You are on page 1of 89

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG


TỈNH

Th
áng 23 0
05 – 2
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG


TỈNH
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU

Giúp các em hình thành được những


MỤC TIÊU phẩm chất, năng lực cần đạt sau mỗi
chủ đề.

Giúp học sinh huy động những kiến thức,


kĩ năng, hiểu biết của bản thân về các
KHỞI ĐỘNG
vấn đề có nội dung liên quan đến chủ đề
học tập.

Giúp học sinh lĩnh hội được các kiến thức,


kĩ năng mới bằng cách tổ chức các
KHÁM PHÁ
hoạt động tương thích với từng nội dung
học tập.

Giúp học sinh củng cố, hoàn thiện


LUYỆN TẬP
kiến thức, kĩ năng vừa lĩnh hội được.

Giúp học sinh vận dụng các kiến thức,


kĩ năng để giải quyết các tình huống, vấn
VẬN DỤNG
đề tương tự trong học tập hoặc trong
cuộc sống.

2
LỜI NÓI ĐẦU
Các em học sinh thân mến!

Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, có những thuận lợi về các điều kiện tự nhiên, xã hội để phát triển kinh tế,
văn hoá trong bối cảnh hiện nay. Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lớp 10
đã mang đến cho các em những trải nghiệm thú vị về quê hương Bà Rịa – Vũng Tàu. Nội
dung giáo dục địa phương lớp 11 sẽ tiếp nối hành trình khám phá những vẻ đẹp về văn
hoá, lịch sử, các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương trong bối cảnh hiện nay.

Nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Uỷ ban
nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức biên soạn Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu lớp 11. Tài liệu gồm 6 chủ đề, cung cấp cho các em những kiến thức cơ
bản về văn hoá, lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường,… của địa phương, kết nối với các
môn học trong chương trình.

Các chủ đề được thiết kế qua các hoạt động: Khởi động, Khám phá, Luyện tập, Vận dụng
nhằm tạo điều kiện giúp các em phát huy được tính tích cực trong quá trình học tập,
đồng thời hỗ trợ phát triển năng lực của bản thân cũng như định hướng nghề nghiệp sau này.

Chúc các em có những trải nghiệm bổ ích cùng Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu lớp 11.

CÁC TÁC GIẢ

3
MỤC LỤC

Hướng dẫn sử dụng tài liệu.......................................................................................................................2


Lời nói đầu ......................................................................................................................................................3

CHỦ ĐỀ 1
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU.................................................................................5

CHỦ ĐỀ 2
DANH NHÂN TRONG LỊCH SỬ Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU........................................................ 17

CHỦ ĐỀ 3
VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU TRƯỚC NĂM 1975..................................................... 29

CHỦ ĐỀ 4
LỄ HỘI VÀ NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU......................................... 49

CHỦ ĐỀ 5
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU ..................................................................... 65

CHỦ ĐỀ 6
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU..................73

Giải thích thuật ngữ, khái niệm............................................................................................................. 86

4
CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1 TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BÀI 1: TÀI NGUYÊN DU LỊCH, CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH


Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
MỤC TIÊU
Chứng minh được tiềm năng và sự đa dạng, phong phú của các loại tài nguyên du lịch
ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHỞI ĐỘNG
Học sinh tham gia trò chơi Tiếp sức.
Cách chơi: Giáo viên chia lớp thành hai đội. Mỗi đội đều nhận được một nhiệm vụ
trong thời gian 2 phút, lần lượt từng thành viên thực hiện viết lên bảng tên một điểm du lịch
ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho đến hết thời gian quy định. Đội nào viết được nhiều tên đúng
theo yêu cầu thì đội đó thắng.

KHÁM PHÁ

I. TÀI NGUYÊN DU LỊCH


1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
?
Dựa vào thông tin trong mục 1, em hãy cho biết các tài nguyên du lịch tự nhiên
nổi bật của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hoá làm
cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du
lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hoá(1).
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có phong cảnh thiên nhiên đẹp, được bao bọc bởi biển, các
khu rừng nguyên sinh, những ngọn núi thấp và trung bình,… là điều kiện để phát triển
du lịch.

