You are on page 1of 25

Chuyên đề 1

ĐƯỜNG LỐI, CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT
NAM TRƯỚC YÊU CẦU

ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

1. Xu thế phát triển giáo dục và giáo dục ĐH trong bối cảnh toán cầu hóa

1.1. Bối cảnh quốc tế

Thế giới đang phát triển và biến đổi nhanh chóng trong thời kỳ cách mạng công
nghiệp mới, đồng thời cũng đang đứng trước những biến động phức tạp, khó lường. Những
biến chuyển này dù tác động trực tiếp hay gián tiếp đều đều đang có ảnh hưởng sâu sắc đến
hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có GDĐH.

Toàn cầu hóa với bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ mối liên hệ, sự ảnh hưởng,
tác động, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, quốc gia, dân tộc trên thế giới. Toàn
cầu hóa một mặt làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kĩ thuật mới và tăng mức sống ở
cả nước giàu lẫn nước nghèo; mặt khác, toàn cầu hóa còn là tiến trình tấn công vào chủ
quyền quốc gia, làm xói mòn nền văn hóa và truyền thống địa phương. Toàn cầu hóa cũng
tạo ra khả năng quốc tế hóa các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội như buôn bán ma
túy, mại dâm, du nhập lối sống đồi trụy, lan tràn chủ nghĩa khủng bố, lây nhiễm dịch bệnh,...
đe dọa, gây bất ổn kinh tế - xã hội. Trong quá trình toàn cầu hóa, sự bất bình đẳng giữa các
nước phát triển và đang phát triển ngày càng gia tăng, hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng
lớn. Các nước cần phải chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, tùy theo khả năng,
mục tiêu phát triển của mình mà có chính sách hội nhập quốc tế và khu vực cho phù hợp
nhằm tranh thủ tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Điều này
đặt ra yêu cầu các quốc gia phải xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực có
trình độ trí tuệ và tay nghề cao nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh là cách làm thông minh và
chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Muốn vậy, các quốc gia càng chú trọng đầu tư và
xây dựng chiến lược phát triển giáo dục, trong đó GDĐH giữ vai trò quan trọng.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu của nhân
loại. Toàn cầu hóa là biểu hiện hệ quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
trong các nền kinh tế riêng biệt, từ đó quá trình này dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của từng
quốc gia, tạo ra mối quan hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân
tộc trên qui mô toàn cầu trong sự vận động phát triển. “Toàn cầu hóa không phải một cái gì
đó mà chúng ta có thể ngăn cản hoặc loại trừ được. Nó là một qui luật kinh tế giống như sức
mạnh của tạo hóa là gió và nước. Chúng ta có thể khai thác gió làm cho buồm căng gió.
Chúng ta có thể sử dụng nước để tạo ra năng lượng. Chúng ta có thể cố gắng làm việc để bảo
vệ nhân dân và tài sản tránh bão lụt. Nhưng từ chối sự tồn tại của gió và nước hay tìm cách
loại bỏ chúng thì thật là vô nghĩa. Toàn cầu hóa cũng vậy. Chúng ta có thể nỗ lực để phát huy
tối đa lợi ích của nó và giảm thiểu những rủi ro mà nó gây ra nhưng chúng ta không thể bác
bỏ xu hướng này và nó sẽ không mất đi”.1

1
Trích bài phát biểu của cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton tại ĐH Quốc gia Hà Nội trong chuyến
thăm Việt Nam ngày 17/11/2000 (Dẫn theo: Đặng Quốc Bảo và các tác giả (2017): Đổi mới, cải
cách giáo dục ở Việt Nam và nhân tố quản lí trong tiến trình đổi mới giáo dục, Nxb Thông tin và
truyền thông, tr. 14).

1
Khoa học công nghệ đang phát triển rất nhanh, là một trong những đặc trưng quan
trọng nhất của thế giới hiện đại, trong đó nổi bật là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
nhất là công nghệ số phát triển đang mở ra cơ hội cho nhiều nền giáo dục có thể phát triển
vươn tầm mà không nhất thiết trải qua quy trình phát triển đã có hoặc tuân thủ theo các
thông lệ truyền thống. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc lực
lượng sản xuất của xã hội hiện đại, thực hiện vai trò dẫn đường của khoa học trong toàn bộ
chu trình: khoa học – công nghệ – sản xuất – con người – môi trường và khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là
dựa trên cơ sở vững chắc của KHCN. Con người với tri thức của mình đóng vai trò trung
tâm của sự phát triển. Tố chất hàng đầu làm nên thành tựu tuyệt vời của sáng tạo về khoa
học công nghệ và bước tiến quan trọng của cách mạng khoa học công nghệ chính là trí tuệ
con người. Cách mạng KHCN, đặc biệt là CNTT và truyền thông (ITCs) tác động mạnh mẽ và
đặt ra yêu cầu giáo dục và đào tạo các quốc gia phải đổi mới và hiện đại hóa một cách căn
bản, tăng cường mở cửa, hội nhập, giao lưu giữa các nền giáo dục. Điều này sẽ tạo ra những
điều kiện thuận lợi để đổi mới cơ bản nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục,
đổi mới QLGD, tiến tới một nền giáo dục điện tử đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân người
học.

Dựa trên những thành tựu nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mô
hình ĐH thông minh đổi mới sáng tạo được xây dựng và phát triển dựa trên mô hình quản
trị chia sẻ (shared governance) nhằm hình thành hệ sinh thái với 3 đặc trưng cốt lõi là: Số
hóa, Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, GDĐH cũng đặt ra yêu cầu phải có sự
điều chỉnh về phương thức đào tạo và cách thức quản lý đào tạo đáp ứng yêu cầu việc học
diễn ra mọi nơi, mọi lúc; việc học mang tính cá thể hóa, phù hợp với từng cá nhân. Chuyển
đổi số thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu, trở thành mục
tiêu và phương tiện trong quản lý và hoạt động của các trường ĐH, nhất là các ĐH công lập
để phù hợp với bối cảnh và đối tượng học tập hiện nay.

Như vậy, bối cảnh quốc tế vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Cùng với đó, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng phát
triển mạnh mẽ thu hút ngày càng nhiều nước tham gia; cách mạng khoa học công nghệ,
CNTT và truyền thông, kinh tế trí thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp
đến sự phát triển của các nền giáo dục trên thế giới. Tư duy mới về giáo dục xác định vị trí,
vai trò mới của giáo dục - giáo dục đứng ở trung tâm của sự phát triển. Giáo dục được nhìn
nhận như chìa khóa để vượt qua những thách thức của thời đại. Tư duy mới về giáo dục
được thể hiện ở định hướng phát triển chủ đạo trong giáo dục là lấy “học thường xuyên,
suốt đời làm nền móng”,1 xây dựng 4 trụ cột (hay 4 mục tiêu chung nhất) của giáo dục: Học
để biết (Learning to know), Học để làm (Learning to do), Học để cùng chung sống
(Learning to live together), và Học để làm người (Learning to be) và hướng tới một “xã hội
học tập”.2 Nền giáo dục trong xã hội học tập hướng vào việc xây dựng cho con người năng
lực đón nhận, xử lí, sử dụng, truyền bá,… thông tin để xã hội tiến kịp sự phát triển của tri
thức nhân loại. Do vậy, nền giáo dục phải tập trung phát triển con người trên cơ sở tự chủ
của mỗi người làm cho con người phát huy cao độ năng lực sáng tạo, năng động trên mọi
phương diện.

1
Nhà tương lai học người Mỹ - Alvin Toffler cho rằng: "Người mù chữ của thế kỷ 21 không phải là người không biết
đọc, không biết viết mà là người không biết học hỏi, từ chối học hỏi và từ chối học lại".
2
Trong công trình “Giáo dục thế giới đi vào thế kỉ XXI”, GS.VS Phạm Minh Hạc cho rằng: Xã hội học tập là giáo
dục cho mọi người và mọi người làm giáo dục (trang 52)

2
1.2. Bối cảnh trong nước

Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn thách thức rất lớn, công cuộc đổi
mới của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực kinh
tế - xã hội. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.1
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đã xác định rõ một trong ba đột phá là
phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân
lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Giáo dục và đào tạo có bước đổi mới,
đóng góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực. Khoa học công nghệ
được đẩy mạnh trong ứng dụng, đổi mới sáng tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thực hiện các định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước sang thời kì mới,
nền giáo dục Việt Nam bước vào quỹ đạo được định danh là “đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục và đào tạo”. Công cuộc đổi mới giáo dục lần này diễn ra trong bối cảnh thế giới có
nhiều thay đổi nhanh chóng và phức tạp. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới sẽ
tạo ra nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh nhiều thách thức đối với sự
nghiệp phát triển giáo dục.

Bối cảnh quốc tế và trong nước trên đây cho thấy giáo dục nước nhà đang đứng trước
nhiều thời cơ, vận hội mới. Trước hết, đó là sự khẳng định nhất quán của Đảng và nhà nước
ta về vị trí quốc sách hàng đầu của giáo dục, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển;
giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp đó, cuộc cách
mạng KHCN, đặc biệt là CNTT và truyền thông sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để đổi
mới cơ bản nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đổi mới QLGD, tiến tới
một nền giáo dục điện tử đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân người học. Ngoài ra, quá trình
hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi
để tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục. Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế
- xã hội đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế chưa phát triển bền vững; chất
lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối
kinh tế vĩ mô chưa vững chắc,… Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Đất nước vẫn đang
tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị, xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Nhiều
thách thức mới cũng đã nảy sinh đòi hỏi giáo dục nước ta phải đối diện và giải quyết:

- Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao; đào tạo vẫn thiếu gắn kết với
nghiên cứu khoa học và nhu cầu của thị trường lao động; đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

1
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày
01/02/2021)

3
- Sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các
nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt, gây nguy cơ dẫn
đến sự thiếu bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, gia tăng khoảng cách về chất lượng giáo dục
giữa các vùng miền và cho các đối tượng người học.

- Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế theo chiều sâu tri thức với công nghệ tiên tiến và
hội nhập quốc tế, trong khi đó nguồn lực đầu tư cho giáo dục là có hạn, sẽ tạo sức ép đối với
phát triển giáo dục. Nguy cơ tụt hậu có thể làm cho khoảng cách kinh tế, tri thức, giáo dục
giữa Việt Nam và các nước ngày càng gia tăng. Hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường làm nảy sinh những vấn đề mới, như nguy cơ xâm nhập của văn hóa và lối sống
không lành mạnh làm xói mòn bản sắc dân tộc, dịch vụ giáo dục kém chất lượng có thể gây
nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về lý luận cũng như những
giải pháp thực tiễn phù hợp để phát triển giáo dục.

Trước tình hình đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã quán triệt thực
hiện nhất quán chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát
triển và nâng cao sức cạnh trạnh của nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới
đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo
theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu
cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, KHCN, thích ứng với Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư… Đầu tư thích đáng cho giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao…. Phấn
đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp
trình độ tiến tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế”.1 Đây là
những căn cứ, tiền đề quan trọng để xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển GDĐH Việt
Nam.
1.3. Xu thế phát triển của giáo dục và giáo dục ĐH trong khu vực và thế giới

Toàn cầu hóa khiến cho không một trường ĐH nào đứng ngoài dòng chảy toàn cầu
có thể trở nên phát triển và thịnh vượng. Vì thế dù có một số đặc thù về bối cảnh lịch sử,
chính trị và văn hóa, các trường ĐH của Việt Nam vẫn đang chia sẻ những đặc điểm chung
của các trường ĐH trên thế giới và cần thực hiện những cải cách cần thiết dựa và phân tích
những đặc điểm này.

Thực tiễn quốc tế về quản trị ĐH vốn đã rất đa dạng trong từng nước, giữa các nước
lại càng đa dạng, đặc biệt là tất cả các mô hình quản trị ĐH đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của
đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, và nhất là chính sách quản lý hệ thống của từng
nước. Tuy vậy, trong sự đa dạng đó vẫn có một số điểm chung. Các xu hướng cập nhật để
phát triển GDĐH và hội nhập quốc tế:

- Nỗ lực nâng cao chất lượng GDĐH toàn diện;


- Chú trọng và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học;
- Xây dựng hệ thống GD suốt đời, tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận GDĐH;
- Thực hiện chính sách đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho GDĐH;

1
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày
01/02/2021).

4
- Xu hướng phân quyền và tự chủ hóa, tích cực thực hiện thể chế quản lí GDĐH kết
hợp hài hòa giữa tập quyền và phân quyền;
- Pháp chế hóa, đại chúng hóa GDĐH;
- Xu hướng doanh nghiệp hóa (incorporation) các trường ĐH công;
- Tự chủ ĐH tiếp tục là xu thế chính của GDĐH trong khu vực và trên thế giới. Quyền
tự chủ của các trường ĐH đã có tác động lớn đến phát triển quy mô đào tạo, phát
triển hoạt động khoa học, thu hút nhân lực KHCN chất lượng cao và hơn hết là cách
thức quản trị trong các cơ sở GDĐH nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài để nâng cao chất lượng GDĐH.…

Có thể nói, trong thế giới phẳng ngày nay, các cơ sở GDĐH ở các nước đang chia sẻ
nhiều thách thức giống nhau và khác nhau. Từ những kinh nghiệm thực tiễn GDĐH của các
nước trên thế giới, Việt Nam có thể xem xét, “gạn đục khơi trong”, đúc kết những điểm phù
hợp để áp dụng cho lộ trình phát triển GDĐH nước nhà. Chẳng hạn, việc học hỏi kinh
nghiệm về ban hành chính sách và thực hiện chính sách quản trị ĐH ở các nước có ý nghĩa
rất quan trọng cho tiến trình cải thiện chất lượng quản trị của các cơ sở GDĐH Việt Nam;
những bài học kinh nghiệm thực tiễn từ các nước về những chính sách tự chủ ĐH đã có diễn
tiến như thế nào qua thời gian, đã dựa trên nền tảng nào hoặc có những mối liên hệ gì với
bối cảnh kinh tế, văn hóa và chính trị của họ, và đã tạo ra những thành công hay thất lại ra
sao. Nắm bắt xu thế và kinh nghiệm phát triển GDĐH của các quốc gia sẽ giúp phân tích bối
cảnh GDĐH Việt Nam, từ đó tìm kiếm những giải pháp phù hợp phát triển GDĐH của Việt
Nam.

2. Đường lối và các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và giáo dục ĐH trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa

2.1. Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và giáo dục ĐH trước yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo

Tháng 11 năm 2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI họp
Hội nghị bàn về công tác giáo dục. Hội nghị đã phân tích những thành tựu và thiếu sót cả
giáo dục, nghe các trình bày về các xu thế giáo dục trên thế giới, trong khu vực, cầu thị với
các ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân về đổi mới giáo dục đất nước. Hội nghị đã
thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Hội nghị này có ý nghĩa lịch sử lớn lao, đã mở ra cục
diện mới cho phát triển giáo dục nước nhà. Dưới đây là bảy quan điểm chỉ đạo của Nghị
quyết số 29-NQ/TW khóa XI:

Một là, Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển,
được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội”.
Hai là, Nghị quyết nếu ra cách tiếp cận với tiến trình phát triển giáo dục nước ta: “Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều
kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến

5
hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng,
xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”.1
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn,
phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng
tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Ba là, Nghị quyết xác địch cách hiểu mới về thực hiện nguyên lí giáo dục: “Phát triển
giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.2
Bốn là, Nghị quyết nêu tương quan hai phạm trù số lượng và chất lượng trong phát
triển giáo dục: “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ KHCN; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo
dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời
đáp ứng yêu cầu số lượng”.3
Năm là, Nghị quyết xác định tính chất mới của hệ thống giáo dục và yêu cầu đặt ra
trong sự vận hành hệ thống này: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên
thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện
đại hóa giáo dục và đào tạo”.
Sáu là, Nghị quyết lưu ý những điều tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường tác
động vào sự phát triển giáo dục; chỉ rõ phương hướng giảm thiểu tiêu cực: “Chủ động phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công
lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối
với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa
và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo”.4
Bảy là, Nghị quyết đề cập sự cần thiết đẩy mạnh hội nhập quốc tế đối với giáo dục và
đào tạo: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời
giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”.5
Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo khi quán triệt và triển
khai đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của các tầng lớp xã hội. Đông đảo nhân dân
đều có niềm tin và kì vọng vào nhân cách và sức lao động của thế hệ tương lai của đất nước:
sự phát triển toàn diện thể hiện ở học vấn, đạo đức, có đầy đủ các năng lực của con người
trong thời đại mới. Nhà trường các cấp đều có những chương trình hành động thực hiện
dạy học theo mục tiêu: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”.

1
Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013)
2
Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013)
3
Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013)
4
Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013)
5
Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013).

6
Thực tế, trong những bước đi ban đầu khi thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục thì tình hình đất nước có nhiều thách thức và khó khăn. “Giáo dục và đào tạo, KHCN
chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội”.1 Trạng thái dân trí,
nhân lực, nhân tài của nước nhà vẫn chưa có nhiều chuyển biến tích cực như sự kì vọng của
nhân dân. Trong lúc đó đất nước lại có những khó khăn về nhịp độ tăng trưởng kinh tế và
giải quyết vấn đề an sinh xã hội, cùng với đó là những khó khăn về sự phức tạp địa lí chính
trị, ô nhiễm môi trường,… Đây là những khó khăn, trở ngại cần nghiêm túc nhận diện để có
giải pháp phù hợp trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà.
Giáo dục Việt Nam trước năm 2013 dù có nhiều đóng góp cho phát triển đất nước,
song về cơ bản vẫn là một nền giáo dục vận hành theo sự thích ứng công nghiệp cổ điển.
Thời kì này, một số nhà chính trị, nhà giáo lão thành đã nêu một số khuyến nghị tâm huyết
cho việc chấn hung giáo dục để đất nước nhịp bước với thời đại. Những góp ý gây ấn tượng
mạnh trong xã hội là các khuyến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của nguyên Phó Chủ
tịch nước Nguyễn Thị Bình, của nhà giáo lão thành (Giáo sư Hoàng Tụy),…2
Tháng 11 năm 2014, Quốc hội khóa 13 thông qua Nghị quyết số 88/2014/QH13 về
về đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT. Quyết sách đổi mới chương trình, sách giáo
khoa GDPT nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả
GDPT; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo
dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và
năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Thực
hiện chủ trương này, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm của một số
nước có nền giáo dục phát triển; tổ chức nhiều hội thảo về xây dựng, biên soạn chương
trình, sách giáo khoa GDPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh; Ban hành quy
định tiêu chuẩn, quy trình xây dựng, chỉnh sửa chương trình GDPT... Tuy nhiên, tiến độ thực
hiện việc xây dựng, thẩm định, thực nghiệm và ban hành chương trình GDPT mới (gồm
chương trình tổng thể và các chương trình môn học) chưa bảo đảm theo lộ trình đặt ra tại
Nghị quyết 88 do công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện có lúc còn lúng túng; quá trình dự
thảo chương trình mới và lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân nảy sinh những
quan điểm khác nhau, thậm chí trái chiều nên cần thêm thời gian để lắng nghe, chắt lọc, tiếp
thu, đồng thời giải thích, tuyên truyền tạo sự đồng thuận của xã hội. Theo yêu cầu của Nghị
quyết 88, từ năm học 2018- 2019 sẽ bắt đầu triển khai áp dụng chương trình và sách giáo
khoa mới theo hình thức cuốn chiếu đối với mỗi cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học
phổ thông. Tuy nhiên, căn cứ tình hình xây dựng chương trình, sách giáo khoa mới và chuẩn
bị điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất của các cơ sở GDPT trên phạm vi toàn quốc
đến tháng 9 năm 2017, có thể thấy nếu triển khai theo lộ trình trên thì chất lượng chương
trình, sách giáo khoa mới cũng như điều kiện về nhân lực và cơ sở vật chất, kỹ thuật để dạy
học theo chương trình, sách giáo khoa mới chưa bảo đảm, do đó việc đổi mới chương trình,
sách giáo khoa khó đảm bảo thành công và khó nhận được sự đồng thuận, yên tâm của xã
hội. Do vậy, tháng 11/2017, Quốc hội đã đồng ý điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình,
sách giáo khoa GDPT. Thời gian áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới được lùi 2 năm
so với quy định cũ. Cụ thể, thời hạn áp dụng chương trình, sách giáo khoa GDPT mới theo
hình thức cuốn chiếu chậm nhất từ năm học 2020-2021 đối với cấp tiểu học, từ năm học
2021-2022 đối với cấp trung học cơ sở và từ năm học 2022-2023 đối với cấp trung học phổ
thông.

