You are on page 1of 9

Đại hội XI đã bổ sung những gì cho đại hội X

Đại hội X (diễn ra từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006), Đại hội xác định chủ
đề Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Đại hội thông qua nhiều quyết sách quan trọng, mở
đường cho sự nghiệp đổi mới tiếp tục đi lên. Đại hội xác định rõ hơn bản chất
của Đảng. Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung) được Đại hội thông qua nêu rõ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.

Đại hội XI (diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19/01/2011). Đại hội chỉ rõ, mục
tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt
động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại”. Đại hội XI là Đại hội mở đường cho đất nước tiến vào
thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI.

1 Về bối cảnh quốc tế


Cương lĩnh 2011 đã viết gọn hợn theo hướng không đi sâu vào những vấn
đề thế giới không liên qian trực tiếp đến nước ta hiện nay, nhất là những vấn đề
còn có ý khác nhau, như về nguyên nhân sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu. Cương lĩnh 2011 đã bổ sung, phát triển thêm một số bài học.
2 Về tình hình trong nước
Bổ sung vào bài học thứ 2 (sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân). Đại hội XI nói rõ: “quan lieu, tham nhũng, xa rời, của chế
độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng’.
Bổ sung từ “quyết định” cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam” chứ không chỉ là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh
năm 1991.
3 Về văn hóa

Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là những giá trị tiến bộ phổ quát
mà nhân loại đang hướng tới; là khát vọngphát triển của mọi dân tộc, nhất là ở
những nước đi sau, đồng thời là việc cụ thể hoá mô hình chủ nghĩa xã hội chủ
nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra phù hợp với logic của thực tiễn và logic của phát
triển.
Thứ hai, đề cao dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta đã cho thấy điểm mới trong nhận
thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu dân chủ tư sản là bước tiến bộ
so với chế độ phong kiến, đảm bảo cho chế độ tư bản phát triển, thì dân chủ xã
hội chủ nghĩa là nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa, là điều kiện giải phóng
triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tiến bộ và
tốt đẹp hơn.
Đại hội nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội. (so với Đại hội X bổ sung cụm từ “xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”).

4 ĐỐI NGOẠI
Đại hội XI có những điểm mới bổ sung cho đại hội X về đối ngoại.
Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi ích
quốc gia, dân tộc” . Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục
tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục
tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản
để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt
nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là
điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.

Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong
văn kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định
hướng: Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích
quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích
của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục
tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên
tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc
gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà
nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.

Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối
ngoại, tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ
Đổi mới, Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Bên cạnh những nguyên tắc
nhất quán này, văn kiện Đại hội XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn
tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước
liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn đề tồn tại trên cơ sở các
“nguyên tắc ứng xử của khu vực”.

Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại hội
khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là “hội
nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”.1

Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực khác” được thông qua tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế” . Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực
kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an
ninh và văn hóa-xã hội....

5 Về kinh tế

Điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của mô hình xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Cách diễn đạt này phản ánh đúng quy luật cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thay vì tập trung vào việc đảm bảo chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, điều này đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện
quan hệ sản xuất một cách đồng bộ, toàn diện (chế độ sở hữu tư liệu sản xuất,
chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản phẩm), vừa tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XI còn đề ra 3 đột phá chiến lược
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
- Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn

Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân (chủ trương này phù hợp với mục tiêu khi
kết thúc thời kỳ quá độ). Nhưng trong chiến lược và báo cáo chính trị không xác

1
Đường lối đối ngoại Đại hội XI và những phát triển quan trọng trong tư duy đối ngoại của Đảng ta (2011). Truy
cập từ https://baochinhphu.vn/duong-loi-doi-ngoai-dai-hoi-xi-va-nhung-phat-trien-quan-trong-trong-tu-duy-doi-
ngoai-cua-dang-ta-102105424.htm (24/3/2023)
định vấn đề này. Vì trên thực tế trong 5, 10 năm tới kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể chưa thể đóng vai trò nền tảng được (đây là điểm mới so với Đại hội X).
Trong các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng, đặc trưng về kinh tế trong quá trình thảo luận có những ý kiến khác
nhau. Cương lĩnh năm 1991 xác định “có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X xác định: “Có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độphát triển của lực lượng sản xuất”.
Thể hiện như Đại hội X là phù hợp với chính sách phát triển các thành
phần kinh tế của Đảng ta hiện nay, tránh được cách hiểu coi nhẹ đối với khu vực
kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân. Kế thừa Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) xác định “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (so với Đại hội X có bổ
sung từ “tiến bộ”, Đại hội đã biểu quyết với 65,04%, đồng ý với đặc trưng này)2

