Professional Documents
Culture Documents
Le 28 s2.8
Le 28 s2.8
Như vậy, H.Selye quan niệm: “Stress là một phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể
trước những tình huống căng thẳng”. Ông nhấn mạnh: Stress có tính chất tổng hợp, chứ không phải
chỉ thể hiện trong một trạng thái bệnh lý. Stress thể hiện phản ứng sống, là phản ứng thích nghi không
đặc hiệu của cơ thể động vật với các tác động của môi trường.
1.1.3. Mô hình tương tác của Lazarus và Folkman
Nếu như Cannon và Selye xem stress như là trạng thái bên trong của cơ thể thì Holmes và Raha lại đề
cập stress từ các sự kiện bên ngoài cá nhân. Năm 1984, nhà tâm lý học Lazarus và cộng sự của mình
Folkman đưa ra mô hình:
Tình huống
stress
Chủ thể
T. H. Holmes vµ Rahe ®· x©y dùng nªn B¶ng liÖt kª c¸c sù kiÖn th-êng g©y stress, vµ gäi ®ã lµ
Thang §iÓm ThÝch Nghi X· Héi, ®-îc viÕt t¾t SRRS (the Social Readjustment Rating Scale). §iÓm SRRS
®-îc tÝnh b»ng c¸ch céng tÊt c¶ ®iÓm sè cña c¸c sù kiÖn mµ c¸ nh©n ®· tr·i qua trong n¨m tr-íc ®©y.
* Biểu hiện khi bị stress: Khi bị stress, con người có những biểu hiện (thay đổi) cả về
mặt thể chất và tâm lý (nhận thức, cảm xúc, hành vi).
+ Về mặt thể chất:
• Hơi thở dồn dập, tim đập nhanh
• Toát mồ hôi, run chân tay
• Đau nhói vùng ngực
• Ăn không ngon miệng, chán ăn
• Buồn nôn. Đau vùng dạ dày
• Đại/ tiểu tiện nhiều lần
• Mệt mỏi, uể oải, không muốn làm bất cứ việc gì
• Cơ bắp căng mỏi. Đau nhức xương khớp (bả vai, chân tay..) ….
+ Về tâm lý:
Về Nhận thức và Cảm xúc:
• Hay quên, hay nhầm lẫn
• Khó tập trung chú ý
• Suy nghĩ kém nhanh nhạy, linh hoạt
• Lo lắng, căng thẳng, bực bội, khó chịu
• Không còn thấy hứng thú trong công việc như trước
• Mất niềm tin
• Có cảm giác bị mọi người xa lánh, ác cảm với mình
• Dễ mất bình tĩnh, cáu gắt, nổi khùng với người khác
• Chán đời, có ý nghĩ tự sát ….
Về Hành vi, ứng xử:
• Ăn hoặc uống quá nhiều như một cách để giải khuây.
• Trầm tính, ít nói, suy nghĩ miên man.
• Nói nhiều, nói quá to, dễ cắt ngang lời người khác.
• Thu mình lại, né tránh, hạn chế gặp gỡ với người khác.
• Làm việc uể oải, không còn tích cực, nhiệt tình như trước.
• Uống rượu, bia…để có cảm giác thoải mái, giảm căng thẳng.
• Uống thuốc an thần.
• Có nhiều sai sót hơn trong công việc.
• Có hành vi chống đối, phá hoại….
* Mức độ stress:
Có rất nhiều cách phân chia mức độ stress, thông thường người ta chia thành: mức độ ít
căng thẳng, mức độ căng thẳng, mức độ rất căng thẳng.
* Phân loại stress:
Có nhiều cách phân loại stress:
• H.Selye: có stress bình thường (Eustress), stress bệnh lý (Dystress)
• Lary K.Olsen, Kerry J Redican: có Stress sinh thái, Stress tâm lý - xã hội, Stress nhân
cách
• L.A.Kitaepxmux: có Stress cảm xúc - ứng xử, stress thực vật, stress nhận thức, stress tâm
lý - xã hội.
1.2. Các giai đoạn của phản ứng stress: Theo H.Selye, phản ứng stress gồm 3 giai đoạn.
Stressor
- Một số tác giả (Cooper, 2005) đưa ra chiến lược ứng phó thứ ba: chiến lược tập trung vào các mối
quan hệ (Relationship-focused Coping). Tuy nhiên trong tình huống stress, việc cá nhân chia sẻ, trao
đổi, hỏi ý kiến người khác cũng là nhằm lựa chọn chiến lược ứng phó được cho là phù hợp. Và như
chúng ta cũng thấy, để ứng phó với stress, con người có thể sử dụng cả 2 chiến lược một cách đồng thời
hoặc đan xen nhau.
