Professional Documents
Culture Documents
1. Hành chính:
1.1. Tên bài giảng: ÁP XE GAN
1.2. Đối tượng: Bác sĩ CKI nội tổng quát
1.3. Số lượng:
1.4. Thời gian: 2 tiết
1.5. Địa điểm: Giảng đường
1.6. Giảng viên: Ts. Bs Huỳnh Hiếu Tâm
1.7. Bộ môn: Nội tổng quát
2. Mục tiêu:
2.1. Chẩn đoán được áp xe gan.
2.2. Điều trị được áp xe gan.
3. Nội dung:
Bệnh amip ở nước ta rất phổ biến, vì nước ta ở vùng nhiệt đới thích hợp cho
sự phát triển của amip, trong số các ápxe gan, áp xe gan do amip là phổ biến nhất
chiếm 80% trường hợp.
Tại gan, amip phát triển làm tắc các tĩnh mạch nhỏ đưa đến nhồi máu và
hoại tử các tế bào gan tạo ra các ổ mủ vô trùng; nhiều ổ mủ nhỏ hợp nhau thành ổ
mủ lớn.
Áp xe gan do amip là một bệnh nguy hiểm có thể gây tử vong và nhiều biến
chứng nặng nề. Bệnh có thể được chữa khỏi hoàn toàn nếu được chẩn đoán sớm
và điều trị đúng.
Ở trong ruột, trophozoid chui qua niêm mạc manh tràng vào mạch máu
(tĩnh mạch mạc treo đại tràng) đến gan, dừng lại ở các xoang gan, đầu tiên chúng
gây ra các vi huyết khối làm tắc mạch và hoại tử tế bào gan. Giai đoạn này trước
đây gọi là viêm gan, giai đoạn này diễn ra rất ngắn ngủi và không triệu chứng.
Nhiều ổ vi hoại tử sẽ hợp với nhau tạo thành áp xe.
Thường được chia thành hai thời kỳ: Thời kỳ viêm gan và thời kỳ tạo mủ.
Nhưng thực hai hai thời kỳ này diễn ra rất nhanh, rất khó phân biệt rõ rang.
Gan to, ứ máu, màu tím, nhu mô có những nốt màu xám rải rác xen lẫn
với những vùng xuất huyết.
3.2.3.TRIỆU CHỨNG
Giới:
Nam bị nhiều hơn nữ gấp 10 lần.
Tuổi:
Có thể gặp ở trẻ em đến người cao tuổi 70- 80 tuổi, hay gặp ở lứa tuổi 20-
40, trẻ em dưới 10 tuổi và người già trên 70 tuổi rất ít gặp hoặc hãn hữu.
Cơ địa:
Sốt: Rất hay gặp trong 70% trường hợp, có thể sốt cao 39-
40oChoặc thấp 37,5- 38 0C, có thể chỉ sốt 1-2 ngày hoặc kéo dài
2- 3 tuần, sốt không có đặc điểm gì riêng biệt.
Đau hạ sườn phải và vùng gan chiếm 100% trường hợp, mức độ
đau khác nhau tùy trường hợp có thể từ cảm giác nặng nề đến mức
khó chịu, đau lan lên ngực phải và vai phải tăng lên khi cử động,
khi ho, cảm giác đau âm ỉ không thành cơn, có điểm đau trội
thường ở liên sườn 9 đường nách giữa, da ở chỗ đau có thể phù
nề, sưng tấy và nóng hơn chỗ da bình thường.
Gan to và đau, mềm, mặt nhẵn, rung gan (+), ấn kẽ sườn (+)
thường ở liên sườn 9 đường nách giữa.
Vàng da niêm: hiếm khi áp xe gan do amip có vàng da niêm, nếu
có vàng da niêm chẩn đoán áp xe gan do amip trở nên phức tạp
hơn, thường nhầm với áp xe đường mật hoặc nó là dấu hiệu nặng
của bệnh.
Lách to: hiếm gặp, nếu có cũng là dấu hiệu nặng của bệnh.
Máu:
Bạch cầu thường tăng cao (10000- 12000/mm3)
Tốc độ máu lắng tăng
X quang:
Bóng cơ hoành phải bị nâng cao.
Đáy phổi phải có thể bị mờ do tràn dịch phản ứng.
Siêu âm gan:
Là phương tiện giúp chẩn đoán và theo dõi diễn tiến của áp xe
gan rất tốt; giúp xác định vị trí ổ mủ và hướng dẫn chọc dò.