6 Về công nghiệp hóa

Đại hội XI nhấn mạnh việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường (so với
Đại hội X thêm cụm từ “gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường”).

7 Về tôn giáo

Tại đại hội XI, vấn đề tôn giáo được đề cập ở hai văn kiện quan trọng, đó
là: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung,
phát triển 2011) và Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Vê tôn giáo và công tác tôn giáo, các văn kiện Đại hội XI đã nêu lên một số
quan điểm cơ bản sau:

Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.

Hai là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tín ngữơng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.

Ba là, tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các
tôn giáo.

2
Một số nội dung cơ bản trong các văn kiện đại hiện đại hội XI. Truy cập từ
http://www.xaydungdang.org.vn/uploads/thuhuyen/5-chuyendenhungnoidungcobancuadhxi.pdf (23/3/2023)
Bốn là, động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp
đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

Năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công
nhận, đúng quy định của pháp luật.

Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.

Vấn đề thứ nhất là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.

Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, đựơc nêu ra và
tái khẳng định nhiều lần qua các kỳ Đại hội Đảng. Cho đến nay, trải qua 11 kỳ
Đại hội, trong đó có 6 kỳ Đại hội của thời kỳ Đổi mới, thì quan điểm trên về cơ
bản là nhất quán. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ sẽ thấy có mấy điểm mới nhất
định. Ví dụ: từ Đại hội VIII về trước, văn kiện Đại hội chỉ nêu “tôn trọng”
nhưng đến 3 kỳ Đại hội (IX, X, XI) không chỉ nêu “tôn trọng”; mà còn “bảo
đảm” quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Trên thực tế, để bảo đảm quyền ấy một cách đầy đủ đòi hỏi phải có sự
chuyển biến nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng trên
lĩnh vực tôn giáo.3
Ở Đại hội XI, khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo có sự phân biệt rõ” "tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân"4. Cho đến Đại
hội IX vẫn nêu :"Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật”5. Và ngay cả Đại hội X cũng chỉ nêu và nhắc lại:
"Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo pháp luật"
Trong ngôn ngữ văn bản thường dùng khái niệm "tự do tín ngưỡng" là theo
nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm cả tự do tôn giáo, đó là: Tự do tín ngưỡng và tự do
thờ cúng tức là đảm bảo quyền tự do về thực hành tôn giáo; quyền theo hoặc
không theo một tôn giáo nào; tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo; quyền in
ấn, phát hành kinh sách, đào tạo giáo sĩ... Nghĩa là tự do tín ngưỡng không phải
chỉ trong phạm vi tự do tư tưởng, lựa chọn đức tin mà cả tôn trọng những hoạt
động tôn giáo để thể hiện đức tin đó. Tuy nhiên để tránh sự hiểu làm không cần
thiết, Đại hội XI lần này nêu rõ, không chỉ tôn trọng và bảo đảm niềm tin tôn

3
Những điểm mới trong Đại hội XI về tôn giáo PGS, TS. Nguyễn Đức Lữ - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh.
Truy cập từhttps://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/nhung-
diem-moi-trong-dai-hoi-xi-ve-ton-giaopgs-ts-nguyen-duc-lu-hoc-vien-ct-hcqg-ho-chi-minh-828(24/3/2023)
giáo (tín ngưỡng) mà cả hoạt động tôn giáo thể hiện niềm tin ấy. Mà theo Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thì hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành
giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.