1.4.3. Một số vấn đề liên quan đến ứng phó
Việc cá nhân lựa chọn chiến lược ứng phó nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
• Loại vấn đề. Khi gặp stress trong công việc, stress nghề nghiệp, con người thường lựa chọn chiến
lược ứng phó tập trung vào vấn đề. Trong khi đó, để ứng phó với stress gia đình, chiến lược tập
trung vào cảm xúc thường được lựa chọn nhiều hơn.
• Khả năng kiểm soát vấn đề. Nếu cá nhân có khả năng kiểm soát được tác nhân gây stress và tình
huống nói chung, chiến lược ứng phó tập trung vào vấn đề thường được ưu tiên lựa chọn. Còn nếu
không có khả năng kiểm soát được tình huống thì chiến lược tập trung vào cảm xúc được lựa chọn
nhiều hơn.
• Lứa tuổi. Tuổi trẻ thích lựa chọn chiến lược tập trung vào vấn đề, trong khi người trung niên và
người già thường lựa chọn chiến lược tập trung vào cảm xúc.
• Giới. Nữ giới thường thích lựa chọn chiến lược tập trung vào cảm xúc, còn nam giới thích theo
chiến lược tâp trung vào vấn đề.
• Ảnh hưởng bên ngoài. Học vấn của chủ thể, khả năng tài chính, nền giáo dục của gia đình cũng
có ảnh hưởng đến việc lựa chọn chiến lược và kết quả của ứng phó. Ngoài ra, sự hỗ trợ tâm lý từ
phía bên ngoài, đặc biệt là từ những người thân trong gia đình hay bạn bè đều có ảnh hưởng đến
ứng phó của chủ thể.
Sự phát sinh, phát triển trạng thái stress và khả năng thích ứng trước tình huống stress của con người
liên quan chặt chẽ với hoạt động của hệ thống thần kinh - thể dịch, trước hết là hệ thống thần kinh trung
ương - dưới đồi - tuyến yên và tuyến thượng thận .
2.1. Hệ thần kinh trung ương
Từ những thông tin thu được qua hoạt động của các giác quan; từ hoạt động trí tuệ và cảm xúc, vỏ não
đã chủ động đánh giá tình huống stress. Những đáp ứng của cơ thể về mặt sinh lý, sinh lý bệnh đối với
tình huống stress phụ thuộc nhiều vào kết quả đánh giá này.
Các phản ứng hormon trước tình huống stress tuy không mang tính phản xạ, song nó phụ thuộc nhiều
vào tình trạng hiện tại, mức độ cảm ứng và sự tập nhiễm của chủ thể. Chính phản ứng thể dịch nay là
yếu tố giúp chủ thể đánh giá đầy đủ hơn tình huống stress và huy động được khả năng có thể có để đối
phó với nó.
Khi hệ thần kinh trung ương tham gia vào chức năng nhận thức và cảm xúc các phản ứng thích nghi
thần kinh - tập tính, thì vùng hải mã được xem là ngã tư chính của sự thích nghi này, vì đây là vùng có
các thụ thể chứa glucocorticoid. Căn cứ vào cảm ứng của cơ thể với glucocorticoid, có thể chia thành
hai nhóm người:
Nhóm I, gồm những người có cảm ứng với sự thay đổi vừa phải lượng glucocorticoid hàng ngày.
Nhóm II, gồm những người có cảm ứng với một số lượng lớn glucocorticoid bài tiết trong tình huống
stress.
Nếu giải định rằng, stress cấp tính gây ra sự tập nhiễm bằng cách hoạt hóa các thụ thể nhóm II, thì stress
kéo dài sẽ gây ra sự giảm cảm ứng thứ phát của các thụ thể nhóm I. Và như vậy, chủ thể bị rối loạn thích
nghi là bởi vì họ có những thiếu sót trong việc học tập, rèn luyện các tập tính.
