Professional Documents
Culture Documents
MẮT CỦA DA
MẮT CỦA DA
CỦA
DA
KIẾN TRÚC VÀ GIÁC QUAN
PALLASMAA
Nhabe Scholae dịch
Nhabe Scholae dịch từ The Eyes of The Skin,
1
MỤC LỤC
TỰA 6
DẪN NHẬP 12
PHẦN MỘT
Không Gian Truyền Miệng đối lập với Không Gian Thị Giác 40
PHẦN HAI
2
Vị của Đá 99
3
4
BĂNG MỎNG
STEVEN
HOLL
5
Tựa
Khi ngồi xuống ghi những dòng này trong một ngày mưa ở New York,
nghĩ về những bông tuyết trắng đầu mùa ở Helsinki và về lớp băng
non mỏng, tôi nhớ lại mấy chuyện kể mùa đông của Phần Lan, ở đó,
năm nào người ta cũng khéo dùng mặt băng dày trên những hồ nước
miền bắc làm đường tắt. Vài tháng sau, khi băng mỏng dần, sẽ có
người liều mạng lái xe qua hồ để rồi rơi xuống. Tôi hình dung ánh
nhìn cuối cùng hướng về những rãnh băng nứt phân tỏa khi làn nước
tối đen lạnh lẽo cứ tràn vào khoang xe đang dần chìm sâu. Phần Lan
Lần đầu tiên Juhani Pallasmaa và tôi bắt đầu chia sẻ những suy
tư về hiện tượng luận trong kiến trúc là vào chuyến thăm Phần Lan
đầu tiên của tôi nhân dịp Hội Thảo Chuyên Đề Alvar Aalto lần thứ
Đến Tháng Mười năm 1992, chúng tôi gặp lại nhau ở Helsinki khi
tôi đến tham gia cuộc thi Bảo Tàng Nghệ Thuật Đương Đại. Tôi còn
nhớ những trao đổi về văn bản của Maurice Merleau-Ponty và việc
chúng có thể diễn giải hay dẫn dắt những trải nghiệm không gian,
chất cảm, vật liệu và ánh sáng trong kiến trúc. Buổi trò chuyện ấy diễn
6
ra vào bữa trưa dưới boong thuyền gỗ, đậu ở cảng Helsinki. Hơi nóng
cứ cuộn lên từ bát canh rau củ khi con thuyền dập dềnh lắc lư bên bến
cảng đang dần đóng băng. Tôi đã trải nghiệm kiến trúc của Juhani
Pallasmaa, từ khu mở rộng tuyệt vời của bảo tàng ở Rovaniemi cho
đến ngôi nhà gỗ mùa hè ở đảo đá nhỏ trong Quần Đảo Turku, phía
Tây Nam Phần Lan. Cảm nhận không gian, âm thanh hay mùi vị của
những nơi chốn đó có cùng sức nặng với diện mạo của chúng. Không
chỉ là một nhà lý thuyết, Pallasmaa còn là một kiến trúc sư xuất sắc
với những tri kiến hiện tượng luận. Ông thực hành một thứ kiến trúc
của giác quan bất khả tư nghì kèm theo những đặc tính hiện tượng
luận, chúng cụ thể hóa những gì ông viết về triết học kiến trúc.
Năm 1993, theo lời mời của Toshio Nakamura, chúng tôi cùng
nhau làm việc với Alberto Pérez-Gómez để cho ra đời quyển sách
về Tri Giác: Hiện Tượng Luận Kiến Trúc).1 Vài năm sau, nhà xuất bản
A+U quyết định tái bản quyển sách nhỏ này khi nhận thấy tầm quan
trọng của những luận điểm trong đó đối với các kiến trúc sư.
của Da của Juhani Pallasmaa là một luận điểm chặt chẽ và rõ ràng hơn
về chiều kích hiện tượng luận cốt yếu với trải nghiệm nhân sinh trong
7
kiến trúc. Kể từ quyển sách Experiencing Architecture (Trải Nghiệm Kiến
Trúc) (1959) của kiến trúc sư Đan Mạch Steen Eiler Rasmussen, không
có văn bản nào dành cho giới sinh viên và kiến trúc sư lại hàm súc và
rõ ràng như vậy trong giai đoạn quan trọng của sự phát triển kiến trúc
ở thế kỷ 21.2
The Visible and the Invisible (Hữu Hình và Vô Hình), tác phẩm mà
Merleau-Ponty đang viết dở trước lúc mất, có một chương thật kinh
ngạc: “Sự đan quyện – Chiasm”. (Thật ra cái tên mà tôi đặt cho phương
án cuộc thi Bảo Tàng Nghệ Thuật Đương Đại ở Helsinki vào năm 1992
bắt nguồn từ đây – Chiasm được đổi thành Kiasm, vì tiếng Phần Lan
không có chữ “C”.) Trong chương bàn về “Chân Trời của Sự Vật”,
Merleau-Ponty viết: “Không khác gì bầu trời hay mặt đất, chân trời
không phải là một tập hợp các vật cố kết với nhau, hay tên gọi của một
lớp, một khả thể lô-gích của quan niệm, hay một hệ thống “tiềm năng
của nhận thức”: nó là một loại tồn tại mới, một tồn tại qua tính thẩm
Trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21, những suy tư này đã đi qua
chân trời và đi xuống “dưới da”. Khắp thế giới, việc tiêu thụ hàng hóa
được các kĩ nghệ quảng cáo đẩy lên theo đường hyperbol đã thế chỗ
nhận thức và làm phân tán khả năng phản tư của chúng ta. Việc áp
8
dụng thái quá những công nghệ kỹ thuật số trong kiến trúc cũng đang
tham gia vào đường hyperbol ấy. Trong một bối cảnh hỗn loạn như
vậy, công việc của Pallasmaa gợi lên sự quyết tâm và sự suy tư đơn độc
– điều mà ông từng gọi là “Kiến Trúc của Sự Yên Lặng”. Tôi sẽ thuyết
phục sinh viên mình đọc tác phẩm này và suy tư về “bối cảnh hỗn
loạn”. Ngày hôm nay “chiều sâu tồn tại của chúng ta” đang đứng trên
9
10
CHẠM VÀO THẾ
GIỚI
JUHANI
PALLASMAA
11
Dẫn nhập cho lần xuất bản thứ ba
Quyển sách nhỏ Mắt của Da: Kiến Trúc và Giác Quan được xuất bản
lần đầu tiên vào năm 1996 trong loạt sách “Polemics” của
Academy Editions, London. Ban biên tập mời tôi viết một bài luận
mở rộng dài 32 trang về một chủ đề mà tôi cho là quan yếu trong
Những ý tưởng cơ bản trong phần hai của bản thảo được rút ra
(Kiến Trúc của Bảy Giác Quan), đăng trên số đặc biệt tháng Bảy
năm 1994 của tạp chí A+U mang tựa đề Questions of Perception,
vốn là chuyên khảo về công trình kiến trúc của Steven Holl, trong
Bài giảng ngay sau đó của tôi ở hội thảo về hiện tượng luận kiến
trúc tại Viện Hàn Lâm Mỹ Thuật Hoàng Gia Đan Mạch, trong đó
cả ba tác giả của Questions of Perception đều trình bày, đã cung cấp
những luận điểm nền tảng và các tham chiếu cho phần đầu của
12
Tôi khá ngạc nhiên trước sự đón nhận rất tích cực với quyển
sách nhỏ này, và việc nó trở thành tài liệu phải đọc trong các khóa
học lý thuyết kiến trúc của nhiều trường kiến trúc trên thế giới.
Bài luận gây tranh cãi này ban đầu dựa trên những tư biện, góc
nhìn và trải nghiệm của cá nhân tôi. Tôi chỉ đơn thuần trở nên
quan tâm hơn tới sự thống trị của thị giác và sự đè nén các giác
quan khác trong cách thức giảng dạy, tiếp nhận và phê bình kiến
trúc, cùng với hậu quả là sự biến mất của các phẩm chất nhục cảm
Suốt trong những năm tôi viết quyển sách này, mối quan tâm
đến tầm quan trọng của cảm giác, cả về mặt triết học lẫn về mặt
trải nghiệm, giảng dạy và tạo tác kiến trúc, đã có những bước phát
triển quan trọng. Những luận đề của tôi về vai trò của cơ thể như
lãnh địa của tri giác, suy tư và nhận thức, cũng như tầm quan trọng
của các giác quan trong việc khớp nối, lưu trữ, đưa ra các phản hồi
và suy tư cảm giác đã được các tác giả khác củng cố và xác nhận.
Đặc biệt, những truy vấn triết học về sự nhập thể của con người
và các nghiên cứu thần kinh học cũng mang lại cơ sở cho luận đề
của tôi.
13
Qua việc lựa chọn nhan đề “Mắt của Da”, tôi muốn chỉ rõ tầm
quan trọng của xúc giác đối với trải nghiệm và hiểu biết về thế
giới của chúng ta, và tôi còn chủ đích tạo ra một giản đồ quan
niệm giữa sự thống trị của thị giác và sự áp chế những thể điệu
cảm quan của sự xúc chạm. Sau này tôi có biết thêm là da của
chúng ta có khả năng phân biệt một số màu sắc: ta thật sự nhìn
bằng da.1
Tầm quan trọng của xúc giác trong đời sống con người ngày
càng trở nên hiển nhiên. Quan điểm của nhà nhân học Ashley
Montagu, vốn dựa trên những bằng chứng y học, đã khẳng định
truyền thông đầu tiên, và sự bảo vệ hiệu quả nhất của chúng ta […]
Thậm chí giác mạc trong suốt của mắt cũng được một lớp da biến
đổi bao phủ […] Xúc giác là nguồn cội của mắt, tai, mũi và miệng.
Nó dần chuyên biệt hóa và trở thành những giác quan khác, sự thật
này dường như đã được nhận ra trong thời xưa khi người ta xem
14
Xúc giác là hình thức cảm quan hội nhập trải nghiệm thế giới
của bản thân chúng ta. Thậm chí tri giác thị giác cũng được hòa
quyện và hội nhập trong nhận thức liên tục về bản ngã từ xúc giác;
cơ thể tôi ghi nhớ tôi là ai và tôi đặt mình trong thế giới như thế
nào. Cơ thể thật sự là cái rốn của thế giới của tôi, không phải theo
nghĩa là điểm nhìn phối cảnh trung tâm, mà là lãnh địa thật sự
của tham chiếu, ký ức, trí tưởng tượng và hội nhập. Tất cả mọi
giác quan, bao gồm cả thị giác, đều là sự mở rộng của xúc giác;
giác quan là sự chuyên biệt hóa của da, và tất cả trải nghiệm cảm
quan đều là những hình thức xúc giác, và như vậy đều liên quan
đến khả năng xúc chạm. Sự liên lạc giữa ta và thế giới xảy ra tại
đường biên của cái ngã, thông qua những bộ phận chuyên biệt hóa
Hiển nhiên một thứ kiến trúc “tôn vinh cuộc sống”3 đồng thời
phải hướng đến tất cả các giác quan, và giúp hòa quyện hình ảnh
bản ngã của chúng ta với trải nghiệm thế giới. Trách vụ tinh thần
cốt yếu của công trình là sự hòa hợp và sự hội nhập. Công trình
phóng chiếu tầm thước con người và cảm giác trật tự vào không
trong những thế giới của sự chế tạo và huyễn tưởng đơn thuần; nó
15
(kiến trúc) khớp nối trải nghiệm về sự tồn tại của con người trong
thế giới và củng cố cảm thức của chúng ta về thực tại và bản ngã.
Được nghệ thuật và kiến trúc tăng cường, cảm giác bản ngã
cũng cho phép chúng ta hoàn toàn dấn thân vào những chiều kích
tinh thần của mộng mơ, tưởng tượng và khát vọng. Công trình và
thành phố mang lại chân trời để hiểu và đối diện với thân phận
hiện sinh của con người. Thay vì đơn thuần tạo ra những đối tượng
cuốn hút thị giác, kiến trúc thuật lại, trung giới và phóng chiếu
những ý nghĩa. Ý nghĩa tối thượng của kiến trúc nằm bên ngoài
kiến trúc, nó dẫn lối cho nhận thức quay lại thế giới và trở về với
cảm nhận của chính ta về cái ngã và sự tồn tại. Một kiến trúc sâu
sắc giúp ta trải nghiệm chính bản thân mình như một tồn tại nhập
thể (có thân thể) và một tinh thần toàn vẹn. Thật ra đây chính là
Trong trải nghiệm nghệ thuật, một sự trao đổi lạ thường xảy
ra: tôi trao cho không gian xúc cảm và sự nối kết của bản thân,
không gian mang lại cho tôi khí quyển của nó, lôi cuốn và giải
phóng tri giác và suy tư của tôi. Người ta không trải nghiệm một
tác phẩm kiến trúc như một chuỗi những hình ảnh võng mạc cô
lập, mà trong sự gắn kết trọn vẹn giữa bản chất chất liệu, sự nhập
16
thể và tinh thần của nó. Tác phẩm kiến trúc không chỉ mang lại
những hình dạng và bề mặt dễ chịu, được khuôn đúc theo sự xúc
chạm của con mắt và những giác quan khác, nó còn hội nhập
những cấu trúc vật chất và tinh thần, mang lại cho trải nghiệm về
Nghệ sỹ và nghệ nhân đều trực tiếp dấn thân vào công việc
sáng tạo cùng cơ thể và trải nghiệm hiện hữu của mình hơn là tập
trung vào một vấn đề khách quan và ngoại lai. Một kiến trúc sư
minh triết làm việc với toàn bộ cơ thể và cảm thức bản ngã của
mình. Trong lúc làm việc với một công trình hay một đồ vật, kiến
trúc sư đồng thời nối kết với một góc nhìn hoán vị, tức hình ảnh
của chính bản thân anh/cô ấy, hay một cách chính xác hơn, trải
nghiệm hiện hữu của anh/cô ấy. Trong công việc sáng tạo, một sự
đồng nhất và phóng chiếu mạnh mẽ xảy ra; toàn bộ cấu trúc tinh
thần và cơ thể của người sáng tạo trở thành nơi chốn của tác phẩm.
triết học và kiến trúc thông qua hình ảnh bản ngã: “Thật sự thì
làm triết học – mà trên nhiều phương diện cũng giống với làm
kiến trúc – hầu như là công việc về bản thân. Về cách diễn giải của
17
Máy vi tính thường được xem như một phát minh hữu ích, giải
phóng trí tưởng tượng và tăng tính hiệu quả của công việc thiết
kế. Tôi mong muốn làm rõ vấn đề bí ẩn trên phương diện này, chí
ít là xem xét vai trò hiện tại của máy vi tính trong giáo dục và tiến
trình thiết kế. Hình ảnh vi tính có xu hướng ép phẳng những năng
lực đa giác quan, đa nhiệm tuyệt vời của trí tưởng tượng bằng việc
biến tiến trình thiết kế thành một sự thao túng hình ảnh thụ động,
tức một chuyến phiêu lưu của võng mạc. Máy vi tính tạo ra khoảng
cách giữa người tạo tác và đối tượng, trong khi việc vẽ tay và làm
mô hình đặt người thiết kế vào mối quan hệ xúc giác với đối tượng
hoặc không gian. Trong trí tưởng tượng của chúng ta, đối tượng
đồng thời được nắm bắt trong bàn tay và ở bên trong đầu, và trí
tưởng tượng nhập thể nhào nặn hình ảnh vật chất được tưởng
tượng và phóng chiếu. Cùng lúc chúng ta vừa ở bên trong và bên
ngoài đối tượng thiết kế. Công việc thiết kế đòi hỏi sự đồng nhất
tâm trí với cơ thể, sự thấu cảm và lòng trắc ẩn. Những nghiên cứu
gần đây về tế bào thần kinh gương (mirror neuron) cung cấp nền
tảng thực nghiệm cho việc hiểu biết về tiến trình phức tạp của sự
18
Vai trò của tầm nhìn ngoại vi (peripheral) và vô định
(unfocused) trong trải nghiệm sống về thế giới cũng như trải
nghiệm về nội tâm trong không gian cư lưu của chúng ta cũng làm
tôi quan tâm. Một yếu tố đáng chú ý trong trải nghiệm về không
gian tính bao bọc chúng ta, về nội tâm, và về xúc giác tính là sự
chế ngự có chủ đích của tầm nhìn tập trung sắc bén. Vấn đề này
hiếm khi được đưa vào diễn ngôn lý thuyết kiến trúc khi mà việc
lập thuyết trong kiến trúc vẫn không ngừng quan tâm đến cái nhìn
tập trung, tính ý hướng có ý thức và sự tái hiện theo phối cảnh.
Mà bản chất thật sự của trải nghiệm sống lại được những hình
tượng xúc giác vô thức và tầm nhìn ngoại vi vô định đúc khuôn.
Tầm nhìn tập trung đặt chúng ta đối diện với thế giới trong khi
cái nhìn ngoại vi bao bọc chúng ta trong lòng nhục thể của thế
giới. Cùng với việc phê phán sự bá quyền của thị giác, chúng ta
cũng cần nhìn nhận lại bản chất thật sự của việc nhìn và sự phối
Hình ảnh kiến trúc được chụp lại là những hình ảnh nhấn
mạnh của các Gestalt (hình dạng) được đặt vào trung tâm. Song,
phẩm chất của thực tại kiến trúc dường như lại chủ yếu phụ thuộc
vào tầm nhìn ngoại vi, vốn đặt chủ thể hòa vào không gian. Một
19
bao cảnh đại ngàn và những không gian kiến trúc đa dạng mang
lại cho tầm nhìn ngoại vi những kích thích phong phú, và những
tổ hợp đó (khu rừng và không gian kiến trúc) đặt chúng ta vào
trung tâm của không gian. Xét về mặt hiện hữu, lãnh địa tri giác
tiền ý thức, vốn được trải nghiệm bên ngoài lãnh địa của cái nhìn
tập trung, dường như quan trọng hơn là những hình ảnh rõ nét.
được ưu tiên nhiều hơn trong hệ thống tri giác và tinh thần của
chúng ta.6
Các quan sát này cho thấy rằng một trong những lý do tại sao
các bố cục kiến trúc và đô thị của thời đại của chúng ta lại làm cho
con người biến thành kẻ ngoại cuộc, nếu so sánh với sự gắn kết
cảm xúc mạnh mẽ của những khung cảnh tự nhiên hay lịch sử,
nguyên do đến từ sự thiếu thốn trong lĩnh vực cái nhìn ngoại vi.
Tri giác vô thức ngoại vi biến đổi Gestalt võng mạc thành những
trải nghiệm không gian và cơ thể. Cái nhìn ngoại vi đưa ta hội
nhập vào không gian, trong khi cái nhìn tập trung đẩy chúng ta ra
khỏi không gian và biến chúng ta trở thành kẻ quan sát đơn thuần.
Về cơ bản, lý thuyết, giáo dục và thực hành kiến trúc liên quan
đến hình thức. Song chúng ta có một năng lực đáng ngạc nhiên
20
trong việc nhận thức và nắm bắt một cách vô thức và ngoại vi
những thực tại môi trường và những bầu khí quyển phức tạp. Đặc
điểm khí quyển của không gian, nơi chốn và bố cục được nắm bắt
trước khi mọi quan sát vào chi tiết của ý thức được tạo ra. Bất chấp
tầm quan trọng rõ ràng của tri giác khí quyển, rất khó để đưa nó
vào diễn ngôn kiến trúc. Một lần nữa, những nghiên cứu thần kinh
học chỉ ra rằng tiến trình tri giác và nhận thức của chúng ta đi từ
việc nắm bắt ngay lập tức những thực tại rồi mới đến việc nhận
phân tích phê phán của mình về sự xem nhẹ bản chất nhập thể
của tri giác, nhận thức và ý thức trong hai quyển sách đều do John
Wiley & Sons xuất bản về sau: The Thinking Hand: Existential and
Embodied Wisdom in Architecture (Bàn Tay Suy Tư: Minh Triết Hiện
Nhập Thể: Trí Tưởng Tượng và Hệ Hình Tượng trong Kiến Trúc)
(Chichester, 2011).