1
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày
01/02/2021).
2
Xem thêm Đặng Quốc Bảo và các tác giả (2017): Đổi mới, cải cách giáo dục ở Việt Nam và nhân tố quản lí trong
tiến trình đổimới giáo dục, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 52.

7
Ngày 26/12/2018, Bộ GD&ĐT ban hành Chương trình GDPT tổng thể. Theo đó,
Chương trình GDPT tổng thể nêu lên 5 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học
sinh là: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và 10 năng lực cốt lõi: Năng
lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo,
năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công
nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát
triển các năng lực cốt lõi, chương trình GDPT còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực
đặc biệt (năng khiếu) của học sinh. Chương trình GDPT tổng thể là căn cứ để xây dựng các
chương trình môn học và hoạt động giáo dục.
Chương trình GDPT được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp
1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). Hệ
thống môn học và hoạt động giáo dục của chương trình GDPT gồm các môn học và hoạt
động giáo dục bắt buộc, các môn học tự chọn. Thời gian thực học trong một năm học tương
đương 35 tuần. Các cơ sở giáo dục có thể tổ chức dạy học 1 buổi/ngày hoặc 2 buổi/ngày. Cơ
sở giáo dục tổ chức dạy học 1 buổi/ngày và 2 buổi/ngày đều phải thực hiện nội dung giáo
dục bắt buộc chung thống nhất đối với tất cả cơ sở giáo dục trong cả nước.

Với mục tiêu phát triển các trường sư phạm và cơ quan QLGD để tăng cường chất
lượng giáo viên và cán bộ QLGD, Bộ GD&ĐT đã có nhiều quyết sách quan trọng, trong đó đã
triển khai thực hiện Chương trình phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực của
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở GDPT (Enhancing Teacher Education Program,
gọi tắt là chương trình ETEP), thông qua đó để phát triển nghề nghiệp giáo viên và cán bộ
QLGD theo nhu cầu thực tiễn, đáp ứng nhu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.

Đối với GDĐH, thực hiện các định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, GDĐH nước ta đã xây dựng được mạng lưới
tương đối hoàn chỉnh, đa dạng về loại hình. Số lượng sinh viên tăng nhanh. Chất lượng giáo
dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ giảng viên và cán bộ QLGD phát triển cả về số lượng và
chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Xã hội hóa GDĐH được đẩy mạnh; hệ thống các
trường ĐH ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của
toàn xã hội. Công tác quản trị ĐH có bước chuyển biến nhất định. Những thành tựu và kết
quả nói trên, trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc; sự quan tâm, chăm
lo của Đảng, Nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy
của đội ngũ giảng viên và cán bộ QLGD;... Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả GDĐH còn thấp so
với yêu cầu. Hệ thống GDĐH còn thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức
giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo ĐH thiếu gắn kết với nghiên
cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động…
Với mục tiêu tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả GDĐH; xây
dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; bảo đảm các điều
kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc
tế GDĐH, GDĐH cần tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển
phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học; Hoàn thiện
mạng lưới các cơ sở GDĐH, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch
phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu
vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và
các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Một số
nhiệm vụ và giải pháp phát triển GDĐH là:

- Đổi mới mạnh mẽ nội dung GDĐH và sau ĐH theo hướng hiện đại, phù hợp với từng
ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống GDĐH. Chú trọng phát triển

8
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước
tiếp cận trình độ KHCN tiên tiến của thế giới.
- Đổi mới phương thức tuyển sinh ĐH, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết quả
học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào tạo ĐH theo hướng
chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp;
năng lực nghiên cứu và ứng dụng KHCN; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi
với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở GDĐH.
- Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GDĐH gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội,
quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra.
Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề
nghiệp và GDĐH. Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường ĐH, cao đẳng và các
viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Thực hiện phân tầng cơ
sở GDĐH theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn thiện mô hình ĐH
quốc gia, ĐH vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở GDĐH và giáo dục nghề nghiệp chất
lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
- Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường ĐH chất lượng
cao. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với GDĐH. Hướng tới có loại hình cơ sở giáo dục
do cộng đồng đầu tư.
- Phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDĐH,
trong đó cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và cán bộ
QLGD gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập
quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giảng viên phải có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải
được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
- Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các trường ĐH với các tổ
chức KHCN, đặc biệt là các viện nghiên cứu.
- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội;
nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GDĐH. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số
trường ĐH, ngành đào tạo trọng điểm, trường ĐH sư phạm. Thực hiện cơ chế đặt hàng trên
cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch
vụ đào tạo (không phân biệt loại hình cơ sở đào tạo), bảo đảm chi trả tương ứng với chất
lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo. Minh bạch hóa các hoạt động liên danh,
liên kết đào tạo, sử dụng nguồn lực công ; bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích với tích luỹ tái
đầu tư.
- Đẩy mạnh xã hội hóa GDĐH; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài
có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong GDĐH trên cơ sở bảo
đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các
ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng
chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền
được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và trường ngoài công
lập.
- Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ của các cơ sở GDĐH. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu, giữa các
cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ưu tiên đầu tư phát triển khoa học cơ bản,
khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung
tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở GDĐH. Có chính
sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học.

9
- Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh
nghiệp KHCN, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ sở đào tạo.
Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và giao kinh phí sự nghiệp KHCN cho các cơ sở GDĐH. Nghiên
cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường
ĐH công lập.
- Ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư và có cơ chế đặc biệt để phát triển một số
trường ĐH nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực sớm đạt trình độ khu vực và quốc tế, đủ năng
lực hợp tác và cạnh tranh với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu thế giới.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (2021)
xác định một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 là “Tạo
đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động
lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với
khu vực và thế giới”.1
Từ đó chỉ rõ đột phá chiến lược quan trọng là “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo,
quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn
diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ
nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học – công
nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát
huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.2
Nhìn một cách tổng quát, sự vận động giáo dục “đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục” đã “thể hiện tính cách mạng trong giáo dục vì đổi mới cả mục tiêu đào tạo, phương
thức đào tạo, phương thức quản lí”.3 Những lần đổi mới và cải cách giáo dục trước đây dù
đã đưa giáo dục nước ta có nhiều tiến bộ so với động thái trước đó, song đối chiếu với
những yêu cầu của thời đại và của nhân loại thì nền giáo dục nước ta vẫn chậm bước. Công
cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay đã hướng tới mục tiêu lớn lao: phát triển
giáo dục không ngừng đáp ứng nhu cầu của con người, nâng cao năng lựa chọn cho con
người và mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người với mục tiêu nhất quán: Hạnh phúc của
người học, phồn vinh của cộng đồng, tiến bộ của đất nước.
2.2. Chiến lược phát triển giáo dục và phát triển GDĐH giai đoạn 2021-2030

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2021-2030 nêu lên định hướng phát triển giáo dục là: Đẩy nhanh thực hiện đổi mới
căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng GD&ĐT, trọng tâm là hiện đại hoá và thay đổi
phương thức GD&ĐT, nhất là giáo dục đại học; phát triển nguồn nhân lực, GD-ĐT đáp ứng
yêu cầu nhân lực chất lượng cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang triển khai lấy ý kiến về Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn

1
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày
01/02/2021).
2
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày
01/02/2021).
3
Đặng Quốc Bảo và các tác giả (2017): Đổi mới, cải cách giáo dục ở Việt Nam và nhân tố quản lí trong tiến trình
đổimới giáo dục, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 10.