2.2. Hệ thần kinh giao cảm và tuyến tủy thượng thận
2.2.1. Sự phóng thích catecholamin
Tủy thượng thận có chung nguồn gốc phôi thai với hệ thần kinh giao cảm. Ngay trong những phản ứng
khẩn cấp đầu tiên của quá trình đáp ứng tình huống stress (trong giai đoạn báo động), hệ thần kinh giao
cảm và tuyến tủy thượng thận đã được hoạt hóa. Catecholamin dự trữ (adrenalin trong các đầu mút của
thần kinh giao cảm; noradrenalin trong các tuyến tủy thượng thận) được giải phóng và kích thích cơ thể
hoạt động, tạo nên đáp ứng thích nghi sinh học tức thời (kéo dài trong vài phút).
2.2.2. Sự báo động về mặt tâm lý và cơ thể
Adrenalin và noradrenalin được phóng thích vào máu đã làm cho nhịp tim tăng lên (tăng lực co bóp tâm
thu) và nâng cao huyết áp động mạch, do đó xảy ra hiện tượng phân phối lại máu trong cơ thể theo
hướng có lợi cho cơ bắp và có hại cho nội tạng. Các catecholamin giải phóng còn gây co mạch ngoại vi,
tăng trao đổi khí, tăng chuyển hóa, tăng trương lực các cơ và làm hưng phấn hệ thần kinh... Cảm giác
sợ là một trong những đáp ứng quá mức của chủ thể đối với những thay đổi trên.
Rõ ràng là trong giai đoạn đầu của trạng thái stress, catecholamin tiết mạnh vào máu, làm tăng phản ứng
bảo vệ và nâng cao sức chống đỡ cho cơ thể.
Sự thủy phân ATP (adenotriphosphat) có sẵn trong cơ bắp đã tạo ra một năng lượng tức thì bù đắp cho
cơ thể hoạt động (trong vài giây). Nguồn năng lượng cần bổ sung tiếp theo được lấy từ sự thủy phân
glycogen và mỡ.
Canxi và magie tham gia tích cực vào cơ chế điều hòa quá trình giải phóng các chất trung gian hóa học
(như acetylcholin). Việc tổng hợp các chất trung gian hóa học và sự dẫn truyền xung động qua các tế
bào thần kinh rất cần đến vitamin nhóm B.
2.3. Hệ thống dưới đồi - tuyến yên - tuyến vỏ thượng thận
2.3.1. Những nét đặc trưng của hệ thống
Vùng dưới đồi thị (hypothalamus) qui tụ nhiều luồng cảm giác hướng tâm và có đường liên hệ với các
cấu trúc khác của hệ thần kinh trung ương, đặc biệt là hệ limbic. Nó không những tham gia điều hòa quá
trình sinh lý hệ thần kinh thực vật mà còn tham gia điều hòa các tập tính (như trạng thái thức - ngủ, no
- đói...) và các chức năng nội tiết của cơ thể. Hormon được tiết ra từ hypothalamus là các hormon giải
phóng (RH - releazing hormon) và hormon ức chế (IH - inhibiting hormon).
Trong tình huống stress, thông qua hoạt động trung gian của các nhân cạnh não thất, vùng dưới đồi tham
gia trước tiên vào việc giải phóng corticoliberine và gắn nó vào thụ thể tế bào hướng vỏ thượng thận của
tuyến yên để gây tiết ở đó những hormon tương ứng. Chỉ có hai hormon (vasopressin và oxytoxin) được
đổ thẳng vào máu và gây tác dụng trực tiếp lên các cơ quan.
Tuyến yên (hypophysis) có ba thùy, phát triển từ ba nguồn gốc phôi thai, trong đó thùy trước là quan
trọng hơn cả. Trong tình huống stress, dưới ảnh hưởng của các hormon thuộc hypothalamus, thùy trước
tiết ra hai nhóm hormon tác dụng trên các chức năng chuyển hóa và sinh dục. Ngoài ra, khi bị kích thích
mạnh, đặc biệt là kích thích đau, tuyến yên còn tiết ra các chất endorphin và encephalin...
Tuyến vỏ thượng thận, dưới ảnh hưởng của chất ACTH (adreno - cortico - tropin - hormon) thuộc tuyến
yên, đã tiết ra ba loại corticoit:
• Glucocorticoit, có tác dụng chuyển hóa đường, đạm, mỡ và chống viêm, chống dị ứng...
• Corticoit khoáng (mineralocorticoit), có tác dụng chuyển hóa nước và các chất điện giải.
• Các hormon sinh dục như androsteron, oestrogen và progesteron...