(Dẫn nhập được chỉnh sửa, Washington, DC, 20 Tháng Chín 2011)
21
22
PHẦN MỘT
23
“Đôi tay muốn nhìn, đôi mắt muốn vuốt ve.”
Friedrich Nietzsche2
“Nếu cơ thể dễ hiểu hơn với ta, thì chẳng ai nghĩ rằng ta lại có tinh thần.”
Richard Rorty3
“Vị ngọt của quả táo […] nằm trong xúc chạm với miệng chứ không phải
trong bản thân trái ngọt; tương tự như vậy […] thi ca nằm trong cuộc gặp gỡ
giữa bài thơ và độc giả chứ không phải nơi dòng ký hiệu in trên giấy. Thứ
cốt yếu là hành vi thẩm mỹ, sự run rẩy, cảm xúc gần như hữu hình sinh ra
khi ta đọc.”
“Họa sỹ hay nhà thơ còn diễn tả điều gì khác hơn cuộc gặp giữa ta và thế
giới?”
Maurice Merleau-Ponty5
24
Thị Giác và Tri Thức
Trong văn hóa phương Tây và về mặt lịch sử, cái nhìn vẫn được cho là
giác quan cao quý nhất, và ngay bản thân sự suy tư cũng được xem xét
dưới góc độ thị giác. Ngay từ tư tưởng Hy Lạp cổ đại, nền tảng của sự
xác tín là ánh nhìn và tính khả kiến. Trong một đoạn di văn của mình,
Heraclitus viết “Đôi mắt là chứng nhân đáng tin hơn đôi tai”6. Plato
xem cái nhìn như thiên phú tuyệt vời nhất của con người7 và ông nhấn
mạnh rằng để có thể tiếp cận đến đức lý phổ quát, nhất định cần có
“con mắt của tinh thần”.8 Aristotle cũng xem sự nhìn là giác quan cao
quý nhất “vì nó thân cận nhất với trí tuệ, nhờ tính phi vật chất tương
Kể từ thời Hy Lạp, ẩn dụ đôi mắt xuất hiện đầy rẫy trong các văn
bản triết học, đến mức mà tri thức đã trở nên tương đồng với một nhãn
quang rõ ràng, và người ta xem ánh sáng là ẩn dụ của chân lý. Thậm
chí Aquinas còn áp dụng quan niệm thị giác mở rộng lên các lĩnh vực
Ảnh hưởng của thị giác lên triết học được Peter Sloterdijk đúc kết
rõ ràng: “Đôi mắt là nguyên mẫu hữu cơ của triết học. Điều bí ẩn là
đôi mắt không chỉ có thể nhìn mà chúng còn có khả năng tự nhìn thấy
chính mình đang nhìn. Điều này khiến đôi mắt vượt trội hơn tất cả
25
các cơ quan tri nhận khác. Một phần quan trọng của suy tư triết học
thật ra chỉ là sự phản tư và sự biện chứng của đôi mắt, tức sự nhìn-
được hiểu theo một hệ thống trật tự với vị trí cao nhất của thị giác,
cuối cùng là xúc giác. Hệ thống giác quan thời Phục Hưng liên quan
đến hình ảnh của cơ thể vũ trụ; thị giác gắn liền với lửa và ánh sáng,
thính giác với không khí, khứu giác với hơi ẩm, vị giác với nước và xúc
Việc phát minh ra phép tái hiện phối cảnh biến con mắt trở thành
trung tâm của thế giới khả giác cũng như trung tâm của ý thức bản
ngã. Bản thân phép phối cảnh đã trở thành một hình thức biểu trưng,
thứ này không chỉ miêu tả mà còn quy định sự tri giác.
Dĩ nhiên là trong nền văn hóa công nghệ của chúng ta, trật tự và
sự phân chia các giác quan thậm chí còn rạch ròi hơn. Ngày nay, thị
giác và thính giác là những cảm quan nhận được đặc quyền xã hội,
trong khi ba thứ còn lại bị xem là những cảm quan sơ khai sót lại, đơn
thuần có tính cá nhân và luôn chịu sự đè nén của mã hệ văn hóa. Bên
sinh ấy của chúng ta, chỉ những cảm nhận như sự thưởng thức khứu
26
giác hương vị của đồ ăn, mùi thơm của hoa và phản ứng với nhiệt độ
Sự áp đảo của thị giác với các giác quan khác – và hệ quả gián
tiếp của việc này trong nhận thức – đã được nhiều triết gia xem xét.
Tập tiểu luận triết học Modernity and Hegemony of Vision (Tính Hiện
Đại và Bá Quyền của Thị Giác) lập luận rằng “Kể từ thời Hy Lạp cổ đại,
văn hóa phương Tây đã bị hệ hình nhãn tâm luận, tức sự diễn giải tri
thức, chân lý và thực tại khởi nguồn từ thị giác và lấy thị giác làm
trung tâm, thống trị”.12 Quyển sách gợi mở suy tư này phân tích
“những kết nối lịch sử giữa thị giác và tri thức, thị giác và hữu thể học,
Khi mà hệ hình nhãn tâm luận về quan hệ giữa con người với thế
giới và về quan niệm của chúng ta về tri thức – tức đặc quyền nhận
thức luận của thị giác – đã được các triết gia chỉ ra, thì việc truy vấn
một cách phê phán vai trò của thị giác trong tương quan với các giác
quan khác để hiểu và thực hành nghệ thuật kiến trúc cũng trở nên hệ
trọng. Về cơ bản, cũng như các nghệ thuật khác, kiến trúc luôn đối
mặt với câu hỏi về hiện hữu người trong không gian và thời gian; kiến
trúc biểu đạt và thuật lại sự tồn tại của con người trong thế giới. Kiến
trúc gắn bó sâu sắc với câu hỏi siêu hình về bản ngã và về thế giới, nội
27
giới và ngoại giới, thời gian và thời tục, cuộc sống và cái chết. David
Harvey viết: “Những thực hành văn hóa và thẩm mỹ đặc biệt nhạy cảm
với những đổi thay trong trải nghiệm không gian và thời gian, chính
vì chúng tạo nên những biểu tượng không gian và tạo phẩm đến từ
dòng chảy hiện sinh của con người”.14 Kiến trúc là công cụ chủ đạo
gắn kết chúng ta với không gian và thời gian, và khiến những chiều
kích này có được một tầm thước con người. Kiến trúc thuần hóa không
gian vô biên và thời gian bất tận thành nơi chốn ở được, nơi chốn có
tính bao dung và khả tri của con người. Xét như hệ quả của mối tương
thuộc giữa không gian và thời gian, phép biện chứng giữa không gian
nội giới và ngoại giới, thì những ưu tư về thực tại và tâm linh, vật chất
và tinh thần, vô thức và ý thức liên quan đến giác quan cũng như về
vai trò qua lại và tương tác giữa chúng đều có tác động hệ trọng đến
David Michael Levin cũng thúc đẩy những phê bình triết học về
tính chất vượt trội của con mắt với những dòng sau: “Tôi nghĩ rằng
việc thách thức sự bá quyền của thị giác – tức thuyết nhãn tâm luận
trong nền văn hóa của chúng ta là hợp lẽ. Và tôi cũng nghĩ rằng chúng
ta cần khảo sát thật sự thấu đáo những đặc tính của thị giác ngày hôm
nay đang thống trị thế giới của chúng ta. Một chẩn đoán bệnh học tâm
28
lý về sự nhìn trong đời sống thường nhật, và một cách tiếp cận phê
Levin chỉ rõ xu thế-tự trị, sự hung hãn của cái nhìn, và “những
bóng ma của thói quen gia trưởng” ám ảnh văn hóa trọng thị giác của
chúng ta:
Ý chí quyền lực trong thị giác rất mạnh mẽ, nó luôn khao khát thâu tóm
và cố định, quy chất và tổng hợp: khuynh hướng thống trị, điều chỉnh
và kiểm soát mà rốt cuộc, vì sự phổ biến rộng rãi của nó, xác nhận tính
bá quyền tuyệt đối lên văn hóa và lên những diễn ngôn triết học của nó
(văn hóa), đồng thời thiết lập một môn siêu hình học nhãn tâm luận về
sự hiện diện, nó phù hợp với tính thuần lý công cụ của văn hóa và với
Tôi tin rằng một phân tích nhận thức luận về các giác quan, và một
phê phán về khuynh hướng thị giác trong nền văn hóa nói chung và
trong kiến trúc nói riêng, sẽ làm sáng tỏ rất nhiều khía cạnh bệnh lý
trong kiến trúc thường nhật ngày hôm nay. Có thể thấy tính phi nhân
của kiến trúc và đô thị đương đại là hệ quả của việc xem nhẹ thân thể
và các giác quan, cùng với sự bất cân xứng trong hệ thống cảm quan
29
30
NHÃN TÂM LUẬN VÀ SỰ XÂM PHẠM CỦA CON MẮT
1. Kiến trúc được xem như một hình thức nghệ thuật của con mắt.
Nội Thất Nhà hát Besançon phản chiếu trong mắt (chi tiết), khắc theo
Claude-Nicolas Ledoux. Nhà hát được xây từ năm 1775 đến 1784.
2. Thị giác được xem là giác quan cao quý nhất và việc mất đi nhãn
Andalou), 1929. Cảnh phim chấn động trong đó con mắt của nữ
của ta. Như những ví dụ về trải nghiệm vong thân, tách biệt và cô độc
ngày một tăng dần trong thế giới kỹ thuật có lẽ liên quan đến một loại
bệnh lý nào đó của các giác quan. Người ta cần phải suy nghĩ về việc
những cấu trúc công nghệ tân tiến nhất như sân bay hay bệnh viện lại
thường gợi ra cảm giác xa lạ và tách biệt. Sự thống trị của con mắt và
sự đè nén những giác quan khác có xu hướng khiến người ta rơi vào
sự tách biệt, cô lập và ngoại lai. Hẳn là nghệ thuật thị giác đã tạo ra
những cấu trúc ấn tượng và giàu tư tưởng, song nó không tạo điều
kiện thuận lợi để con người bắt rễ vào thế giới. Thực tế là việc ngôn
ngữ của chủ nghĩa Hiện Đại nói chung đã không có khả năng thẩm
31
thấu vào thị hiếu và hệ giá trị bình dân có vẻ đến từ việc nó đã coi
trọng một cách phiến diện tính duy trí và thị giác; nhìn chung, thiết
kế Hiện Đại đã chu cấp chốn ở cho con mắt và trí óc, song đã bỏ lại
thân thể và những giác quan khác, cũng như ký ức, trí tưởng tượng, và
Trước khi có những ưu tư của ngày hôm nay, thì truyền thống trọng
thị giác và hệ quả là lý thuyết tri thức dựa trên kẻ quan sát trong tư
tưởng phương Tây đã phải chịu nhiều phê phán từ các triết gia. Lấy ví
dụ, René Descartes đã xem thị giác là giác quan cao quý và phổ quát
nhất, và nền móng triết học khách quan của ông chính là sự ưu tiên
thị giác. Tuy nhiên, ông cũng đặt ngang hàng thị giác và xúc giác, tức
giác quan mà theo ông thì “chắc chắn hơn và ít phạm lỗi sai hơn thị
giác.”17
Friedrich Nietzsche cũng mong muốn lật đổ uy quyền của lối suy
tư thị giác dù điều này có vẻ đi ngược lại với suy tưởng chung của ông.
Ông phê phán “con mắt đứng ngoài thời gian và lịch sử”18 mà các triết
gia khác đã giả định. Thậm chí ông còn buộc tội những triết gia này
vì “sự thù địch mù quáng và phản trắc (của họ) đối với các giác quan”19.
32
Max Scheler gọi đích danh thái độ (của các triết gia nói trên) là “sự
Twentieth-Century French Thought (Đôi Mắt Cúi Gằm: Sự Khinh Miệt Thị
Giác trong Tư Tưởng Pháp thế kỷ Hai Mươi), Martin Jay kiểm thảo thấu
đáo những phê phán mạnh mẽ được truyền thống tri thức ở Pháp thế
kỷ hai mươi phát triển, nhắm vào góc nhìn nhãn tâm luận trong tri
giác và suy tư của phương Tây.21 Tác giả truy dấu sự phát triển của văn
hóa trọng thị giác hiện đại qua nhiều lĩnh vực khác nhau, như sự phát
minh ngành in ấn, việc chiếu sáng nhân tạo, nhiếp ảnh, thi ca thị giác,
và trải nghiệm mới về thời gian. Mặt khác, ông phân tích tâm thế
phản-thị giác của rất nhiều tác gia người Pháp quan trọng như Henri
Sartre luôn bộc lộ sự căm ghét thị giác đến mức có thể gọi ông là
ác cảm thị giác (ocularphobia); người ta thống kê trong tác phẩm của
ông chứa đến 7000 tham chiếu về “cái nhìn”.22 Điều luôn khiến ông
bận lòng là “cái nhìn đối tượng hóa (objectifying look) về tha nhân và
“ánh mắt medusa” “hóa đá” mọi thứ mà nó chạm vào”.23 Theo quan
33
điểm của ông, việc không gian kiểm soát thời gian trong nhận thức
của con người là hệ quả của thuyết nhãn tâm luận.24 Sự đảo lộn ý nghĩa
tương quan giữa quan niệm không gian và thời gian có ảnh hưởng
quan trọng đến sự hiểu của ta về các tiến trình vật lý và lịch sử. Quan
niệm phổ biến về không gian và thời gian cùng với mối tương quan
mật thiết của chúng tạo nên hệ hình cốt yếu cho kiến trúc, như được
Sigfried Giedion lập thuyết trong quyển sách có tính ý thức hệ trứ
danh của lịch sử kiến trúc hiện đại, Space, Time and Architecture (Không
“chế độ quan sát phối cảnh kiểu Descartes” và “sự ưu tiên của nó cho
một chủ thể phi lịch sử, thờ ơ, không thân thể, hoàn toàn đứng ngoài
thế giới”.26 Toàn bộ công trình triết học của ông tập trung vào sự tri
giác nói chung, và thị giác nói riêng. Tuy nhiên, thay vì con mắt kiểu
Descartes của một người quan sát ngoại cuộc, cảm quan thị giác của
Merleau-Ponty là một cái nhìn nhập thể, theo đó, là một phần của
“nhục thể thế giới”: 27 “Thân thể chúng ta vừa là đối tượng giữa bao
đối tượng khác vừa là cái đang nhìn và chạm vào thế giới.”28 Merleau-
Ponty nhận thấy một quan hệ thẩm thấu giữa bản ngã và thế giới – cả
hai tương thông, và cùng định nghĩa nhau – ông nhấn mạnh vào tính
34
đồng thời và sự tương tác của các giác quan. Ông viết: “[Như vậy] tri
giác của tôi không phải là sự cộng gộp những dữ liệu thị giác, xúc giác
hay thính giác : Tôi tri giác một cách tổng hòa cùng với toàn thể tồn
tại của mình: Tôi nắm bắt cơ cấu căn nguyên của sự vật, cơ chế căn
nguyên của tồn tại, thứ này cùng lúc đến với tất cả giác quan của tôi.”29
chỉ ra rằng tư tưởng và văn hóa hiện đại không chỉ tiếp nối truyền
thống trọng thị giác, mà còn đẩy xa hơn những khuynh hướng tiêu cực
của truyền thống này. Bằng những cách khác nhau, từng người trong
số họ đã xem xét những khác biệt giữa sự thống trị của cái nhìn trong
thời hiện đại so với những thời kỳ trước. Sự bá quyền của thị giác được
củng cố trong thời đại của chúng ta bằng vô số phát minh công nghệ
cùng với sự sản tạo và nhân bội hình ảnh không giới hạn – “cơn mưa
hình ảnh triền miên”, như Italo Calvino đã gọi.30 Heidegger viết: “sự
kiện nền tảng của thời hiện đại là cuộc chinh phục thế giới xét như
hình ảnh.”31 Tư biện triết học này chắn chắn đã trở thành hiện thực
trong thời đại của ta, tức thời đại của những hình ảnh được chế tác,
Ngày hôm nay con mắt được công nghệ mở rộng và tiếp thêm sức
mạnh đã thâm nhập vào vật chất và không gian, cho phép con người
35
cùng một lúc có được cái nhìn bao trùm lên khắp địa cầu. Trải nghiệm
không thời gian hòa quyện vào nhau qua tốc độ (David Harvey sử dụng
chứng kiến sự hoán chuyển rõ ràng giữa hai chiều kích – tức thời gian
hóa không gian và không gian hóa thời gian. Giác quan duy nhất đủ
nhanh để theo kịp sự tăng tốc kinh ngạc trong thế giới công nghệ là
thị giác. Tuy nhiên, thế giới nhãn quang khiến chúng ta ngày càng
phải sống nhiều hơn trong một thứ hiện tại vĩnh cửu, bị tốc độ và tính
đồng thời ép phẳng. Hình ảnh thị giác trở thành hàng hóa như Harvey
đã chỉ ra: “Dòng thác hình ảnh từ những không gian khác biệt ập đến
gần như cùng lúc, phá vụn thế giới vào trong một chuỗi hình ảnh trên
màn hình ti vi […] Hình ảnh những nơi chốn và không gian trở thành
thứ để ngỏ cho sản xuất và được sử dụng chóng vánh như mọi loại
Những kiến tạo thực tại truyền thống bị rơi vào bi kịch đổ vỡ
trong những thập niên gần đây chắc chắn dẫn đến một cuộc khủng
hoảng về biểu tượng. Chúng ta thậm chí có thể nhận diện được một
vài chứng loạn tâm (hysteria) của biểu tượng trong nghệ thuật ngày
nay.
36
Con Mắt Ái Kỷ và Hư Vô Chủ Nghĩa
Theo quan điểm của Heidegger, đầu tiên bá quyền của ánh nhìn sinh
ra những viễn tượng huy hoàng, song trong thời hiện đại nó dần
chuyển thành một thứ hư vô chủ nghĩa. Quan sát của Heidegger về
con mắt hư vô chủ nghĩa đặc biệt đáng suy ngẫm trong bối cảnh ngày
hôm nay, khi mà rất nhiều dự án kiến trúc được báo chí quốc tế ca
ngợi trong vòng hai mươi năm trở lại đây đều biểu hiện cùng lúc cả
Con mắt bá quyền tìm kiếm sự thống trị trên khắp tất cả lĩnh vực
sản tạo văn hóa, và có vẻ nó đã làm suy yếu năng lực cảm thông, lòng
trắc ẩn và sự hòa nhập với thế giới của chúng ta. Con mắt ái kỷ xem
kiến trúc đơn thuần là công cụ thể hiện bản thân, một trò chơi nghệ
thuật-trí tuệ thoát ly khỏi những kết nối xã hội và tinh thần cốt yếu,
trong khi con mắt hư vô chủ nghĩa cố tình đẩy nhanh sự thoát ly và sự
vong thân về cảm giác và tinh thần. Thay vì củng cố kinh nghiệm xoay
quanh thân thể và tái nhập vào thế giới, kiến trúc hư vô chủ nghĩa chia
cách và cô lập thân thể, thay cho mục tiêu tái xây dựng trật tự văn hóa,
nó khiến việc đọc hiểu ý nghĩa cộng đồng trở nên bất khả. Thế giới
biến thành cuộc du hành thị giác đầy khoái lạc mà vô nghĩa. Rõ ràng
rằng, tâm thế hư vô chỉ có thể xuất hiện trong cảm quan về chia tách
37
38
SỨC MẠNH VÀ SỰ YẾU KÉM CỦA CON MẮT
3. Đặc biệt trong thời hiện đại, thị giác được vô số các phát minh
công nghệ cường hóa. Giờ đây chúng ta có thể nhìn sâu vào những
Con mắt của camera, chi tiết từ bộ phim The Man with a Movie
4. Bất chấp ưu tiên dành cho con mắt, quan sát thị giác vẫn thường
và thoát ly của thị giác. Chẳng hạn, chúng ta không thể nào nghĩ về
tính hư vô chủ nghĩa của xúc giác chính vì sự gần gũi, thân mật, chân
thực và đồng nhất không tránh khỏi mà giác quan này mang lại.