10
2021 - 2030, tầm nhìn đến 2045 (Chiến lược). Chiến lược có vai trò định hướng chiến lược
cho phát triển ngành GD-ĐT trong thập niên tới và giai đoạn tiếp theo. Mục tiêu tổng quát
phát triển GD đến năm 2030 là phát triển toàn diện con người Việt Nam, phát huy tối đa
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm nền tảng cho mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Xây dựng hệ thống
Giáo dục mở, phục vụ học tập suốt đời, công bằng và bình đẳng, theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế.
Năm 2020, Việt Nam có 238 trường ĐH, học viện bao gồm 175 trường công lập, 60
trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài. 1 Quy mô đào tạo được cải
thiện đáng kể cùng với cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, tiệm cận với yêu cầu phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước và từng địa phương. Chất lượng GDĐH được nâng cao,
từng bước khẳng định được uy tín trên trường quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế –
xã hội của từng địa phương và đất nước. GDĐH đã gắn kết hơn với nghiên cứu khoa học;
thứ hạng của các trường ĐH Việt Nam trên các bảng xếp hạng thế giới được cải thiện (2016
– 2020). Lần đầu tiên Việt Nam có 4 trường ĐH được ghi nhận trong bảng xếp hạng các
trường ĐH tốt nhất thế giới; nhiều trường, nhiều ngành đào tạo đã từng bước sánh ngang
với các nền giáo dục hiện đại, chất lượng cao trên thế giới.2 Điều này cho thấy GDĐH ngày
càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao,
trình độ cao phục vụ phát triển bền vững đất nước.

Bước vào giai đoạn mới của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, kinh tế tri thức phát triển và cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, vai trò của GDĐH Việt Nam tiếp tục được khẳng định như là một đột phá chiến lược
về phát triển con người toàn diện “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào
dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam”. Tuy nhiên, hệ
thống GDĐH Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được giải quyết để nâng cao năng
lực toàn hệ thống. Mục tiêu cụ thể của GDĐH là xây dựng hệ thống giáo dục đại học hiện đại,
đại chúng, có tính chất mở và khả năng thích ứng và quốc tế hóa cao. Đến năm 2030 tỷ lệ
sinh viên đại học/ 1 vạn dân đạt 230, tỷ lệ sinh viên đại học trong nhóm độ tuổi 18-24 đạt
33%, tỉ lệ sinh viên quốc tế theo học các chương trình GD ĐH Việt Nam đạt 1,7%; tỷ lệ giảng
viên có trình độ tiến sĩ ít nhất là 37%. Phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên mở, liên
thông, đại chúng, nhân rộng các mô hình học tập suốt đời, làm cơ sở để xây dựng xã hội học
tập.

Các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện với các nội dung cơ bản phát triển GDĐH giai đoạn
2021-2030: Hoàn thiện thể chế; Đổi mới công tác quản lý giáo dục; Thực hiện công bằng
trong tiếp cận giáo dục; Phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của
người dân; Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện; Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Bảo đảm nguồn lực tài
chính và cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và tăng
cường chuyển đổi số trong giáo dục; Thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, ứng
dụng chuyển giao gắn liền với đào tạo; Tăng cường hội nhập quốc tế. Trong các giải pháp
cần nhấn mạnh việc thể chế hóa giáo dục, phát huy nội lực, giải phóng tiềm năng phát triển
giáo dục, tạo những đột phá mang tầm chiến lược. Cần tiếp tục phát triển giáo dục đại
chúng, có trọng tâm, trọng điểm và phát triển tinh hoa; đào tạo tập trung vào đầu ra với

1
Theo báo cáo của Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GDĐT.
2
https://avnuc.vn/chuyen-gia-gop-y-xay-dung-khung-chien-luoc-phat-trien-giao-duc-dai-hoc/

11
mục tiêu hình thành thế hệ nhân lực có khả năng, kĩ năng khởi nghiệp với khát vọng phát
triển đất nước. Phát triển GDĐH gắn liền với chuyển đổi số để nắm bắt cơ hội, thời cơ của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Có như vậy, GDĐH
Việt Nam trong giai đoạn mới mới có thể hoàn thành sứ mạng của mình.

3. Chính sách và giải pháp phát triển GDĐH

Như trên đã phân tích, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức, chuyển đổi số,
cách mạng khoa học công nghệ, xã hội học tập, giáo dục suốt đời… đang diễn ra trên phạm
vi toàn thế giới và tác động mạnh mẽ tới GDĐH Việt Nam. Tất cả các thành tố cấu thành của
quá trình giáo dục và quản trị ĐH, từ mục tiêu, nội dung, phương pháp và phương thức đào
tạo, đảm bảo chất lượng, cơ chế tài chính phát triển GDĐH, quy hoạch, đầu tư cơ sở vật chất;
công tác quản lý; NCKH và chuyển giao công nghệ; chuyển đổi số và xây dựng hệ thống giáo
dục mở quốc gia,v.v… cho đến người dạy, người học và đặc biệt là phát triển đội ngũ giảng
viên… đều phải đổi mới mạnh mẽ để bắt kịp những thay đổi của xã hội hiện đại. Dưới đây
xin được phân tích một số chính sách và giải pháp cơ bản phát triển GDĐH Việt Nam.
3.1. Cơ sở pháp lý của phát triển GDĐH

Hơn 10 năm vừa qua, công tác xây dựng chính sách và pháp chế về GDĐH đã phát
triển, định hướng cho sự phát triển của cả hệ thống. Điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực GDĐH có
thể liệt kê những văn bản chính sách sau đây:
- Luật Giáo dục, số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005
- Luật Giáo dục, số 43/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019.
- Luật GDĐH, số 08/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH, số 08/2012/QH13 (luật số
34/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018)
- Nghị định số 141/2013/NĐ-CP (ngày 24 tháng 10 năm 2013) quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH 2012
- Nghị định số 99/2019/NĐ-CP (ngày 30 tháng 12 năm 2019) quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
GDĐH 2018
- Quyết định số 69/QĐ-TTg (ngày 15 tháng 01 năm 2019) của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019 - 2025
- Quyết định số 89/QĐ-TTg (ngày 18 tháng 01 năm 2019) của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở
GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn
2019 – 2030
- Quyết định số 78/QĐ-TTg (ngày 14 tháng 01 năm 2022) của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo
dục đối với GDĐH và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030”
- Quyết định số 26/2014/QĐ-TTg (ngày 26 tháng 03 năm 2014) của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐH quốc gia và
các cơ sở GDĐH thành viên
- Nghị định số 99/2014/NĐ-CP (ngày 25 tháng 10 năm 2014 ) của Chính phủ quy
định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KHCN trong các cơ
sở GDĐH

12
- Thông tư 12/2013/TT-BGDĐT (ngày 12 tháng 4 năm 2013) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Thông tư ban hành Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho giảng viên trong cơ sở GDĐH
- Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT (ngày 19 tháng 5 năm 2017) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở GDĐH
- Thông tư 27/2019/TT-BGDĐT (ngày 30 tháng 12 năm 2019) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn
bằng GDĐH
- Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT (ngày 29 tháng 11 năm 2019) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Quy chế quản lý bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm, bằng tốt nghiệp cao
đẳng sư phạm, văn bằng GDĐH và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Thông tư 20/2020/TT-BGDĐT (ngày 27 tháng 07 năm 2020) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở GDĐH
- Thông tư 10/2020/TT-BGDĐT (ngày 14 tháng 05 năm 2020) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐH vùng và các
cơ sở GDĐH thành viên
- Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT (ngày 26 tháng 10 năm 2020) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ
nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập.
- Thông tư 31/2021/TT-BGDĐT (ngày 10 tháng 11 năm 2021) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định tiêu chuẩn, điều kiện thi hoặc xét thăng hạng; nội
dung, hình thức và việc xác định người trúng tuyển trong kỳ xét thăng hạng chức
danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các trường cao đẳng sư phạm và cơ sở
GDĐH công lập.
- Thông tư 26/2021/TT-BGDĐT (ngày 17 tháng 09 năm 2021) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
trong cơ sở GDĐH
- Thông tư 35/2021/TT-BGDĐT (ngày 06 tháng 12 năm 2021) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Thông tư quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định,
duyệt và sử dụng tài liệu giảng dạy, giáo trình GDĐH
- Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT (ngày 22 tháng 6 năm 2021) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm
định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của GDĐH
- Thông tư 30/2022/TT-BTC (ngày 3 tháng 6 năm 2022) của Bộ trưởng Bộ Tài chính
ban hành hướng dẫn cơ chế tài chính thực hiện Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ
giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030.
- Thông tư 09/2022/TT-BGDĐT (ngày 06 tháng 6 năm 2022) của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành quy định Danh mục thống kê ngành đào tạo của GDĐH.
- Các luật và văn bản dưới luật khác có liên quan.
Có thể nói, hệ thống pháp luật về GDĐH đã được hình thành, ngày càng hoàn thiện,
đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy thực hiện tự chủ ĐH, sử dụng hiệu quả các

13
nguồn lực, nâng cao chất lượng GDĐH, bảo đảm sự hội nhập quốc tế, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu đào tạo nguồn nhân lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước tình hình mới, hoạt động xây dựng
chính sách và pháp chế hóa GDĐH cần tiếp tục đổi mới, cập nhật, bám sát thực tiễn để đáp
ứng được yêu cầu xây dựng hành lang pháp lý quan trọng để tổ chức quản lý GDĐH khoa
học và hiệu quả.
3.2. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH

Bước sang thế kỉ 21, quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của quản lý nhà nước đối với GDĐH. Hoạt động này dựa trên cơ sở
khoa học, cơ sở thực tiễn phát triển GDĐH Việt Nam và cơ sở pháp lý, trong đó phải kể tới
các quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã được ban hành, chẳng hạn như:

- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập,
phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hộ;
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 1 năm 2008 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội;
- Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới trường ĐH, cao đẳng giai đoạn 2006 -
2020;
- Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020;
- Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26 tháng 06 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, cao đẳng giai
đoạn 2006 – 2020.

