You are on page 1of 28

TÀI LIỆU KINH TẾ CHÍNH TRỊ

CH1: phân tích quy luật cạnh tranh. Tại sao nói cạnh tranh là động lực cho sự phát triển
của nền kinh tế thị trường.
vế 1
- giải thích khái niệm
o cạnh tranh (giáo trình, 72)

là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu
thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó thu được lợi ích tối đa
o quy luật cạnh tranh (giáo trình, 72)

là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mqh ganh đua kt giữa các chủ
thể trong sx và trao đổi hàng hóa. Quy luật cạnh tranh yêu cầu, khi đã tham gia
thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, bên cạnh sự hợp tác, luôn phải
chấp nhận cạnh tranh.
o Kinh tế thị trường (giáo trình, 61)

Là nền kt được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kt hàng hóa phải
triển cao, ở đó mọi quan hệ sx và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu
sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
- Phân tích quy luật cạnh tranh
o điều kiện để có quy luật cạnh tranh (gt, 73)
 kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường
càng trở nên thường xuyên, quyết liệt hơn. Trong nền kt thị trường,
cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể trong nội bộ ngành, cũng
có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau.
o phân loại các quy luật cạnh tranh (gt,73,74)
 cạnh tranh trong nội bộ ngành(gt,73,74)
 là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một
ngành hàng hóa.
 biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp ra sức cả tiến kĩ
thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sx, tăng năng suất lđ để
hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa, làm cho giá trị hàng hóa
của doanh nghiệp sx ra thấp hơn gtri xh của hàng hóa đó.
 Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá
trị thị trường của từng loại hàng hóa. Cùng một loại hành hóa
được sx ra trong các doanh nghiệp sx khác nhau, do điều kiện
sx khác nhau, cho nên hàng hóa sx ra có gtri cá biệt khác
nhau, nhưng trên thị trường các hàng hóa được trao đổi theo
giá trị mà thị trường chấp nhận.
 cạnh tranh giữa các ngành(gt,73,74)
 là cạnh tranh giữa các chủ thể sx kinh doanh khác nhau. Vì
vậy, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở thành phương thức
để thực hiện lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sx khác
nhau trong đk kttt
 mục đích của cạnh tranh giữa các ngành là nhằm tìm nơi đầu
tư có lợi nhất.
 biện pháp: tự do di chuyển nguồn lực của mình từ ngành này
sang ngành khác, vào các ngành sx kinh doanh khác nhau.
o tác động của cạnh tranh trong kinh tế thị trường
 tích cực (gt,74,75)
 cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sx
ứng dụng tiến bộ kĩ thuật, cnghe mới vào sx => đổi mới về trình độ tay nghề của lđ
KQ: cạnh tranh thúc đẩy llsx xh phát triển hơn.

 cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kttt. Bởi mục đích
là nhằm thu lợi nhuận tối đa cho nên ngoài hợp tác thì các chủ
thể kt cx cạnh tranh với nhau để đạt đưuọc những điều kiện
thuận lợi trong sx và kd. Từ đó nền KTTT dần hoàn thiện hơn
 cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ
các nguồn lực. (như lđ, nguồn vốn, cnghe, tài nguyên,…)
 cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xh. =>
mở rộng thị trường. Để mở rộng, những ng sx phải tìm mọi
cách để tạo ra khối lượng sx đa dạng, dồi dào, phong phú,
chất lượng tốt, giá thành hạ, làm cho nhu cầu của người tiêu
dung và xh được đáp ứng => người tiêu dung được lợi.
 tiêu cực (gt,76,77)
 cạnh tranh ko lành mạng gây tổn hại đến mtrg kinh doanh.
(như trốn thuế, hàng giả, chơi xấu đối thủ cạnh tranh,…) =>
làm xói mòn gtri đạo đức xh.
 Gây lãng phí nguồn lực xh
o VD: trong dịch covid, nhiều chủ thể sx kinh doanh đã
lợi dụng tình hình thiếu thốn khẩu trang, cồn rửa tay và
nhiều tb y tế khác để ép giá nhằm trục lợi cá nhân. =>
các chủ thể sx đó đã ko dung các nguồn lực của xã hội
(nhà nước ra quyết định phân phát các nguồn lực y tế
nhằm ổn định nền kt trong mùa dịch) vào sx để tạo ra
hàng hóa, dvu xh. Từ đó các nguồn lực xh đã bị lãng
phí.
 tổn hại phúc lợi xh
vế 2: tại sao nói cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường
- dựa vào đặc trưng phổ biến của nền kt thị trường (giáo trình trang 62)
 vì cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh,
động lực trực tiếp của các chủ thể kinh doanh là lợi nhuận và lợi ích kt-xh khác.
 Trong kinh tế thị trường, có cạnh tranh sẽ có sự hơn thua về lợi nhuận, từ đó sẽ
thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt
động năng động và hiệu quả.
 Ngoài ra, cạnh tranh có thể hình thành nên giá trị thị trường của từng hàng hóa.
VD phân tích: nền kt việt nam khi không có cạnh tranh và khi có cạnh tranh
1. Khi nền kt ko có cạnh tranh (trước đại hội VI – 1986 - thời kì kt bao cấp)
- Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.
Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ,
không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa.
- Đây là giai đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu công cộng,
vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc trưng nổi bật là quan liêu - bao
cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận.
- Do tính kém hiệu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, dưới áp lực của thực tiễn,
trong thời kỳ cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980, trong nền kinh tế diễn ra những
cải cách cục bộ theo hướng bước đầu thừa nhận thị trường là một công cụ bổ sung cho kế
hoạch, chủ yếu để tổ chức hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô Với sự thừa nhận này, thị
trường không bị coi là đối lập với CNXH và có thể chấp nhận được trong quá trình xây
dựng CNXH.
- Hệ quả của những thay đổi cục bộ trong tư duy và thực tiễn trước đổi mới:
+ Nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu không được thừa nhận trên thực tế;
+ Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp tiếp tục thống trị.
+ Thị trường bắt đầu có tác động tích cực nhưng rất hạn chế, không đóng vai trò
điều tiết hoạt động của doanh nghiệp.
+ Nền kinh tế bị rối loạn, lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
+ Lực lượng SX bị trói buộc; quan hệ sản xuất trở thành lực cản phát triển.
+ Tình thế khủng hoảng làm gia tăng áp lực đổi mới toàn diện cơ chế kinh tế
2. Khi nền KT có cạnh tranh (sau năm 1986 - loại bỏ nền kt bao cấp)
- Đại hội IX khái quát mô hình nền kinh tế thị trường thể hiện sự phát triển tư duy
hệ thống về mô hình tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
“Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN”
- Đại hội IX đã tiến một bước dài trong việc cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế
theo định hướng XHCN của Việt Nam.
+ Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (12-2001) phát huy tác dụng tích cực, mở
ra nhiều cơ hội phát triển to lớn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt
Nam. Nó chứng tỏ việc giải phóng thể chế mang lại sức thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ.
+ Luật Doanh nghiệp tiếp tục phát huy tác dụng, với sức lan toả mạnh, tạo
nên làn sóng phát triển mới trong khu vực tư nhân.
+ Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh (thực hiện
AFTA, đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế ASEAN theo hướng xây dựng
Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia ASEM, ký Hiệp định bảo hộ đầu tư
với Nhật Bản; thúc đẩy quá trình gia nhập WTO, v.v.).
 Kết quả: Nền kinh tế khôi phục lại nhịp tăng trưởng đi lên; giữ vững được ổn
định. Tuy nhiên, từ sau Đại hội IX, đã nẩy sinh thêm nhiều vấn đề mới trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nền kinh tế
hội nhập sâu và nhanh hơn vào nền kinh tế thế giới; song các vấn đề về chất lượng
tăng trưởng (các vấn đề cơ cấu, thể chế, sức cạnh tranh) là rất nghiêm trọng.
- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 xác định 3 đột phá quan trọng
nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng mở rộng theo chiều sâu và hội nhập sâu, rộng
vào nền kinh tế toàn cầu. Cụ thể 3 đột phá chiến lược:
+ (1). Hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm
là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
+ (2). Phát triển nhanh nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
+ (3). Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
+ Thực tế trong thời gian qua, ba đột phá chiến lược được triển khai đồng bộ và đã
đạt được một số kết quả. Những thành tựu cụ thể được tổng hợp trong các báo cáo
của Chính phủ.
CH2: Phân tích chức năng của tiền tệ, trật tự các chức năng tiền tệ có thay đổi thay k?
Tiền tệ có 5 chức năng:
1, Tiền tệ là thước đo giá trị:
Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Giữa giá trj của vàng
và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã có một tỉ lệ nhất định. Cơ sở của tỉ lệ này là thời
gian lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó.
Giá trị hàng hóa được thể hiện bằng tiền gọi là gía cả hàng hóa. Như vậy, giá cả hàng
hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền giá trị hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá cả. Trong khi
các điều kiện khác không thay đổi, nếu giá trị của hàng hóa càng lớn thì giá trị cảu hàng
hóa càng cao và ngược lại. giá cả của hàng hóa có thể lên xuống do tác động bởi nhiều
yếu tố như: Giá trị cảu hàng hóa, giá trị cảu tiền, ảnh hưởng quan hệ cung-cầu .
2, Tiền tệ là phương tiện lưu thông
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền đưuọc dùng để làm môi giới cho
quá trình trao đổi hàng hóa. Đây là cơ sở cho các quốc gia công nhận và phát hành các
laoij tiền giấy khác nhau. Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm cho wua
trình tráo đổi, mua bán trở nên thuận lợi; đồng thời làm cho hành vi mua, hành vi bán
tách rời về không gian. Do đó có thể tiềm ẩn khả năng khủng hoảng
3, Tiền tệ là phương tiện cất giữ
Tiền phải có đủ giá trị như tiền vàng, tiền bạc. Tiền cất trữ có tác dụng là dự trữ tiền
cho lưu thông, sẵn sàng tham gia lưu thông. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, lượng hàng
hóa nhiều hơn, tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại nền sản xuất giảm, lượng
hàng hóa giảm, một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông , đi vào cất trữ
4, Tiền là phương tiện thanh toán.
Thực hiện chức năng thanh toán, có nhiều hình thức tiền khác nhau được chấp nhận.
chức năng phương tiện thanh toán ủa tiền gắn liền với chế độ tín dụng. Và ngày nay việc
thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh mẽ. Người ta có thể sử dụng tiền ghi sổ,
hoặc tiền trong tài khoản, tiền điện tử, bitcoin, …
5, Tiền tệ là tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, tiền làm chức năng tiền tệ
thế giới. Lúc này tiền được dùng làm phương tiện mua bán, thanh toan quốc tế giữa các
nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải là tiền vàng hoặc
những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
Trật tự các chức năng tiền tệ có thay đổi hay không?
- Theo lý thuyết thì trật tự các chức năng tiền tệ không thay đổi bởi nó được lặp lại
theo 1 vòng quay vô tận.
VD: nhà sx ra 1 sp (hàng hóa) và xác định giá cả cho sp là 10 đô (thước đo giá trị).
Sau đó sp được trao đổi vs người tiêu dung, người tiêu dùng mua chiếc áo với giá 10
đô (phương tiện lưu thông). Sau khi xác định bằng 1 số tiền nhất định thì hàng hóa
mới được đưa ra thị trường để tiêu thụ và trao đổi. Càng nhiều sp được bán ra thì số
tiền thu về ngày càng nhiều. Nhà sản xuất sẽ dự trữ số tiền lợi nhuận thu về từ việc
bán sp để có thể tích lũy đầu tư cho việc phát triển sx hàng hóa (phương tiện cất
giữ). Từ viêc đầu tư vào sx thì nhà sx phải chi tiền cho nhân công, máy móc, phí sx và
tiền dữ trữ đó sẽ trở thành phương tiện thanh toán. Và khi sp đó được xuất khẩu thì
tiền tệ trao đổi sẽ làm chức năng tiền tệ thế giới. Làm phương tiện trao đổi, mua bán,
thanh toán giữa các quốc gia quốc tế. Và cứ thế vòng quay cứ lặp lại liên tục.
- Thực tế thì trật tự các chức năng có thể thay đổi dựa trên tình hình chính trị, kinh
tế giữa các chủ thể kinh doanh trong nước và cả quốc tế. Lấy lạm phát làm ví dụ.
Lạm phát chính là khi tiền tệ mất dần giá trị của nó, điều này xảy ra khi nhà nước
in quá nhiều tiền để phát hành trong xã hội, từ đó dẫn đến việc ai cũng có nhiều
tiền. Lượng đã vượt chất. Vì vậy các mặt hàng phải tăng giá. VD như trước kia 1
cái áo mất 50k nhưng giờ 1 cái áo đã mất đến 200-400k. Càng có nhiều tiền lưu
thông trong thị trường thì số lượng tiền dự trữ trong ngân hàng bắt đầu mất dần giá
trị của nó và điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến chức năng đầu tiên của tiền tệ là tiền
tệ là thước đo giá trị. Cuối cùng là vòng lặp lưu thông tiền tệ sẽ bị đứt gãy và ko
thể trở thành vòng lặp vô tận được nữa.
Ch3: phân tích vai trò và hạn chế của CNTB và chỉ ra xu hướng của CNTB ngày nay.
Vai trò của chủ nghĩa tư bản
Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản có nhiều mặt tích cực đối với sự phát triển
sản xuất xã hội. Đó là: - Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Quá trình
phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với
trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: chuyển từ kỹ thuật lao động thủ công lên
kỹ thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa,... Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và
công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh
phục tự nhiên của con người. Chủ nghĩa tư bản có công lớn trong phát triển các cuộc cách
mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện vào đầu thế
kỷ XXI, chuyển nền kinh tế của nhân loại bước vào một thời đại mới - thời đại của kinh
tế tri thức. - Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại. Sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản đã đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, chuyển từ kinh tế hàng hóa
giản đơn lên kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa phát triển, chuyển nền sản xuất nhỏ thành
nền sản xuất tập trung quy mô lớn, hiện đại, năng suất cao. Dưới tác động của quy luật
giá trị thặng dư và các quy luật của nền kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản đã kích thích
cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa khổng lồ
lớn hơn nhiều so với các xã hội trước cộng lại. - Thực hiện xã hội hóa sản xuất. Chủ
nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình
nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều
sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội; sản xuất tập trung với quy mô
lớn, hợp lý; chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc; mối liên hệ kinh tế
giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực, giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ... làm cho
các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một
hệ thống, một quá trình sản xuất xã hội thống nhất. Đây cũng là một trong những điều
kiện về kinh tế thuận lợi thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển ngày càng cao hơn.