Nhưng cũng có cả một con mắt bạo dâm và một con mắt khổ dâm, mà
ta có thể nhận diện những công cụ của chúng trong lĩnh vực nghệ
Việc sản xuất hàng loạt hình ảnh thị giác theo kiểu công nghiệp
ở thời điểm hiện tại có xu hướng khiến thị giác bị tách rời khỏi sự liên
39
đới và sự đồng nhất cảm xúc, khi biến hình ảnh thành một dòng chảy
nhận xét tiêu cực về sự bành trướng của hệ thống thị giác : “Từ truyền
hình đến báo chí, từ quảng cáo cho đến tất cả mọi thứ thánh hiển mậu
dịch, đặc trưng của xã hội ta là sự di căn lớn dần của thị giác, tức việc
đánh giá mọi thứ qua khả năng để cho thấy và làm cho thấy, biến sự
giao tiếp thành một chuyến du hành thị giác.”34 Sự lan tỏa di căn của
những hình ảnh kiến trúc rỗng tuếch ngày nay, tách rời khỏi lô-gích
kiến tạo, khỏi cảm nhận vật liệu và sự đồng cảm, rõ ràng là một bộ
Không Gian Truyền Miệng đối lập với Không Gian Thị Giác
Song không phải lúc nào thị giác cũng thống trị con người. Thật ra sự
nghe vốn có vai trò thống trị ban đầu đã dần bị cái nhìn thay thế. Văn
liệu nhân học mô tả rất nhiều nền văn hóa mà ở đó, mối ưu tiên dành
cho cảm nhận mùi vị và xúc chạm vẫn luôn quan trọng trong hành vi
và giao tiếp cộng đồng. Vai trò của giác quan trong việc sử dụng không
gian cá nhân và cộng đồng thuộc các nền văn hóa khác nhau là chủ đề
của quyển sách nổi tiếng The Hidden Dimension (Chiều Kích Ẩn) của
Edward T Hall.35 Đáng tiếc là quyển sách này dường như bị các kiến
trúc sư bỏ quên. Những nghiên cứu về quan hệ giao tiếp trong không
40
gian cá nhân do Hall đề xuất mang lại những soi sáng thấu đáo về khía
cạnh bản năng và vô thức của mối quan hệ giữa con người với không
gian và việc sử dụng không gian một cách vô thức trong sự truyền
thông bằng hành vi của chúng ta. Sự soi sáng của Hall có thể trở thành
cơ sở cho việc thiết kế những không gian thân mật, vận hành trên khía
Trong quyển sách Orality and Literacy (Truyền Miệng và Văn Tự)
Walter J Ong phân tích sự chuyển giao từ văn hóa truyền miệng sang
văn hóa văn tự cùng những ảnh hưởng của nó lên nhận thức của con
người và cảm quan của cộng đồng.36 Ông chỉ ra rằng “sự chuyển dịch
từ ngôn ngữ truyền miệng sang ngôn ngữ viết chủ yếu là sự chuyển
dịch từ không gian thính giác sang không gian thị giác”,37 và “in ấn
đã thay thế sự thống trị mong manh của việc nghe trong thế giới tư
tưởng và biểu đạt bằng sự thống trị của thị giác có nguồn gốc từ chữ
viết”.38 Trong quan điểm của Ong, “đó là một thế giới rạch ròi của
Ong phân tích những thay đổi mà sự đột biến từ văn hóa truyền
miệng sơ khai sang văn hóa chữ viết (và suy cho cùng là văn hóa in ấn)
đã gây ra cho nhận thức, ký ức và hiểu biết không gian của con người.
Ông cho rằng khi sự thống trị của việc nghe nhường chỗ cho sự thống
41
trị của việc nhìn, thì tư duy có tính tình huống đã bị tư duy trừu tượng
thay thế. Với tác giả, sự thay đổi nền tảng này trong tri giác và hiểu
biết thế giới dường như không thể đảo ngược: “Mặc dù từ ngữ vẫn
được bảo tồn trong văn hóa truyền miệng, chữ viết đã mãi mãi giam
cầm chúng trong lĩnh vực thị giác […] một người hay chữ không thể
nào khôi phục hoàn toàn ý nghĩa mà ngôn lời gây ra đối với những
Thật ra, tính bá quyền tuyệt đối của con mắt có lẽ là một hiện
tượng mới gần đây, dù nó đã bắt nguồn từ tư tưởng và môn quang học
Hy Lạp. Theo quan điểm của Lucien Febvre: “Thế kỷ mười sáu không
bắt đầu bằng việc nhìn: họ nghe và ngửi trước, họ hít đầy không khí
và nắm bắt những tiếng động. Chỉ về sau này họ mới chủ động và
nghiêm túc dấn thân vào hình học, chú tâm vào thế giới của mô thức
vậy thị giác tràn vào thế giới khoa học cũng như vào thế giới cảm thụ
vật chất và thế giới của cái đẹp.”41 Robert Mandrou cũng đưa ra một
nhận xét tương tự: “Trật tự thứ bậc [của các giác quan] không phải
luôn như vậy [như trong thế kỷ hai mươi] bởi vì con mắt, kẻ thống trị
ngày hôm nay, được xếp ở vị trí thứ ba, đứng rất xa sau thính giác và
42
xúc giác. Con mắt tổ chức, phân loại và ra lệnh không phải là cơ quan
Dường như việc con mắt từng bước đạt được uy quyền cũng song
hành với sự phát triển cái tôi-ý thức ở phương Tây và sự tách biệt ngày
một rạch ròi giữa cái tôi và thế giới; thị giác chia tách ta khỏi thế giới
trong khi các giác quan khác lại dung hợp ta vào trong.
Biểu hiện nghệ thuật gắn với một ý nghĩa tiền-ngôn ngữ của thế
giới, được nhập thể và sống trải hơn là đơn thuần học hiểu qua tri
thức. Theo quan điểm của tôi, thi ca có năng lực nhất thời đưa ta quay
về thế giới truyền khẩu và bao dung ấy. Thế giới một lần nữa được
ngôn lời hóa trong thi ca dẫn người ta đi vào trung tâm của cõi nội
giới. Nhà thơ không chỉ nói “ở bờ của tồn tại”, như ghi nhận của
Gaston Bachelard43, mà còn nói ở bờ của ngôn ngữ. Tương tự như vậy,
vai trò của kiến trúc và nghệ thuật nói chung là tái tạo trải nghiệm về
cõi nội giới đồng nhất, nơi mà ta là một phần tử không thể chia tách
chứ không đơn thuần là kẻ quan sát ngoại cuộc. Trong tác phẩm nghệ
thuật, sự nhận biết hiện sinh nảy ra từ chính cuộc gặp gỡ giữa ta với
thế giới và với sự sống-ở-đời của chúng ta – mà thứ này không có tính
43
Kiến Trúc Võng Mạc và Sự Đánh Mất Tính Tạo Hình
Rõ ràng là kiến trúc của những nền văn hóa truyền thống đều kết nối
với sự khôn ngoan tiềm ẩn của thân thể, thay vì bị tri thức và thị giác
chi phối. Trong những văn hóa này, công việc xây dựng được cơ thể
dẫn dắt, tương tự như cách mà loài chim định hình tổ của mình thông
qua chuyển động cơ thể. Những kiến trúc bản địa xây từ bùn và đất
sét trên khắp thế giới có vẻ được sinh ra từ cảm quan sờ nắn và cơ gân
nhiều hơn là từ đôi mắt. Thậm chí chúng ta có thể đồng nhất bước
chuyển từ lãnh địa của xúc giác sang sự kiểm soát của thị giác trong
nền xây dựng bản địa như sự đánh mất tính tạo hình và tính thân mật,
mất đi cảm giác hòa nhập hoàn toàn đặc trưng trong những môi
Sự thống trị của thị giác trong tư tưởng triết học cũng hiển hiện
rõ ràng trong sự phát triển của kiến trúc phương Tây. Cùng với hệ
thống cân chỉnh thị sai hoàn hảo của mình, kiến trúc Hy Lạp đã được
trau chuốt kỹ càng để thỏa mãn con mắt. Tuy nhiên, việc ưu tiên sự
nhìn không nhất thiết dẫn đến sự khước từ các giác quan khác, như
chúng ta thấy trong chất cảm bề mặt, vật liệu tính, và sức nặng uy
quyền của kiến trúc Hy Lạp; con mắt mời gọi và kích thích cảm nhận
cơ gân và sự đụng chạm. Thị giác có thể thu nạp, hay thậm chí tăng
44
cường những loại hình cảm quan khác; chất liệu xúc giác có tính vô
thức nơi cái nhìn đặc biệt quan trọng và hiện hữu rất mạnh mẽ trong
kiến trúc truyền thống, song đã bị kiến trúc trong thời đại của chúng
ta tệ mạt bỏ quên.
yếu gắn liền với vấn đề cảm nhận thị giác, sự hài hòa và tỷ lệ. Tuyên
bố của Alberti rằng “hội họa không gì khác hơn là sự giao cắt giữa
một hình tứ diện được nhìn ở một khoảng cách nhất định, với một tâm
điểm cố định và một nguồn sáng nào đó” đã phác thảo hệ hình cho
phép phối cảnh, cũng đồng thời trở thành công cụ cho suy tư kiến
trúc.44 Một lần nữa cần phải nhấn mạnh rằng trước thời đại mà hình
ảnh hiện diện khắp mọi nơi như hiện nay, nhận thức tập trung vào cơ
chế thị giác không hề mặc định một sự khăng khăng cố tình chối bỏ
các giác quan khác. Đôi mắt dần chiếm lấy tính bá quyền trong thực
hành kiến trúc, ở cả khía cạnh ý thức và vô thức, chỉ dần xuất hiện với
ý niệm về người quan sát không có cơ thể. Người quan sát trở nên tách
rời khỏi mối quan hệ xương thịt với môi trường thông qua sự trấn áp
những giác quan khác, đặc biệt nhờ vào những sự nối dài của con mắt
qua công nghệ và nhờ sự sinh sôi hình ảnh. Như Marx W Wartofsky
45
nhận xét, “bản thân cái nhìn của con người là một tạo tác (artifact),
được sản xuất từ các tạo tác khác, tức những bức hình”.45
Cảm giác thống trị của thị giác xuất hiện mạnh mẽ trong văn bản
của các nhà Hiện Đại Chủ Nghĩa. Những tuyên bố của Le Corbusier
như là: “Tôi chỉ hiện hữu trong cuộc đời chừng nào tôi còn có thể
nhìn”;46 “Tôi sẽ luôn là tội đồ ngoan cố của thị giác – mọi thứ đều ở
khuyên các bạn hãy mở mắt ra. Các bạn đã mở mắt chưa? Các bạn đã
quen mở mắt chưa? Các bạn đã biết mở mắt như thế nào chưa, các bạn
có thường xuyên mở chúng một cách đúng đắn không?”;49 “Con người
nhìn thấy những sáng tạo kiến trúc bằng đôi mắt cách đất 1 mét 70
của mình”;50 và “kiến trúc là vật tạo hình. Bằng chữ “tạo hình” tôi
muốn nói đến điều gì đó được đôi mắt nhìn thấy và đo đạc”51- đã làm
rõ đặc quyền của thị giác trong lý thuyết Hiện Đại sơ kỳ. Những tuyên
bố khác của Walter Gropius – “Anh ta [nhà thiết kế] phải biết vận dụng
kiến thức về những bằng chứng khoa học của môn quang hình và như
vậy sở đắc một cơ sở lý thuyết giúp định hướng bàn tay tạo ra các hình
chất vệ sinh gắn liền với đôi mắt, sự khỏe khoắn của cái hữu hình từ
46
47
SỰ ĐÈ NÉN THỊ GIÁC VÀ SỰ HÒA TRỘN GIỮA THỊ GIÁC VÀ
XÚC GIÁC
5. Trong những trạng thái cảm xúc thăng hoa, hay khi chìm đắm
René Magritte, The Lovers (chi tiết), 1928, Museum of Modern Art,
6. Thị giác và xúc giác hòa trộn trong trải nghiệm sống trải thực
tế.
từ thẩm lọc qua”53 – khẳng định vai trò trung tâm của thị giác trong
Cương lĩnh nổi tiếng của Le Corbusier, “kiến trúc là trò chơi uyên
bác, chuẩn mực và hoằng đại của những bố cục hình khối dưới ánh
sáng”,54 là định nghĩa không cần bàn cãi cho một thứ kiến trúc của
con mắt. Tuy nhiên, Le Corbusier là một nghệ sỹ tài năng với đôi bàn
tay của nhà điêu khắc và cảm quan xuất chúng về vật liệu, tính tạo
hình và trọng lực, tất cả những điều này ngăn không cho kiến trúc của
ông trở nên đơn điệu khô khan. Bất chấp lời hô hào nhãn tâm luận
48
kiểu Descartes của Le Corbusier, những tác phẩm của ông lại cho thấy
sự tôn sùng bàn tay ngang hàng với con mắt. Yếu tố chất cảm sống
động hiện diện trong các phác thảo và tranh vẽ của Le Corbusier, và
thứ cảm quan xúc giác này hội nhập vào nhãn quang kiến trúc của
ông. Tuy nhiên, xu hướng quy giản lại trở thành thảm họa trong các
Trong kiến trúc của Mies van der Rohe, sự tri giác đến từ góc nhìn
phối cảnh trực diện đóng vai trò chủ đạo, song cảm quan độc đáo của
ông về trật tự, cấu trúc, khối lượng, chi tiết và sự chế tác thủ công góp
phần quyết định trong việc làm phong phú thêm hệ hình thị giác. Hơn
nữa, một tác phẩm kiến trúc có được sự trác tuyệt chính nhờ vào việc
nó dung hòa những chủ định hay ẩn ngữ có tính mâu thuẫn và đối
nghịch. Sức căng giữa chủ định có ý thức và sự trôi dạt vô thức là tất
yếu để tác phẩm có thể mở ra với sự tham dự cảm xúc của khán giả.
“Trong mọi trường hợp người ta phải đi đến một giải pháp chung cho
những đối lập,” như Alvar Aalto đã viết.55 Ta không nên xem xét
những phát ngôn của nghệ sỹ hay kiến trúc sư chỉ trên bề mặt, hầu
như chúng chỉ đại diện cho sự phòng vệ hay sự duy lý hóa bề ngoài và
có ý thức, thứ bề ngoài này có thể tương phản rạch ròi với những chủ
49
định vô thức sâu thẳm hơn, đó mới là điều mang lại cho tác phẩm sức
Với cùng một sự phân minh như thế, hệ hình thị giác là cơ sở phổ
biến trong quy hoạch đô thị, từ những họa đồ thành phố lý tưởng thời
Phục Hưng cho đến nguyên tắc phân vùng và quy hoạch Công Năng
Luận (Functionalism) đã phản ánh “tính chất vệ sinh của cái nhìn”.
Đặc biệt, thành phố đương đại đang ngày càng trở thành thành phố
của con mắt, thoát ly khỏi thân thể bằng những chuyển động cơ giới
tốc độ cao và thông qua góc nhìn tổng quan từ trên không trung.
Những tiến trình quy hoạch ưu tiên con mắt lý tưởng hóa và phi thân
thể kiểu Descartes luôn kiểm soát và chia tách; họa đồ thành phố là
surplombant (cái nhìn bao quát), như Jean Starobinski định nghĩa,56 hay
Cho đến tận gần đây, lý thuyết và phê bình kiến trúc hầu như chỉ
gắn với cơ chế và biểu hiện thị giác. Sự tri giác và trải nghiệm hình
thức kiến trúc thường xuyên được phân tích thông qua các quy luật
nhận thức thị giác Gestalt. Tương tự như vậy, triết học trường lớp chủ
yếu hiểu kiến trúc trên khía cạnh thị giác, nhấn mạnh vào sự kiến tạo
50
Kiến Trúc của Hình Ảnh Thị Giác
Khuynh hướng trọng thị giác trong nghệ thuật kiến trúc chưa bao giờ
rõ ràng như trong vòng năm mươi năm trở lại đây, khi mà một loại
hình kiến trúc nhắm đến một hình ảnh thị giác ấn tượng và dễ nhớ trở
nên phổ biến. Thay cho trải nghiệm bắt rễ một cách hiện sinh vào
không gian và có tính tạo hình, kiến trúc thu nạp chiến lược tâm lý
của ngành quảng cáo và sự thuyết phục tức thời: công trình biến thành
sản phẩm hình ảnh thoát ly khỏi tính chân thật và chiều sâu hiện sinh.
David Harvey liên tưởng “sự đánh mất thời tính và việc tìm kiếm
tác động tức thời” trong biểu hiện đương đại với sự đánh mất chiều
sâu trải nghiệm.57 Fredric Jameson sử dụng khái niệm “vẻ nông cạn
được tính toán” để mô tả điều kiện văn hóa đương đại và “sự mê muội
của nó với vẻ ngoài, bề mặt và tác động tức thời, những thứ không thể
Là hệ quả của trận đại hồng thủy hình ảnh hiện tại, kiến trúc ngày
hôm nay thường xuất hiện như một nghệ thuật võng mạc đơn thuần,
và như vậy hoàn tất chu kì nhận thức luận khởi đầu từ kiến trúc và tư
tưởng Hy Lạp. Tuy nhiên sự thay đổi này đã vượt khỏi sự thống trị đơn
thuần của thị giác; thay cho cuộc gặp gỡ mang tính thân thể trong tình
huống, kiến trúc trở thành nghệ thuật của ảnh in, được đôi mắt hối hả
51
của máy ảnh ghi giữ. Trong nền văn hóa hình ảnh của chúng ta, bản
thân ánh nhìn cũng bị ép phẳng thành một bức hình và mất đi tính đa
chiều của nó. Thay vì trải nghiệm tồn tại trong thế giới của mình,
chúng ta chiêm ngắm nó từ bên ngoài như những khán giả của hình
ảnh được chiếu lên bề mặt võng mạc. David Michael Levin sử dụng
thuật ngữ “hữu thể học trực diện” để mô tả tầm nhìn tập trung, cố
Susan Sontag đã có những ghi nhận tinh tế về vai trò của hình ảnh
nhiếp ảnh trong nhận thức thế giới của chúng ta. Lấy ví dụ, bà viết về
“tâm thế nhìn thế giới như một bộ ảnh tiềm năng”,60 và cho rằng “thực
tại dường như đang ngày càng trở thành những gì mà máy ảnh cho
thấy”,61 và “sự hiện diện khắp nơi của ảnh chụp có một tác động không
thể đo đếm lên cảm quan đạo đức của chúng ta. Bằng việc trang hoàng
thêm cho cái thế giới vốn đã đông đúc bằng một bản sao hình ảnh,
nhiếp ảnh khiến chúng ta cảm thấy thế giới này còn sẵn có hơn nó
Khi công trình đánh mất tính tạo hình, sự kết nối với ngôn ngữ
và minh triết của thân thể, chúng sẽ bị cô lập trong lãnh địa xa lánh,
lạnh lẽo của thị giác. Cùng với sự đánh mất chất cảm, thước đo và
những chi tiết thủ công liên quan đến cơ thể con người – nhất là đôi
52
bàn tay – cấu trúc kiến trúc trở nên phẳng phiu, nhẵn nhụi, phi vật
chất và không thật một cách kinh hoàng. Sự tách rời xây dựng khỏi
thực tại vật chất và tạo tác thủ công biến kiến trúc thành một sắp đặt
sân khấu dành cho con mắt, một sự dàn cảnh thiếu vắng tính chân
thật của vật chất và sự xây dựng. Cảm quan về cái “anh hoa” (aura), uy
quyền của sự hiện diện, vốn được Walter Benjamin xem là phẩm chất
tất yếu của một tác phẩm nghệ thuật thật sự không còn nữa. Những
sản phẩm của phương tiện công nghệ làm ẩn đi tiến trình xây dựng và
vì thế chúng xuất hiện ra trong một vẻ ngoài hư ảo. Sự sử dụng ngày
một nhiều hơn kính phản quang trong kiến trúc củng cố thêm cảm
giác ảo mộng của tính phi thực và sự tha hóa. Trong những công trình
này, sự trong suốt mờ đục đối lập, phản xạ lại ánh nhìn một cách thờ
ơ và vô cảm; người ta không thể thấy hay hình dung về đời sống đằng
sau những bức tường đó. Tấm gương kiến trúc gửi trả ánh nhìn và
Sự phẳng phiu của xây dựng phổ thông ở thời điểm hiện tại càng tăng
thêm cảm giác vốn đã yếu đi về vật liệu tính. Những vật liệu tự nhiên
– như đá, gạch và gỗ - cho phép ánh nhìn thâm nhập vào bề mặt của
chúng và thuyết phục ta về tính xác thực của vật chất. Vật liệu tự nhiên
53
biểu hiện tuổi đời của chúng, cũng như câu chuyện về nguồn gốc và
lịch sử sử dụng của con người. Tất cả vật chất hiện hữu trong một thể
liên tục về thời gian, lớp han gỉ bề mặt trao cho vật liệu xây dựng một
kinh nghiệm thời tính phong phú. Ấy vậy mà những vật liệu sản xuất
từ máy móc hiện đại – những tấm kính vượt tỉ lệ, kim loại mạ, và nhựa
tổng hợp - phô trương bề mặt bất khuất trước đôi mắt mà không
truyền tải bản chất vật liệu hay tuổi đời. Công trình của thời đại công
nghệ này luôn cố tình nhắm đến một vẻ ngoài hoàn mỹ không tuổi,
chúng không còn bao hàm chiều kích thời gian hay những tiến trình
lão hóa tất yếu, mang nghĩa tinh thần. Nỗi sợ hãi về tỳ vết từ sự hao
mòn và tuổi tác ấy liên quan đến nỗi sợ chết của chúng ta.