Năm 2020, cả nước có 238 trường (tăng 13 trường so với 2015); trong đó có 66
trường ngoài công lập (tăng 6 trường so với 2015, nâng tỷ lệ trường ngoài công lập lên
27,73%). Có thể nói, mạng lưới các cơ sở GDĐH trong cả nước đã ngày càng mở rộng và
phát triển, đáp ứng được nhu cầu học tập của người dân. Năm 2010, cả nước có 1.435.887
sinh viên ĐH, năm 2015 là 1.824.328 và năm 2019 là 1.526.111. Qua đó, có thể thấy trong
10 năm qua, quy mô sinh viên chỉ tăng 6% và quy mô này tăng nhẹ trong nửa đầu và giảm
nhẹ trong nửa cuối của thập niên.1

Quan điểm quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH là:

i) Mở rộng hợp lý quy mô đào tạo ĐH, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; thực hiện điều
chỉnh cơ cấu hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo,
thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội; gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và
hoạt động thực tiễn.

ii) Kết hợp hài hòa giữa việc khai thác mặt tích cực của cơ chế thị trường với việc
nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước; tăng cường đầu tư ngân sách, đào

1
https://daibieunhandan.vn/Giao-duc--Y-te1/Can-chinh-sach-dot-pha-phat-trien-giao-duc-dai-hoc-i247688/

14
tạo, bồi dưỡng giảng viên, cán bộ quản lý GDĐH; tạo quỹ đất xây dựng trường; thực hiện
công bằng xã hội; ban hành chính sách hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ người học thuộc các
đối tượng ưu tiên, khuyến khích học tập; đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục nhằm huy
động mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển GDĐH;

iii) Thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chính sách, quy hoạch, chất lượng đào
tạo, chuẩn giảng viên, các yêu cầu về quản lý tài chính, hợp tác quốc tế đối với các trường
ĐH, cao đẳng. Tăng cường phân cấp quản lý, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các trường ĐH, cao đẳng; xây dựng một số trường ĐH, cao đẳng mạnh, hình thành các cụm
ĐH; khắc phục hiện trạng manh mún, phân tán của mạng lưới; khuyến khích sự phối hợp
giữa các địa phương trong việc mở trường;

iv) Phát triển mạng lưới các trường ĐH, cao đẳng phải phù hợp với chiến lược phát
triển và điều kiện kinh tế - xã hội, tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước, gắn với từng
vùng, từng địa phương; xây dựng cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo, bố trí theo vùng
miền hợp lý; xây dựng một số trung tâm đào tạo nhân lực trình độ cao, gắn với các vùng
kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế động lực; hình thành một số trung tâm đào tạo nguồn nhân
lực tập trung theo vùng, một số khu ĐH, đáp ứng yêu cầu di dời của các trường trong khu
vực nội thành thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhu cầu đầu tư mới;

v) Bảo đảm đạt các tiêu chí quy định về chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên,
quy mô diện tích đất đai, cơ sở vật chất - kỹ thuật - trang thiết bị, phù hợp với khả năng đầu
tư của ngân sách nhà nước, sự huy động nguồn lực xã hội;

vi) Ưu tiên thành lập các cơ sở mới có đủ tiềm lực và điều kiện; hạn chế việc nâng
cấp các cơ sở hiện có; khuyến khích đào tạo những ngành, nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp;
cân đối hợp lý cơ cấu đào tạo giữa các trình độ ĐH, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và
dạy nghề, giữa các ngành nghề, giữa khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật - công nghệ; bảo
đảm tính liên thông giữa các loại hình, các trình độ đào tạo;

vii) Tập trung đầu tư xây dựng các trường đẳng cấp quốc tế, các trường trọng điểm,
các trường ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các lĩnh vực then chốt; khuyến khích phát
triển các trường tư thục nhằm huy động ngày càng nhiều hơn nguồn lực xã hội đầu tư cho
GDĐH, trên cơ sở bảo đảm chất lượng, công bằng xã hội, gắn với phát triển nhân tài.

viii) Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo; Kết luận Hội nghị lần thứ 3 và lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh; đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc nhận thức và tư duy về giáo dục và đào tạo; công tác
QLGD; cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho GDĐH.

ix) Gắn kết chặt chẽ giáo dục đào tạo với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh, nhu cầu nhân lực trình độ cao của đất nước, xu thế phát triển của
khoa học, công nghệ và yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH Việt Nam đến năm 2020.

Những giải pháp cơ bản để thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH bao gồm:

Thứ nhất: Nhóm giải pháp về đầu tư, huy động vốn:

- Từng bước tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho GDĐH, đồng thời tăng cường quản
lý, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước;

15
- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục;

- Thu hút các nguồn vốn ODA và FDI đầu tư cho GDĐH;

- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, cung cấp các dịch vụ chất
lượng cao theo nhu cầu xã hội nhằm tăng thu nhập cho các trường.

Thứ hai: Nhóm các giải pháp về phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý GDĐH:

- Bổ sung số lượng, nâng cao chất lượng giảng viên ĐH, cao đẳng để đạt định mức
quy định về tỷ lệ sinh viên trên giảng viên đối với các trường ĐH, cao đẳng và các nhóm
ngành nghề đào tạo;

- Hỗ trợ công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên ĐH, cao đẳng (kể cả ở các trường
công lập và tư thục). Triển khai chương trình đào tạo tiến sĩ để bổ sung và nâng cao chất
lượng giảng viên ĐH, cao đẳng;

- Xây dựng, ban hành Quy chế làm việc đối với giảng viên ĐH, cao đẳng;

- Xây dựng và thực hiện chính sách tiền lương mới phù hợp đối với giảng viên ĐH,
cao đẳng;

- Ban hành chính sách thu hút, sử dụng các nhà khoa học thuộc các viện nghiên cứu
khoa học trong và ngoài nước tham gia giảng dạy ở trường ĐH, cao đẳng;

- Đổi mới công tác đánh giá giảng viên ĐH, cao đẳng, thông qua nhiều hình thức và
gắn với sinh viên;

- Xây dựng kế hoạch đào tạo sau ĐH dành riêng cho các vùng khó khăn.

Thứ ba: Nhóm các giải pháp tăng cường cơ sở vật chất:

- Hỗ trợ các trường về đất đai. Diện tích tối thiểu đối với trường ĐH có quy mô
khoảng 5.000 sinh viên là 10 ha; có khoảng 15.000 sinh viên là 30 ha và có khoảng 25.000
sinh viên là từ 40 ha trở lên. Đối với những trường công lập có diện tích quá nhỏ (dưới 2 ha)
ở trong khu vực nội thành các thành phố lớn cần có giải pháp chuyển đổi đất và các công
trình xây dựng trên phần đất để di dời ra khu vực mới vùng ngoại thành có diện tích từ 10
ha trở lên.

- Ban hành các cơ chế tạo điều kiện cho các trường chủ động khai thác các nguồn lực
đầu tư nhằm đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị;

- Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện ở các trường;
hình thành hệ thống thư viện điện tử kết nối các trường trên cùng địa bàn, cùng một vùng
và trên phạm vi toàn quốc;

- Thiết lập mạng thông tin toàn cầu và mở rộng giao lưu quốc tế cho tất cả các
trường ĐH, cao đẳng trong nước;

- Quy hoạch, sắp xếp lại công tác xuất bản giáo trình, sách và tài liệu tham khảo;

16
- Tập trung đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị phòng học, giảng đường; nâng cao chất
lượng các hoạt động dịch vụ cho sinh viên;

- Đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các khu ký túc xá sinh viên, nhất là đối
với các trường ở khu vực thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; khuyến khích đầu tư
xây dựng một số khu ĐH thuộc các vùng Bắc Bộ, Nam Bộ và Trung Bộ;

- Tăng cường sự phối hợp giữa các viện, trung tâm nghiên cứu KHCN và các trường
ĐH trong công tác đào tạo, nghiên cứu; xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm quốc
gia thuộc các trường ĐH trọng điểm, trường đầu ngành; gắn nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản
với các trường ĐH trên cơ sở bảo đảm các điều kiện, chất lượng. Từng bước hỗ trợ hình
thành, phát triển các cơ sở thực nghiệm về công nghệ ở các trường cao đẳng.

Thứ tư: Nhóm các giải pháp về quản lý:

- Thực hiện phân tầng và xếp hạng các trường ĐH, cao đẳng;

- Xây dựng và ban hành các tiêu chí cụ thể về thành lập trường ĐH, cao đẳng, mở các
mã ngành đào tạo. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động
của các loại hình trường ĐH, đáp ứng yêu cầu mới;

- Triển khai đại trà công tác đánh giá và kiểm định chất lượng GDĐH;

- Xây dựng Trung tâm Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực nhằm cung cấp các dữ liệu
thống kê, thông tin, dự báo đầy đủ, chính xác, phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển
ngành và cơ sở đào tạo; bám sát quy hoạch phát triển nhân lực;

- Thực hiện đa ngành hóa, đa lĩnh vực hóa đối với các trường ĐH, cao đẳng đơn
ngành;

- Củng cố, nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các trường, khoa sư phạm, sư
phạm kỹ thuật;

- Nghiên cứu việc phân cấp quản lý các trường ĐH, cao đẳng phù hợp với điều kiện
thực tiễn.

- Giao quyền tự chủ cho các nhà trường theo quy định của Luật GDĐH.

- Tăng cường quản lý công tác tuyển sinh, đào tạo của các trường, đáp ứng các tiêu
chí bảo đảm chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định;

- Xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ cụ thể nhằm đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục, phát triển các trường ĐH tư thục, trường ĐH có vốn đầu tư nước ngoài.

- Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDĐH, nhất là các văn
bản quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện, thủ tục thành lập, chia tách, sáp nhập,
giải thể các trường và kết nối các địa phương hợp tác trong việc thành lập trường ĐH, cao
đẳng; quy định rõ trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan và địa phương
trong quản lý, tham mưu thành lập trường và bảo đảm chất lượng đào tạo tại các cơ sở
GDĐH;

17
- Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn và tiêu chí về hạ tầng, cơ sở vật chất, trang thiết bị
kỹ thuật phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản
lý, đội ngũ công chức và viên chức hành chính, quy định về tổ chức và quản lý của trường
ĐH và cao đẳng;

- Điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh, quy mô đào tạo, trình độ đào tạo của các trường phù
hợp với điều kiện thực tế bảo đảm chất lượng; dừng tuyển sinh, sáp nhập, giải thể các
trường không đạt tiêu chuẩn và quy chuẩn quy định mà không có giải pháp khắc phục phù
hợp quy định của pháp luật;

- Rà soát các đề án thành lập trường đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ
trương thành lập; tiến hành phân loại, đánh giá, đối chiếu các đề án thành lập trường chưa
có ý kiến đồng ý về nguyên tắc và thông báo cho các nhà đầu tư để có sự điều chỉnh hoặc xử
lý phù hợp;

Thực hiện các quan điểm và giải pháp trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương xây
dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật quy định tiêu chuẩn và quy chuẩn trường ĐH, cao đẳng; cơ chế, chính sách đầu tư tăng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, phát triển chương trình và đội ngũ giảng viên làm cơ sở cho
việc rà soát và điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã nỗ lực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo, hướng dẫn các Bộ, ngành và địa
phương thực hiện rà soát, điều chỉnh, sắp xếp và tổ chức lại các cơ sở giáo dục thuộc quyền
quản lý; huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển mạng lưới nhà trường; chỉ đạo các
trường, cơ sở đào tạo rà soát, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ giảng viên đáp
ứng các tiêu chuẩn và quy chuẩn quy định của trường ĐH;
Các trường ĐH chủ động thực hiện đánh giá thực trạng các điều kiện bảo đảm chất
lượng đào tạo phù hợp với các tiêu chuẩn và quy định quy chuẩn; đề xuất phương án phát
triển nhà trường trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ
quan chủ quản và các Bộ, ngành liên quan. Đồng thời, chấp hành Quyết định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, cơ quan chủ quản, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố
trực thuộc trung ương về công tác sắp xếp, tổ chức lại liên quan đến việc thực hiện rà soát,
điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường.

Trước yêu cầu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
(2013) chỉ rõ mục tiêu: “Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở GDĐH, cơ cấu ngành nghề và trình
độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường
và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế”. Giải pháp đặt ra là “Quy hoạch lại mạng
lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, GDĐH gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực (…) Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường ĐH,
cao đẳng và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Thực
hiện phân tầng cơ sở GDĐH theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn
thiện mô hình ĐH quốc gia, ĐH vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở GDĐH và giáo dục
nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới”.1
3.3. Phát triển đội ngũ giảng viên ĐH

1
Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013)

18
Đội ngũ giảng viên ĐH là nhân tố quyết định chất lượng và sự tồn tại, phát triển của
các trường ĐH. Có một đội ngũ giảng viên ưu tú là tiêu chuẩn đầu tiên của một trường ĐH
hàng đầu thế giới. Do vậy, phát triển đội ngũ giảng viên là một nội dung quan trọng của
quản lí GDĐH bởi nó sẽ quyết định sứ mệnh và phương hướng phát triển của trường ĐH.
Trước tình hình mới của nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, dưới sự chỉ đạo của
những quan niệm mới, tư duy mới và cơ chế mới, vấn đề làm thế nào để đẩy mạnh công tác
phát triển đội ngũ giảng viên ĐH có chuyên môn giỏi, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc
tế của các trường ĐH - đều liên quan đến mục tiêu bồi dưỡng và phát triển nhân tài của
trường ĐH ở Việt Nam, cũng là thách thức của thời đại mà cải cách GD ĐH của Việt Nam
phải đối mặt và phải được giải quyết một cách cấp bách. Một trong chín nhiệm vụ của ngành
Giáo dục đặt ra để thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29-NQ/TW là “Phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”. Đại hội XII của Đảng
tiếp tục đề ra mục tiêu: “Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình
độ đào tạo”. Như vậy, vấn đề mấu chốt của tiến trình đổi mới GDĐH chính là nâng cao chất
lượng của đội ngũ giảng viên. Và do đó, cần có sự thay đổi sâu sắc tư duy giáo dục của từng
chủ thể giáo dục, đặc biệt là đội ngũ giảng viên và đội ngũ làm công tác quản lý.
Trong bối cảnh đổi mới GDĐH hiện nay, việc phát triển đội ngũ giảng viên ĐH cần
được coi trọng vì đây là yếu tố quyết định chất lượng GDĐH. Do đó, các cơ sở GDĐH đẩy
mạnh việc thu hút, trọng dụng và phát huy vai trò của các nhà khoa học, người có trình độ
tiến sĩ ở trong và ngoài nước đến làm việc, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại
các cơ sở GDĐH ở Việt Nam. Quan điểm của việc phát triển đội ngũ giảng viên ĐH là bảo
đảm thiết thực, hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và nguyên tắc chia sẻ chi phí
giữa nhà nước, cơ sở GDĐH và đối tượng thụ hưởng Đề án; tích hợp thống nhất với các
chương trình, đề án liên quan đã và đang triển khai.

Hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên ĐH hướng tới thực hiện mục tiêu xây dựng
đội ngũ giảng viên các cơ sở GDĐH bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát
triển khoa học, công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, yêu
cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Quyết định số 89/QĐ-TTg (ngày 18 tháng 01 năm 2019) của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp
ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2030 nêu rõ 04
mục tiêu cụ thể:
Một là: Đào tạo trình độ tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên ĐH, bảo đảm về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu, trong đó 7% giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài;
3% giảng viên được đào tạo trong nước và phối hợp giữa các trường ĐH Việt Nam với các
trường ĐH nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới;

Hai là: Thu hút được ít nhất 1.500 nhà khoa học, người có trình độ tiến sĩ đang công
tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc trong nước, ngoài các cơ sở GDĐH đến làm việc tại các
cơ sở GDĐH Việt Nam;

Ba là: Phấn đấu 80% giảng viên các trường thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể
dục, thể thao đạt trình độ thạc sĩ trở lên, được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài và trong
nước đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới, cơ cấu hợp lý;

Bốn là: Đến 2030, phấn đấu 100% cán bộ quản lý và giảng viên được bồi dưỡng
nâng cao năng lực, trong đó chú trọng các năng lực của giảng viên về: Phát triển chương

19
trình đào tạo, giảng dạy theo phương pháp hiện đại, nghiên cứu khoa học, ngoại ngữ và
CNTT.

Những nhiệm vụ, giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên ĐH là:

Thứ nhất: Đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên các cơ sở GDĐH:

- Tiến hành khảo sát, đánh giá khả năng đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ của các cơ sở
GDĐH ở trong nước và nước ngoài; xác định các lĩnh vực, ngành, chuyên ngành trọng tâm
cần ưu tiên đào tạo; công bố danh sách và thông tin về các trường ĐH có chất lượng tốt, tạo
điều kiện cho người học chọn lựa, chủ động trong học tập và nghiên cứu; tạo thuận lợi cho
các cơ sở GDĐH trong nước liên kết, hợp tác đào tạo;

- Bảo đảm tự chủ của các cơ sở GDĐH trong công tác tuyển chọn, xét duyệt, lập danh
sách giảng viên đủ điều kiện cử đi đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ với các phương thức: đào
tạo toàn thời gian tại các trường ĐH nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới;
đào tạo tại các trường ĐH trong nước và phối hợp giữa các trường ĐH Việt Nam với các
trường ĐH nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới;

- Tổ chức bồi dưỡng ngoại ngữ và các kỹ năng cần thiết cho các giảng viên được
tuyển chọn đi đào tạo tại nước ngoài;

- Tăng mức đầu tư cho đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ đáp ứng đủ chi phí đào tạo,
nghiên cứu khoa học, thực hành, thí nghiệm, thực tập và công bố kết quả nghiên cứu trên
các tạp chí có uy tín trong khu vực và trên thế giới;

- Thường xuyên kiểm tra, giám sát, thanh tra quá trình đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc
sĩ của các cơ sở GDĐH; kiểm soát chặt chẽ các khâu nghiệm thu, đánh giá luận án, luận văn,
công nhận, cấp phát bằng, bảo đảm chất lượng đầu ra;

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định, kế hoạch nhằm phát huy
sức mạnh của toàn xã hội quan tâm, chăm lo cho công tác đào tạo giảng viên trình độ cao
phục vụ đất nước.

- Tổ chức tổng kết, đánh giá thường xuyên kết quả đào tạo hàng năm và từng giai
đoạn để kịp thời rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch và động viên, khen thưởng
kịp thời.

Thứ hai: Thu hút các nhà khoa học, người có trình độ tiến sĩ, đủ tiêu chuẩn để làm
giảng viên tại các cơ sở GDĐH Việt Nam:

- Tổ chức tuyên truyền, vận động các nhà khoa học, người có trình độ tiến sĩ, đủ tiêu
chuẩn để làm giảng viên tại các cơ sở GDĐH Việt Nam;

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất, tinh thần đối với các nhà khoa học, người
có trình độ tiến sĩ, đủ tiêu chuẩn để làm giảng viên tại các cơ sở GDĐH Việt Nam;

- Khuyến khích các cơ sở GDĐH trong nước chủ động thu hút các nhà khoa học,
người có trình độ tiến sĩ, đủ tiêu chuẩn đến làm việc.

20
Thứ ba: Tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
giảng viên:

- Nghiên cứu, ban hành khung năng lực giảng viên làm cơ sở để xây dựng chương
trình, tài liệu bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên;

- Tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên, trong
đó chú trọng bồi dưỡng về năng lực phát triển chương trình đào tạo, giảng dạy theo
phương pháp hiện đại, nghiên cứu khoa học và năng lực ngoại ngữ, CNTT.