Hạn chế của Chủ nghĩa tư bản


Những hạn chế này được C. Mác và V.I. Lênin đề cập ngay từ trong lịch sử ra đời, tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Cụ thể hạn chế của chủ nghĩa tư bản được thể hiện ở
một số điểm sau:
Thứ nhất: Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của chủ
nghĩa tư bản. Thực chất đó là quá trình tích luỹ tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp,
tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt
động buôn bán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực hiện sự bóc lột, nô dịch đối với
những nước lạc hậu. Về quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản, C. Mác cho
rằng, đó là lịch sử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một câu chuyện tình ca, nó
được sử sách ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.
Thứ hai: Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của
các nhà tư bản đối vói công nhân làm thuê. Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã từng
tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ. Tuy nhiên C.
Mác và V.I. Lênin đã chỉ ra rằng chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó
quan hệ bóc lột còn tồn tại và sự bất bình dẳng, phân hoá xã hội vẫn là điều không tránh
khỏi.
Thứ ba: Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và
khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu Bên cạnh có những đóng góp tích
cực,thì chủ nghĩa tư bản cũng có những quả nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết
hại, sức sản xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại
hàng chục năm.
Thứ tư: Chủ nghĩa tư bản phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cách
giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới (thế kỷ XVIII chênh lệch về mức
sống giữa nước giàu nhất và nước nghèo nhất mới chỉ là 2,5 lần, hiện nay số chênh lệch
ấy là 250 lần).
Xu hướng h.động của CNTB

 Mặc dù trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa trong những chừng mực nhất định cũng đã không ngừng được điều
chỉnh, mở rộng để mang tính xã hội hơn cả về hình thức cả và quan hệ sở hữu,
quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Đặc biệt quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa
đã có sự vận động về mặt hình thức từ sở hữu tư nhân của các nhà tư bản (trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) đến sở hữu tập thể của các nhà tư bản
(chủ nghĩa tư bản độc quyền) và hình thức sở hữu nhà nước tư sản với tư cách là
đại diện xã hội (chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước).

 Không thể phủ nhận trong những năm qua, chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh, thích
ứng, tận dụng được các thành tựu khoa học công nghệ để tồn tại, tiếp tục phát
triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới; trong đó, có những yếu tố có thể xem là
những mầm mống của chủ nghĩa xã hội hình thành trong lòng xã hội tư bản.
Nhưng có thể khẳng định rằng những điều chỉnh, những đặc điểm mới, yếu tố mới
đó vẫn chưa phá vỡ được khuôn khổ, nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa, vẫn
chỉ là những điều chỉnh, những sự chuyển biến trong khuôn khổ của chế độ tư bản.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc
quyền trong thời đại toàn cầu hóa, độc quyền không chỉ trong phạm vi một quốc
gia, mà trên quy mô toàn cầu. Thị trường toàn cầu ngày nay do một số tập đoàn tư
bản độc quyền chi phối, như: thị trường máy bay do hai công ty Boing và AirBus
chia nhau thị phần, thị trường điện thoại di động, các thiết bị điện tử, chủ yếu do
các công ty SamSung, Apple, IBM thống trị...
 Chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng không xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo
trong xã hội, mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng, vẫn là chế độ bất công. Trong
chủ nghĩa tư bản hiện đại, một bộ phận công nhân có cổ phiếu, cổ phần ở các công
ty tư bản. Số lượng công nhân có cổ phiếu có thể đông, nhưng số lượng cổ phiếu
mỗi người có đều rất nhỏ, nên thực tế tổng số cổ phiếu mà người công nhân có
chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cổ phiếu của các công ty tư bản. Trong những
năm 70 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ thực hiện “kế hoạch phát triển sở hữu cổ
phiếu của người lao động làm công” (ESOP), lúc cao nhất gần 40% người lao
động làm công Mỹ có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ
chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Số lượng ít, phân tán,
người lao động hoàn toàn không có tiếng nói gì ảnh hưởng tới hoạt động của các
công ty.
 Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không ngăn chặn, tránh được các cuộc khủng hoảng
kinh tế gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản, với mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
 Nên mặc dù phát triển sở hữu nhà nước, nhưng đó chỉ là những sự thay đổi về
hình thức, về thực chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong xã hội tư
bản hiện đại mẫu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại. Trong thời đại
ngày nay, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn không tự giải quyết được.
Vì vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
ngày càng gay gắt và chủ nghĩa tư bản phát triển đến một trình độ nhất định thì
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay bằng một quan hệ sản xuất khác dựa
trên sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất để phù hợp với trình độ xã hội
 hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng
định: chủ nghĩa tư bản không tồn tại vĩnh viễn, mà phát triển đến một trình độ nhất
định sẽ bị thay thế bởi một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn - hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Ch4: tại sao hàng hóa có 2 thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng
 Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó do tính
chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính tính hai mặt của
lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thần hàng hoá.
 C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây không phải là hai thứ
lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao
động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.

a. Lao động cụ thể


- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục
đích riêng, công cụ lao động riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả lao động
riêng tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng
của hàng hóa.
b. Lao động trừu tượng
- Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình
thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hóa
về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Vì vậy, giá trị hàng hóa là lao động trừu
tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa.
- Không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của người
sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
- Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao
động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất
ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở thành việc
riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao
động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm
cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó tạo ra
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người
này làm việc vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá
không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy thành lao động đồng nhất là lao động trừu
tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của tính chất xã hội.