(1)
Luật Du lịch Việt Nam, 2017

5
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nhưng mang tính chất của
kiểu khí hậu cận xích đạo gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm cao, tương đối ổn định giữa
các tháng trong năm. Đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển du lịch quanh năm.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 305,4 km chiều dài bờ biển, trong đó khoảng 156 km có nhiều
tiềm năng thu hút khách du lịch với bờ cát mịn, nước trong xanh, ấm áp quanh năm. Các bãi tắm
được nhiều du khách biết đến như Bãi Trước, Bãi Sau, Bãi Dứa, Bãi Dâu (thành phố Vũng Tàu),
bãi tắm Thùy Dương (huyện Đất Đỏ), Hồ Tràm, Hồ Cốc (huyện Xuyên Mộc), bãi Đầm Trầu
(huyện Côn Đảo),…

Hình 1.1. Khung cảnh Bãi Trước, Hình 1.2. Bãi Đầm Trầu, huyện Côn Đảo
thành phố Vũng Tàu (Nguồn: dulichdisanviet.vn)
(Nguồn: Hoàng Chương)
Các núi như Núi Lớn, Núi Nhỏ, Núi Dinh, núi Minh Đạm che chắn phần đất liền. Trong đó,
Núi Lớn (núi Tương Kỳ) cao khoảng 245 m, trên núi có Hồ Mây và cánh rừng nguyên sinh;
Núi Nhỏ (núi Tao Phùng) cao 170 m, có ngọn Hải đăng với tuổi đời trên 100 năm.

Hình 1.3. Núi Nhỏ, thành phố Hình 1.4. Một góc bờ biển ở huyện Côn Đảo
Vũng Tàu (Nguồn: baochinhphu.vn)
(Nguồn: Hoàng Chương)
Bên cạnh đó, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn có những cánh rừng nguyên sinh được bảo
tồn ở Vườn quốc gia Côn Đảo (huyện Côn Đảo) và Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu –
Phước Bửu (huyện Xuyên Mộc).

6
– Vườn quốc gia Côn Đảo có diện tích tự nhiên khoảng 19 883,15 ha, bao gồm 5 883,15 ha
bảo tồn rừng, 14 000 ha bảo tồn biển. Ngoài ra, diện tích vùng đệm trên biển khoảng
20 500 ha. Đây là khu Ramsar thứ 6 của Việt Nam và đầu tiên nằm biệt lập giữa biển khơi,
với các hệ sinh thái đa dạng như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển,... điển hình
cho hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới.

Hình 1.5. Vườn quốc gia Côn Đảo Hình 1.6. Rừng ngập mặn ở Vườn quốc gia Côn Đảo
nhìn từ trên cao (Nguồn: condaopark.com.vn)
(Nguồn: condaopark.com.vn)
– Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu có diện tích hơn 10 537 ha. Đây là
khu rừng nguyên sinh ven biển duy nhất của Việt Nam. Phía bắc khu bảo tồn là suối nước
khoáng nóng Bình Châu với nhiệt độ từ 37 – 80ºC, đã được Tổ chức Du lịch Thế giới
công nhận là một trong 65 khu du lịch sinh thái bền vững trên thế giới.

a) Lối vào khu bảo tồn b) Cảnh quan trong khu bảo tồn
Hình 1.7. Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu
(Nguồn: ittpa.baria-vungtau.gov.vn)

Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu và Vườn quốc gia Côn Đảo lưu trữ
đa dạng sinh học cao với chức năng bảo tồn đa dạng sinh học như hệ sinh thái, loài,
nguồn gen; phòng hộ và bảo vệ môi trường như ổn định bờ biển, kiểm soát lũ, điều tiết
nguồn nước,…; bảo tồn cảnh quan, văn hoá, lịch sử; là điểm đến hấp dẫn để tổ chức các
loại hình du lịch sinh thái, nghiên cứu, vui chơi, giải trí,…