Thứ tư: Đổi mới, hoàn thiện về cơ chế, chính sách:

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các chính sách bảo đảm thống nhất,
đồng bộ về: Vị trí việc làm, tuyển dụng, thu hút tiến sĩ và các nhà khoa học giỏi, bố trí và sử
dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và đãi ngộ đối với giảng viên, cán bộ quản lý theo vị trí
việc làm và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp; hướng dẫn các cơ sở GDĐH triển khai thực
hiện, bảo đảm nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phù hợp với thực tiễn;

- Từng bước tăng mức đầu tư, hỗ trợ kinh phí đáp ứng yêu cầu thực tế của công tác
đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ ở cả ba phương thức: Đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài,
đào tạo theo hình thức liên kết, phối hợp và đào tạo ở trong nước.

3.4. Chiến lược chuyển đổi số và xây dựng hệ thống giáo dục mở quốc gia

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ với nhiều thành tựu rực rỡ của nó đã và đang
từng ngày từng giờ tạo ra nhiều tri thức khoa học và giải pháp công nghệ làm thay đổi bộ
mặt của thế giới. Cùng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là quá trình toàn cầu hóa
và sự xuất hiện mạng truyền thông kỹ thuật số làm cho nhân loại ngày càng xích lại gần
nhau hơn và chia sẻ những tài nguyên trí tuệ với nhau thông qua sự hợp tác về khoa học
công nghệ và giáo dục; đặc biệt là GDĐH. Các định chế và các quy chế của hợp tác quốc tế và
chia sẻ tài nguyên giáo dục trong GDĐH đã thống nhất và tạo sự đồng thuận ở cả cấp độ
quốc gia và toàn cầu. Để tận dụng tối đa nguồn tài nguyên giáo dục mở trong GDĐH, mỗi
quốc gia cần xây dựng những định chế, cơ chế tiếp nhận nguồn tài nguyên giáo dục mở
trong phạm vi quốc gia và quốc tế để tiếp thu nguồn dữ liệu vô giá này.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là:
“đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHCN, đổi mới sáng tạo, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc
gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế”. Đồng thời xác định nội dung các đột phá chiến lược, trong đó khẳng định “Xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển
một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú
trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng
bước phát triển kinh tế số, xã hội số”.1
Các cơ sở GDĐH tại Việt Nam đang trong quá trình đổi mới về chương trình, nội
dung đào tạo và phương pháp giảng dạy, trong đó lấy người học làm trung tâm, chú trọng
đào tạo về năng lực và kỹ năng để tự khai phá tri thức cũng như trang bị khả năng tự học

1
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày
01/02/2021).

21
tập. Tài nguyên giáo dục mở được xem là một nguồn tài nguyên phục vụ hữu ích cho việc
tăng cường chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của các cơ sở GDĐH. Để đổi mới
phương pháp giảng dạy giúp người học tự chủ khai phá tri thức thì cần một nguồn học liệu
đủ lớn và có chất lượng đến từ hệ thống GDĐH. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các trường ĐH
Việt Nam đang rất thiếu hụt nguồn học liệu. Tài nguyên giáo dục mở có thể coi là một giải
pháp cho vấn đề này.
Thuật ngữ Tài nguyên giáo dục mở (OER) lần đầu tiên được thông qua tại Diễn đàn
UNESCO năm 2002 về Tác động của Open Course Ware (OCW) đối với GDĐH ở các nước
đang phát triển. Định nghĩa Tài nguyên giáo dục mở được nêu trong tài liệu Khuyến nghị
Tài nguyên giáo dục mở của UNESCO, được 193 quốc gia thành viên thông qua ngày
25/11/2019 được nêu như sau: (1) Tài nguyên Giáo dục Mở là các tư liệu dạy, học và
nghiên cứu ở bất kỳ định dạng và phương tiện nào mà nằm trong phạm vi công cộng hoặc
có bản quyền đã được phát hành theo một giấy phép mở, cho phép những người khác
không mất chi phí để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy chỉnh và phân phối lại; và (2)
Giấy phép mở tham chiếu tới giấy phép tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ của người nắm
giữ bản quyền và đưa ra sự cho phép trao cho công chúng các quyền để truy cập, sử dụng
lại, tái mục đích, tùy chỉnh và phân phối lại các tư liệu giáo dục.
Tài nguyên giáo dục mở có thể bao gồm các khóa học / các chương trình, các tư liệu
khóa học, mô đun khóa học, chỉ dẫn cho sinh viên, ghi chép dạy học, sách giáo khoa, bài báo
nghiên cứu, video, công cụ và tiện ích đánh giá, tư liệu tương tác như các mô phỏng và trò
chơi nhập vai, cơ sở dữ liệu, phần mềm, ứng dụng(gồm các ứng dụng di động) và bất kỳ tư
liệu giáo dục hữu dụng nào khác.1
Hiện nay, các cơ sở GDĐH đã có những nhận thức và hiểu biết cơ bản tài nguyên giáo
dục mở. Xu thế sử dụng nguồn tài nguyên số đang gia tăng. Giảng viên và sinh viên đã coi
các nguồn tài nguyên số là kênh khai thác thông tin thuận tiện và hữu hiệu. Có thể coi đây là
“văn hóa số”, đây chính là điều kiện thuận lợi để phát triển tài nguyên giáo dục mở. Tuy
nhiên cần có sự thúc đẩy hơn nữa trong việc quảng bá trong cộng đồng ĐH về nguồn tài
nguyên này. Sự hiểu biết và nhận thức của cộng đồng là rất quan trọng trong việc tạo lập, sử
dụng và chia sẻ tài nguyên giáo dục mở.
Tài nguyên giáo dục mở tạo ra cơ hội học tập cho tất cả mọi người; nhằm tăng cường
chất lượng đào tạo và nghiên cứu của các cơ sở GDĐH, giảm giá thành phát triển học liệu và
giảm giá thành dịch vụ giáo dục. Nguồn tri thức từ tài nguyên giáo dục mở luôn được cập
nhật và phát triển và cung cấp nguồn học liệu có chất lượng; thúc đẩy sự minh bạch, giải
quyết được vấn đề bản quyền trong quá trình sử dụng và chia sẻ tạo nền tảng cơ sở phát
triển bền vững và tự chủ cho các trường ĐH. Tài nguyên giáo dục mở sẽ giúp cho các cơ sở
GDĐH nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cũng như năng lực tự chủ, qua đó hỗ trợ
cho sự phát triển bền vững; tài nguyên giáo dục mở đem lại các lợi ích như sau: tạo ra cơ
hội học tập cho tất cả mọi người; tăng cường chất lượng đào tạo và nghiên cứu của các cơ
sở GDĐH; giảm giá thành phát triển học liệu và giảm giá thành giáo dục; tri thức luôn được
cập nhật và phát triển; cung cấp nguồn học liệu có chất lượng; thúc đẩy sự minh bạch trong
học thuật; giải quyết được vấn đề bản quyền trong quá trình sử dụng và chia sẻ học liệu; tạo
nền tảng cơ sở phát triển bền vững và tự chủ cho các trường ĐH.
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số và xây dựng hệ thống
giáo dục mở quốc gia, các cơ sở GDĐH khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia xây
dựng, phát triển, khai thác, sử dụng trên cơ sở các quy định, tiêu chí phù hợp để áp dụng sử

1
UNESCO, 2015: Chỉ dẫn về Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) trong giáo dục ĐH:
https://www.dropbox.com/s/p1tfmi5swd229e8/213605e-Vi-21092015.pdf?dl=0