Sự trong suốt và cảm giác lơ lửng phi trọng lực là chủ đề trung
tâm trong nghệ thuật và kiến trúc hiện đại. Trong vài thập niên trở lại
đây khởi lên một hệ hình ảnh kiến trúc mới, thứ này sử dụng sự phản
chiếu, những thang độ trong suốt, sự chồng lớp và sự xếp liền nhau để
tạo ra cảm giác về chiều dày không gian, cũng như cảm giác thay đổi
tinh tế của chuyển động và ánh sáng. Cảm quan mới mẻ này hứa hẹn
một thứ kiến trúc có thể biến cảm giác phiêu du phi vật chất của công
nghệ xây dựng hiện đại trở thành trải nghiệm tích cực về không gian,
nơi chốn và ý nghĩa. Nhưng sự yếu dần trong trải nghiệm thời gian ở
54
môi trường hiện tại lại có những hiệu ứng có tính hủy hoại với tinh
thần. Theo lời nhà trị liệu Hoa Kỳ Gotthard Booth, “không có điều gì
mang lại cho người ta sự thỏa mãn trọn vẹn hơn việc dự phần vào
những tiến trình vượt trên quãng đời của mỗi cá nhân”.63 Chúng ta có
nhu cầu tinh thần cảm thấy mình bắt rễ trong sự liên tục của thời gian,
và trong thế giới tạo ra bởi con người, trách vụ của kiến trúc là tạo
điều kiện thuận lợi cho trải nghiệm này. Kiến trúc thuần hóa không
gian vô biên và biến nó thành nơi chốn cư lưu của chúng ta, song nó
cũng nên thuần hóa thời gian bất tận và cho phép chúng ta được ở
Sự nhấn mạnh thái quá vào chiều kích trí tuệ và duy niệm của kiến
trúc ở thời điểm hiện tại đã góp phần làm biến mất bản chất vật chất,
cảm xúc và tính nhập thể của nó. Kiến trúc đương đại được cho là tiên
phong vẫn thường gắn kết với những diễn ngôn của chính bản thân
kiến trúc và với việc bản đồ hóa những lãnh thổ khả hữu bên rìa nghệ
thuật hơn là trả lời cho những vấn đề hiện sinh của con người. Quan
điểm quy giản này làm xuất hiện một cảm giác tự kỷ trong kiến trúc,
tức một diễn ngôn tự trị được nội hóa không dựa trên thực tại hiện
55
56
THÀNH PHỐ CỦA CON MẮT VÀ THÀNH PHỐ XÚC GIÁC
7. Thành phố đương đại là thành phố của con mắt, của khoảng
Đề xuất skyline (đường chân trời đô thị) cho Buenos Aires của Le
Corbusier – phác thảo lấy từ bài giảng vào năm 1929 ở Buenos
Aires.
8. Thành phố xúc giác là thành phố của nội giới và sự gần gũi.
Thị trấn đồi núi Casares, miền nam Tây Ban Nha.
Không chỉ kiến trúc, văn hóa đương đại nói chung đang trôi dần về
ngoài mối quan hệ của con người với thực tại. Hội họa và điêu khắc
dường như đã đánh mất tính gợi cảm của mình; thay vì mời gọi sự
thân mật gợi cảm, tác phẩm nghệ thuật đương đại thường xuyên báo
hiệu một sự chối bỏ xa cách với sự hiếu kỳ gợi cảm và khoái lạc. Thay
vì vời đến giác quan và những phản hồi nhập thể thuần nhất, những
tác phẩm đó chỉ đối thoại với trí óc và khả năng ý niệm hóa. Cơn mưa
bom triền miên của những hình ảnh xa lạ chỉ dẫn đến sự trống rỗng
57
cảm xúc tăng dần của hình ảnh. Hình ảnh bị biến thành hàng hóa,
được sản xuất vô tận để trì hoãn sự chán chường, và đến lượt con người
cũng trở thành hàng hóa, họ tự tiêu thụ chính mình một cách thờ ơ,
họ không còn đủ dũng cảm hay thậm chí khả năng để đối diện với
thực tại hiện sinh của mình. Ta được tạo ra để sống trong một thế giới
Tôi không muốn trình bày một góc nhìn bảo thủ với nghệ thuật
đương đại như giọng điệu của Hans Sedlmayr trong quyển sách đáng
suy ngẫm mà đầy xáo động Art in Crisis (Nghệ Thuật trong Cơn Khủng
Hoảng).64 Tôi chỉ gợi ra rằng có một thay đổi đặc biệt đã xảy đến với
trải nghiệm tri giác và cảm giác của ta về thế giới, và điều này được
phản ánh trong kiến trúc và nghệ thuật. Nếu muốn kiến trúc có được
vai trò khai phóng và hàn gắn, thay vì củng cố sự xói mòn ý nghĩa hiện
sinh, chúng ta phải suy tư về sự đa dạng của những cách thức bí mật
qua đó nghệ thuật kiến trúc gắn chặt với thực tại tinh thần và văn hóa
của thời đại. Chúng ta cũng nên nhận thức về phương cách theo đó
tính khả thi của kiến trúc đã bị những vận động chính trị, văn hóa,
kinh tế, nhận thức, tri giác đương đại đe dọa và gạt ra bên lề. Kiến trúc
58
Bác bỏ khung cửa sổ của Alberti
Dĩ nhiên bản thân con mắt không chịu yên vị trong mô hình độc
nhãn bất động được lý thuyết viễn cận Phục Hưng kiến tạo. Con mắt
bá quyền đã chinh phục những lãnh địa mới của nhận thức và biểu
hiện thị giác. Lấy ví dụ những bức họa của Hieronymus Bosch và
Pieter Bruegel dẫn dắt mắt người tham gia lướt qua những cảnh trí sự
kiện khác nhau. Những bức họa nói về đời sống thị dân ở Hà Lan thế
kỷ mười bảy tái hiện khung cảnh bình dân và những đồ vật quen thuộc
hàng ngày đã mở rộng ra ngoài biên giới cửa sổ của Alberti. Hội họa
Baroque mở toang tầm nhìn bằng những đường nét mờ ảo, điểm tụ lơ
lửng, đa phối cảnh, thể hiện một lời mời gọi đặc biệt và lôi cuốn cơ
Một hướng tiến hóa chủ đạo của tính hiện đại là sự giải phóng
con mắt khỏi nhận thức luận có tính phối cảnh Descartes. Những bức
họa của Joseph Mallord William Turner tiếp nối việc xóa bỏ khung
tranh và điểm tụ, tiến trình bắt đầu từ thời Baroque; các nhà Ấn Tượng
vứt bỏ đường viền, phép đóng khung hài hòa và chiều sâu phối cảnh;
Paul Cézanne khao khát “làm hiện hình cách thế giới chạm vào chúng
ta”;65 những nhà Lập Thể bỏ qua điểm nhìn duy nhất, phục hồi lại tầm
nhìn ngoại biên và củng cố trải nghiệm xúc giác trong khi những họa
59
60
KIẾN TRÚC VÀ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI
10. Kể từ những triều đại Ai Cập Cổ Đại, thước đo dựa trên cơ thể
người đã được sử dụng trong kiến trúc. Truyền thống nhân tâm
hiện đại.
trên cách phân chia kiểu Pythagor với con số gốc là 180 cm (được
sỹ theo phái trường sắc (colour field) bác bỏ chiều sâu ảo giác để nhấn
mạnh vào hiện diện của bản thân bức tranh như là một tạo tác đặc thù
và là một thực tại độc lập. Nghệ sỹ Đất (Land artist) hòa trộn thực tại
của tác phẩm với thực tại của sinh giới và sau cùng, những nghệ sỹ
như là Richard Serra quan tâm trực tiếp đến thân thể cũng như những
trải nghiệm về phương ngang, phương đứng, vật liệu tính, trọng lực
và khối lượng.
61
Một dòng nghịch lưu tương tự, chống lại bá quyền của con mắt
phối cảnh cũng xuất hiện trong kiến trúc hiện đại bất chấp đặc quyền
văn hóa của thị giác. Kiến trúc chất cảm và cảm quan vận động của
Frank Lloyd Wright, những công trình gân thịt và xúc chạm của Alvar
Aalto, kiến trúc hình học và trọng lực của Louis Kahn là những ví dụ
Có lẽ khi được giải thoát khỏi khao khát ẩn ngầm về kiểm soát và
quyền lực của con mắt, thì chính tầm nhìn không điểm tụ của thời đại
này có thể một lần nữa mở ra những lãnh địa mới của thị giác và suy
tư. Sự biến mất của điểm tụ là kết quả của dòng chảy hình ảnh có thể
giải phóng con mắt khỏi sự thống trị gia trưởng và làm xuất hiện một
cái nhìn tham dự và cảm thông. Đến tận thời điểm hiện tại, sự mở
rộng giác quan nhờ vào công nghệ vẫn đang củng cố sự ưu việt của thị
giác, tuy nhiên những công nghệ mới có thể trợ giúp “thân thể […] soán
ngôi cái nhìn lãnh đạm của người quan sát ở bên ngoài thế giới kiểu
Descartes”.66
Martin Jay lưu ý rằng: “Trái với hình thức trong sáng, tuyến tính,
đặc chất, cố định, trắc lượng, khép kín của thời Phục Hưng […] nghệ
thuật baroque có chất nghệ sỹ, thoái ẩn, mơ hồ, đa dạng và phóng
62
khoáng.”67 Ông cũng cho rằng “trải nghiệm thị giác baroque có tính
chất xúc chạm, sờ nắm, điều này ngăn nó chuyển thành nhãn tâm luận
tuyệt đối trong phép phối cảnh kiểu Descartes đối nghịch với nó.”68
Trải nghiệm xúc giác dường như đang thâm nhập vào lãnh địa thị
giác một lần nữa thông qua sự hiện diện của chất cảm trong hình ảnh
thị giác đương đại. Lấy ví dụ, trong video ca nhạc, hay trong những
lớp lang trong suốt của đô thị hiện đại chúng ta không cách nào làm
ngưng đọng dòng chảy hình ảnh để có một góc nhìn phân tích; thay
vào đó chúng ta phải nắm bắt nó như một cảm nhận xúc giác được
tăng cường, giống với một người đang bơi cảm thấy những luồng nước
Trong quyển sách khúc chiết và gợi nhiều suy tư The Opening of
Vision: Nihilism and the Postmodern Situation (Sự Mở Rộng của Tầm Nhìn:
Chủ Nghĩa Hư Vô và Hoàn Cảnh Hậu Hiện Đại), David Michael Levin
phân biệt hai cách thức thị giác khác nhau: “cái nhìn khẳng định” (the
assertoric gaze) và “cái nhìn chân lý”( the aletheic gaze).69 Theo quan
điểm của ông, cái nhìn khẳng định thì hẹp hòi, giáo điều, thiếu khoan
dung, cứng nhắc, cố định, không linh hoạt, kỳ thị, và lãnh đạm, trong
khi cái nhìn chân lý, tức gắn liền với lý thuyết thông diễn học về chân
lý luôn hướng đến sự đa dạng quan điểm và góc nhìn, thì đa dạng, đa
63
nguyên, dân chủ, mang tính bối cảnh, khoan dung, bình đẳng và từ
tâm.70 Levin cho rằng đã có những điềm báo cho sự xuất hiện một cách
Mặc dù những công nghệ mới đã củng cố tính bá quyền của thị
giác, chúng cũng có thể giúp tái lập thế cân bằng giữa các lãnh địa
giác quan. Theo quan điểm của Walter Ong, “cùng với điện thoại,
radio, ti vi và những loại hình thu âm khác nhau, công nghệ điện tử
đã đưa chúng ta vào thời đại của “văn hóa truyền khẩu thứ hai”. Văn
hóa truyền khẩu mới này có sự tương đồng đáng kinh ngạc với cái
trước đó trong không khí huyền bí của sự thông dự, sự nuôi dưỡng
cảm thức cộng đồng, và sự chú tâm vào khoảnh khắc hiện tại […].”71
Nhà nhân học Ashley Montagu viết “Người dân ở thế giới phương
Tây đang bắt đầu khám phá những cảm quan bị bỏ quên. Nhận thức
đang ngày một lớn này biểu hiện thứ gì đó về một cuộc nổi dậy chậm
trễ chống lại sự tước đoạt những trải nghiệm cảm giác mà chúng ta
phải chịu đựng trong thế giới công nghệ.”72 Ngày hôm nay, nhiều kiến
trúc sư trên khắp thế giới đang nỗ lực phóng chiếu nhận thức này, họ
mong muốn tái-xúc cảm kiến trúc bằng cảm quan được tăng cường về
tính vật liệu, tính xúc chạm, chất cảm bề mặt, khối lượng, mật độ
64
PHẦN HAI
65
Lược khảo trên đây cho thấy rằng đặc quyền của thị giác trước các
giác quan khác là một chủ đề không cần bàn cãi trong tư tưởng
phương Tây, và đây cũng là khuynh hướng rõ ràng trong kiến trúc ở
thời điểm hiện tại. Tất nhiên những chiều hướng tiêu cực trong kiến
trúc cũng được chính những xung lực và mô thức quản trị, tổ chức,
sản xuất cùng với tác động phổ quát trừu tượng của bản thân tính duy
lý của công nghệ thúc đẩy mạnh mẽ. Tuy vậy, cũng không thể gắn trực
tiếp sự thoái trào các lãnh địa giác quan với bản thân đặc quyền có
tính lịch sử của thị giác. Việc tri nhận thị giác như cảm quan quan
trọng nhất của con người vốn có cơ sở vững chắc từ thực tế sinh lý, tri
giác và tâm lý.73 Vấn đề chỉ nảy sinh khi người ta cô lập con mắt ra
khỏi tương tác tự nhiên giữa nó với các hình thức cảm quan khác, và
từ sự xóa bỏ và đè nén các giác quan khác, chính những điều này đang
ngày càng quy giản và giam cầm trải nghiệm về thế giới chỉ trong lĩnh
vực thị giác. Sự chia cắt và quy giản như vậy sẽ làm phân mảnh tính
phức hợp bẩm sinh, sự thấu hiểu và tính đa chiều của hệ thống tri giác,
Trong phần hai, tôi sẽ khảo sát tương tác giữa các giác quan và
đưa ra vài cảm nhận chủ quan về lãnh địa cảm giác trong những biểu
hiện và trải nghiệm kiến trúc. Qua tiểu luận này, tôi muốn lập thuyết
66
cho một thứ kiến trúc cảm giác, đối nghịch với cách hiểu thiên về thị
giác của nền nghệ thuật xây dựng phổ biến ngày nay.