Hình ảnh siêu âm ổ áp xe là một ổ giảm âm đồng nhất hoặc
không đồng nhất có bóng tăng sáng ở phía sau có thể nhìn thấy
dịch chuyển động trong ổ áp xe, siêu âm có thể nhầm ổ áp xe
với nang gan, khối ung thư.
Trong một số trường hợp siêu âm chưa đủ tin cậy mới cần chụp
cộng hưởng từ hoặc cắt lớp vi tính. Hình ảnh ổ áp xe trên chụp cắt
lớp vi tính cũng giống như trên siêu âm nhưng không thấy dịch
chuyển động.
Huyết thanh chẩn đoán amip (+) trong 95% trường hợp.
Theo vị trí
Áp xe ở đỉnh:
Áp xe mặt sau:
Có thể gây đau thắt lưng.
Ấn kẽ sườn (-).
Gan có thể không to.
Áp xe thùy trái:
Có thể vỡ vào màng tim gây chèn ép tim cấp.
Theo triệu chứng
Áp xe amip lạnh:
Không sốt, hoặc sốt nhẹ.
Đau nhẹ vùng gan hoặc không đau, rung gan (-).
Gan có thể không to.
Thể này thường gặp nhất.
Có 3 trong 4 tiêu chuẩn có thể chẩn đoán xác định. Ngày nay, ngoài 4
tiêu chuẩn trên còn có:
Huyết thanh chẩn đoán amip.
Siêu âm: giúp phát hiện sớm ổ áp xe (90% ở thùy phải), giúp điều
trị và theo dõi bệnh.
Áp xe gan do vi trùng:
Đau vùng gan.
Có nhiễm trùng huyết: sốt cao kèm lạnh run, môi khô lưỡi dơ.
Vàng da, niêm.
Siêu âm: có nhiều ổ áp xe rãi rác trong gan.
Chọc hút mủ màu vàng hôi, nuôi cấy mủ làm ELISA và PCR với
mủ áp xe. Nếu không chọc hút được mủ thì làm phản ứng ELISA
huyết thanh với amip.
Cũng rất hay chẩn đoán nhầm với áp xe gan do amip vì giữa hai bệnh có
nhiều điểm giống nhau về lâm sàng, hình ảnh học... Cách tốt nhất vẫn là làm các
phản ứng huyết thanh ELISA với amip hay sán lá gan, hoặc điều trị thử nếu khó
phân biệt.
Nang gan:
Hình ảnh học áp xe gan và nang gan đôi khi giống nhau. Nang gan thường
tròn, bờ rất rõ. Cần dựa vào lâm sàng, phản ứng huyết thanh và chọc dò nếu cần
để phân biệt giữa nang gan và áp xe gan.
Áp xe gan do amip có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm gây tử vong nếu
bệnh nhân đến muộn. Đôi khi bệnh nhân đến bệnh viện với biến chứng làm cho
chẩn đoán nhầm. Có 3 loại biến chứng:
Vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể, biến chứng này rất
hay gặp. Đột nhiên bệnh nhân đau bụng, sốt, bụng gồng cứng,
khám thấy có dịch trong ổ bụng, chọc dò hút được mủ. Nếu không
can thiệp kịp thời bằng mổ dẫn lưu ổ bụng, bệnh nhân có thể tử
vong do sốc nhiễm khuẩn. Áp xe gan do amip có thể vỡ vào ổ
bụng gây viêm phúc mạc khu trú: ổ áp xe vỡ ra nhưng lập tức
được các tạng lân cận và mạc nối đến bao vây tạo nên ổ mủ khu
trú rất khó chẩn đoán.
Vỡ vào phổi và màng phổi: Do ổ áp xe ở đỉnh gan phải, gây thủng
cơ hoành và vỡ thẳng vào phổi gây ộc mủ hoặc khạc mủ. Biến
chứng này có thể tốt nếu ổ áp xe vỡ thẳng vào phế quản lớn, nhưng
cũng có thể nguy hiểm hơn nếu nó không thông với phế quản đủ
lớn, lúc đó nó sẽ tạo thành ổ áp xe phổi. Ổ áp xe có thể gây tổn
thương cơ hoành và vỡ vào khoang màng phổi đưa đến tràn dịch
màng phổi phải, nếu nhiều sẽ gây khó thở, nếu không can thiệp
kịp thời bệnh nhân sẽ tử vong do khó thở.