Trong tình huống stress, một lượng quan trọng glucocorticoit được vỏ thượng thận khẩn cấp tiết ra. Chất
này sử dụng một lượng lớn vitamin C để điều hòa sự tổng hợp cortisol (do đó nồng độ vitamin C trong
huyết tương bị giảm xuống khi bị stress). Những đáp ứng sau khi kích thích vỏ thượng thận diễn ra chậm
hơn vài phút so với việc phóng thích catecholamin, song lại kéo dài lâu hơn.
Song song với cơ chế tác động điều tiết thuận (từ vùng dưới đồi - tuyến yên đến các tuyến đích, như
tuyến thượng thận) là cơ chế điều tiết ngược (feed-back). Có cơ chế điều tiết ngược âm tính (kìm hãm)
và cơ chế điều tiết ngược dương tính (thúc đẩy tuyến trên sản xuất hormon). Sự điều tiết ngược có thể
đi theo đường dài hoặc theo đường ngắn và cực ngắn. Điều khiển ngược đường dài được thực hiện nhờ
trong hypothalamus và trong tuyến yên có các receptor tiếp nhận hormon từ tuyến đích. Điều khiển
ngược đường ngắn được thực hiện nhờ trong hypothalamus có các receptor tiếp nhận hormon do tuyến
yên tiết ra. Và điều khiển ngược cực ngắn được thực hiện nhờ trong hypothalamus có các receptor tiếp
nhận hormon do chính nó tiết ra. Những sự điều tiết thuận và ngược chiều này là cơ sở sinh học giúp
cho chủ thể đương đầu với các tình huống stress.
2.3.2. Các phản ứng khẩn cấp liên tục dưới tác dụng của cortisol
Hoạt động của hệ thống dưới đồi - tuyến yên - tuyến vỏ thượng thận đã giúp tạo ra các phản ứng chủ
yếu để cơ thể đương đầu với tình huống stress. Thông thường các phản ứng tồn tại không quá hai giờ.
Nếu tình huống stress quá kéo dài thì tình trạng báo động vẫn được duy trì, tác dụng kìm hãm của
glucocorticoid trong máu sẽ kém đi và do đó, phản ứng điều hòa cũng giảm dần.
Glucocorticoid được giải phóng đã tạo ra tác dụng kép:
• Giúp tạo ra năng lượng để chủ thể duy trì khả năng thích nghi. Trong phản ứng báo động, lượng
glycogen dự trữ bị giảm nhanh (do phải huy động để phóng thích adrenalin, tạo ra ATP và thực
hiện phản ứng enzym với sự tham gia của các vitamin nhóm B, nhóm C và magie). Nhờ có
glucocorticoid mà chất mỡ, chất đạm được phân hủy để tạo ra glycogen mới.
• Giúp kìm hãm các phản ứng quá mức của một số hệ thống trong tình huống stress (như phản ứng
tiết insulin, vasopressine; phản ứng gây viêm, gây miễn dịch), vì nếu để các phản ứng này vượt
quá mức bình thường thì chúng không còn chức năng bảo vệ mà trái lại, tấn công vào những nơi
chúng bảo vệ.
2.3.3. Tác động của một số chất khác của vùng dưới đồi, tuyến yên
ACTH là chất vốn liên quan đến corticoliberine, có nguồn gốc từ propiomelano - corticotrophine (một
tiền chất hormon, khi bị phân hủy sẽ tạo ra nhiều chất khác nhau như các peptit dạng thuốc phiện và đặc
biệt là betaendorphine, có tác dụng đối với ngưỡng cảm giác đau).
Các peptit khác của vùng dưới đồi tác dụng lên tuyến yên, điều hòa sinh học (như điều hoà huyết áp) là
arginine, vasopressin, angiotensin II...
Sự bài tiết hormon tăng trưởng (GH - growth hormon) phụ thuộc vào hai tiền chất là somatostatin kìm
hãm và somatostatin kích thích. Trong một số tình huống stress, khó có thể phân biệt được chúng tác
động lên tiền chất kìm hãm hay làm giảm tiền chất kích thích để giảm bài tiết hormon tăng trưởng. Một
số trẻ em do tình huống stress làm giảm tiết lượng hormon tăng trưởng nên bị hội chứng lùn tâm lý - xã
hội.