Tôi gặp gỡ thành phố bằng thân thể mình; đôi chân ước lượng chiều
dài của hàng hiên và chiều rộng của quảng trường; một cách vô thức,
ánh nhìn phóng chiếu thân thể tôi lên mặt đứng của nhà thờ, lần theo
những gờ chỉ và đường bao, cảm nhận những nhấp nhô; khối lượng cơ
thể tôi va chạm với sức nặng của cánh cửa nhà thờ, và bàn tay tôi nắm
lấy tay nắm cửa khi tôi đi vào khoảng không tối tăm phía sau. Tôi trải
nghiệm bản thân mình trong thành phố, và thành phố hiện hữu trong
trải nghiệm nhập thể của tôi. Thành phố và cơ thể tôi bổ sung cho
nhau và cùng nhau định hình. Tôi sống trong thành phố và thành phố
Triết học của Merleau-Ponty đặt cơ thể con người vào trung tâm
của thế giới sống trải. Luận đề đau đáu của ông được Richard Kearney
đúc kết lại như sau: “thông qua cơ thể xét như lõi sống của tính ý
hướng […] mà chúng ta lựa chọn thế giới và thế giới lựa chọn chúng
ta”.74 Theo chính lời của Merleau-Ponty: “Thân thể của chính ta ở
trong thế giới như là trái tim ở trong cơ thể: thân thể giữ cho sân khấu
hữu hình liên tục sống động, thổi hồn vào nó, ngấm ngầm nuôi dưỡng
67
nó, và cùng với nó định hình nên một hệ thống”75; và “với tri giác tự
nhiên thì trải nghiệm cảm quan luôn bất ổn và xa lạ, chúng ta đạt được
nó cùng lúc qua toàn bộ cơ thể mình, nó mở ra với thế giới tương tác
giác quan”.76
Trải nghiệm cảm quan trở nên thống nhất trọn vẹn qua cơ thể,
hay đúng hơn là trong chính sự cấu thành của cơ thể và thể điệu tồn
tại của con người. Lý thuyết phân tâm học đã du nhập một quan niệm
về hình ảnh cơ thể hay giản đồ cơ thể xét như là trung tâm của sự
thống nhất. Cơ thể và sự vận động của ta liên tục tương tác với môi
trường; thế giới và bản ngã không ngừng trao đổi thông tin và tái định
hình qua lại. Tri giác của cơ thể và hình ảnh thế giới biến thành một
trải nghiệm hiện hữu duy nhất và liên tục; không có cơ thể nào tách
khỏi trú sở của mình trong không gian, và không có không gian nào
tách bạch khỏi hình ảnh vô thức của tri giác bản ngã. “Hình ảnh cơ
thể […] chủ yếu định hình từ trải nghiệm xúc giác và và trải nghiệm
ảnh thị giác được phát triển về sau này và ý nghĩa của nó phụ thuộc
vào những kinh nghiệm xúc giác sơ khai” Kent C Bloomer và Charles
W Moore đã nhận định như vậy trong quyển sách xuất bản năm 1977,
Body, Memory, and Architecture (Cơ Thể, Ký Ức và Kiến Trúc), một trong
68
những nghiên cứu đầu tiên khảo sát vai trò của cơ thể và giác quan
trong trải nghiệm kiến trúc.77 Họ tiếp tục giảng giải: “Thứ dần biến
mất trong chốn ở của chúng ta hôm nay là những trao đổi tiềm tàng
giữa cơ thể, trí tưởng tượng, và môi trường”;78 … “Trong chừng mực
nào đó người ta có thể ghi nhớ một nơi chốn, một phần vì nó độc đáo,
song phần khác vì nó tác động lên cơ thể chúng ta và làm nảy sinh đủ
sự gắn kết để ghim giữ nó trong thế giới cá nhân của chúng ta.”79
Cuộc tản bộ trong rừng giúp ta phấn chấn và khỏe khoắn nhờ tương
tác liên tục từ tất cả phương thức cảm quan; Bachelard gọi đó là “phức
điệu giác quan”.80 Con mắt phối hợp cùng cơ thể và các giác quan
khác. Cảm thức về thực tại được sự phối hợp liên tục này củng cố và
gắn kết. Về cơ bản, kiến trúc là sự lan rộng của tự nhiên vào trong lãnh
địa con người, nó đặt nền tảng cho tri giác, cho chân trời trải nghiệm
và hiểu biết về thế giới. Nó không phải là một tạo tác tách biệt và tự
túc; nó hướng sự chú tâm và kinh nghiệm hiện sinh đến những chân
trời rộng lớn hơn. Kiến trúc cũng mang lại những cấu trúc vật chất và
ý niệm cho thiết chế xã hội, và cho những điều kiện của cuộc sống
thường nhật. Kiến trúc quy chất vòng luân chuyển tháng năm, hành
69
Mỗi một trải nghiệm mà kiến trúc chạm vào đều đa-giác quan;
phẩm chất không gian, vật liệu và tỷ lệ cùng lúc được mắt, tai, mũi,
da, lưỡi, xương và cơ ước định. Kiến trúc củng cố kinh nghiệm hiện
mẽ về bản ngã. Thay cho thị giác đơn thuần, hay ngũ quan theo truyền
thống, kiến trúc hợp nhất những lãnh địa trải nghiệm cảm quan đa
Nhà tâm lý học James J Gibson xem giác quan như một cơ chế tìm
kiếm hung hăng hơn là thứ gì đơn thuần có tính thụ động. Thay cho
năm giác quan rời rạc, Gibson phân loại giác quan thành năm hệ
thống cảm giác: hệ thống hình ảnh, hệ thống âm thanh, hệ thống mùi
vị, hệ thống định hướng cơ bản, và hệ thống xúc giác.82 Triết học của
Steiner cũng khẳng định rằng thật ra chúng ta sử dụng ít nhất là mười
Đôi mắt muốn phối hợp cùng các giác quan khác. Có thể xem tất
cả giác quan, bao gồm cả thị giác đều là sự mở rộng của xúc giác – tức
như những cơ chế chuyên môn hóa của làn da. Chúng định hình giao
diện giữa làn da và môi trường – giữa nội giới u huyền của cơ thể và
ngoại giới. Theo quan điểm của René Spitz, “toàn bộ tri giác bắt đầu
từ khoang miệng, nơi này hoạt động như cầu nối nguyên thủy giữa sự
70
tiếp thu nội tại và tri giác ngoại tại”.84 Ngay cả con mắt cũng sờ nắn;
của cơ thể. Khi bình giảng triết học tri giác của Merleau-Ponty,
Martin Jay nhận định, “bằng thị giác chúng ta chạm đến mặt trời và
Ireland sống ở thế kỷ mười tám George Berkeley đã gắn kết xúc giác
vào thị giác, ông còn cho rằng nhận thức thị giác về vật liệu, khoảng
cách và chiều sâu không gian ắt sẽ hoàn toàn không tồn tại nếu không
có sự phối hợp với ký ức xúc giác. Theo quan điểm của Berkeley, thị
giác cần đến sự hỗ trợ của xúc giác, vốn cung cấp cảm giác về “độ đặc
chất, độ cứng cáp và độ gồ ghề”;86 cái nhìn thoát ly khỏi cảm giác sờ
nắn sẽ không thể “có bất kỳ ý niệm nào về khoảng cách, độ rộng hay
độ sâu, và như vậy là về không gian hay cơ thể”.87 Đồng ý với Berkeley,
Hegel tuyên bố rằng giác quan duy nhất mang lại cảm giác về chiều
sâu không gian là xúc giác, vì xúc giác “cảm nhận khối lượng, độ cứng,
và hình dáng ba chiều (gestalt) của cơ thể vật chất, và như vậy giúp
chúng ta nhận thức được quãng tính của sự vật theo mọi chiều
hướng”.88
Thị giác làm sáng tỏ những gì xúc giác đã biết từ trước. Có thể
xem xúc giác như là phần vô thức của thị giác. Đôi mắt lần theo những
71
72
THÀNH PHỐ CỦA SỰ DỰ PHẦN – THÀNH PHỐ CỦA SỰ XA
LẠ
bề mặt, đường bao hay cạnh biên, và cảm giác vuốt ve vô thức xác định
sự thoải mái hay khó chịu của trải nghiệm. Xa hay gần đều được trải
nghiệm với cùng một cường độ giống nhau, nhập thành một trải
Chúng ta nhìn thấy chiều sâu, độ nhẵn, độ mềm và cứng của đối vật;
thậm chí Cézanne còn cho rằng ta thấy cả mùi của chúng. Nếu họa sỹ
cần biểu đạt thế giới, thì sự sắp xếp về màu sắc của anh ta phải mang
theo nó cái Toàn Thể bất khả phân này, còn không, những bức họa của
anh ta sẽ chỉ là lời nói suông về sự vật, không mang chúng hiện ra trong
73
tính thống nhất uy nghi, sự hiện diện và trạng thái trọn vẹn tối thượng,
Phát triển xa hơn ý tưởng của Goethe cho rằng một tác phẩm nghệ
thuật phải « tôn vinh cuộc sống »,90 Bernard Berenson cho rằng khi
trải nghiệm tác phẩm nghệ thuật, chúng ta tưởng tượng một cuộc gặp
gỡ vật chất đích thực thông qua những « cảm giác tinh thần ». Cảm
giác quan trọng nhất trong số đó được ông gọi là « giá trị xúc giác ».91
Theo quan điểm của ông, tác phẩm nghệ thuật chân chính thôi thúc
cảm giác tinh thần của xúc giác và sự thôi thúc này chính là sự tôn
vinh cuộc sống. Quả thật, chúng ta cảm nhận được sự ấm áp của bồn
tắm trong những bức họa tắm khỏa thân của Pierre Bonnard và không
khí ẩm ướt trong phong cảnh của Turner, chúng ta cũng có thể cảm
thấy sức nóng mặt trời và làn gió mát mẻ trong tranh của Matisse vẽ
Tương tự như vậy, tác phẩm kiến trúc sinh ra một phức điệu cảm
nhận không thể phân nhỏ. Khi đối diện trực tiếp Căn Nhà Trên Thác
của Frank Lloyd Wright ta cảm thấy khu rừng xung quanh, các hình
khối, bề mặt, chất cảm và màu sắc của căn nhà, hay thậm chí cả mùi
hương của khu rừng và tiếng suối reo hòa quyện vào nhau trong một
trải nghiệm toàn vẹn duy nhất. Tác phẩm kiến trúc không được trải
74
nghiệm như bộ sưu tập những hình ảnh thị giác rời rạc, mà trong sự
hiện diện nhập thể toàn vẹn trên cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần.
Tác phẩm kiến trúc thu nạp và chắt lọc các cấu trúc vật chất và tinh
thần. Góc nhìn trực phẳng của bản vẽ kiến trúc biến mất trong trải
nghiệm thực tế công trình. Kiến trúc tốt mang đến những hình dạng
và bề mặt được nhào nặn theo cảm giác vuốt ve thích thú của con mắt.
Câu nói của Le Corbusier “ đường bao và gờ chỉ là hòn đá thử của kiến
trúc sư”, lại tiết lộ cái chất liệu xúc giác về một thứ kiến trúc vốn được
Những hình ảnh của lĩnh vực giác quan này lại tiếp tục nuôi
dưỡng những hình ảnh trong lĩnh vực giác quan khác theo một thể
điệu đặc biệt. Hình ảnh hiện tại làm hiện lên hình ảnh của ký ức, tưởng
tượng và mộng mơ. “Điều hữu ích nhất của ngôi nhà [là việc] ngôi nhà
che chở sự mơ mộng, ngôi nhà bảo vệ kẻ mơ, cho ta được mộng mơ
trong cõi yên bình,” Bachelard viết.93 Song, còn hơn thế nữa, không
gian kiến trúc đóng khung, kiềm giữ, tăng cường và tập trung suy nghĩ
của chúng ta, ngăn không cho chúng khỏi lạc lối. Chúng ta có thể mơ
mộng và cảm nhận tồn tại của mình khi ở ngoài trời, nhưng để có thể
suy nghĩ sáng suốt hơn chúng ta cần đến hình học kiến trúc của căn
phòng. Hình học của tư tưởng đồng vọng với hình học của căn phòng.
75
Trong The Book of Tea (Trà Thư), Kakuzo Okakura mô tả tinh tế
chuỗi hình ảnh đa-giác quan của một buổi trà đạo Nhật Bản đơn giản:
Sự tĩnh mịch tuyệt đối bao trùm, không có bất kỳ âm thanh nào ngoài
tiếng nước sôi trong ấm thép. Chiếc ấm hát, những mảnh kim khí gắn
đầy dưới đáy vang lên một giai điệu lạ thường, vang vọng trong đó là
tiếng thác đổ rì rầm từ sơn lĩnh ngậm mây, bể lớn ngoài xa vỗ đá, mưa
rào rừng trúc, hay tiếng reo ca của rặng thông non xa.94
Trong lời văn của Okakura, hiện diện và vắng mặt, gần và xa, cảm
nhận và tưởng tượng hòa lẫn vào nhau. Cơ thể không chỉ là một thực
thể vật chất thông thường ; nó lấp đầy ký ức và mộng mơ, quá khứ và
tương lai. Thậm chí Edward S Casey còn cho rằng nếu không có ký ức
của cơ thể thì khả năng ghi nhớ của chúng ta ắt sẽ không thể nào tồn
tại.95 Thế giới phản chiếu trong cơ thể và cơ thể phóng chiếu ra ngoài
thế giới. Chúng ta nhớ bằng cơ thể cũng như bằng não và hệ thống
thần kinh.
Cảm giác không chỉ trung giới thông tin với phán đoán và suy lý ;
chúng còn là phương tiện thắp lên trí tưởng tượng và nối kết những
suy tư cảm quan. Mỗi hình thức nghệ thuật đều xây dựng tư tưởng
siêu hình học và sự hiện hữu bằng những phương tiện và sự gắn kết
76
cảm giác đặc thù. Theo quan điểm của Merleau-Ponty “Bất kể lý
thuyết hội họa nào cũng là một siêu hình học”,96 tuy nhiên lời phát
biểu này có thể mở rộng cho toàn bộ tác phẩm nghệ thuật ở thời điểm
hiện tại, vì bản thân tất cả bức họa đều dựa trên một giả định ngầm về
bản chất của thế giới. “[Paul] Valéry nói : “Họa sỹ mang cả cơ thể theo
mình”. Thế nên, làm sao có thể hình dung được tinh thần có thể vẽ”,
Tương tự, chẳng thể nào hình dung được một thứ kiến trúc thuần
động của nó trong không gian. Nghệ thuật kiến trúc cũng gắn liền với
câu hỏi siêu hình và hiện hữu về sự sống-ở-đời của con người. Việc
kiến tạo kiến trúc đòi hỏi tư duy sáng suốt, song đó là một thể điệu tư
duy nhập thể đặc thù, xảy đến thông qua giác quan và cơ thể, và thông
qua phương tiện đặc thù của kiến trúc. Kiến trúc phôi dựng và truyền
đi tư tưởng của cuộc gặp gỡ nhập thể giữa con người và thế giới thông
qua “những cảm xúc tạo hình”.98 Theo quan điểm của tôi, trách vụ của
kiến trúc là “làm hiện hình cách thức thế giới chạm vào ta”, như những
77
Ý Nghĩa của Bóng Tối
Con mắt là cơ quan của sự xa cách và tách biệt, trong khi xúc giác là
cảm giác gần gũi, thân mật và xúc chạm. Con mắt theo dõi, kiểm soát
và xét đoán, trong khi xúc giác tiếp cận và vuốt ve. Trong trải nghiệm
ngập tràn cảm xúc, ta có xu hướng đóng lại cảm quan thị giác có tính
xa cách; chúng ta nhắm mắt lại mỗi khi mơ mộng, khi nghe nhạc và
khi vuốt ve người yêu. Bóng tối sâu thẳm và u huyền lúc này là chủ
đạo, vì chúng dìm đi tính rạch ròi của thị giác, khiến chiều sâu và
khoảng cách trở nên mơ hồ, mời gọi ánh nhìn ngoại biên vô thức và
Vẻ hiu hắt của con phố cũ lại bí ẩn và mời gọi hơn biết bao nhiêu
những con đường sáng trưng ngày hôm nay ! Ánh sáng mờ dịu và bóng
tối kích thích trí tưởng tượng và mộng mơ. Để suy nghĩ thấu đáo hơn,
sự sắc bén của thị giác phải mờ đi vì suy tư chỉ du hành cùng ánh nhìn
mông lung, vô tư lự. Ánh sáng rực rỡ đồng đều làm tê liệt trí tưởng
tượng theo đúng cách mà sự thuần chất của không gian làm suy yếu
trải nghiệm tồn tại, xóa bỏ cảm thức nơi chốn. Mắt người ta thích ứng
nhất vào buổi chạng vạng hơn là trong ánh sáng rực rỡ ban ngày.
Những buổi sương giăng hay lúc chạng vạng đánh thức trí tưởng
tượng bằng hình ảnh thị giác nhạt nhòa và mơ hồ; ánh nhìn phiêu diêu
78
trước một bức thủy mặc mờ sương, hay khu vườn cát mấp mô trong
Thiền Viên của Long An Tự (Ryoan-ji), nhiếp dẫn người xem đến với
trạng thái xuất thần nhập định. Ánh nhìn vô tư lự xuyên qua bề mặt
Jun’ichiro Tanizaki chỉ ra rằng ngay cả ẩm thực Nhật Bản cũng phụ
thuộc vào bóng tối và gắn bó chặt chẽ với cõi u huyền: “Và khi món Y
kan được dùng trong đĩa sơn mài, cõi u huyền của căn phòng như tan
chảy trên đầu lưỡi.”100 Nhà văn gợi nhắc rằng, trong quá khứ, hàm răng
đen, đôi môi xanh thẫm và gương mặt trang điểm phấn trắng của kỹ
nữ đều nhắm đến bóng tối và cõi u huyền của căn phòng.
Tương tự như vậy, cảm xúc mạnh mẽ lạ thường của sự tập trung
sinh ra từ bóng tối thăm thẳm bao trùm lấy nhân vật chính, tựa như
một món đồ quý giá nằm trên nền vải nhung đen tuyền thu trọn ánh
sáng xung quanh. Bóng tối tạo nên hình hài và thổi hồn cho những
vật thể đặt dưới ánh sáng. Huyễn tưởng và mộng mơ cũng đón nhận
kĩ năng của những bậc thầy kiến trúc. Trong những không gian kiến
79
trúc vĩ đại, ta có thể nghe ra nhịp thở đều đặn, sâu thẳm của ánh sáng
và bóng tối: bóng tối hít vào, những mảnh dát vàng thở ra ánh sáng.
Ở thời đại của chúng ta, ánh sáng đã biến thành vấn đề định lượng
đơn thuần và cửa sổ đã đánh mất ý nghĩa của nó xét như trung gian
giữa hai thế giới, giữa đóng và mở, nội giới và ngoại giới, riêng tư và
công cộng, bóng tối và ánh sáng. Không còn ý nghĩa hữu thể học, cửa
sổ đơn thuần là khoảng trống trên một bức tường. Luis Barragán, vị
phù thủy thật sự của những cõi ẩn mật riêng tư và của bóng tối trong
Hãy nhìn […] việc sử dụng những cửa sổ kính lớn mà xem […] còn đâu
tính riêng tư, hiệu ứng bóng đổ và không khí của công trình. Kiến trúc
sư trên khắp thế giới đã nhầm lẫn tỷ lệ khi thiết kế những khung cửa
kính quá cỡ và khoảng mở ra ngoài […] Chúng ta đánh mất cảm thức về
đời sống ẩn mật, bị ép buộc rời xa tổ ấm để phải sống đời công cộng.101
Tương tự như vậy, phần lớn không gian công cộng đương đại ắt
sẽ trở nên thú vị hơn nếu người ta giảm bớt và phân bổ cường độ ánh
sáng bớt đều hơn. Những buồng tối trong phòng nghị sự ở Tòa Thị
Chính Säynätsalo của Alvar Aalto tái tạo một cảm thức thần thoại
80
81
KIẾN TRÚC THÍNH GIÁC VÀ KIẾN TRÚC KHƯỚU GIÁC
13. Trong những thị trấn cổ, trải nghiệm âm thanh củng cố và
Pháp, đầu tiên được xây dựng tại Florielle vào năm 1136, sau đó
14. Trong những trải nghiệm nơi chốn phong phú và sống động,
tất cả mọi giác quan đều tương tác và hòa lẫn vào trong một hình
huyền nhiệm của cộng đoàn; bóng tối tạo ra sự gắn kết và củng cố uy
Khi ở trong trạng thái xúc động, những cảm giác dường như dịch
chuyển từ giác quan có tính chọn lọc về với những giác quan sơ khai
hơn, từ thị giác đi về thính giác, rồi đến xúc giác và khứu giác, từ ánh
sáng về bóng tối. Một nền văn hóa mong muốn kiểm soát người dân
82
sẽ khuyến khích chiều hướng tương tác ngược lại, tức việc từ từ rời
công cộng xa cách. Một xã hội kiểm soát (society of surveillance) tất
yếu phải là một xã hội của con mắt hiếu kì và khổ dâm. Một phương
pháp tra tấn tinh thần hiệu quả chính là liên tục chiếu sáng cao độ
khiến cho sự thoái ẩn tinh thần và tính riêng tư không còn chỗ dung
thân; ngay cả nội giới ẩn mật của bản ngã cũng bị phô bày và xâm hại.
Cái nhìn cô lập, âm thanh hợp nhất; thị giác thì định hướng trong khi
âm thanh toàn hướng (omni-directional). Thị giác bao hàm tính ngoại
giới, mà âm thanh tạo ra trải nghiệm về nội tâm. Ta xem xét một đối
tượng, còn âm thanh tiến gần ta; con mắt vươn ra; đôi tai nhận lại.
Công trình không phản hồi ánh nhìn, nhưng vọng lại âm vang về phía
ta. Walter Ong viết “vận động hướng tâm của âm thanh tác động đến
cảm nhận về vũ trụ của con người. Với những nền văn hóa truyền
khẩu, vũ trụ là sự kiện đang triển hành xung quanh trung tâm của nó,
tức con người. Con người là umbilicus mundi, cái rốn vũ trụ.”102 Điều
đáng suy ngẫm là sự đánh mất cảm thức trung tâm trong thế giới
đương đại có thể, hay chí ít cũng một phần nào đó, liên quan đến sự
83
Việc lắng nghe cấu trúc, khớp nối trải nghiệm và nhận thức không
gian. Thông thường, chúng ta ít khi nhận ra ý nghĩa của việc nghe
trong trải nghiệm không gian, mặc dù dòng chảy liên tục của thời gian
gắn kết những ấn tượng thị giác lại thường do âm thanh mang lại. Ví
dụ khi âm thanh bị tách rời khỏi một bộ phim, thì các phân cảnh sẽ
mất đi tính hình khối, cảm giác về sự liên tục và sức sống. Thế nên,
lối diễn xuất khoa trương trong những bộ phim câm là để bù đắp cho
Adrian Stokes, họa sỹ và nhà tiểu luận người Anh, nhận xét về
những quan sát tri giác của tương tác giữa không gian và âm thanh,
giữa âm thanh và đá. Ông viết “Giống như một người mẹ, công trình
luôn biết lắng nghe. Những thanh âm ngân vang, rõ ràng hay nhộn
nhạo làm dịu đi những ô cửa cung điện, xuôi về phía dòng kênh và
thềm đá trên phố. Thanh âm ngân vang cùng tiếng vọng của nó mang
Bất kỳ ai đã từng mơ màng tỉnh giấc bởi tiếng ồn ào của đoàn tàu
hay xe cứu thương trong đêm đô thị, và trong giấc ngủ ấy cảm nhận
tầng tầng lớp lớp dân cư rải rác trong mạng lưới không gian nội đô,
đều hiểu được quyền năng của âm thanh lên trí tưởng tượng; những
tiếng động trong đêm nhắc nhớ con người về thân phận cô đơn và khả
84
tử, và khiến ta ý thức về toàn bộ thành phố đang chìm trong giấc ngủ.