Vỡ vào màng tim gây triệu chứng giống suy tim hay chèn ép tim
rất nguy hiểm, nếu không can thiệp kịp thời cũng có thể gây tử
vong do ép tim cấp. Ổ áp xe gan trái hay gây biến chứng này.
Biến chứng nung mủ kéo dài: Cơ thể ngày càng suy kiệt dẫn đến amyloid.
Biến chứng này hiện nay không cò nữa vì các phương tiện chẩn đoán cho phép
phát hiện áp xe rất sớm.
Áp xe gan do amip là bệnh có thể điều trị được bằng nội khoa,kết hợp với
chọc hút qua siêu âm khi ổ mủ lớn và phải phẫu thuật khi có biến chứng vỡ ổ áp
xe.
Là bệnh nếu điều trị sớm, thích hợp có thể khỏi hẳn không để lại di chứng.
Là kháng sinh diệt amip trong và ngoài ruột hữu hiệu, đang được
ưa chuộng để dùng trong điều trị áp xe gan do amip; hơn 90%
bệnh nhân đáp ứng với điều trị như giảm đau và sốt trong
vòng 72 giờ.
Là kháng sinh thuộc họ Nitro- 5 imidazol (Metronidazole,
Tinidazole, Secnidazole, Ornidazole…)
Tác dụng phụ: nhức đầu, nôn ói, đau cơ.
Liều dùng: 750 mg x 3 lần/ngày x 5- 10 ngày. Trung bình 2g/ngày.
Tinidazole, Secnidazole, Ornidazole uống 01gx 2 lần/ngày x 10
ngày.
Có thể dùng metronidazole dạng truyền tĩnh mạch 0,5g/chai 100ml
x3 lần/ngày trong 10 ngày.
Là kháng sinh diệt amip ngoài ruột dùng điều trị phòng ngừa
tái phát trong áp xe gan do amip.
Liều dùng: Hai ngày đầu: 1g/ngày
Các ngày sau: 500 mg/ngày x 4 tuần.
Phối hợp kháng sinh phổ rộng (như áp xe gan do vi trùng) nếu có bội nhiễm.
Các yếu tố nghĩ đến áp xe gan do amip có bội nhiễm là:
Sau điều tri 72 giờ bệnh không thuyên giảm
Áp xe gan có biểu hiện vàng da- niêm
Chọc hút mủ ổ áp xe không là màu chocola, không hôi mà là màu vàng, hôi
Sốt cao kèm lạnh run
Trường hợp ổ áp xe ở thùy trái nên phối hợp kháng sinh sớm để tránh biến
chứng vỡ ổ áp xe vào màng tim.
Trước đây nuôi cấy mủ chỉ 50% mọc vi khuẩn. Gần đây nhờ tiến bộ về
nuôi cấy vi khuẩn, 80- 100% mọc vi khuẩn.
Cần lưu ý nuôi cấy mủ ở môi trường ái khí và kỵ khí (45- 75% thấy có vi
khuẩn kỵ khí hoặc vi khuẩn kỵ khí và ái khí).
Áp xe đơn độc thường có nhiều vi khuẩn phối hợp hơn áp xe nhiều ổ.
Vi khuẩn E.Coli và Klebsiella pneumonie. E.Coli gặp nhiều hơn Kleb.
Pneumonie. Kleb. Pneumonie hay gặp ở áp xe đa vi khuẩn, đái tháo đường, nhẹ
hơn, tỷ lệ tử vong ít hơn. Các vi khuẩn thương gặp là:
Vi khuẩn kỵ khí:
Streptococcis, Bacteroide species Fusobsacterrium species,
Peptostreptococcis, Actinomyces, Clostridium species, Lactobacillus.
Gần giống với áp xe gan do amip. Do đó hai bệnh rất giống nhau, trên lâm
sàng rất dễ nhầm với nhau, nhầm đến mức có thời kỳ người ta gọi chung hai bệnh
áp xe gan do amip và ap xe gan do vi khuẩn là áp xe gan một ổ lớn. Chỉ từ khi có
các biện pháp sinh học chẩn đoán các nguyên nhân vi sinh mới tách ra được hai
loại nguyên nhân khác nhau, nhưng về lâm sàng là rất khó phân biệt.
Siêu âm gan- mật giống áp xe gan do amip. Tuy nhiên có thể có giãn
đường mật trong gan do tắc nghẽn đường mật.
Choáng nhiễm trùng: Là biến chứng rất nặng có thể đưa tới tử vong.