc
biệt là ở Trung Đông.
1.3.2 Nội dung cơ bản về giáo lí của Hồi giáo
Người Đạo Hồi lập nền tảng cho cuộc sống của họ trên 5 trụ cột sau:
1. Lời chứng của đức tin: "Không có thần thánh nào thực thụ ngoại trừ Thiên Chúa
(Allah), và Mohammed là người Đưa Tin (Tiên Tri) của Thiên Chúa". Trái với quan
niệm chính thống trên, tín đồ Islam giáo tại Đông Nam Á lại suy nghĩ khác. Sống
trong khu vực châu Á gió mùa với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước là chính, cuộc
sống của người dân Đông Nam Á gần gũi với thiên nhiên, họ quan niệm mọi vật đều
có linh hồn. Vì thế, họ không chỉ hướng vào một Đấng Tối Cao duy nhất mà còn
hướng niềm tin vào các “nhiên thần”. Ngoài ra, họ vẫn tin vào mối liên hệ giữa người
chết với người sống. Do đó, các tín đồ Islam giáo Đông Nam Á vẫn lập bàn thờ để thờ
cúng tổ tiên. Chính điều này cho thấy được sự tiếp biến mạnh mẽ của những tín
ngưỡng, tôn giáo bản địa, trong đó có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
2. Cầu nguyện: mỗi ngày phải có năm lần cầu nguyện (rạng đông, trưa, chiều, hoàng
hôn, lúc chập tối). Thế nhưng nếu thực hiện đầy đủ các quy định trên, các tín đồ Islam
giáo phải tốn rất nhiều thì giờ trong một ngày, trong khi nhịp sống mưu sinh thì tấp
nập. Đó là lý do khiến các tín đồ này không thực hiện đầy đủ lễ cầu nguyện theo đúng
giáo luật.
3. Ban tặng (bố thí): ban cho người nghèo khó, vì tất cả đều đến từ Allah. Theo giáo
luật Islam giáo, các tín đồ phải trích 1/10 lợi nhuận thu được hàng năm để bố thí cho
người nghèo, người góa bụa, trẻ mồ côi… Nhưng vì có tính bắt buộc nên việc bố thí
mất đi ý nghĩa từ thiện và trở thành một thứ “thuế tín ngưỡng”.
4. Lễ ăn chay trong tháng Ramadan: tất cả người Hồi Giáo phải ăn kiêng trong lễ kỷ
niệm Ramadan (vào tháng 9 của Lịch Hồi Giáo). Trong suốt tháng này, từ 6-18g hàng
ngày, tín đồ phải nhịn ăn uống, hút thuốc, cấm dùng nước hoa, dược phẩm và chung
chạ vợ chồng. Chỉ những người già, phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 10 tuổi mới
được miễn. Tuy nhiên, lễ ăn chay trong tháng Ramadan cũng được tín đồ thực hiện,
nhưng chỉ có quan chức cao cấp và thương nhân giàu mới thực hiện đúng từng quy tắc,
còn phần lớn dân thường theo Islam giáo vẫn có thể hút thuốc, ăn trầu…
5. Hành hương: việc hành hương đến thánh địa Mecca phải được làm ít nhất một lần
trong đời (vào tháng 12 của Lịch Hồi Giáo). Đối với những người Islam giáo ở một số
nước Đông Nam Á, thực hiện được bổn phận hành hương đến thánh địa Mecca không
phải là điều dễ dàng và đơn giản vì đường đến thánh địa Mecca quá xa, số tiền chi phí
cho cuộc hành hương không phải là nhỏ. Do vậy, quy định này không phải là điều bắt
buộc đối với các nước Islam giáo Đông Nam Á.
Năm giáo lý này là khuôn khổ của sự vâng phục của người Hồi Giáo vùng Trung
Đông, được thực hiện hết sức nghiêm túc và theo đúng nghĩa đen của nó. Mặt khác,
dựa trên những chứng cứ ở trên, đứng về mặt tín ngưỡng, các tín đồ Islam giáo Đông
Nam Á mặc dù vẫn tuân theo những giáo luật cơ bản của Islam giáo, nhưng do đặc
điểm dân tộc hay tập tục, truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo của từng dân tộc,
mà hình thành nên nét đẹp Islam giáo Đông Nam Á không hòa lẫn vào đâu được. Đây
có thể là một trong những nguyên nhân làm cho Islam giáo phát triển một cách nhanh
chóng và có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn như ngày nay.
1.4 Công giáo
1.4.1 Quá trình truyền bá Công giáo vào Đông Nam Á
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử vỡ ở mỗi nước có những điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau song đạo Công Gíao vẫn phát triển ở Đông Nam Á để lại nhiều dấu ấn trong
văn hoá, xã hội các nước này. Mặc dù chúng không có được ảnh hưởng sâu sắc như
Phật giáo ở Thái Lan, Campuchia, Lào, Myanma hay như Hồi giáo ở Indonesia,
Malaysia, Brunây.
