You are on page 1of 5

Đối với Việt Nam, như chúng ta đã biết, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp đầy

khó khăn, chưa


từng có tiền lệ trong lịch sử dân tộc. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện công
cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã luôn kết hợp nhận thức,
nghiên cứu lý luận với thử nghiệm và tổng kết thực tiễn để xây dựng, bổ sung và hoàn thiện từng bước
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Dựa vào việc nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, kết hợp với những kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, đặc biệt là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991),
Đảng xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản nhất:

1/ Do nhân dân lao động làm chủ;

2/ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu;

3/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc;

4/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;

5/ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

6/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới3.

Đó chính là những đặc trưng bản chất hay mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà nhân
dân ta xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ những bài học và kinh nghiệm
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới, đúng như nhận định của Đảng nêu ra tại Đại
hội lần thứ X, nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản nhất. Sau 25 năm tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam thấy rằng cần thiết phải
có một cương lĩnh mới phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ sung và
phát triển Cương lĩnh 1991. Cũng cần nhấn mạnh rằng, nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm và sự đóng
góp trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, bản dự thảo cương lĩnh mới đó được đưa ra thảo
luận, góp ý một cách công khai, rộng rãi và dân chủ trước khi trình Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (3/2011) thông qua.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

l/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

2/ Do nhân dân làm chủ;

3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp;

4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

5/ Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;

6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng.

7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điều chỉnh
quan trọng.

Thực ra, một số điều chỉnh mới trong Cương lĩnh 2011 về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội so với trong
Cương lĩnh 1991 đó được nêu ra từ Đại hội X của Đảng (2006). Nếu trong Cương lĩnh 1991 chỉ đưa ra 6
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội thì trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác
định 8 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là:

1/ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;

2/ Do nhân dân làm chủ;

3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

5/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện;

6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ;

7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới4.

Theo đó, đặc trưng thứ nhất và thứ bảy được bổ sung mới hoàn toàn và trong một số đặc trưng khác
(đặc trưng thứ hai, ba và năm) có sự điều chỉnh nhất định về thuật ngữ (đương nhiên sự thay đổi về
thuật ngữ dẫn tới sự thay đổi về nội dung).

Như vậy, không có nghĩa là phải đến Cương lĩnh 2011 Đảng Cộng sản Việt Nam mới có sự điều chỉnh, bổ
sung các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; trái lại, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã
có những nhận thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời
bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, như trên vừa đề cập, Đại
hội X của Đảng đã khẳng định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm 8 đặc trưng. Điều đó muốn
nói lên rằng, một số điểm mới về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trong Cương lĩnh 2011 không
phải đến Đại hội XI mới được bổ sung, mà đã được điều chỉnh từ trước đó; đồng thời, những điểm mới
trong Cương lĩnh 2011 không chỉ mới so với Cương lĩnh 1996, mà một số chi tiết (trong một số đặc trưng
cụ thể) cũng mới hơn so với quan niệm của Đảng nêu trong Đại hội X.

Vậy những bổ sung, điều chỉnh mới đó là gì?

Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhvà 2/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng
này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc trưng
thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy,
nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và
đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.

Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân
xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ
thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.

Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao động làm
chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân
dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái
niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ
sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình
thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng
vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan
hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất.

You might also like