Ai đã từng cảm thấy bị thu hút bởi tiếng nước nhỏ tí tách trong bóng
âm phế tích có thể công nhận khả năng dị thường của đôi tai để tạc
một khối hình vào trong hư vô tăm tối. Không gian được đôi tai lần
dấu trong bóng tối trở thành khoảng lõm khắc trực tiếp vào nội tâm
Chương cuối trong quyển sách trứ danh của Steen Eiler
đề nhiều ý nghĩa “Lắng Nghe Kiến trúc”.104 Tác giả mô tả những cung
bậc khác nhau về phẩm tính âm thanh, và hồi tưởng lại những cảm
nhận thanh vang nơi đường hầm dưới thành Vienna trong bộ phim
The Third Man của Orson Welles: “Tai bạn cảm thấy sự tác động từ
Người ta cũng có thể nhớ về âm thanh thô ráp của một ngôi nhà
trống bỏ hoang so với sự niềm nở của một ngôi nhà có người sống, nơi
công trình hay mỗi không gian đều có âm sắc đặc trưng cho sự thân
mật hay trang nghiêm, mời gọi hay xua đuổi, niềm nở hay lãnh đạm.
Ta nhận thức và đánh giá không gian qua âm vang cũng nhiều như
85
qua hình dáng thị giác của nó, tuy nhiên tri giác âm thanh hầu như
Nhìn là giác quan của người quan sát cô độc, trong khi nghe tạo
ra cảm giác kết nối và hòa nhập; cái nhìn là kẽ lữ hành đơn lẻ trong
bóng tối sâu thẳm của đại thánh đường; nhưng khi cây đại phong cầm
cất tiếng thì ngay lập tức ta thấy mình hòa một với không gian. Từng
cá nhân hồi hộp dõi theo một màn xiếc, nhưng tiếng vỗ tay bật lên sau
khoảng khắc nín thở hòa ta vào đám đông. Tiếng chuông nhà thờ vang
khắp phố thị mang cho ta ý thức về quyền công dân. Tiếng bước chân
trên những con đường lát đá luôn chất đầy cảm xúc vì âm thanh rung
động từ những bức tường xung quanh kết nối trực tiếp chúng ta với
không gian; âm thanh là thước đo của không gian và làm cho tỷ lệ của
nó trở nên hiểu được. Tiếng chim nháo nhác đánh thức ý thức về sự
Mỗi thành phố có một âm vang riêng, phụ thuộc vào mẫu hình
và tỷ lệ của đường phố, vật liệu và phong cách kiến trúc phổ biến ở đó.
Âm vang của thành phố Phục Hưng khác với những gì ta nghe thấy
trong thành phố Baroque. Vậy mà những thành phố của chúng ta đều
đã đánh mất điều này. Âm thanh mất hút trên những đại lộ đương thời
rộng thênh thang và bên trong những tòa nhà hiện đại, âm vang đã bị
86
hấp thu và chắt lọc. Âm nhạc phát theo chương trình trong các trung
tâm thương mại hay không gian công cộng xóa bỏ khả năng nắm bắt
khối tích âm thanh của không gian. Đôi tai của ta đã bị mù.
Trải nghiệm thính âm chủ đạo mà kiến trúc tạo ra là sự tĩnh lặng. Kiến
trúc thể hiện sự thăng trầm của việc xây dựng đã bặt im thành vật chất,
không gian và ánh sáng. Trên hết, kiến trúc là nghệ thuật của sự yên
lặng hóa đá. Khi những ồn ào nơi công trường chấm dứt, tiếng huyên
náo của công nhân cũng không còn, công trình trở thành bảo tàng
tĩnh lặng đợi chờ nhẫn nại. Trong đền thờ Ai Cập ta bắt gặp cái tịch
mịch bao trùm các vị pharaoh, sự im lìm trong đại thánh đường Gothic
gợi về những nốt nhạc day dứt của thánh ca Gregorian, sau những bức
tường điện Pantheon vang ngân nhịp bước thị dân La Mã. Những nếp
nhà xưa đưa ta trở về quá khứ chậm trôi và yên ả. Sự im lặng của kiến
trúc là cõi im lặng ứng đáp, gợi nhớ; nó tập trung sự chú ý của ta vào
chính hiện hữu của mình, và như mọi nghệ thuật khác, nó khiến ta
Sự tăng tốc đáng kinh ngạc suốt thế kỷ trước đã khiến thời gian
đổ sập vào trong màn hình phẳng của cái hiện tại, và trên đó tính đồng
thời của thế giới được phóng chiếu. Khi thời gian mất đi sự tồn tục và
87
âm vọng từ quá khứ uyên nguyên của mình, con người mất đi cảm thức
về cái ngã xét như một tồn tại lịch sử, và bị đe dọa trước “nỗi khiếp sợ
của thời gian”.106 Kiến trúc giải phóng chúng ta khỏi sự trói buộc của
hiện tại và cho phép ta trải nghiệm dòng chảy êm đềm, hàn gắn của
thời gian. Công trình và thành phố là công cụ và bảo tàng của thời
gian. Chúng khiến ta thấy và hiểu được những chuyển dịch lịch sử, và
dự phần vào vòng luân chuyển của thời gian vượt khỏi đời sống cá
nhân.
Kiến trúc kết nối ta với người đã khuất; nhờ có công trình mà cảnh
náo nhiệt của đường phố trung cổ, vẻ trang nghiêm của đám rước lễ
tiến về nhà thờ có thể mường tượng. Thời gian của kiến trúc là một
loại thời gian cầm giữ; ở nơi công trình vĩ đại thời gian mãi ngừng lại.
Hàng hiên cột kỳ vĩ ở Karnak hóa đá thời gian trong một hiện tại bất
động vĩnh hằng. Thời gian và không gian bị trói chặt vĩnh viễn vào
nhau trong khoảng thinh không nằm giữa những trụ cột khổng lồ ấy;
vật chất, không gian và thời gian hòa vào nhau trong một trải nghiệm
Những tác phẩm tuyệt vời của chủ nghĩa hiện đại mãi mãi bảo tồn
thời tính không tưởng của chủ thuyết lạc quan và hy vọng; ngay cả khi
đã trải qua những thập kỷ khó khăn; chúng vẫn lan tỏa một không khí
88
89
KHÔNG GIAN ẤM ÁP THÂN MẬT
15. Cảm nhận của làn da trần là trải nghiệm nhuận sắc về tính
Pierre Bonnard, The Nude in the Bath (Chi tiết), 1937, Musée du
Petit-Palais, Paris.
tươi mới và hứa hẹn. Paimio Sanatorium của Alvar Aalto vẫn khiến ta
thổn thức bởi niềm tin sáng ngời vào một tương lai vị nhân loại và
nhiệm vụ xã hội vinh quang của kiến trúc. Villa Savoye của Le
Corbusier khiến ta tin tưởng vào sự hợp nhất giữa lý trí và cái đẹp, đạo
đức và mỹ học. Trải qua những thăng trầm xã hội và biến động văn
đứng đó như một chứng nhân im lặng cho cái ý chí và tinh thần không
Trải nghiệm tác phẩm nghệ thuật là cuộc đối thoại riêng tư giữa
tác phẩm và người xem, ở đó mọi tương tác khác đều bị loại trừ. “Nghệ
thuật là sự mise-en-scène (dàn cảnh) của ký ức”, “nghệ thuật được tạo
90
thành bởi kẻ đơn độc và cho kẻ đơn độc”, như Cyril Connolly đã viết
trong The Unquiet Grave.107 Đáng chú ý là những câu trên được Luis
Barragán gạch chân trong thi tập mà ông sở hữu.108 Cảm thức u hoài
nằm ẩn dưới tất cả những trải nghiệm rung động của nghệ thuật; đó
là nỗi tiếc nhớ thời tính vô hình của cái đẹp. Nghệ thuật phóng chiếu
một ý tưởng không bao giờ đạt được, ý tưởng về cái đẹp trong một
Chỉ cần 8 phân tử vật chất để kích thích xung năng ở đầu dây thần
kinh khứu giác, và con người có thể nhận biết hơn 10 000 mùi hương
khác nhau. Ký ức dai dẳng nhất của tất cả không gian thường là mùi
của chúng. Tôi không thể nào nhớ được vẻ ngoài của cánh cửa căn nhà
thôn quê của ông mình lúc còn nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ sức nặng của
sống động hẳn là mùi ngôi nhà, nó xâm chiếm tôi như một bức tường
vô hình đằng sau cánh cửa. Mỗi nơi ở đều có mùi tổ ấm riêng.
Một mùi hương đặc biệt đưa ta tái nhập vào không gian vô thức
sâu thẳm; mũi đánh thức những hình ảnh phôi pha và ta thả mình trôi
vào cõi mộng du giữa ban ngày. Mũi khiến mắt nhớ lại. “Ký ức vẫn
luôn gắn liền với trí tưởng tượng,” như Bachelard viết, “Một mình giữa
91
miền ký ức thuộc về thời đại khác, tôi có thể mở cái chạn bếp ẩn sâu,
ở đó vẫn giữ cho riêng tôi một mùi hương độc nhất, mùi nho khô còn
lại trên khay đan bằng cây gai. Ôi hương thơm của quả nho! Mùi ấy
không thể miêu tả, mà cần cả một trí tưởng tượng phong nhiêu.”109
Còn gì thích thú hơn khi phiêu diêu trong thế giới mùi hương nơi
những phố nhỏ ở một trấn cổ! Không khí ngọt ngào của cửa hàng kẹo
khiến ta nhớ lại sự ngây thơ hiếu kỳ của thuở thiếu thời; mùi đặc
quánh của hiệu giày gợi về ngựa, yên cương, dây buộc và những cuộc
đua gay cấn; mùi thơm phưng phức của hiệu bánh mì tỏa ra hình ảnh
cơ thể cường tráng; trong khi hương thơm từ hàng bánh ngọt gợi cho
người ta một cảm giác ấm no trưởng giả. Những thị trấn chài lưới luôn
khắc sâu trong ký ức vì sự hòa trộn vị đất và biển; mùi rong biển mặn
nồng khiến người ta cảm nhận được độ sâu và sức nặng của biển cả,
nó biến mọi hải cảng tầm thường thành ảnh tượng của thành Atlantis
Một niềm vui đặc biệt trong những chuyến lữ hành là khi bản
thân ta trở nên quen thuộc với đường địa lý và với cái tiểu thế giới của
mùi vị khác nhau. Mỗi thành phố có cho riêng mình một cung phổ về
mùi vị. Những quầy hàng trên đường phố là cuộc trình diễn hương vị
hấp dẫn: hải sản đẫm mùi rong biển, rau củ mang theo sự phì nhiêu
92
của đất, và trái cây, thứ tinh chất chắt chiu từ hương thơm ngọt ngào
của mặt trời và không khí ẩm ướt mùa hè. Những bảng thực đơn đặt
bên ngoài nhà hàng khiến ta mơ mộng về một bữa ăn tối đủ đầy; những
con chữ được đôi mắt dõi theo hóa thành hương vị chan chứa trong
miệng.
Tại sao những ngôi nhà hoang luôn có mùi trống rỗng như nhau:
phải chăng vẻ trống không mà đôi mắt nhìn thấy đã kích động một
thứ mùi như vậy? Helen Keller có khả năng nhận ra “một ngôi nhà
thôn quê cũ kỹ vì nó có những cung bậc mùi khác nhau, vương lại từ
sự luân phiên của các gia đình, của cây cỏ, hương thơm và vải vóc”.110
Trong tác phẩm The Notebooks of Malte Laurids Brigge (Ghi Chép
của Malte Laurids Brigge), từ những dấu vết in trên bức tường nhà hàng
xóm, Rainer Maria Rilke mô tả thật xúc động hình ảnh cuộc sống
trong quá khứ của một ngôi nhà gần như đã bị phá hủy hoàn toàn:
Vẫn còn lại đó ánh mặt trời giữa trưa, những cơn bệnh, hơi thở, vệt khói
theo tháng năm, và mồ hôi dưới tay đè nặng quần áo, hơi thở từ miệng,
mùi nhớp nháp nơi bàn chân. Vẫn còn đó mùi khai nước tiểu, vệt cháy
xém của bồ hóng, mùi mốc meo của những củ khoai tây, mùi nhầy nhụa
từ váng mỡ lâu ngày. Mùi ngọt ngào vương vấn của con nhỏ cũng ở đấy,
93
cả nỗi sợ ngày đầu đến lớp, cả mùi hâm hấp quanh giường của cậu trai
mới lớn.111
Hình ảnh võng mạc của kiến trúc đương đại có vẻ nghèo nàn,
trống rỗng khi so sánh với sức mạnh gắn kết đầy cảm xúc trong hình
tượng khứu giác của nhà thơ. Thi sỹ phóng thích hương vị ẩn tàng của
ngôn ngữ. Một nhà văn lớn có thể xây cả một thành phố với toàn bộ
sắc thái cuộc sống bằng ngôn ngữ của mình. Tuy nhiên những tác
phẩm kiến trúc quan trọng cũng phóng chiếu hình ảnh trọn vẹn của
cuộc sống. Quả thế, một kiến trúc sư vĩ đại giải phóng hình ảnh về đời
sống lý tưởng ẩn tàng trong không gian và hình thức. Phác thảo của
Le Corbusier cho khu vườn treo trên một tòa chung cư, với người vợ
đang giũ drap trên ban công, bên dưới là người chồng đang đấm bốc,
cũng như con cá và chiếc quạt điện trên bàn bếp của Villa Stein–de
Monzie là những ví dụ hiếm hoi của cảm thức đời sống trong hình ảnh
kiến trúc hiện đại. Mặt khác, những bức ảnh chụp Ngôi Nhà Melnikov
cho thấy một khoảng cách mạnh mẽ giữa hình học thuần lý của công
trình biểu tượng và thực tại bình dân truyền thống của đời sống.
Trong tiểu luận về Auguste Rodin, Maria Rilke viết “Bàn tay là một cơ
quan phức tạp, một vùng châu thổ hợp lưu những nguồn cội xa xôi
94
thành một dòng chảy lớn của hành động. Bàn tay nói nhiều chuyện;
thậm chí có văn hóa và vẻ đẹp riêng. Ta ban cho chúng đặc quyền có
được sự phát triển, ước mong, cảm xúc, tâm trạng và ưu tư riêng”.112
Bàn tay là con mắt của nhà điêu khắc; và đồng thời là cơ quan suy tư,
như nhận định của Heidegger: “Bản chất của bàn tay luôn luôn bất
định và không thể tường giải nếu chỉ xem nó là một cơ quan cầm nắm
[…] Mọi chuyển động của bàn tay trong từng công việc của nó đều tự
mang theo mình qua một thành tố suy tư, mọi sự mang cầm của bàn
Làn da đọc thấy chất liệu, trọng lượng, mật độ và nhiệt độ của vật
chất. Bề mặt của một món đồ cũ, được đánh bóng một cách hoàn hảo
nhờ vào dụng cụ của người thợ và bàn tay cần mẫn của người dùng,
luôn mời gọi bàn tay mân mê. Những chiếc tay nắm cửa sáng bóng vì
được biết bao người chạm vào luôn làm ta thích thú; vẻ bóng mờ sạch
sẽ của lớp phủ không tuổi trở thành hình ảnh của sự ân cần và mến
khách. Tay nắm cửa là cú bắt tay với công trình. Cảm quan xúc giác
kết nối chúng ta với thời gian và truyền thống: ấn tượng cầm nắm
khiến ta thấy mình chạm lấy bàn tay của biết bao thế hệ con người.
Hòn sỏi được sóng biển mài giũa luôn khiến tay ta thích thú không
phải chỉ vì hình dạng trơn tru mà vì ta thấy trong ấy quá trình thành
95
96
Ý NGHĨA CỦA BÓNG VÀ VÙNG TỐI
17. Khuôn mặt chìm trong bóng tối tựa như một món đồ quý đặt
Paris.
18. Bóng và vùng tối trong ngôi nhà nông dân ở Phần Lan tạo nên
một cảm giác riêng tư và tĩnh lặng; ánh sáng biến thành một món
hình âm ỉ của nó; ta cảm nhận sự tồn lưu nơi hòn sỏi hoàn mỹ bên
Khi đặt chân đến không gian ngoại thất khoáng đạt của công
cảm thấy một sự thôi thúc không cưỡng lại được để chạy ngay đến bức
của nó. Làn da con người có thể lần dấu nhiệt độ không gian cực kỳ
97
chính xác; bóng râm mát mẻ và thoải mái dưới tán cây, sự vuốt ve ấm
áp của một giọt nắng, tất cả trở thành trải nghiệm không gian và nơi
chốn. Trong những hình ảnh từ thuở ấu thơ của mình ở miền quê Phần
Lan, tôi có thể nhớ rõ những bức tường đón nắng, những bức tường
làm gia tăng bức nhiệt và làm tan tuyết, khiến cho mùi đất mới xộc
lên mà báo hiệu mùa hè. Nếu đôi mắt có thể phát hiện mùa xuân đang
dần tới trong góc nhỏ, thì làn da và cánh mũi cũng như thế.
Ta ước lượng trọng lực nơi lòng chân mình, ở đó ta trắc đo mật
độ và chất liệu nền đất. Đứng chân trần trên một tảng đá đóng băng
trơn nhẵn trước biển hoàng hôn, cảm thấy hơi ấm của đá tảng được
mặt trời sưởi nắng thấm dần lên là một trải nghiệm trị liệu kỳ diệu,
khiến ta hòa mình vào chu kỳ bất tận của thiên nhiên. Ta cảm nhận
“Ngôi nhà có góc xó xỉnh để ta thoải mái thu mình lại. Thu mình
thuộc về môn hiện tượng học của động từ ở, và chỉ những người nào
đã học được việc ấy mới có thể ở một cách mạnh mẽ,” Bachelard viết.114
“Lúc nào cũng vậy, trong cõi mộng, ngôi nhà là một chiếc nôi lớn”.115
Giữa làn da trần và cảm thức tổ ấm có một tính đồng nhất mãnh
98
Không gian ấm cúng xung quanh lò sưởi là chốn tận cùng thân mật và
dễ chịu. Marcel Proust mô tả thi vị chỗ ấm áp bên lò sưởi như vậy qua
cảm nhận của làn da: “Nó tựa như một hốc tường vô hình, một hang
động ấm cúng khoét ngay giữa phòng, một vùng khí nóng với đường
biên trôi nổi.”116 Với tôi, cảm giác về đến nhà chưa bao giờ mạnh mẽ
hơn việc nhìn thấy ánh sáng từ cửa sổ căn nhà ấu thơ trong cảnh tuyết
cóng của tôi. Tổ ấm và khoái cảm của làn da nhập vào một xúc cảm
duy nhất.