Ch5: Phân tích ưu thế và hạn chế của nền KT thị trường (nền sx hàng hóa). Hãy đề ra các
giải pháp để khắc phục các hạn chế của nền KT thị trường. (Giáo trình tr63)
1. Khái niệm
 Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
2. Ưu thế:
- Nền KT thị trường luôn tạo động lực cho sự sáng tạo các chủ thể kinh tế: Các chủ
thể luôn có cơ hội để tìm động lực cho sự sáng tạo của mình, thông qua vai trò của
thị trường mà nền KT thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự
sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho họ để
tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền KT hoạt động hiệu
quả.
- Nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng,
miền cũng như lợi thế quốc gia: Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi
thế đều có thể được phát huy và trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua
vai trò gắn kết của thị trường, trở thành phương thức hiệu quả hơn để phát huy
tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia trong quan
hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới.
- Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của
con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội: Trong nền kinh tế thị trường,
các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu
của mình. Các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu
sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. ->Nhu cầu tiêu dùng
về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng
được thỏa mãn nhu cầu.
3. Hạn chế:
- Trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng: Khủng
hoảng có thể diễn ra cục bộ cũng như trên phạm vi tổng thể, có thể xảy ra với mọi
loại hình thị trường. Các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng
hoảng và không tự khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn này.
- Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội: Do các chủ
thể sản xuất luôn đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn
đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Để chạy theo mục tiêu, các
chủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức thậm chí phi
pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, đạo đức xã hội.
- Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc
trong xã hội: Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình
hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự
phân hóa như một tất yếu. -> Không tồn tại một nền KT thị trường thuần túy mà
thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị
trường.
4. Giải pháp:
 Đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong cán bộ, đảng viên về KT thị
trường, định hướng XHCN ở nước ta hiện nay: Phát triển kinh tế thị trường, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự
chủ của nền kinh tế. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
 Nhà nước cần bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm
kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế: tuân thủ các thông lệ quốc tế, đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế và môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường,
phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho
bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị
trường đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội: Do mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị trường, sự phân hóa về
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một bộ phận dân cư
được thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, nhà nước cần thực hiện các chính sách phân
phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Sự phân hóa xã hội thái
quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội.
 Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát
triển xã hội: Thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo cơ hội
tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản; tuyên
truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các
chủ thể kinh tế - xã hội; nghiêm cấm các hình thức thu nhập bất hợp pháp: buôn
lậu, làm hàng giả, hàng nhái, lừa đảo… để tránh làm tổn hại lợi ích kinh tế của các
chủ thể làm ăn chân chính.
Ch6: Hãy chứng minh rằng phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt
kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá là 2 điều kiện cần và đủ cho sự ra đời và tồn
tại của nền sản xuất hàng hoá.
Trả lời:
Các khái niệm:
-Sản xuất hàng hoá:
là sản xuất sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua hình thức
trao đổi hoặc mua bán.

-Phân công lao động xã hội


là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau.

-sự tách biệt tương đối về mặt KT giữa những người sản xuất hàng hoá
tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau

-K/n kinh tế hàng hóa:


Nếu chỉ có điều kiện 1: mỗi người làm 1 việc tạo ra hoặc 1 vài sp nhất định (biểu hiện
của phân chia lao động) nhưng tất cả sp do từng người tạo ra đó vẫn là của chung. Ai cần
thì cứ lấy về mà sử dụng chứ ko cần trao đổi => KT tự nhiên chứ ko phải là kthh
Nếu chỉ có điều kiện 2: Nếu 1 người có sở hữu đầy đủ các tư liệu sx cần thiết: công cụ
lđ, nguyên vật liệu, đất đai, nô lệ (nguồn lđ)… thì họ sẽ tự tạo ra được những sp để thỏa
mãn như cầu của mình => ko cần trao đổi => kt tự nhiên chứ ko phải là KTHH
 phải có 2 đk này ràng buộc với nhau mới tạo ra nhu cầu trao đổi => là đk cần và
đủ cho nền kthh tồn tại và phát triển

Điều kiện cần: Phân công lao động xã hội là điều kiện cần cho sự ra đời và tồn tại của
nền sản xuất hàng hoá, bởi vì nó làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu, do một
cơ sở chỉ sản xuất được một vài loại sản phẩm mà nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản
phẩm => trao đổi sản phẩm với nhau.

Điều kiện đủ: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho
sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người sản xuất đó, do đó họ mới
có quyền mang nó đi bán. Thêm vào đó, sự tách biệt ấy còn làm cho quan hệ trao đổi của
chủ thể đó tất yếu mang hình thái trao đổi hàng hóa, vì sự tách biệt tương đối về mặt kinh
tế làm cho những chủ thể sản xuất ấy có lợi ích kinh tế độc lập với nhau. Chính vì vậy,
sản phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá mới công bằng,
bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.

(Tóm tắt: sản xuất hàng hoá = sản xuất +trao đổi; phân công lao động xh: mỗi nhóm
nghề chuyên hoá ít sản phẩm =>cần trao đổi; sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa
những ng sản xuất => quyền sở hữu/chi phối giúp ng đó đi bán + lợi ích kinh tế độc lập
với nhau => công bằng bình đẳng, đảm bảo lợi ích)
VD về phân công lđ xã hội: nhóm ngành thực phẩm - mỹ phẩm - đồ gia dụng - dịch vụ -
thời trang ,vv đều là kết quả của phân công lao động

VD về sự tách biệt tương đối… : công ty tân hiệp phát và công ty suntory pepsico đều
sản xuất nước giải khát, tuy nhiên có sự tách biệt về lợi ích độc lập và sự phân biệt về sản
phẩm => có thể kinh doanh đảm bảo bình đẳng lợi ích

Nếu chỉ có điều kiện cần => không có sự bình đẳng trong lợi ích kinh tế, sp không có
khác biệt đặc trưng, ko thể bán; nếu chỉ có điều kiện đủ => không có sự khác biệt về sản
phẩm của nhóm ngành dẫn tới ko có sự trao đổi hàng hoá thiết yếu.
CH7: Phân tích địa tô trong nền kttt tư bản chủ nghĩa. (XHCN ko có địa tô => pt trong
các nước xhcn). Địa chủ sẽ cho thuê đất trong 1 thời gian dài hay ngắn, nhà kinh doanh
trong nông nghiệp sẽ thuê trong thời gian dài hay ngắn? tại sao?