Các tình huống stress cũng tác động lên quá trình bài tiết hormon sinh dục. Nhiều phụ nữ do xung đột
tâm lý mà tắt kinh, mất kinh. Nhiều trẻ em, nhất là những trẻ em thiếu thốn tình cảm hoặc bị ngược đãi,
khi gặp tình huống stress, có thể xuất hiện chứng thiểu năng sinh dục (do nguyên nhân dưới đồi thị).
Ngoài ra, trong giai đoạn báo động, người ta còn thấy tuyến cận giáp trạng tăng tiết parahormon, làm
tăng canxi huyết, kích thích phân giải glucogen, lipit và tăng tổng hợp prôtit...
Gần đây, người ta còn thấy tuyến tùng cũng tăng cường hoạt động trong pha cơ thể thích nghi với stress.
Rõ ràng là có mối liên quan chặt chẽ giữa nhân tố tâm lý và sinh lý của chủ thể trong tình huống stress.
Hệ thần kinh trung ương có vai trò quan trọng trong việc điều hoà các hormon và duy trì mức độ đáp
ứng của hormon ngoại biên. Vì vậy, khi phải đương đầu với tình huống stress, không phải chủ thể chỉ
đáp ứng bằng phản xạ đơn thuần mà còn đáp ứng bằng ý chí, cảm xúc và trí tuệ...
Xơ vữa mạch
Stress kéo dài Cơn đau tim
máu
Stress cấp
* Đối với học sinh, sinh viên, môi trường học tập cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến
sức khỏe tinh thần và cũng là nguyên nhân có thể gây ra những bệnh tật cho lứa tuổi này. Xã
hội ngày càng phát triển và cũng đặt ra cho thế hệ trẻ yêu cầu ngày càng cao về việc trau dồi tri
thức, chuyên môn nghề nghiệp. Và đối với nhiều học sinh, sinh viên điều đó đã tạo nên những
áp lực hết sức to lớn: Nội dung học tập nhiều và khó; phải vượt qua các kỳ thi để đạt thành tích
cao, nhất là trong các kỳ thi chuyển cấp và vào đại học; nhiều bậc phụ huynh đặt kỳ vọng quá
cao: con em phải thi được vào trường chuyên, lớp chọn; sự ganh đua, cạnh tranh thường xuyên
diễn ra trong môi trường học tập … Không ít học sinh, sinh viên đến kỳ thi lại có những biểu
hiện suy giảm trí nhớ, không tập trung chú ý, kết quả học tập giảm sút, thậm chí nhiều học sinh
không đạt được ước vọng của mình (thi trượt đại học ..) đã bị rối loạn tâm thần, trầm cảm và
phải vào bệnh viện điều trị.
Nguyên nhân gây ra stress trong hoạt động nghề nghiệp ở CBYT
Như chúng ta đã biết, stress trong hoạt động NN nảy sinh do sự mất cân bằng giữa các
điều kiện, yêu cầu của công việc với khả năng đáp ứng của người lao động. Do vậy, có rất nhiều
nguyên nhân gây ra stress trong công việc ở người CBYT, nó có thể bắt nguồn từ các yếu tố
trong hoạt động nghề nghiệp hay từ bản thân họ.
a. Nhóm các nguyên nhân xuất phát từ điều kiện, môi trường làm việc
Môi trường, điều kiện làm việc đặc thù của người CBYT là một trong những yếu tố quan
trọng dẫn đến stress ở họ. Thực tế cho thấy, CBYT thường xuyên phải làm việc trong môi trường
đông người; không gian ở các khoa phòng chật chội, thiếu không khí, không đảm bảo đủ ánh
sáng, vệ sinh. Hàng ngày, họ phải chịu một sự quá tải về khối lượng công việc; Cường độ làm
việc lớn; Công việc đòi hỏi trách nhiệm rất cao (không cho phép sai sót); Phải đưa ra những
quyết định xử trí kịp thời trước những tình huống khẩn cấp và thường xuyên chịu áp lực từ phía
cấp trên, từ bệnh nhân và người nhà của họ. Các điều kiện lao động như vậy đã dẫn đến hậu quả
mệt mỏi về thể chất và căng thẳng về tinh thần ở người CBYT.