Vấn đề thứ hai là, chủ động phòng ngừa với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Chống lợi
dụng tôn giáo được thể hiện ở mọi kỳ Đại hội. Nhưng vấn đề này ở Đại hội XI
có hai điểm đáng lưu ý:

Một là, "chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo chứ không phải thụ động đi "chữa cháy” hay "giải quyết tình thế". Các kỳ
Đại hội trước, Đảng ta đều nêu rõ cần phải đấu tranh đối với bọn lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo. Đại hội X nêu "đấu tranh ngăn chặn". Đến Đại hội XI: “đấu
tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo
và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân" (Cương lĩnh bổ sung) và điểm mới ở đây là: "Chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dựng tín ngưỡng, thụ giáo để mê hoặc,
chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc” (Báo cáo Chính trị). Thiết nghĩ việc
"Chủ động phòng ngừa” là vấn đề mới được nêu ở Đại hội lần này. Việc "chủ
động phòng ngừa không để xảy ra hiện tượng lợi dụng tôn giáo vẫn tốt hơn
nhiều so với để sự việc xảy ra buộc phải xử lý. Muốn chủ động phòng ngừa
được tốt, trước hết phải quan tâm đến nhu cầu vật chất và tinh thần của người
dân có tín ngưỡng, tôn giáo; phải có những quan điểm mới phù hợp, có hệ thống
chính sách đồng bộ và ứng xử đúng đắn với tôn giáo.

Vấn đề thứ ba là, tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các
tôn giáo.
tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhắc lại quan điểm này: "Phát
huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo". Điểm mới về vấn
đề này là ở chỗ, Đại hội XI Đảng ta không chỉ nêu: "Phát huy những giá trị đạo
đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo" mà còn cần "tôn trọng” (Cương lĩnh)
những giá trị ấy.

8 Về sự nghiệp phát triển đất nước:

Đại hội XI chỉ ra đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhất trí thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), trong đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu tổng quát khi
kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc. 4

Cương lĩnh này đã bổ sung 2 đặc trưng bao trùm, tổng quát: “ Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và đặc trưng “ có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo”. Hai đặc trưng này đã bổ sung cho đại học X là đã thêm “dân chủ”
lên trước từ “công bằng” vì cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là tiền đề
của công bằng. 5

9 Những bài học kinh nghiệm lớn:

Đại hội tập trung đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Ðại hội X; tổng kết
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và 20 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,...

Nhìn một cách tổng quát, Ðại hội đánh giá, 5 năm qua, trong nhiều khó
khăn, thách thức, toàn Ðảng, toàn dân ta đã ứng phó có kết quả với những diễn
biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước, cơ bản giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, quy mô nền kinh tế tăng
lên. 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai
đoạn đất nước đạt những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Những thành tựu
đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Ðất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Ðại hội X đề ra
chưa đạt. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế thấp.6

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng có nhiệm vụ kiểm điểm,
đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, đồng
thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X
của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010),
tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và 20 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
4
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011). Truy cập từ
https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/
Lists/News&ItemID=7858 (23/3/2023)
5
Một số nội dung cơ bản trong các văn kiện đại hiện đại hội XI. Truy cập từ
http://www.xaydungdang.org.vn/uploads/thuhuyen/5-chuyendenhungnoidungcobancuadhxi.pdf (23/3/2023)
6
Luong Van Loi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Truy cập từ
http://spirit.vietnamairlines.com/vi/tintuc/dang---nhan-su-111/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xi-dang-cong-
san-viet-nam-9775.html (23/3/2023)
KẾT LUẬN

Đại hội XI có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp
tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa
thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI đã có những văn kiện mới bổ sung. Các văn kiện
này không chỉ nhằm đề ra các biện pháp để giải quyết những nhiệm vụ trước
mắt mà còn là sự định hướng lâu dài cho hành động của Đảng và nhân dân ta.
Đại hội XI của Đảng là sự kiện chính trị - xã hội không những có ý nghĩa quan
trọng đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế
sâu sắc. Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn có tính nguyên tắc, sáng tạo trong việc giải
quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đồng thời khẳng định và kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và đường lối đổi mới đó là bài học và kinh
nghiệm quý báu góp phần vào kho tàng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội
của những người cộng sản trên thế giới. Từ nay đến giữa thế kỷ thứ XXI, toàn
Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Cương lĩnh
cũng đưa ra những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại... Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Cương lĩnh
này là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của
Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này,
nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

You might also like