1.1. Khái niệm và bản chất của địa tô:


– Trong chủ nghĩa tư bản, người thực sự canh tác ruộng đất không phải là chủ tư bản mà là
những người lao động làm thuê. Nhà tư bản thuê đất của địa chủ để kinh doanh, coi nông nghiệp
là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Số tiền mà nhà tư bản trả cho người sở hữu ruộng đất theo hợp
đồng để được sử dụng đất trong một thời gian nhất định là địa tô tư bản chủ nghĩa.
– Địa tô tư bản chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ giữa người công nhân làm thuê, nhà tư bản chủ
nghĩa và địa chủ. Khoản địa tô có được do nhà tư bản bóc lột người công nhân làm thuê để thuê
lợi nhuận bình quân. Do vậy muốn kéo dài thời gian sử dụng đất để thu lợi nhuận nhiều hơn. Tuy
nhiên chủ đất luôn tìm cách khống chế nhà tư bản bằng cách tăng khoản địa tô hoặc rút ngắn thời
gian sử dụng đất.
=> Tóm lại, địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi
phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất
1.2. Các hình thức địa tô tư bản:

a. Địa tô chênh lệch


Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế về điều kiện
sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường, gần đường hơn, hoặc ruộng
đất để đầu tư để thâm canh)
Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.

 Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những ruộng đất điều kiện tự nhiên
thuận lợi. Chẳng hạn, có độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt) và có vị trí
địa lý gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.
 Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được gắn liền với thâm canh tăng năng suất, là
kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng một đơn vị diện tích.
b. Địa tô tuyệt đối là
Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải
nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu. Đây là loại địa tô thu trên mọi thứ đất.

 Xã hội có ít nhất 3 giai cấp : Địa chủ, Tư bản kinh doanh trong nông nghiệp, Giai
cấp công nhân làm thuê trong nông nghiệp.

Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của
tư bản đầu tư trong nông nghiệp (tư bản nông nghiệp) do công nhân nông nghiệp tạo ra
mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp địa tô cho địa chủ với tư cách là kẻ sở
hữu ruộng đất

2. Phân tích bản chất địa tô tư bản chủ nghĩa là gì


- Giống như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp , thương nghiệp, các nhà tư
bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải được lợi nhuận bình quân. nhưng vì phải
thuê ruộng đất của địa chủ nên ngoài lợi nhuận bình quân , nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp còn phải thu thêm được thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra nữa , tức là lợi
nhuận siêu ngạch.
Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp phải cho địa chủ dưới hình thái tư bản chủ nghĩa. Vậy , địa tô tư bản chủ nghĩa là
phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ .
-Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyên hóa của giá trị thặng
dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.
Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến :
 điểm giống nhau : đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu về ruộng
đất . cả hai loại địa tô đều là kết quả của bóc lột đối với người lao động nông
nghiệp .
 Điểm khác nhau :
Về mặt chất, địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất giữa hai giai cấp: địa chủ

nông dân, trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân: còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản
ánh quan
hệ sản xuất giữa ba giai cấp: địa chủ, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân
nông
nghiệp làm thuê, trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân nông nghiệp làm thuê
thông qua
nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.
* Về mặt lượng, địa tô phong kiến bao gồm toàn bộ phần sản phẩm thặng dư do nông
dân tạo ra, có khi còn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết; còn địa tô tư bản chủ nghĩa
chỉ là một phần của sản phẩm thặng dư, đó là phần sản phẩm tương ứng với phần giá trị
thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

Địa tô tư bản chủ nghĩa


Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp. Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trên các lĩnh vực khác, nhà tư bản kinh
doanh
trên lĩnh vực nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân. Khác với các chủ thể kinh
doanh khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả một lượng tiền cho
địa chủ vì đã thuê đất của họ.
Để có tiền trả cho địa chủ, ngoài số lợi nhuận bình quân thu được tương tự như kinh
doanh trên các lĩnh vực khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp còn thu
thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân nữa, tức là lợi
nhuận siêu ngạch, lợi nhuận siêu ngạch này phải trả cho địa chủ dưới dạng địa tô.
C.Mác khái quát, địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi
nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho
địa chủ.

*Địa chủ sẽ cho thuê đất trong 1 thời gian dài hay ngắn, nhà kinh doanh trong nông
nghiệp sẽ thuê trong thời gian dài hay ngắn? tại sao?*
3 gc địa chủ - doanh nghiệp nông nghiệp tư bản – công nhân nông nghiệp
bản chất của địa tô là phản ánh MQH bóc lột của gc tư sản và địa chủ đối với công nhân
làm thuê
nhà tư bản muốn thuê đất lâu dài, địa chủ lại muốn rút ngắn thời gian thuê đất
 Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc
nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chỉ đến khi hết thời hạn hợp đồng, địa chủ mới
tìm cách nâng giá cho thuê ruộng đất, tức biến lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư
thâm canh đem lại tức là địa tô chênh lệch II thành địa tô chênh lệch I. Tình trạng
này dẫn đến mâu thuẫn đó là nhà tư bản thuê đất muốn kéo dài thời hạn thuê, còn
địa chủ lại muốn rút ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời gian thuê đất, nhà
tư bản tìm mọi cách quay vòng, tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ đất đai.
CH8: so sánh giữa KTTT CNTB và XHCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có những điểm giống và khác với kinh tế thị
trường TBCN.
Sự giống nhau biểu hiện ở chỗ, xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kiểu
kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các
qui luật: qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật lưu thông
tiền tệ … Đồng thời, cả nền kinh tế thi trường ở các nước TBCN và nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết ( quản lí ) của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà
nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Không có nền kinh tế thị trường thuần tuý
(hoàn hảo) chỉ vận hành theo cơ chế thị trường.

Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền kinh tế thị
trường TBCN là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của nhà nước và sự
can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định. Được thể hiện qua những
điểm sau:

- Về chế độ sở hữu, cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động trên
nền tảng của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc
quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Còn cơ chế thị
trường trong nền kinh tế định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự
đa dạng các quan hệ sở hữu. Trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của
nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành
nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết.

- Về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lí, trong nền kinh tế thị
truờng TBCN, sự quản lí của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn
khổ của chế độ tư sản với mục đích nhẳm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội
thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột
TBCN. Còn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì sự can thiệp của
nhà nước XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân
dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.