b. Nhóm các nguyên nhân xuất phát từ sự phát triển nghề nghiệp
Thường thì người CBYT cũng như bao người lao động khác mang nhiều ước vọng khi
đến với nghề. Họ mong muốn được học hỏi những điều mới mẻ và làm việc trong điều kiện tốt
nhất, được tự do trong NN và tăng khả năng thu nhập.Tuy nhiên, thực tế có thể không đạt được
như vậy. Có 4 yếu tố trong sự phát triển NN có thể gây nên stress ở người CBYT, đó là: kém
thúc đẩy NN, thúc đẩy quá mức, thiếu an toàn trong NN và những tham vọng bị hụt hẫng. Những
vấn đề này khiến cho họ giảm sút năng suất lao động và không mấy thiết tha với công việc.
c. Nhóm các nguyên nhân xuất phát từ cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của cơ quan, đơn vị cũng có thể tạo ra stress cho các nhân viên y tế trong
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ. Điều này có thể nảy sinh từ: Các chính sách của tổ chức (các
quy định và thủ tục hành chính cứng nhắc, nhiều khi chưa hợp lý); Cấu trúc tổ chức (mâu thuẫn
giữa các phòng ban và nhân viên; quyết định được tập trung hóa, sự phân chia chức năng chuyên
môn hóa cao) hay từ quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động của đơn vị (thiếu thông tin; thông tin
không chính xác; mục tiêu đưa ra còn mơ hồ, không rõ ràng, cách thức tổ chức không khoa học,
không phù hợp với thực tế của đơn vị…). Quá trình thay đổi tổ chức cũng là một nguồn gây stress
cho các nhân viên, sự cấu trúc lại các bộ phận khiến người CBYT bị đặt trước nguy cơ thuyên
chuyển vị trí công tác và thu nhập không đảm bảo, gây nên cảm giác thiếu tự tin, lo lắng.
d. Nhóm các nguyên nhân xuất phát từ vai trò, nhiệm vụ công việc
Trong quá trình công tác, sự mơ hồ về nhiệm vụ, công việc phải thực hiện (do thiếu thông
tin để tiến hành hoặc không hiểu rõ mình phải làm gì); trình độ chuyên môn, tay nghề còn hạn
chế đặc biệt khi phải xử lý những tình huống phức tạp dẫn đến sự mất tự tin, mặc cảm và căng
thẳng ở người CBYT. Bên cạnh đó, phải đảm nhiệm quá nhiều việc trong một thời gian, thậm
chí phải làm cả những việc không phải trách nhiệm của mình cũng khiến cho họ thấy bực bội,
khó chịu, mệt mỏi, lo lắng vì khó có thể hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn.
e. Nhóm các nguyên nhân xuất phát từ mối quan hệ giữa con người với con người trong công
việc
Có thể nói, trong môi trường công việc, mối quan hệ giữa các cá nhân như quan hệ với
cấp trên, đồng nghiệp, với bệnh nhân, cộng đồng cũng là những nguồn gây nên stress cho người
CBYT. Sự va chạm, xích mích, ganh đua hoặc ghen tỵ giữa các nhân viên về lợi ích vật chất hoặc chính
trị; Ít nhận được sự quan tâm, trợ giúp từ phía đồng nghiệp; Cấp trên không mấy quan tâm, hỗ
trợ cũng như độc đoán, bảo thủ trong điều hành công việc…là những tác nhân dễ đưa đến tình
trạng mệt mỏi, căng thẳng, không toại nguyện trong nghề nghiệp ở người CBYT.
g. Nhóm các nguyên nhân xuất phát từ bản thân người CBYT; Điểm giao nhau giữa gia đình và
nghề nghiệp
Các nghiên cứu về tâm lý học lao động cũng như về stress NN đã chỉ ra một trong những
nguồn gốc gây nên sự mệt mỏi, tăng thêm gánh nặng tinh thần trong công việc đó là các yếu tố
xuất phát từ điều kiện của bản thân người lao động, điểm giao nhau giữa gia đình và NN. Đối
với người CBYT, nhóm nguyên nhân này được thể hiện ở: Sự hiểu biết và kỹ năng ứng phó với
stress còn hạn chế; Điều kiện sức khỏe không tốt; Bản thân nóng nảy, khó kiềm chế cảm xúc; Ít
nhận được sự động viên, chia sẻ từ phía gia đình (vợ/chồng) khi gặp khó khăn trong công việc;
Hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, con cái đau ốm. Tất cả những điều đó có thể làm tăng
thêm sự mệt mỏi, chán nản, giảm động cơ và năng suất lao động của họ.
* Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động NN của các CBYT hiện nay có rất nhiều yếu tố
bất lợi, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe và là những tác nhân gây nên stress ở họ. Có những
nguyên nhân bắt nguồn từ phía công việc, môi trường công tác, có những nguyên nhân nảy sinh
từ phía chủ quan của người CBYT. Tất cả những yếu tố này đối với nhiều người đã trở thành
thử thách và cùng với sự nỗ lực của bản thân họ sẽ vượt qua, nhưng không ít người cảm thấy bị
áp lực lớn, từ đó tạo nên trạng thái stress và có thể đưa đến những hậu quả không lường. Vì vậy,
việc tìm hiểu nguyên nhân gây ra stress sẽ giúp cho người CBYT tìm ra được giải pháp thích
hợp để ứng phó, nhằm phòng ngừa hoặc giảm bớt những mệt mỏi, căng thẳng, giữ được sự cân
bằng về tinh thần trong công việc và cuộc sống.
4.3. Bị xã hội kỳ thị, cô lập (nhóm người nghèo, dân di cư, dân tộc thiểu số, những người dễ bị
tổn thương: HIV/nghiện ma túy, mại dâm, bị bệnh tâm thần, ra tù …).
4.4. Thiếu sự hỗ trợ xã hội (từ phía gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, các tổ chức XH, cộng
đồng…).
4.5. Thay đổi của hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội (lối sống, hành vi sống thử, bạo lực
giới, quá coi trọng giá trị vật chất …).
4.6. Yếu tố thuộc về bản thân (yếu tố chủ quan của mỗi người)
- Trước hết phải kể đến sự nhận thức, đánh giá về các tác động, khả năng đáp ứng cũng
như khả năng làm chủ tình huống của chủ thể - đó cũng là tác nhân có thể gây ra stress. Khả
năng đáp ứng của chủ thể lại phụ thuộc phần lớn vào việc họ đánh giá tình huống như thế nào.
- Chủ thể có thể nhận thức và đánh giá khác nhau về cùng một sự kiện. Họ có thể cảm thấy
tình huống nguy hiểm và cho rằng không thể chống đỡ được, từ đó xuất hiện sự căng thẳng, lo
lắng. Ngược lại, nếu chủ thể nghĩ rằng có thể giải quyết được và tìm ra biện pháp giải quyết thì
phản ứng stress sẽ được thích nghi (nếu sự đánh giá đó tương ứng với khả năng hiện có).
- Trong thực tế, những phản ứng stress xuất hiện có thể do chủ thể đánh giá sai tình huống
và khả năng của mình. Có thể thấy điều này trong cuộc sống và công việc, đôi khi xảy ra sự
không tương xứng giữa đòi hỏi của nhiệm vụ với khả năng của con người, đưa đến sự quá tải
tâm lý, được xem như một nhân tố bên ngoài gây stress. Ngược lại, có những tình huống mà chủ
thể không có điều kiện thể hiện hết năng lực của mình. Họ phải thực hiện những nhiệm vụ thấp
hơn khả năng, điều đó gây ra tâm trạng chán nản, do có sự dưới tải tâm lý. Hiện tượng này cũng
được xem như một nhân tố bên trong gây stress do mất cân đối giữa nhu cầu, nguyện vọng và
sự thoả mãn của chủ thể.
- Cách suy nghĩ tiêu cực của mỗi cá nhân không chỉ là những suy nghĩ bất lợi cho mình
mà còn bất lợi cho người khác, cũng như việc không nhận thức được vấn đề, nhìn nhận sai lệch
quy luật cuộc sống hoặc không dám chấp nhận sự thật của cá nhân cũng là nguyên nhân gây ra
stress, “Stress chính là hậu quả điển hình của những suy nghĩ tiêu cực”.
- Bên cạnh đó, điều kiện sức khỏe thể chất, đời sống xúc cảm, tình cảm cũng như đặc điểm
về tính cách, khí chất, vốn kinh nghiệm sống và kỹ năng giải quyết vấn đề cũng là những yếu tố
chủ quan dẫn đến stress ở con người.
5.ẢNH HƯỞNG CỦA STRESS:
Stress có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến cá nhân, gia đình và xã hội trên nhiều khía cạnh.
5.1. Đối với cá nhân:
- Tác động tích cực: Ở một mức độ nhất định, stress:
+ Kích thích con người phấn chấn, hăng hái, hoạt động tích cực hơn và đạt hiệu quả cao hơn,
nâng cao trạng thái sẵn sàng đối phó của cơ thể với mọi hoàn cảnh, tình huống của cuộc sống.