22
dụng học liệu mở một cách hệ thống và đưa vào GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo,
đổi mới chương trình, giáo trình, bài giảng, quy trình, nội dung và phương pháp giảng dạy,
kiểm định chất lượng đào tạo, xây dựng và triển khai các mô hình nguồn tài nguyên giáo
dục mở thử nghiệm trong các cơ sở GDĐH; đảm bảo kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu tài
nguyên giữa các hệ thống, các thư viện theo các tiêu chí, tiêu chuẩn bảo đảm hướng tới mục
tiêu để giảm chi phí đào tạo và nâng cao chất lượng GDĐH.
Từ sự phân tích ở trên, mục tiêu chung của chuyển đổi số và xây dựng hệ thống giáo
dục mở quốc gia là:
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển, vận hành, khai thác, quản lý nguồn tài nguyên giáo
dục mở trong GDĐH trên cơ sở bảo đảm việc xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT và nền tảng
phần mềm ứng dụng phục vụ cho tài nguyên giáo dục mở, nguồn lực trí tuệ mở, học liệu mở,
dữ liệu mở để giảng viên, cán bộ quản lý, nhân viên, người học trong các cơ sở GDĐH và
người dân cùng khai thác, sử dụng chung.
Thứ hai, tạo cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn tài nguyên giáo dục mở của
GDĐH để giảng dạy, học và nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả GDĐH và
từng bước phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước, đồng thời góp phần xây dựng xã hội học tập, hình thành văn hóa học tập,
tạo cơ hội để mọi người dân thường xuyên truy cập, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên
giáo dục mở để học tập, nghiên cứu nhằm nâng cao hiểu biết và năng lực, khẳng định tính
ưu việt, hiệu quả và giá trị bền vững của nguồn tài nguyên giáo dục mở trong GDĐH.
Thứ ba, thúc đẩy việc phối hợp giữa các cơ sở giáo dục với nhau trong việc chia sẻ,
cung cấp nguồn học liệu cho nhau để đáp ứng nhu cầu học tập của người học.
Để đạt được những mục tiêu đó, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đặt ra là:
i) Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy xây dựng và phát triển mô hình tài nguyên
giáo dục mở
- Rà soát, bổ sung, xây dựng, ban hành, hoàn thiện các quy định về năng lực số, cấp
phép mở, giấy phép mở, truy cập mở, phát hành mở, xuất bản phẩm mở, xuất bản điện tử
mở, xuất bản phẩm điện tử mở, phương thức xuất bản mở và phát hành xuất bản phẩm
điện tử mở và các hình thức khác; khuyến khích các tác giả có tác phẩm, có bản quyền tác
giả, bảo hộ quyền tác giả cho phép được sử dụng theo giấy phép mở.
- Xây dựng, ban hành quy định chuẩn về: Nguồn tài nguyên giáo dục mở, hạ tầng
CNTT và nền tảng phần mềm ứng dụng phục vụ cho tài nguyên giáo dục mở, nguồn lực trí
tuệ mở; dữ liệu mở, học liệu mở, bài giảng mở, khóa học mở; quy định về khai thác và chia
sẻ về tài nguyên giáo dục mở giữa các cơ sở GDĐH và xã hội nói chung trong việc xây dựng
mô hình nguồn tài nguyên giáo dục mở; tiêu chí quản lý dữ liệu mở (truy cập, khai thác, sử
dụng); tiêu chí học liệu mở được sử dụng trong từng chương trình đào tạo của cơ sở GDĐH,
đáp ứng chuẩn đầu ra đối với từng trình độ đào tạo, ngành đào tạo.
- Xây dựng, ban hành quy định về bộ tiêu chuẩn, tiêu chí và quy trình đánh giá, thẩm
định và công nhận đối với học liệu mở, bài giảng mở và khóa học trực tuyến từ nguồn tài
nguyên giáo dục mở trên cơ sở các điều kiện đảm bảo chất lượng về đội ngũ giảng viên, cơ
sở vật chất, đánh giá kết quả học tập và công tác quản lý đào tạo; quy định về phát triển, vận
hành, khai thác, quản lý về mô hình nguồn tài nguyên giáo dục mở, quyền hạn và trách
nhiệm của các cơ sở GDĐH và vai trò điều phối của cơ quan quản lý nhà nước.
- Rà soát, bổ sung, xây dựng, ban hành các quy định, tạo lập cơ chế trong việc huy
động các nguồn lực để xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên giáo dục mở, nguồn lực trí
tuệ mở, quy định việc khai thác hiệu quả tài nguyên giáo dục mở sẵn có trên thế giới và tài

23
nguyên giáo dục mở do các cơ sở GDĐH xây dựng và phát triển; cơ chế quản lý điều phối
thống nhất và hiệu quả nguồn tài nguyên giáo dục mở trong GDĐH; chính sách tài trợ, hỗ
trợ, về nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính; và có chính sách ưu đãi khuyến khích các
nhà khoa học, các chuyên gia đóng góp và chia sẻ phát triển nguồn tài nguyên giáo dục mở.
- Thực hiện các biện pháp bảo đảm chất lượng đối với xây dựng, cập nhật và sử dụng
học liệu mở; phát triển các hoạt động đánh giá phù hợp với quá trình sử dụng học liệu mở.
- Xây dựng, ban hành quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cơ sở GDĐH trong
việc xây dựng, phát triển nguồn tài nguyên giáo dục mở. Qua đó phát huy được thế mạnh về
chuyên môn sâu của từng cơ sở GDĐH trong việc tạo dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở có
chất lượng cao. Từ đó, đánh giá các cơ sở giáo dục GDĐH chia sẻ, cung cấp nguồn học liệu
cho các cơ sở giáo dục khác (không phải là cơ sở GDĐH) để đáp ứng nhu cầu học tập của
người học.
- Xây dựng, ban hành quy định về việc công nhận kết quả học tập từ các khóa học mở,
tài nguyên mở đã được kiểm định chất lượng, từ đó khuyến khích việc khai thác sử dụng
nguồn tài nguyên giáo dục mở, nâng cao hiệu quả đào tạo của toàn xã hội.
ii) Phát triển và khai thác các bài giảng và các khóa học trực tuyến
- Phát triển các bài giảng điện tử và số hóa bài giảng theo từng nội dung, học phần
trong chương trình đào tạo, bao gồm các bài giảng theo từng nội dung trong chương trình
đào tạo thuộc các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và các bài giảng theo từng học phần
trong chương trình đào tạo thuộc các khóa đào tạo để cấp bằng ở các trình độ của GDĐH tại
mỗi cơ sở GDĐH và theo nhóm ngành đào tạo, bảo đảm đáp ứng các chuẩn và tiêu chuẩn
theo quy định.
- Xây dựng và phát triển các khóa học trực tuyến tại mỗi cơ sở GDĐH và theo nhóm
ngành đào tạo, phương thức đào tạo, đáp ứng các điều kiện ứng dụng CNTT trong quản lý,
tổ chức đào tạo, bao gồm hệ thống học liệu điện tử kết hợp với học liệu chính, bài giảng trực
tuyến và hệ thống quản lý học tập hỗ trợ cho người học theo quy định.
- Khai thác có hiệu quả các bài giảng trực tuyến và các khóa học trực tuyến hiện có
từ các cơ sở giáo ĐH trong và ngoài nước và từ nguồn tài nguyên giáo dục mở để phát triển
các bài giảng và các khóa học trực tuyến của từng cơ sở đào tạo và theo nhóm ngành đào
tạo và phương thức đào tạo, đồng thời chia sẻ đóng góp phát triển vào nguồn tài nguyên
giáo dục mở chung của hệ thống GDĐH.
iii) Phát triển nền tảng và kho học liệu sử dụng chung
- “Phát triển các kho học liệu số, học liệu mở chia sẻ sử dụng chung trong hệ
thống các cơ sở GDĐH, bao gồm bài giảng trực tuyến, bài giảng điện tử, số hóa bài giảng, học
liệu số đa phương tiện, giáo trình và tài liệu để giảng dạy điện tử, phần mềm mô phỏng và
các học liệu khác; phát triển hệ thống ngân hàng câu hỏi trực tuyến đối với các nội dung,
học phần trong chương trình đào tạo của các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và các khóa
đào tạo cấp bằng ở các trình độ của GDĐH”.1
- Xây dựng và hoàn thiện thư viện điện tử trong các cơ sở GDĐH, cổng thư viện số
kết nối liên thông với các kho học liệu số, chia sẻ học liệu giữa các cơ sở đào tạo ĐH trên cả
nước nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong GDĐH.

1
Điểm b khoản 2 Mục III Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề
án “Tăng cường ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng
đến năm 2030”

24
iv) Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng
lực cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ QLGD, nhân viên và người học về công nghệ giáo dục và mô
hình nguồn tài nguyên giáo dục mở
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức
cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động và người học trong các cơ sở GDĐH và
cho người dân trong xã hội nói chung về mô hình nguồn tài nguyên giáo dục mở thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông xã hội, hệ thống thông tin cơ sở và các
phương thức khác.
- Biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời các gương điển hình tiên tiến, nhân
rộng mô hình tốt, cách làm hay, sáng kiến có giá trị thông qua việc xây dựng, phát triển, vận
hành, khai thác, quản lý có hiệu quả về mô hình nguồn tài nguyên giáo dục mở trong các
đơn vị, tổ chức và cá nhân thuộc các cơ sở GDĐH và xã hội nói chung.
- Rà soát, đánh giá năng lực, nhu cầu và xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, nhân viên và người học trong các cơ sở GDĐH và xã
hội nói chung về công nghệ giáo dục đáp ứng yêu cầu để triển khai mô hình tài nguyên giáo
dục mở.
- Triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực về công nghệ giáo dục cho
đội ngũ nhà giáo, cán bộ QLGD, nhân viên và người học trong các cơ sở GDĐH và xã hội nói
chung nhằm thúc đẩy phát triển, vận hành, khai thác và quản lý nguồn tài nguyên giáo dục
mở có chất lượng và hiệu quả theo các hình thức linh hoạt và phù hợp với từng đối tượng.
v) Huy động các nguồn lực tham gia xây dựng tài nguyên giáo dục mở trong GDĐH
- Đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức và hiệp hội về công nghệ giáo dục,
hạ tầng và nền tảng giáo dục mở, trí tuệ mở, học liệu mở, dữ liệu mở, CNTT, chuyên gia, nhà
khoa học trong và ngoài nước để giới thiệu các giải pháp công nghệ tiên tiến về công nghệ
giáo dục và xây dựng tài nguyên giáo dục mở trong GDĐH.
- Thu hút nguồn vốn của doanh nghiệp thông qua hình thức đối tác công tư (PPP) để
đầu tư xây dựng hạ tầng và nền tảng giáo dục mở, trí tuệ mở, học liệu mở, dữ liệu mở số,
công nghệ giáo dục và ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo, ưu tiên cho phát triển hệ
thống ngân hàng câu hỏi trực tuyến, hệ thống học tập trực tuyến, kho học liệu số dùng
chung, cơ sở dữ liệu GDĐH.
- Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp sản xuất, phân phối trang thiết bị số để
hỗ trợ, ưu đãi cung cấp sản phẩm về công nghệ giáo dục, CNTT, tích hợp các phần mềm ứng
dụng và tính năng an toàn, bảo mật cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, nhân viên và
người học phục vụ hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu trong các các cơ sở GDĐH và xã
hội nói chung.
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, các tổ
chức trong khu vực và quốc tế có tiềm năng và nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài nguyên
giáo dục mở trong GDĐH, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường hợp tác và huy động nguồn lực
cho việc tổ chức thực hiện, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về mô
hình nguồn tài nguyên giáo dục mở, tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc
tế, đàm phán, hợp tác song phương, đa phương về xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên
giáo dục mở./.

25

You might also like