Vị của Đá
Trong các trước tác của mình, Adrian Stokes đặc biệt nhạy cảm với
thế giới của những cảm nhận vị giác và đụng chạm: “khi dùng các từ
trơn nhẵn và thô ráp làm thuật ngữ chung cho tính nhị phân về kiến
trúc, tôi cảm thấy dễ lưu giữ cả hai ý niệm vị giác và xúc giác tiềm ẩn
nằm dưới thị giác hơn. Có một sự đói khát của đôi mắt, và chắc chắn
có cả sự thẩm thấu của thị giác, cũng như xúc giác trong cái xung lực
vị giác bao gồm tất cả.”117 Stokes cũng viết về “sự mời gọi vị giác của
phiến thạch Verona”,118 và ông trích dẫn lá thư của John Ruskin: “Tôi
99
Có một sự hoán chuyển tinh tế giữa trải nghiệm xúc giác và vị giác.
Thị giác cũng chuyển dịch sang vị giác; một số màu sắc hay chi tiết
tinh xảo có thể gây cảm giác thèm ăn. Bề mặt đá bóng loáng nhiều
màu sắc có thể tạo ra một kích thích tinh tế ở lưỡi. Trải nghiệm cảm
giác về thế giới có thể bắt đầu từ cảm giác trong miệng, và thế giới có
xu hướng quay lại nguồn gốc môi miệng của nó. Nguồn gốc sơ khai
Nhiều năm trước, khi đến thăm Ngôi Nhà DL James ở Carmel,
quỳ xuống và chạm lưỡi mình vào bậc cửa làm từ đá cẩm thạch trắng
bóng loáng đầy tinh tế. Những vật liệu giàu cảm xúc cùng với các chi
tiết tinh xảo trong kiến trúc của Carlo Scarpa cũng như màu sắc gợi
cảm của những ngôi nhà do Luis Barragán thiết kế thường xuyên khơi
gợi những trải nghiệm vị giác. Những bề mặt stucco lustro nhiều màu
sắc hấp dẫn, sắc độ hay bề mặt gỗ được mài bóng hoàn hảo luôn mời
Jun’ichiro Tanizaki mô tả rất đặc sắc phẩm chất không gian của
vị giác và những tương tác tinh tế giữa các giác quan trong hành động
100
Có một vẻ đẹp trong lớp sơn mài khi ta nhấc nắp và nâng chiếc bát gần
miệng, chú mục vào một thứ nước tĩnh mịch, bất động dưới đáy, sắc
màu ấy hòa chung với bóng tối sâu thẳm của sơn mài dưới tầng sâu. Ta
không biết rõ thứ gì đang ở trong vùng u huyền ấy, nhưng lòng tay ta
cảm nhận chuyển động êm ả của nước, và làn hơi bốc lên thành giọt
quanh thành chén, cùng lúc ấy mùi thơm lan tỏa những tưởng tượng ẩm
thực. […] Một khoảnh khắc huyền nhiệm, hay thậm chí, một khoảnh
Một không gian kiến trúc tinh tế có thể mở ra và thể hiện với cùng
sự viên mãn trải nghiệm như trong bát canh của Tanizaki. Trải
nghiệm kiến trúc đưa thế giới chạm vào vùng thân mật của cơ thể.
xây nhà. Trong những nền văn hóa truyền thống, kỹ năng cơ bản để
tạo ra không gian sống dựa trên minh triết của cơ thể được tích tụ
trong ký ức xúc giác. Kiến thức và kỹ năng cơ bản của thợ săn, ngư
dân và nông dân cũng như thợ nề, thợ đá trong quá khứ chính là sự
mô phỏng những truyền thống nhập thể từ kĩ nghệ, được lưu giữ trong
xúc giác và cảm quan cơ gân. Người ta học hỏi kỹ năng thông qua việc
101
lĩnh hội một chuỗi động tác được truyền thống tinh luyện, chứ không
Cơ thể nhận biết và ghi nhớ. Ý nghĩa kiến trúc phái sinh từ những
phản ứng và phản xạ sơ khai được ghi nhớ trong cơ thể và giác quan.
Kiến trúc phải trả lời những nét hành vi sơ khai được lưu giữ và di
truyền qua mã hệ gen. Kiến trúc không chỉ giải đáp những nhu cầu
chức năng, tri thức và xã hội của cư dân thành thị ngày hôm nay; nó
còn phải gìn giữ những ưu tư của người thợ săn và người nông dân
nguyên thủy vốn được chôn vùi trong cơ thể. Cảm giác tiện nghi, an
toàn và tổ ấm bắt nguồn trong những trải nghiệm sơ thủy của biết bao
thế hệ. Bachelard gọi đó là “những hình ảnh làm phát lộ bản tính
nguyên thủy trong ta”, hay “những hình ảnh uyên nguyên”.121 Ông viết
Ngôi nhà nơi ta sinh ra khắc vào lòng ta một trật tự các chức năng khác
nhau của việc ở. Ta chính là sơ đồ chức năng của việc cư lưu trong căn
nhà, và những căn nhà khác không gì hơn là những biến tấu từ một chủ
đề chính. Từ “ở” được dùng đến mức chai sạn để diễn đạt mối quan hệ
nhiệt thành của cơ thể, không bao giờ biết quên với ngôi nhà không thể
nào quên.122
102
Kiến trúc hiện đại đã có được ý thức riêng biệt của mình khi nó
công nhận khuynh hướng thiết kế chuyên về thị giác. “Có vẻ như
những kiến trúc sư tiên-phong đã dành sự quan tâm cho kiến trúc
ngoại thất thay vì nội thất. Cứ như thể ngôi nhà được làm ra để thỏa
mãn con mắt chứ không phải vì một cuộc sống dễ chịu cho người ở.”123
những dòng viết của Eileen Gray, vốn là người có hướng tiếp cận thiết
kế được phát triển từ việc nghiên cứu tỉ mỉ những trạng huống của đời
sống thường nhật hơn là từ các giáo điều bố cục thị giác.
Tuy nhiên kiến trúc sẽ không thể trở thành công cụ của chức
năng, tiện nghi và khoái cảm tầm thường mà không mất đi nhiệm vụ
trung giới hiện sinh của nó. Một cảm giác về khoảng cách, sự kháng
cự và sức căng cần được duy trì trong mối quan hệ với chương trình,
chức năng và tiện nghi. Một tạo phẩm kiến trúc không được trở nên
trong suốt trong những động cơ duy lý và vị lợi của mình; nó phải lưu
giữ những bí nhiệm không thể giải đáp để kích thích cảm xúc và trí
Tadao Ando từng bộc lộ khao khát đạt được sức căng hay sự đối
nghịch giữa công năng và sự vô dụng trong tác phẩm của mình: “Tôi
tin vào việc giải thoát kiến trúc khỏi công năng sau khi đã đảm bảo
việc xem xét những vấn đề thiết yếu. Nói cách khác, tôi muốn xem
103
104
THỊ GIÁC VÀ XÚC GIÁC
Tượng đồng từ thế kỷ mười lăm, Mông Cổ, Thư Viện Công Cộng
Quốc Gia, Ulan Bator, Mông Cổ. Nữ Bồ Tát Quán Thế Âm Tara
có thêm năm con mắt ở trán, lòng bàn tay và lòng bàn chân, đây
20. Tay nắm cửa là cú bắt tay của công trình, có thể niềm nở và
Alvar Aalto, The Iron House, Helsinki, 1954: tay nắm cửa.
kiến trúc đã theo đuổi chức năng đến đâu, và sau khi điều này hoàn
tất, tôi lại muốn xem kiến trúc có thể thoát khỏi chức năng đến độ
nào. Ý nghĩa của kiến trúc được tìm thấy trong khoảng cách giữa nó
và công năng.”124
Những bậc đá rải rác giữa thảm cỏ trong một khu vườn là hình ảnh và
dấu vết của bước chân, khi mở cửa, khối lượng cơ thể gặp gỡ sức nặng
của cánh cửa; đôi chân ước lượng mỗi bước đi khi ta leo cầu thang,
105
lòng bàn tay vuốt ve tay vịn cầu thang và toàn bộ cơ thể nghiêng mình
Có một sự gợi mở nội tại về hành động trong hình ảnh của kiến
trúc, khoảnh khắc của cuộc gặp gỡ chủ động, hay của một “lời hứa hẹn
chức năng”125 và mục đích. “Những đồ vật bao quanh cơ thể tôi phản
chiếu những hành động khả dĩ của cơ thể lên chúng,” Henri Bergson
viết.126 Chính khả thể hành động này đã tách kiến trúc ra khỏi những
loại hình nghệ thuật khác. Xét như kết quả của một hành động tiềm
tàng, phản ứng cơ thể là khía cạnh không thể tách rời khỏi trải nghiệm
kiến trúc. Một kiến trúc có ý nghĩa không đơn thuần là chuỗi hình
“thành tố” kiến trúc không phải là đơn vị thị giác hay Gestalt; chúng
là sự gặp gỡ, đối mặt, và tương tác với ký ức. “Trong ký ức này, quá
khứ được nhập thể thành hành động. Thay vì cất trữ đâu đó trong tâm
trí hay bộ não, ký ức là một chất liệu hoạt năng của bản thân chuyển
động cơ thể, nó hoàn tất một hành động cụ thể nào đó” Edward Casey
Trải nghiệm về tổ ấm được cấu thành bởi những hoạt động phân
biệt : nấu nướng, ăn uống, tụ họp, đọc, cất trữ, ngủ, hành vi thân mật,
chứ không phải là những thành tố thị giác. Công trình được gặp gỡ;
106
được tiếp cận, đối diện, gắn liền với cơ thể ta, nó được đi xuyên qua và
dùng như điều kiện cho những việc khác. Kiến trúc khơi mở, dẫn dắt,
tổ chức hành vi và vận động. Bản thân công trình không phải là một
điểm kết; nó đóng khung, xâu chuỗi, cấu tạo, mang lại ý nghĩa, gắn
kết, chia tách và hợp nhất, tạo điều kiện và cấm đoán. Kết quả là những
trải nghiệm kiến trúc cơ sở mang hình thái động từ hơn là danh từ.
Lấy ví dụ, trải nghiệm kiến trúc chân thật nằm ở việc tiếp cận hay đối
diện với công trình hơn là sự lĩnh hội hình thức từ mặt tiền; nó cốt ở
hành động bước vào chứ không đơn thuần là thiết kế thị giác của cánh
cửa; cốt ở việc nhìn vào hay nhìn ra từ cửa sổ hơn là bản thân cái cửa
sổ xét như một vật thể; hay ở việc dọn ra một chốn ấm cúng hơn là
thiết kế thị giác của lò sưởi. Không gian kiến trúc là không gian sống
trải hơn là không gian vật lý, và không gian sống trải luôn luôn siêu
Angelico trong khảo luận lôi cuốn “From the Doorstep to the Common
Room” (Từ Bậc Cửa đến Phòng Chung) (1926), Alvar Aalto đã nhận ra bản
chất-động từ của trải nghiệm kiến trúc khi nói về hành động bước vào
phòng chứ không phải về thiết kế của cổng vòm hay cánh cửa.128
107
Lý thuyết và phê bình kiến trúc hiện đại có một xu hướng mạnh
mẽ xem không gian như đối tượng phi vật chất được giới hạn bởi các
bề mặt vật thể, thay vì nhận thức nó theo sự tương tác và tương quan
động lực. Trong khi đó, tư tưởng Nhật Bản lại đặt cơ sở trên sự thông
hiểu có tính quan hệ về khái niệm không gian. Nhận ra bản chất-động
từ của trải nghiệm kiến trúc, Giáo Sư Fred Thompson đã sử dụng khái
niệm “tạo không gian” (spacing) và “tạo thời gian” (timing) thay cho
không gian và thời gian trong tiểu luận bàn về ý niệm Gian - 間 , và sự
hợp nhất không thời gian trong tư tưởng Nhật Bản.129 Qua gerund, hay
động danh từ, ông đã khéo léo mô tả những đơn vị của trải nghiệm
kiến trúc.
Tính chân thật của trải nghiệm kiến trúc dựa trên ngôn ngữ kiến tạo
của công trình và tính khả tri của hành vi xây dựng đối với các giác
quan. Chúng ta nhìn ngắm, đụng chạm, lắng nghe và đo đạc thế giới
bằng toàn bộ hiện hữu nhập thể của mình, và thế giới sống trải được
tổ chức và khớp nối xung quanh một tâm điểm là cơ thể. Nơi ta ở là
chốn trú thân, ký ức và căn tính của ta. Chúng ta liên tục tương tác và
đối thoại với môi trường, đến mức mà không thể nào tách bạch hình
ảnh tự ngã ra khỏi tồn tại không gian và trạng huống của nó. “Tôi là
108
cơ thể tôi,” Gabriel Marcel tuyên bố,130 song “ Tôi là không gian nơi
Bằng ngôn ngữ của tri giác, Henry Moore mô tả sự cần thiết của
Đây là những gì mà một điêu khắc gia phải làm. Anh ta phải liên tục
đấu tranh để suy nghĩ, sử dụng, định hình trong sự toàn vẹn tràn đầy
không gian của nó. Anh ta có một khối đặc, như nó vẫn thế, và trong
đầu anh ấy - bất kể kích cỡ bao nhiêu, anh ta nghĩ về khối đặc như thể
anh đang nắm trọn trong tay. Anh ta hình dung trong đầu một hình thể
phức tạp từ các phía bao quanh; khi nhìn từ phía này anh ta biết được
phía kia sẽ ra sao; anh đồng nhất bản thân mình với trung tâm trọng
lực, với chất liệu và sức nặng của nó; anh nhận thức khối tích và không
Mọi cuộc gặp gỡ với tác phẩm nghệ thuật đều hàm chứa những
tương tác thân thể. Họa sỹ Graham Sutherland diễn đạt quan niệm
này về tác phẩm của nghệ sỹ: “Theo một nghĩa nào đó, người họa sỹ
phong cảnh hầu như phải ngắm nhìn phong cảnh như thể đó là bản
thân của anh ta – bản thân xét như một tồn tại người.”133 Dưới góc
nhìn của Cézanne, “phong cảnh tự suy tư trong tôi, và tôi chính là
109
110
TẦM NHÌN NGOẠI BIÊN VÀ CẢM THỨC NỘI GIỚI
21. Khu rừng ôm ấp chúng ta thông qua những trải nghiệm đa giác
Rừng thông Phần Lan nằm bên cạnh Villa Mairea của Alvar Aalto,
Noormarkku.
22. Sự hoành tráng và kỹ thuật hội họa của những họa sỹ Biểu Hiện
Jackson Pollock, One: Number 31, 1950 (chi tiết), 1950, Museum of
nhận thức của nó”.134 Tác phẩm nghệ thuật vận hành như một tha
nhân, như kẻ đối thoại với ta trong vô thức. Khi đối diện tác phẩm
nghệ thuật, ta phóng chiếu cảm xúc và tâm trạng lên tác phẩm đó. Một
sự trao đổi kì lạ xảy ra, ta trao cho tác phẩm cảm xúc, tác phẩm trả lại
quyền năng và anh hoa của nó. Trong một khoảnh khắc, ta bắt gặp
chính mình trong tác phẩm. Khái niệm “sự đồng nhất phóng chiếu”
111
của Melanie Klein gợi mở rằng thật ra mọi tương tác của con người
đều tiềm ẩn sự phóng chiếu những phân mảnh của cái ngã lên cái
khác.135
Một nhạc công vĩ đại không trình diễn nhạc cụ, anh ta trình diễn
chính con người mình, và thay vì đơn thuần đá quả bóng, một cầu thủ
tài hoa chơi với toàn bộ con người anh ấy, với những cầu thủ khác và
với sân cầu được nội hóa và nhập thể. “Cầu thủ biết được khung thành
ở đâu theo cách sống trải hơn là nhận thức. Tinh thần không ở trong
sân cầu, mà sân cầu được cự ngụ bởi một cơ thể “đang biết””, Richard
Tương tự, trong suốt quá trình thiết kế, người kiến trúc sư nội hóa
từ từ phong cảnh, toàn bộ bối cảnh, và những yêu cầu chức năng cũng
như công trình đang được kiến tạo: cơ thể cảm nhận một cách vô thức
thế của khung xương và cơ quan bên trong. Khi tác phẩm tương tác
với cơ thể người quan sát, trải nghiệm phản chiếu những cảm nhận
thân thể của người kiến tạo. Như thế, kiến trúc trở thành sự thông
truyền trực tiếp từ cơ thể người kiến trúc sư đến cơ thể một người
khác, dù khi người này đối diện với tác phẩm vào bao thế kỷ sau.
112
Thấu hiểu tỷ lệ kiến trúc nghĩa là ước lượng một cách vô thức vật
thể hay công trình bằng cơ thể, và phóng chiếu giản đồ cơ thể lên
không gian đang xem xét. Ta cảm thấy thích thú và an lòng khi cơ thể
khám phá sự đồng vọng của nó trong không gian. Khi trải nghiệm một
cấu trúc, một cách vô thức ta mô phỏng cấu tạo hình thể của nó bằng
xương thịt mình: những dòng chảy sục sôi thích thú của một bài nhạc
ngầm chuyển thành cảm nhận thể xác, bố cục của một bức họa trừu
tượng được âm thầm trải nghiệm như sức căng cơ gân, và trong vô
thức, một cấu trúc công trình được mô phỏng và lĩnh hội thông qua
hệ xương khớp. Bằng cơ thể mình, chúng ta vô tình diễn lại vai trò của
cột trụ hay vòm cuốn. “Viên gạch muốn trở thành một vòm cuốn,” như
của cơ thể.137
Cảm thức trọng lực là bản chất của tất cả cấu trúc kiến trúc, và
một kiến trúc vĩ đại làm ta nhận thức được trọng lực và đất. Kiến trúc
tăng cường trải nghiệm về phương đứng của thế giới. Vừa khiến ta
nhận thức được độ sâu của đất, nó vừa đưa ta vào giấc mộng phù sinh
và bồng bềnh.
113
Không Gian của Ký Ức và Sự Tưởng Tượng
Chúng ta có năng lực bẩm sinh để ghi nhớ và tưởng tượng ra nơi chốn.
Tri giác, ký ức và trí tưởng tượng tương tác liên tục với nhau; lãnh địa
của hiện tại hòa với hình ảnh ký ức và huyễn tưởng. Chúng ta vẫn
không ngừng tự xây cho mình một đô thị khổng lồ từ sự gợi tưởng và
hồi ức, và mọi đô thành ta qua cũng chính là những phố quận của cái
Nếu không có năng lực thâm nhập vào những nơi chốn ký ức và
tưởng tượng, văn chương và điện ảnh ắt sẽ mất đi quyền lực phù thủy
của mình. Những không gian và nơi chốn cuốn hút trong tác phẩm
nghệ thuật là thực hữu theo nghĩa trọn vẹn của từ này. “Tintoretto
không chọn vết nứt vàng vọt trong bầu trời trên đầu Golotha để gán
nghĩa hay gợi ra sự thống khổ. Nó là nỗi thống khổ mà cũng là bầu
trời vàng. Không phải bầu trời của nỗi thống khổ hay bầu trời bị thống
khổ hóa; nó là nỗi thống khổ làm thành vật, nỗi thống khổ đã chuyển
thành vệt nứt vàng của bầu trời,” Sartre viết.138 Tương tự, kiến trúc của
Michelangelo không thể hiện biểu tượng u huyền, những công trình
ấy đang thật sự than khóc. Trong trải nghiệm nghệ thuật, một sự trao
đổi kỳ lạ xảy ra; tác phẩm phóng chiếu anh hoa của nó, còn ta phóng
chiếu cảm xúc và tri nhận của mình lên tác phẩm. Nỗi u uẩn trong
114
115
KIẾN TRÚC CẢM GIÁC TÔN VINH CUỘC SỐNG
23. Một kiến trúc tiết chế về mặt hình thức song lại phong phú
trải nghiệm cảm giác hiếm có kích thích đồng thời toàn bộ giác
quan.
Switzerland, 1990–6.