- Về cơ chế vận hành, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị
trường có sự quản lí của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng
tới đích XHCN theo phương châm nhà nước điều tiết vĩ mô. Ngược lại, kinh tế thị
trường TBCN hoạt động dưới sự quản lí của Đảng tư sản cầm quyền.

- Về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề
công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường TBCN chỉ được đặt ra khi mặt trái
của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã
hội, đe doạ sự tồn tại của CNTB. Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà
nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện phát triển nền
kinh tế hàng hoá mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới.

- Về phân phối thu nhập, sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng bình đẳng
trong xã hội. Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết
hợp hài hoà ba vấn đề sau: Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận và vấn đề xã hội, đảm
bảo cho các chủ thể kinh tế có được lợi nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị –
xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc
phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc kinh tế hàng hoá: phân phối theo lao
động, theo vốn, theo tài năng … trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là
chính. Ba là, điều tiết phân phối thu nhập: nhà nước cần có chính sách giảm
khoảng cách chênh lệch giữa lớp giàu và lớp nghèo. Mặt khác, có biện pháp bảo vệ
thu nhập chính đáng của toàn xã hội.

KTTT không phải là con đường độc đạo để phát triển thành tư bản
chủ nghĩa. KTTT cũng không có một mô hình duy nhất mà có nhiều mô hình khác
nhau. Hiện nay, KTTT có 3 mô hình chủ yếu là: Mô hình KTTT tự do; mô
hình KTTT-xã hội; mô hình KTTT định hướng XHCN (ở Việt Nam)
hay KTTT XHCN (ở Trung Quốc)

Thứ nhất là mô hình KTTT tự do. KTTT trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát
triển theo mô hình thị trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư
nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự do. Trong mô hình KTTT tự do, sự can
thiệp điều tiết của nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp.
Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết
của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do).

Tiếp đến là mô hình KTTT định hướng XHCN. Loại mô hình KTTT này đang
được thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam-KTTT định hướng XHCN; Trung Quốc-
KTTT XHCN) với thời gian khoảng 30-40 năm.
Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của mô hình kinh tế tập trung bao cấp,
vốn phủ nhận vai trò của KTTT trong quá trình phát triển ở các nước nghèo, lạc hậu tiến
lên CNXH. Mô hình này đã chứng minh được tính hiệu quả, đồng thời, khẳng định tính
tất yếu và phổ biến của KTTT với tư cách là một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát
triển của mọi nền kinh tế.
KẾT LUẬN: Tuy nhiên, KTTT không phát triển theo một phương án duy nhất là phát
triển thành kinh tế TBCN, cũng không theo một mô hình đơn nhất là thị trường tự do.
Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển KTTT khác nhau mang
tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của
quốc gia-dân tộc. Một quốc gia đi sau không nhất thiết, và cũng không thể vận dụng cứng
nhắc các nguyên lý; cũng không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình KTTT có sẵn ở
đâu đó, dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc
thù của mình. Tại Việt Nam, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN để giải quyết vấn
đề phát triển trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH
Ch9: pt 2 pp sx giá trị thặng dư trong nền kt thị trường. Anh Chị hãy chỉ ra điều kiện để
áp dụng 2 pp này.
 Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Mác
- Lênin. Giá trị thặng dư được Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa
và số tiền mà tư bản bỏ ra. Giá trị thặng dư chính là bộ phận của giá trị mới dôi ra
ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
không. Trong bất kỳ xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư bằng
cách áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng những tri thức, trí tuệ vào
trong quá trình sản xuất,... để phát triển kinh tế, nâng cao quyền lợi, chất lượng
cuộc sống cho con người.

 Nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa để phù hợp với những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng
ta phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển các học thuyết đặc biệt là học thuyết
giá trị thặng dư. “ Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Vận dụng hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nhằm phát triển doanh nghiệp và nền kinh
tế trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.”

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:


1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
 Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kĩ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo
dài ngày lao động của công nhân.
 Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
 Ví dụ: nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 8 đơn vị thì giá
trị thặng dư tuyệt đối ở đây sẽ là 32. Và tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ = 32/32 * 100% = 100%
 Giá định ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ với mọi điều kiện không đổi thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng từ 32 lên 48 thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 48/32 * 100% = 150%
 Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi cách
để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động.
 Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh lý vì công nhân phải có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp
phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Do đó, ngày lao động phải dài hơn
thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh thần
của người lao động.
2. PP sản xuất giá trị thặng dư tương đối
 Thời lượng ngày làm việc bị hạn chế về mặt thể chất và tâm lý của người lao động
và ngày càng bị giai cấp công nhân phản đối. Mặt khác, khi nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn mà công nghiệp cơ khí và công nghệ tiên tiến,
năng suất lao động ngày càng tăng nhanh, thì nhà tư bTn đã chuyển sang phương
thức bóc lột dJa trên cơ sở tăng năng suất xã hội từ giá cả. Sản xuất giá trị thặng
dư tương đối là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đạt được bằng cách rút ngắn
thời gian lao động cần thiết để kéo dài giá trị thặng dư một cách tương ứng. Thời
gian lao động do năng suất lao động xã hội tăng lên với một ngày lao Thời lượng
ngày làm việc bị hạn chế về mặt thể chất và tâm lý của người lao động và ngày
càng bị giai cấp công nhân phản đối. Mặt khác, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
phát triển đến giai đoạn mà công nghiệp cơ khí và công nghệ tiên tiến, năng suất
lao động ngày càng tăng nhanh, thì nhà tư bản đã chuyển sang phương thức bóc lột
dựa trên cơ sở tăng năng suất xã hội từ giá cả. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đạt được bằng cách rút ngắn thời gian lao
động cần thiết để kéo dài giá trị thặng dư một cách tương ứng.
Điều kiện áp dụng:
 Quan điểm của Nhà nước về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư để phát triển
nền kinh tế trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là
quốc gia đi lên từ nền nông nghiệp, canh tác nhỏ lẻ, ta gặp nhiều khó khăn trong
cơ sở vật chất, sự yếu kém trong công nghệ sản xuất và năng suất lao động thấp.
Trong khi đó, nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, phát triển cơ sở vật chất,
kỹ thuật dẫn đến sự cần thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
 Và để thực hiện được chủ trương đó, ta cần tiếp tục vận dụng phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư vào các lĩnh vực kinh tế ở nước ta.
 Học thuyết giá trị thặng dư của Mác xây dựng dựa trên cơ sở nghiên của nền sản
xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Dù cho nước ta
đang thực hiện nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng đã nói đến sản
xuất hàng hóa thì ở đâu cũng đều sở hữu những đặc tính phổ biến, phải kể đến giá
trị và giá trị thặng dư. Sự khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau
thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên
cứu và sử dụng phương pháp dựa trên nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa vẫn
có ý nghĩa thực tiễn đối với nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối bằng cách tăng năng
suất lao động
 Dưới tác động của các quy luật kinh tế, ta cần phải không ngừng áp dụng những
thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, bên
cạnh đó cần phải nâng cao trình độ và chú ý đến đãi ngộ đối với người lao động.
 Ngoài ra, việc tích cực hợp lý hóa quy trình sản xuất, tìm hiểu nhu cầu thị trường,
nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh cũng góp phần nâng cao hiệu quả
sản xuất.
 Tích cực sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch bằng cách áp dụng công nghệ mới.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị thị trường của nó.
 Doanh nghiệp/ xí nghiệp nào tăng năng suất hoặc cải tiến sản phẩm, đổi mới công
nghệ trước thì sẽ thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Đó là một hình thức khác
của giá trị thặng dư tương đối, tuy có tính tạm thời nhưng nó lại là một động lực
mạnh mẽ để thúc đẩy doanh nghiệp đánh bại đối thủ trong cạnh tranh.
 Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần phải cân nhắc khi áp dụng công nghệ mới vì
không phải công nghệ nào áp dụng cũng có thể tạo ra giá trị thặng dư siêu ngạch.
Ch10: pt quy luật giá trị. AC hãy đề ra các giải pháp để khắc phục tác động gây phân hóa
giàu nghèo của quy luật này.
1.Quy luật giá trị
- K/n: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng
hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác
dụng của quy luật giá trị. Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và
trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết.
Về nội dung quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
Nội dung của quy luật giá trị
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa được thực hiện theo sự hao phí sức lao động xã hội cần
thiết, tức là cần phải tiết kiệm lao động nhằm: đối với một hàng hóa thì giá trị của nó phải
nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, tức là
giá cả thị trường của hàng hóa, có như vậy, việc sản xuất ra hàng hóa mới đem lại lợi thế
cạnh tranh cao.
Thứ hai: Trong trao đổi hàng hóa phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm
bảo bù đắp được chi phí chí người sản xuất (chi phí hợp lý) và đảm bảo hoạt động sản
xuất đó có lãi để tiếp tục tái sản xuất