Công giáo đến Myanmar tương đối muộn hơn vào thế kỉ XVII – XVIII. Ở Thái Lan,
Công giáo được truyền vào thế kỉ XVI. Ở các quốc gia vùng hải đảo và Hồi giáo
chiếm số đông như Indonesia và Malaysia, thời kì thực dân Bồ Đào Nha xâm lăng thế
kỉ XVI cũng là thời gian Công Giáo được truyền bá nhưng phát triển chậm. Sử liệu ghi
lại Công Giáo đã có mặt ở Malaysia từ năm 1511. Nhà thờ Công Giáo đầu tiên ở
Malaysia được những người Bồ Đào Nha xây dựng tại Melaka sau năm 1511. Chúng
ta biết rằng đạo Công giáo ra đời ở phương Đông nhưng phát triển mạnh ở phương
Tây vỡ khi du nhập vào Đông Nam Á nó mang theo nhiều sắc thái văn hoá phương
Tây vào theo.
Thiên Chúa giáo có mặt ở Đông Nam Á cách đây 500 năm. Sự có mặt của người Tây
Ban Nha ở Philippines vào thế kỉ XVI. Ở các nước trong khu vực,Philippines là nước
duy nhất mà ở đó tín đồ Thiên Chúa giáo chiếm đa số (84,1%), còn ở các nước khác,
số lượng tín đồ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn nhứ Bruneil chiếm 8%, Indonesia chiếm
4,8%, Lào chiếm 2%, Malaysia chiếm 2,8%, Myanma chiếm 5,6%, Singapore chiếm
5,7%, Thái Lan chiếm 1,1%, Việt Nam là 7,4 %.
Công giáo được truyền vào Đông Nam Á từ khoảng thế kỉ XVI. Việc truyền bá Công
giáo gắn liền với các hoạt động thương mại của những người phương Tây ở vùng này.
Trên đường đi buôn bán ở Đông Nam Á, các thương gia phương Tây đã chở các giáo
sĩ đi cùng để họ vừa truyền đạo vừa tìm nguồn hàng hóa cung cấp cho các thương gia.
Việc làm này hai bên cùng có lợi, do đó, giữa họ đã có một sự liên kết khá chặt chẽ.
Công giáo chính là một mối liên kết, một chiếc cầu nối văn minh Đông – Tây.
2.4.2 Nội dung cơ bản về giáo lí của Công giáo
Giáo lý Công giáo là một hệ thống từ giản đơn cho tín đồ đến phức tạp của các học
thuyết kinh viện với các quan điểm triết học và thần học siêu hình, căn cứ vào kinh
thánh nhưng phải dựa vào những lời giải thích truyền thống và là thẩm quyền của Giáo
hội. Luật lệ, lễ nghi của Công giáo rất phức tạp.
Kinh thánh
- Kinh thánh theo quan niệm của giáo hội là “lời Chúa truyền dạy đời đời” là một bộ
sách gồm 73 quyển được chia làm 2 bộ Tân ước và Cựu ước. Ban đầu Kinh thánh
được truyền khẩu trong dân gian. Đến thế kỷ II thì bắt đầu được viết trên da dê, từ thế
kỷ IV – VI được viết trên giấy Papêrút và đến thế kỷ VII mới viết thành sách. Kinh
thánh là một kho tàng lịch sử và điển tích văn học. Trong Kinh thánh bao gồm toàn bộ
toàn bộ quan điểm, tư tưởng của giáo lý và tín điều của các đạo Kitô.
Một số nội dung cơ bản
- Mười hai tín điều cơ bản:
Đối với Công giáo trong kinh Tín kính có 12 tín điều cơ bản. Trong đó 8 tín điều nói
về bản chất Thiên Chúa, sự hiện thân của chúa Giêsu và ơn cứu độ, 4 tín điều còn lại
nói về giáo hội, nhà thờ và cuộc sống vĩnh hằng.
Tín điều căn bản đầu tiên là niềm tin vào Thiên Chúa và sự màu nhiệm của Thiên
Chúa. Thiên Chúa có ba ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh
Thần nhưng cùng một bản thể. Ba ngôi “đồng vinh, đồng đẳng, đồng quyền” nhưng có
chức năng và vai trò khác nhau. Cha – tạo dựng, Con – cứu chuộc, Thánh thần – thánh
hoá....
- Bảy phép bí tích:
Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan trọng nhất, thể hiện mối quan hệ giao tiếp giữa
con người với Chúa. Có 7 bí tích:
1. Bí tích rửa tội
2. Bí tích thêm sức
3. Bí tích thánh thể
4. Bí tích giải tội
5. Bí tích truyền chức thánh
6. Bí tích hôn phối
7. Bí tích xức dầu bệnh nhân
- Mười điều răn của Chúa
1. Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự.
2. Không được lấy danh Thiên Chúa để làm những việc phàm tục, tầm thường.
3. Dành ngày Chúa Nhật để thờ phụng Thiên Chú
4. Thảo kính cha mẹ.
5. Không được giết người.
6. Không được dâm dục.
7. Không được tham lam lấy của người khác
8. Không được làm chứng dối, che dấu sự giả dối.
9. Không được ham muốn vợ (hoặc chồng) người khác.
10. Không được ham muốn của cải trái lẽ.
- Sáu điều răn của Hội Thánh
1. Xem lễ ngày Chúa Nhật và ngày lễ buộc.
2. Kiêng việc xác ngày Chúa Nhật.
3. Xưng tội một năm một lần.
4. Chịu lễ ngày phục sinh.
5. Giữ chay những ngày quy định.
6. Kiêng ăn thịt những ngày quy định.