+ Là thử thách tôi luyện bản lĩnh, ý chí con người, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc sống và
hoàn thành tốt nhiệm vụ, thích ứng được với hoàn cảnh trong những điều kiện nhất định.
- Tuy nhiên, stress cũng ảnh hưởng tiêu cực đến con người:
+ Stress ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý:
. Cảm xúc là một yếu tố cần thiết đảm bảo năng suất lao động và tùy theo yêu cầu công việc, mà cần
phải có một mức độ căng thẳng cảm xúc (stress) nhất định. Trường hợp stress mạnh vượt quá khả năng
đáp ứng của chủ thể, sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với khả năng lao động. Mặt khác, trạng
thái nghèo nàn cảm xúc cũng bất lợi và không thể tạo ra năng suất cao như trong các tình huống mà tính
chất công việc đơn điệu, động tác máy móc, lặp đi lặp lại, ít được tiếp xúc với đồng nghiệp…
. Stress ảnh hưởng không tốt đến hoạt động nhận thức, làm tư duy kém linh hoạt, trí nhớ và sự tập trung
chú ý giảm bị sút.
. Stress làm giảm hứng thú hoạt động, gây nên trạng thái căng thẳng, lo âu, chán nản … dẫn đến những
hành vi tiêu cực (bỏ bê công việc, gây gổ với người khác, hạn chế giao tiếp, chống đối…).
+ Stress ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của con người:
. Stress tiêu cực khiến cơ thể mệt mỏi, kiệt sức, mất ngủ, giảm khả năng lao động trí óc và chân tay…
. Khi con người không tự điều chỉnh để lấy lại cân bằng tâm sinh lý, stress có thể gây ra bệnh tật: suy
giảm hệ thống miễn dịch, tim mạch, huyết áp, tiểu đường, ung thư … thậm chí gây tử vong. Giáo sư
Meyer Friedman và giáo sư Ray Rosenman trong cuốn “Typ A Behaviour and Your Heart” đã chỉ ra
cùng với các yếu tố khác, stress là căn nguyên dẫn đến bệnh xơ vữa động mạch. Stress mãn tính còn có
thể làm nặng thêm các bệnh lý cơ thể hoặc tâm thần sẵn có. Tuy nhiên stress có gây bệnh hay không còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố quan trọng là tính chất gây bệnh của stress và sức
chống đỡ của mỗi người.
5.2. Đối với gia đình:
Khi một thành viên trong gia đình bị stress thì các thành viên khác cũng bị ảnh hưởng, khiến cho:
- Các mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ - con cái trở nên căng thẳng. Theo GS. Đặng Phương
Kiệt:“stress trong gia đình làm tăng tính nhạy cảm của các thành viên với sự đau khổ thể chất và tinh
thần”.
- Mọi sinh hoạt thường ngày trong gia đình có thể bị đảo lộn (ăn uống không đúng giờ giấc, công
việc gia đình không ai quan tâm…).
5.3. Stress ảnh hưởng đến xã hội
- Ở nhiều nước, thống kê cho thấy thiệt hại về kinh tế do stress gây ra là rất lớn. Trong cuốn Stress và
đời sống (1998), GS. Đặng Phương Kiệt đã tổng hợp và đưa ra những dẫn chứng như: Ở Na Uy, chi phí
cho những vấn đề liên quan đến stress chiếm 10% GDP. Ở Anh stress nghề nghiệp làm mất 1,8 tỷ ngày
công. Ở Mỹ, ước tính số giờ nghỉ việc của người lao động chiếm tới 3,5% tổng số giờ lao động và hàng
năm lĩnh vực kinh doanh đã thất thoát 32,8 tỷ đô la do giảm năng suất. Ở Việt Nam tuy chưa có một
thống kê nào về thiệt hại do stress đưa lại, song hàng năm, nhà nước phải chi ra những khoản tiền không
nhỏ để chữa trị nhiều căn bệnh có liên quan đến stress (tim mạch, huyết áp, dạ dày, trầm cảm…), cũng
như chữa trị những người bị tai nạn nghề nghiệp (mà nguyên nhân có thể do sự quá mệt mỏi, căng thẳng
trong công việc).
- Mặt khác, khi bị stress, con người lại dùng thêm các chất kích thích (bia, rượu…) có thể sẽ dẫn tới
những hành vi gây gổ, xung đột với người khác, làm mất an ninh trật tự xã hội.