7
Ngoài ra, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn được biết đến là tỉnh giàu có về tài nguyên
biển như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, vùng triều cửa sông, đầm phá và
vùng nước trồi,… Đây là những nguồn tài nguyên tự nhiên rất quan trọng trong phát triển
du lịch. Tuy nhiên, hiện nay, do tình trạng ô nhiễm môi trường; biến đổi khí hậu; khai
thác và săn bắn động vật hoang dã chưa được kiểm soát tốt đã và đang ảnh hưởng
đến nguồn tài nguyên tự nhiên này. Do vậy, nhằm sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu cần tiếp tục xây dựng kế hoạch phục hồi và phát triển các hệ sinh thái đất ngập
nước ở các vùng dễ bị tổn thương, nơi chịu áp lực bởi phát triển kinh tế – xã hội.
2. Tài nguyên du lịch văn hoá
?
Dựa vào thông tin trong mục 2, em hãy cho biết các tài nguyên du lịch văn hoá
ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có đời sống văn hoá đa dạng và phong phú, bao gồm nghệ thuật,
phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,... Trong đó, du lịch văn hoá – tâm linh là
sản phẩm du lịch đặc thù hiện nay của địa phương.
Dựa trên cơ sở của sự đa dạng tài nguyên du lịch văn hoá, đồng thời chịu ảnh hưởng
của các nền văn hoá lâu đời gắn với biển như Sa Huỳnh, Đồng Nai,... hiện nay, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu có 49 di tích lịch sử – văn hoá đã được công nhận và xếp hạng, bao gồm 30
di tích cấp quốc gia, trong đó có 1 di tích được công nhận là di tích cấp quốc gia đặc biệt
(Khu di tích lịch sử cách mạng nhà tù Côn Đảo) và 19 di tích cấp tỉnh.
Nguồn tài nguyên du lịch văn hoá đa dạng, độc đáo còn thể hiện ở các công trình
kiến trúc, tôn giáo, tâm linh như chùa, đình, đền, miếu thờ,… ghi dấu lịch sử vùng đất
này. Các di tích lịch sử tiêu biểu như khu di tích đình Thắng Tam, di tích danh thắng
Thích Ca Phật Đài, di tích lịch sử – văn hoá chùa Long Bàn, di tích lịch sử cách mạng địa đạo
Kim Long, di tích lịch sử cách mạng khu căn cứ Bàu Sen, di tích lịch sử cách mạng khu căn cứ
núi Minh Đạm, di tích lịch sử cách mạng bến Lộc An,…

Hình 1.8. Khu di tích đình Hình 1.9. Di tích lịch sử – văn hoá chùa Long Bàn,
Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu huyện Long Điền
(Nguồn: www.baotangbrvt.org.vn) (Nguồn: baobariavungtau.com.vn)

8
Hình 1.10. Khu di tích lịch sử cách mạng Hình 1.11. Di tích lịch sử cách mạng bến Lộc An,
nhà tù Côn Đảo, huyện Côn Đảo huyện Xuyên Mộc
(Nguồn: tienphong.vn) (Nguồn: www.cuuchienbinhtphcm.vn)

Các công trình kiến trúc cổ cũng là một điểm nhấn trên bản đồ tài nguyên du lịch của tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, đây là những công trình kiến trúc Pháp, mang đậm phong cách châu Âu,
đã tồn tại hơn 100 năm nay. Một số công trình tiêu biểu còn hiện hữu tại thành phố
Vũng Tàu như Di tích lịch sử – văn hoá Bạch Dinh trên Núi Lớn, di tích trụ sở Uỷ ban Việt Minh tại
Vũng Tàu, thư viện thành phố Vũng Tàu, ngọn Hải đăng trên Núi Nhỏ, Tượng Chúa dang
tay trên đỉnh Núi Nhỏ được xác lập là “Tượng Chúa Giê-su lớn nhất khu vực châu Á” vào
năm 2012,… Trong đó, Bạch Dinh, ngọn Hải đăng và Tượng Chúa dang tay là các công
trình chứa đựng nhiều giá trị văn hoá – lịch sử, đang được khai thác để phát triển du lịch
địa phương.

Hình 1.12. Di tích lịch sử – văn hoá Bạch Dinh, Hình 1.13. Ngọn Hải đăng thành phố Vũng Tàu
thành phố Vũng Tàu (Nguồn: www.qdnd.vn)
(Nguồn: vnexpress.net)

Các lễ hội thể hiện sự giao thoa văn hoá truyền thống giữa ba miền Bắc – Trung – Nam
và đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng nơi đây. Các lễ
hội tiêu biểu như Lễ giỗ bà Phi Yến, Lễ giỗ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Lễ hội Nghinh Ông,
Lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành, Lễ hội Dinh Cô,… thu hút hàng nghìn du khách đến với tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.