24. Một kiến trúc không chỉ gắn liền với con mắt mà còn cả cảm
thức vận động và xúc giác, công trình tạo ra một bầu không khí
kiến trúc của Michelangelo chủ yếu là cảm thức u uẩn của chính người
xem đã được quyền năng của tác phẩm khải lộ. Một cách bí ẩn, ta lại
ngữ của nhà văn, tiểu thuyết mang ta xuyên qua những thành phố xa
116
lạ. Căn phòng, quảng trường và đường phố của một tác giả vĩ đại trở
nên sống động như bất kỳ nơi nào chúng ta đã từng đến; những thành
phố vô hình của Italo Calvino mãi mãi làm giàu thêm môn địa lý học
đô thị thế giới. Thành phố San Francisco được khai mở trong sự phức
tạp của nó qua những thước phim Vertigo của Hitchcock ; theo chân
nhân vật chính, ta tiến vào những tòa nhà ám ảnh và thấy chúng qua
mắt của anh ta. Ma thuật của Dostoyevsky biến ta thành những công
dân thành St Petersburg giữa thế kỷ mười chín. Chúng ta ở trong căn
giữa đám đông hoảng loạn chứng kiến Mikolka cùng đám bạn say của
hắn đánh một con ngựa cho đến chết, giận dữ vì sự bất lực không thể
Dù dựng nên từ những mảnh rời rạc, thành phố của nhà làm phim
vẫn bao bọc ta với đầy đủ sự sống động của thành phố thật. Con đường
trong những bức họa vĩ đại vẫn tiếp tục lượn quanh các góc tranh và
vượt qua những đường khung để bước vào cõi vô hình với bao bộn bề
của đời sống. “[Họa sỹ] tạo ra [những ngôi nhà], có nghĩa là anh ta tạo
ra một ngôi nhà tưởng tượng trên mặt toan chứ không phải ký hiệu
của ngôi nhà. Và như vậy, một ngôi nhà xuất hiện như thế, sẽ bảo tồn
117
Có những thành phố vẫn chỉ là những hình ảnh thị giác xa xăm
tầm thường khi ta nhớ về, và có thành phố đầy sống động trong ký ức
của ta. Ký ức làm sống lại thành phố đam mê với tất cả âm thanh mùi
vị hay những thang độ sáng tối. Thậm chí tôi còn có thể lựa chọn nên
đi dạo bên phía nắng hay trong bóng râm trên con đường trong thành
phố ký ức của mình. Một phương pháp thật sự để đánh giá phẩm chất
một thành phố là thử tưởng tượng xem ta có thể yêu đương ở đó được
không.
Có thể phân biệt các loại kiến trúc khác nhau dựa trên thể điệu của
cảm quan được ưu tiên trong từng công trình. Song hành với kiến trúc
thị giác phổ biến, vẫn có một kiến trúc xúc giác của cơ gân và da thịt.
Có một kiến trúc vẫn công nhận những lãnh địa của việc nghe, ngửi
và nếm.
ưu ái cho thị giác, hoặc xét như trực diện, hay như đôi mắt chuyển
những tác phẩm hậu kỳ của Le Corbusier đã sát nhập những trải
nghiệm xúc giác mạnh mẽ bên trong sự hiện diện mãnh liệt của vật
liệu và trọng lực). Một mặt khác, kiến trúc theo phái Biểu Hiện, khởi
118
đầu với Erich Mendelsohn và Hans Scharoun, lại ưu tiên tính tạo hình
kiểu cơ gân và xúc giác, như là hệ quả từ việc chối bỏ uy quyền của
con mắt phối cảnh. Kiến trúc của Frank Lloyd Wright và Alvar Aalto
lại dựa trên sự thừa nhận trọn vẹn điều kiện về cơ thể con người và
những sự đa dạng các phản ứng có tính bản năng, tiềm ẩn trong vô
thức. Trong kiến trúc của ngày nay, tính đa dạng về trải nghiệm cảm
quan nổi bật ở các tác phẩm của Glenn Murcutt, Steven Holl và Peter
Zumthor.
Alvar Aalto chủ động quan tâm đến tất cả giác quan trong kiến
trúc của mình. Nhận định của ông về những chủ đích hướng đến cảm
giác trong việc thiết kế nội thất rõ ràng bộc lộ mối quan tâm này: “Một
món đồ nội thất có thể định hình phần nào thói quen thường nhật của
ta thì không nên tạo nên những ánh phản chiếu quá mức: tương tự, nó
cũng không nên tạo ra sự khó chịu về tiếng động, sự hấp thụ âm v.v..
Một món đồ có những đụng chạm riêng tư nhất với con người, như
một chiếc ghế, không nên làm từ vật liệu quá dẫn nhiệt.”140 Rõ ràng
Aaltor quan tâm đến sự tiếp xúc giữa đồ vật và cơ thể người sử dụng
Kiến trúc của Aalto phô bày một vẻ cơ gân và xúc cảm. Nó hợp
thể sự trái khớp, sự đối kháng của các bề mặt xiên, tính không đồng
119
đều và đa điệu để làm nổi bật những trải nghiệm thể xác, cơ gân và
xúc giác. Chất cảm bề mặt và chi tiết tinh xảo, được chế tạo thủ công,
mời gọi cảm giác đụng chạm và tạo ra một không khí thân mật và ấm
áp. Thay vì theo thuyết duy tâm phi cơ thể kiểu Descartes của kiến
trúc thị giác, kiến trúc của Aalto dựa trên thuyết duy thực về cảm giác.
Những công trình của ông không đặt trên một ý niệm chủ đạo duy
nhất, hay trên một Gestalt; mà đúng hơn, chúng là sự tập hợp cảm
quan. Thỉnh thoảng nhìn chúng rất lộn xộn và dang dở trên bản vẽ,
song chúng được tạo ra để cảm nhận trong cuộc gặp gỡ hiện thực về
không gian và vật lý, tức “trong nhục thể” của thế giới sống trải, không
Nhiệm vụ vĩnh hằng của kiến trúc là sáng tạo ra những ẩn dụ hiện
sinh được sống trải và nhập thế, chúng cụ thể hóa và cấu trúc tồn tại
trong thế giới của ta. Kiến trúc phản ánh, vật hóa những ý niệm và
hình ảnh về một đời sống lý tưởng và khiến chúng trở nên bất diệt.
Công trình và thị trấn cho phép chúng ta cấu trúc, thấu hiểu và ghi
nhớ dòng chảy vô hình hài của thực tại và rốt cuộc, khiến ta nhận ra
và nhớ lại mình là ai. Kiến trúc khiến ta tri nhận và hiểu được những
120
biện chứng của thường hằng và biến dịch, khiến bản thân ta được ở
trong thế giới, và xác lập ta trong dòng chảy văn hóa và thời gian.
Qua phương cách của mình để biểu tượng và cấu trúc hành động
và quyền lực, trật tự xã hội và văn hóa, sự tương tác và sự chia tách,
căn tính và ký ức, kiến trúc làm việc với những câu hỏi hiện sinh nền
tảng. Tất cả trải nghiệm đều bao hàm hành vi thu thập, ghi nhớ và so
sánh. Một ký ức được nhập thể có vai trò cốt yếu xét như là cơ sở cho
việc ghi nhớ một không gian hay một nơi chốn. Chúng ta chuyển dịch
tất cả những thành phố hay thị trấn từng ghé thăm, mọi nơi chốn mà
ta nhận ra, thành cái ký ức nhập thể của thân xác. Nơi ở của ta trở
thành một với căn tính chính mình; nó trở thành một phần của cơ thể
Trong những trải nghiệm kiến trúc đáng nhớ, không gian, vật
chất và thời gian hòa lẫn trong một chiều kích duy nhất, tức trong một
bản thể tồn tại nền tảng, thâm nhập vào nhận thức ta. Ta đồng nhất
chính mình với không gian này, nơi chốn này, khoảnh khắc này và
những chiều kích ấy trở thành nguyên liệu cho chính sự tồn tại của ta.
Kiến trúc là nghệ thuật hòa giải bản thân ta và thế giới, và sự trung
121
Vào năm 1954, ở tuổi 85, Frank Lloyd Wright đã xác lập vai trò
Thứ thiết yếu nhất với kiến trúc ngày hôm nay cũng chính là cùng một
thứ thiết yếu nhất với cuộc sống – Tính Toàn Vẹn. Cũng như đối với
con người, sự toàn vẹn là phẩm hạnh sâu thẳm nhất của công trình […]
nó có thể vun đắp rất nhiều cho bản tính đạo đức – tức tâm hồn của ta
– trong xã hội dân chủ này […] Đấu tranh cho sự toàn vẹn trong công
trình cũng là ủng hộ sự toàn vẹn hay liêm khiết không chỉ với cuộc sống
của những người đã làm ra công trình đó, mà từ góc nhìn xã hội thì một
Tuyên ngôn hùng hồn này về nhiệm vụ của kiến trúc thậm chí còn
cấp bách ở thời điểm hiện tại hơn là cách đây quá nửa thế kỷ lúc nó
được viết ra. Và quan điểm này kêu gọi một nhận thức đầy đủ về thân
122
CHỈ MỤC
A+U 7, 7, 12, 135
Althusser, Louis, 33
Angelico, Fra
Aquinas, St Thomas, 25
Aristotle, 25
123
Barthes, Roland, 33
Bataille, Georges, 33
Benjamin, Walter, 53
Berenson, Bernard, 74
Berkeley, George, 71
Bloomer, Kent C, 68
Booth, Gotthard, 55
Bosch, Hieronymus, 59
Caravaggio, 79
124
Certeau, Michel de, 40
Chủ Nghĩa Hiện Đại (Modernism), 34, 54, 62, 94, 108
Connolly, Cyril, 91
Debord, Guy, 33
Descartes, René, 32, 34, 49, 50, 59, 62, 63, 120
Febvre, Lucien, 42
Foucault, Michel, 35
125
Gian - 間, 108
Gibson, James J, 70
Giedion, Sigfried, 34
Gropius, Walter, 46
Heraclitus, 25
126
Hội Thảo Chuyên Đề Alvar Aalto lần thứ năm, 6
Questions of Perception
Phenomenology of Architecture, 7
Irigaray, Luce, 33
Jameson, Fredric, 51
Kearney, Richard, 67
Keller, Helen, 93
127
Lacan, Jacques, 33
Lập Thể, 59
Levinas, Emmanuel, 33
Lyotard, Jean-François, 33
Mandrou, Robert, 42
Matisse, Henri, 74
Merleau-Ponty, Maurice, 6, 8, 24, 33, 34, 67, 71, 73, 77, 112, 135
Michelangelo, 114
128
Mies van der Rohe, Ludwig, 49
Moholy-Nagy, László, 46
Moore, Charles W, 68
Nakamura, Toshio, 7
Okakura, Kakuzo, 76
Ong, Walter J, 41
Pantheon, Rome, 87
129
Phục Hưng, 26, 50, 59, 62, 86
Proust, Marcel, 99
Rodin, Auguste, 94
Rorty, Richard, 24
Ruskin, John, 99
Scheler, Max, 33
130
Sedlmayr, Hans, 58
Serra, Richard, 61
Sloterdijk, Peter, 25
Sontag, Susan, 52
Spitz, René, 70
Starobinski, Jean, 50
Steiner, Rudolph, 70
Tintoretto, 114
131
Tư Tưởng Hy Lạp, 25, 51
Valéry, Paul, 77
Wartofsky, Marx W, 45
Welles, Orson, 85
Wittgenstein, Ludwig, 17
132
NGUỒN ẢNH
PHẦN MỘT
1. Không rõ nguồn.
Florence.
9. © Ocean/Corbis.
PHẦN HAI
11. © Kunsthistorisches Museum với MVK và ÖtM, Vienna.
133
15. © 2011 White Images/Scala, Florence.
18. Bảo Tàng Kiến Trúc Phần Lan (Museum of Finnish architecture)
19. Thư Viện Quốc Gia Mông Cổ (State Public Library), Ulan Bator,
Mongolia.
20. Bảo Tàng Kiến Trúc Phần Lan (Ảnh chụp: Heikki Havas)
22. Bảo Tàng Nghệ Thuật Hiện Đại (The Museum of Modern Art),
134
GHI CHÚ
LỜI NÓI ĐẦU
1
Steven Holl, Juhani Pallasmaa and Alberto Pérez-Gómez, Questions
2003, tr 144.
2
Ashley Montagu, Touching: The Human Significance of the Skin,
135
4
Ludwig Wittgenstein, MS 112 46: 14.10.1931, trong GH von Wright
2002, tr 24e.
5
Chẳng hạn xem Arnold H Modell, Imagination and the Meaningful
1985, được trích dẫn trong Sören Thurell, The Shadow of A Thought:
136
The Janus Concept in Architecture, School of Architecture, The Royal
82.
6
Heraclitus, Di văn 101a, như được trích dẫn trong David Michael
tr 27.
8
Georgia Warnke, ‘Ocularcentrism and Social Criticism’, trong Levin
Michael Eldred, như được trích dẫn trong Jay (1994), tlđd, tr 21.
137
11
Được tham chiếu trong Steven Pack, ‘Discovering (Through) the
của Walter Kaufmann, Random House (New York, NY), 1968, ghi chú
461, tr 253.
20
Max Scheler, Vom Umsturz der Werte: Abhandlungen und Aufsätze,
được trích dẫn trong David Michael Levin, The Body’s Recollection of
138
Being, Routledge & Kegan Paul (London; Boston, MA; Melbourne;
Tradition, tái bản lần năm có chỉnh sửa và bổ sung, Harvard University
biên), Vision and Visuality, Bay Press (Seattle, WA), 1988, tr 10.
27
Merleau-Ponty mô tả khái niệm nhục thể trong bài luận ‘The
bản in lần thứ tư, 1992: ‘Thân thể tôi và thế giới được tạo ra từ cùng
một nhục thể […] Thân thể và thế giới cùng chia sẻ một nhục thể’ (tr
248); và, ‘Nhục thể (của thế giới hay của chính tôi) là […] một chất liệu
tự quy hồi và tự tương thích’ (tr 146). Khái niệm phái sinh từ nguyên
139
tắc biện chứng của Merleau-Ponty về sự đan quyện nội tại giữa thế
giới và bản ngã. Ông còn bàn về “hữu thể học nhục thể” như là kết
luận chung quyết của môn hiện tượng luận tri giác do ông khởi xướng.
Hữu thể học này hàm ý rằng ý nghĩa vừa ở bên trong vừa ở bên ngoài,
vừa chủ quan vừa khách quan, vừa có tính tinh thần vừa có tính vật
1964, tr XII.
29
Maurice Merleau-Ponty, ‘The Film and the New Psychology’, in tlđd,
tr 48.
30
Italo Calvino, Six Memos for the Next Millennium, Vintage Books
140
34
Như được trích dẫn trong tlđd, tr 293.
35
Edward T Hall, The Hidden Dimension, Doubleday (New York, NY),
1969.
36
Walter J Ong, Orality and Literacy: The Technologizing of the World,
1969, tr XII.
44
Leon Battista Alberti, được trích dẫn trong Levin (1993), tlđd, tr 64.
45
Như được trích dẫn trong Jay (1994), tlđd, tr 5.
46
Le Corbusier, Precisions, MIT Press (Cambridge, MA), 1991, tr 7.
47
Pierre-Alain Crosset, ‘Eyes Which See’, Casabella, 531–532 (1987), tr
115.
48
Le Corbusier (1991), tlđd, tr 231.
49
Tlđd, tr 227.
141
50
Le Corbusier, Towards a New Architecture, Architectural Press
15–25.
53
Như được trích dẫn trong Susan Sontag, On Photography, Penguin
Alvar Aalto and Göran Schildt (chủ biên), Alvar Aalto: Luonnoksia
Pallasmaa).
56
Như được trích dẫn trong Jay (1994), tlđd, tr 19.
57
Harvey, tlđd, tr 58.
58
Fredric Jameson, như được trích dẫn trong tlđd, tr 58.
59
Levin (1993), tlđd, tr 203.
60
Sontag, tlđd, tr 7.
61
Tlđd, tr 16.
62
Tlđd, tr 24.
142
63
Từ một cuộc nói chuyện với Giáo Sư Keijo Petäjä vào đầu những
(London), 1957.
65
Maurice Merleau-Ponty, ‘Cézanne’s Doubt’, trong Merleau-Ponty
biên), Vision and Visuality, Bay Press (Seattle, WA), 1988, tr 18.
67
Tlđd, tr 16.
68
Tlđd, tr 17.
69
David Michael Levin, The Opening of Vision: Nihilism and the
ở trong phần ốc tai của hệ thần kinh thính giác, hệ thần kinh thị giác
có khả năng truyền tải một số lượng thông tin khổng lồ đến não ở mức
độ vượt xa tất cả cơ quan thần kinh khác. Mỗi con mắt chứa 120 triệu
tế bào hình que có thể thu nạp thông tin của 500 thang độ sáng tối,
143
trong khi bảy triệu tế bào hình nón cho phép chúng ta phân biệt được
44.
78
Tlđd, tr 105.
79
Tlđd, tr 107.
80
Gaston Bachelard, The Poetics of Reverie, Beacon Press (Boston, MA),
1971, tr 6.
81
Dựa vào những thử nghiệm trên động vật, các nhà khoa học đã nhận
diện được 17 cách thức khác nhau mà sinh vật có thể phản ứng với
nhân học và tâm lý học tinh thần đã phân ra mười hai cảm giác: xúc
giác; cảm giác sống; cảm giác tự-vận động; cảm giác thăng bằng;
144
khướu giác; vị giác; thị giác; cảm giác nhiệt độ; thính giác; cảm giác
ngôn ngữ; cảm giác ý niệm và cảm giác bản ngã. Albert Soesman, Our
1998.
84
Dẫn lại trong Victor Burgin, ‘Perverse Space’, như được trích dẫn
145
95
Edward S Casey, Remembering: A Phenomenological Study, Indiana
Adrian Stokes, Volume II, Thames & Hudson (London), 1978, tr 245.
104
Steen Eiler Rasmussen, Experiencing Architecture, MIT Press
146
107
Cyril Connolly, The Unquiet Grave: A Word Cycle by Palinurus,
tiếng Anh của MD Herter Norton, WW Norton & Co (New York, NY;
Heidegger, Basic Writings, Harper & Row (New York, NY), 1977, tr 357.
114
Bachelard (1971), tlđd, tr XXXIV.
115
Tlđd, tr 7.
116
Marcel Proust, Kadonnutta aikaa etsimässä, Combray [Remembrance
147
119
Stokes, tlđd, tr 316.
120
Tanizaki, tlđd, tr 15.
121
Bachelard (1971), tlđd, tr 91.
122
Tlđd, tr 15.
123
‘From Eclecticism to Doubt’, cuộc nói chuyện giữa Eileen Gray và
như được trích dẫn trong Colin St John Wilson, The Other Tradition of
Ando’, như được trích dẫn trong Kenneth Frampton, ‘The Work of
Tadao Ando’, trong Yukio Futagawa (chủ biên), Tadao Ando, ADA
Horatio Greenough đã đưa ra luận đề về mối tương quan nội tại giữa
hình thức và công năng mà về sau này trở thành nền tảng ý thức hệ
cho Chủ Nghĩa Công Năng. Horatio Greenough, Form and Function:
1991, tr 21.
148
127
Casey, tlđd, tr 149.
128
Alvar Aalto, ‘From the Doorstep to the Common Room’ (1926),
trong Göran Schildt, Alvar Aalto: The Early Years, Rizzoli International
tlđd, tr XII.
131
Như được trích dẫn trong Bachelard (1969), tlđd, tr 137.
132
Henry Moore, ‘The Sculptor Speaks’, trong Philip James (chủ biên),
1982, tr 202.
149
137
Louis I Kahn, ‘I Love Beginnings’, trong Alessandra Latour (chủ
tr 3.
139
Tlđd, tr 4.
140
Alvar Aalto, ‘Rationalism and Man’ (1935), trong Alvar Aalto và
Göran Schildt (chủ biên), Alvar Aalto: Sketches, bản dịch tiếng Anh của
Được đăng trong Frank Lloyd Wright: Writings and Buildings, do Edgar
Kaufmann và Ben Raeburn chọn lọc, Horizon Press (New York, NY),
1960, tr 292–3.
150