2.Tác động của quy luật giá trị


Tích cực:
- Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường.
Điều tiết sản xuất tức là điều khiển, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành kinh tế,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Nếu cung < cầu: giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy. Nếu
Giá cả hàng hóa cao hơn giá trị sẽ làm cho mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung;
ngược lại cầu giảm vì giá cả của hàng hóa tăng
Nếu cung > cầu, hàng hóa sản xuất ra nhiều so với nhu cầu của thị trường, giá cả thấp
hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Vì vậy, người sản xuất ngừng hoặc
giảm sản xuất; nếu giá cả giảm thì cầu hàng hóa sẽ tăng.
Cung = Cầu: giá cả trùng hợp với giá trị. Do đó, nền kinh tế người ta thường gọi là “bão
hòa”.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị dựa vào sự thay đổi của giá cả hàng hóa trên thị
trường. Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến
động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai: Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động,
làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể sản xuất có tính
độc lập trong quá trình sản xuất và vì vậy nên sự hảo tổn lao động của các chủ thể cũng
sẽ khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã
hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Nhà sản xuất nào có hao phí lao động
cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thua lỗ. Để giành lợi thế trong cạnh
tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình
sao cho nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, nhà sản xuất
phải dùng các biện pháp để tối đa hoa hóa chi phí sản xuất, áp dụng khoa học kĩ thuật vào
sản xuất để tăng năng suất, tạo ra cho mình những lợi thế cạnh tranh.
Tiêu cực: Làm cho sự phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người
nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao
động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, từ đó mà thu được nhiều lợi
nhuận, họ trở thành người giàu. Họ mở rộng thêm sản xuất, quy mô. Ngược lại những
người không có được các lợi thế cạnh tranh sẽ dần thua lỗ, trở thành người nghèo.
Giải quyết:
- về mặt KINH TẾ
o Phổ cập kiến thức căn bản và nâng cao đến các vùng có trình độ lao động
thấp. Đào tạo tay nghề chuyên sâu và tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho
họ.
o Bảo đảm quyền lợi và nhu cầu sống của người dân thông qua việc điều tiết
thu nhập qua thuế tốt hơn, hỗ trợ tín dụng cho người nghèo mạnh mẽ hơn,
nâng cao đời sống tinh thần, an sinh xã hội cho người dân.
o Tạo môi trường kinh doanh tốt, cạnh tranh lành mạnh, dân chủ công khai để
mọi người dân có cơ hội vươn lên và tạo điều kiện cho người dân làm chủ.
o tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan điểm gắn tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội.
- về mặt CHÍNH TRỊ:
o Ổn định chính trị giữa các dân tộc với nhau.
o tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt, dân chủ công khai để mọi người dân
có cơ hội vươn lên và tạo điều kiện cho người dân làm chủ
- về mặt XÃ HỘI:
o tiếp tục tiếp cận dịch vụ giáo dục y tế, nhất là cho người nghèo, người yếu
thế, chính sách cho người có công, chính sách cho vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, biên giới hảo đảo, vùng đặc biệt khó khăn cần phải tiếp tục đặt ra
trong quá trình chỉ đạo và thực hiện của nước ta.
o xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động giảm nghèo, giúp đỡ người dân vùng thiên
tai, khơi dậy một tinh thần trách nhiệm xã hội, tinh thần vượt khó, nhân
rộng các mô hình thoát nghèo hiệu quả. đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các
biện pháp xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, ngăn
chặn các hoạt động kinh tế phi pháp và tình trạng tham nhũng, lãng phí
o quan tâm mạnh mẽ hơn, dành nguồn lực nhiều hơn trong việc này, nhất là
những vùng chưa có điện, chưa có đường, chưa có trạm xá hạ tầng cần thiết
cho đời sống của người dân để tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các
dịch vụ y tế, giáo dục và những người yếu thế.
o Gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững tinh thần đoàn kết và ý thức
chung nhằm tiến đến phát triển kt-xh tốt hơn. => Sự thống nhất lợi ích của
dân tộc không chỉ là cùng nhau sinh tồn, cùng nhau vượt qua thử thách, mà
còn được mở rộng thành cùng nhau vươn tới những giá trị của CNXH, đó là
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. tăng cường công tác
đấu tranh tư tưởng, lý luận, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc
o Hạn chế và nghiêm cấm tối đa lối sống chủ nghĩa cá nhân, bị vất chất
chi phối đến các mối quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội; lấy lợi ích cá
nhân làm nguyên tắc sống, không cần quan tâm đến lợi ích tập thể, cộng
đồng. tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc
CH11: Phân tích nội dung hội nhập kinh tế quốc tế VN?

* Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế:

 Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế của quốc gia mình với
nền kinh tế trên thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế
chung.

* Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế:


- Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu thành công

 Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên, đối với Việt Nam, hội nhập không phải bằng mọi
giá. Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu. Quá
trình này đòi hỏi phải có sự chuẩn là các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng
như các mối quan hệ quốc tế thích hợp.
 Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn thiện và
hiệu lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trườnệ quốc tế; nền kinh
tế có năng lực sản xuất thực... là những điều kiện chủ yếu để thực hiện hội nhập
thành công.

- Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.

 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó hội nhập kinh
tế quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước vào
các quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo đó,
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành các mức độ cơ bản từ thấp đến
cao là: Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên
minh thuế quan (CT).
 Thị trường chung (hay thị trường duy nhất), Liên minh kinh tế – tiền tệ...

- Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại
của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác
quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ...

Ch12: Tại sao VN phải tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế? Thế hệ trẻ VN cần làm gì để
tham gia hội nhập KTQT?
- Khái niệm về hội nhập KTQT: hội nhập KTQT của 1 quốc gia là quá trình quốc
gia đó thực hiện gắn kết nền KT của mình với nền KT thế giới dựa trên sự sẻ chia
lợi ích, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Điển hình là bình đẳng, 2
bên cùng có lợi. Đối với các nước đang phát triển như VN thì chúng ta ưu tiên gắn
kết khu vực nhiều hơn. Như việc VN tham gia vào ASEAN, WTO, UN,…
- Tại sao VN phải tiến hành hội nhập KTQT?
o Vì VN là đất nước đang phát triển, lại bỏ qua CNTB nên cơ sở vật chất,
tiềm lực còn yếu kém nên bắt buộc phải tham gia hội nhập KTQT. Đồng
thời vì hội nhập KTQT là xu hướng và cũng là điều tất yếu đất nước ta phải
làm
o Chúng ta cũng cần nguồn lực để có thể xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
(các nguồn lực như vốn, khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm, …) Điều kiện
trong nước vẫn còn thiếu thốn rất nhiều. Cho nên ta cần tranh thủ các nguồn
lực từ các nước khác trên thế giới để có thể phát triển kinh tế. Từ đó hoàn
thành các mục tiêu tăng trưởng của quốc gia.
o Việc VN phải tiến hành hội nhập KTQT cũng là theo nguyện vọng của
nhân dân. Bởi nếu nước ta tiến hành hội nhập thì nhân dân sẽ có công việc
tốt hơn, thu nhập cao hơn, cuộc sống đầy đủ hơn trước rất nhiều. Từ đó
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thúc đẩy dân giàu, nước mạnh, dân chủ
công bằng, văn minh. Đây cũng là nhu cầu và là quá trình tất yếu của mọi
quốc gia trên thế giới chứ không phải do ĐCS quyết định.
- Thế hệ trẻ VN cần làm gì để tham gia hội nhập KTQT?
o Phải trung thành tuyệt đối với đường lối xây dựng đất nước nói chung và
mở rộng kinh tế đối ngoại nói riêng của Đảng và Nhà nước ta. Luôn trau
dồi đạo đức, lý tưởng cách mạng, có lối sống văn hóa để trở thành những
người có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
o Phải hiểu biết một cách nhuần nhuyễn các qui luật của nền kinh tế thị
trường vận động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở các khâu
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, ở các hoàn cảnh cụ thể của thị
trường trong nước và thị trường thế giới để vận dụng một cách sáng tạo vào
việc giải quyết các công việc sản xuất kinh doanh đối ngoại của mình, đạt
hiệu quả cao nhất, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do sự rủi ro hoặc thiếu
trách nhiệm gây ra.
o Không ngừng học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên
môn và trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết luật pháp đặc biệt là luật kinh
tế để giải quyết một cách thông thạo các quan hệ giao dịch và kinh doanh
ngang tầm đòi hỏi của thị trường thế giới. (kĩ năng giao tiếp)
 Tham khảo được nhiều các tài liệu của các nước khác
 Đối tượng khách hàng được mở rộng
o Biết tìm kiếm và phát hiện kịp thời những thế mạnh của sản xuất và thị
trường trong nước và thế yếu của thị trường thế giới để khai thác tốt nhất
trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta theo hướng đa
phương và đa dạng hoá
o Làm công việc gì, ở đâu, với nước nào, cũng đều phải đặt lợi ích quốc gia,
lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Trong bất cứ trường hợp nào cũng
đều phải giữ vững mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta đi theo định hướng
XHCN, không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đánh mất lợi ích chính trị xã
hội lâu dài.
o Góp phần thực hiện tốt các cam kết với tổ chức thương mại quốc tế WTO
và các quan hệ thương mại song phương khác để chứng tỏ rằng Việt Nam
là đối tác làm ăn tin cậy của họ. (kĩ năng làm việc nhóm)
Ch13: Phân tích tác động của hội nhập KTQT đến VN
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên kết giữa nền kinh tế VN với
nền kinh tế thế giới.
- Tác động tích cực:
o Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học – công nghệ, vốn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước.
o Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu KT theo hướng hợp lí, hiện đại
và hiệu quả hơn làm tăng khả năng thu hút khoa học – công nghệ hiện đại
và đầu tư bên ngoài vào nền KT.
o Tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc tế.
o Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cơ hội tìm kiếm
việc làm cả ở trong nước lần ngoài nước.
o Giúp hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về kinh tế phù hợp
với luật pháp, thông lệ quốc tế; từ đó tăng tính chủ động, tích cực trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
o Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị,
củng cố an ninh – quốc phòng, mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực của các
nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như: môi trường, biến đổi
khí hậu, phòng, chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
- Tác động tiêu cực:
o Làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp, ngành nghề
có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản.
o Làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường khu vực
và thế giới.
o Hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và
nhóm nước khác nhau trong xã hội. Do đó, dễ làm tăng khoảng cách giàu
nghèo, tụt hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội.
o Các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở thành “bãi
rác” công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới, bị cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
o Tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia,
vấn đề an ninh và ổn định trật tự, an toàn xh.
o Làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn át
bởi văn hóa nước ngoài.
o Tăng nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm
xuyên quốc gia, dịch bệnh, di dân, nhập cư bất hợp pháp…

You might also like