9
Làng nghề truyền thống cũng là một trong những nét đặc sắc của văn hoá tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, có giá trị lớn trong khai thác, phục vụ phát triển du lịch. Làng nghề được
xem là di sản về không gian sống, là kho tàng của kinh nghiệm, tri thức về nghề từ bao thế
hệ người dân địa phương. Hiện nay, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có khoảng 10 nghề và làng nghề
truyền thống, tiêu biểu như nghề đúc đồng truyền thống ở Xóm Chuông (thị trấn
Long Điền, huyện Long Điền), làng nghề làm đá ở Phước Hoà (thị xã Phú Mỹ), làng
nghề làm bún ở Long Kiên (thành phố Bà Rịa), làng nghề nấu rượu ở Hoà Long
(thành phố Bà Rịa),…

Hình 1.14. Nghề đúc đồng truyền thống ở Hình 1.15. Nghề làm bún ở Long Kiên,
Xóm Chuông, huyện Long Điền thành phố Bà Rịa
(Nguồn: thanhphobaria.com) (Nguồn: langngheviet.com.vn/)

Bên cạnh các giá trị của lễ hội và làng nghề thì nền văn nghệ dân gian dân tộc Chơ Ro,
cải lương, tuồng cổ, Đờn ca tài tử,… được coi là cái nôi của nền văn hoá – nghệ thuật tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.

Hình 1.16. Nghệ nhân dạy múa cho các em học sinh Hình 1.17. Nghệ thuật Đờn ca tài tử
Trường phổ thông Dân tộc nội trú (Nguồn: baobariavungtau.com.vn)
(Nguồn: thanhnien.vn)

II. CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH PHỔ BIẾN Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Dựa vào thông tin trong mục II, em hãy cho biết các tài nguyên du lịch tự nhiên, văn hoá
tạo điều kiện cho tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát triển các loại hình du lịch nào.

10
Hiện nay, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tập trung phát triển 4 loại hình du lịch trọng điểm
gồm: du lịch nghỉ dưỡng biển; du lịch hội nghị, hội thảo; du lịch lịch sử, tâm linh; du lịch
sinh thái chất lượng cao.
Hệ sinh thái biển và ven biển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thích hợp để phát triển các
loại hình du lịch khám phá đại dương như lặn biển, câu cá, lặn ngắm san hô,… Các bãi
biển đẹp là điều kiện lí tưởng cho các loại hình du lịch gắn với thể thao biển, tắm biển,
hội nghị kết hợp với du lịch,…
Suối nước nóng Bình Châu thích hợp cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh của
du khách. Tại Núi Lớn, Núi Nhỏ, Núi Dinh đã và đang hình thành các khu du lịch phức hợp
mang tầm quốc tế đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách.
Với nhiều di tích lịch sử được công nhận, xếp hạng, các lễ hội văn hoá truyền thống,…
đã tạo điều kiện phát triển đa dạng loại hình du lịch gắn với văn hoá và tâm linh.

Hình 1.18. Chùa Quan Thế Âm Bồ Tát, thành phố Vũng Tàu
(Nguồn: toplist.vn)

Bên cạnh đó, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn có các nghề và làng nghề truyền thống như đúc
đồng (Xóm Chuông, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền), làm bánh tráng (xã An Ngãi,
huyện Long Điền), nấu rượu (xã Hoà Long, thành phố Bà Rịa), làm bún (Long Kiên, phường
Phước Nguyên, thành phố Bà Rịa), làng cá Phước Hải (thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu),… kết hợp với phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã thúc đẩy
loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Vì vậy, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu luôn giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dưới
góc độ tài nguyên và ngược lại. Điển hình là hoạt động bảo vệ, phục hồi rạn san hô để

11
phục vụ cho nhu cầu lặn ngắm san hô, đồng thời hạn chế gây ô nhiễm môi trường; bảo vệ
quần thể chim biển trên các đảo Hòn Trứng, Hòn Bông Lan, Hòn Tre Nhỏ,…
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã hình thành các khu du lịch mang tầm quốc gia và quốc tế
như khu du lịch Côn Đảo, khu du lịch Long Hải – Phước Hải, là 2 trong tổng số 21 khu du lịch
quốc gia đã được chính phủ công nhận.

LUYỆN TẬP

Em hãy sắp xếp các tài nguyên du lịch sau đây vào nhóm tài nguyên du lịch tương ứng
trong bảng:
Các tài nguyên du lịch: bãi Đầm Trầu, lễ hội Nghinh Ông, Bãi Dứa, Khu căn cứ núi
Minh Đạm, Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu, Vườn quốc gia Côn Đảo, bến
Lộc An, Địa đạo Kim Long, Khu di tích đình Thắng Tam, Miếu Bà, Lăng Cá Ông, Núi Dinh,
di chỉ Hàng Dương ở Côn Đảo, Hồ Cốc.

Phân nhóm Các tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch tự nhiên ?

Tài nguyên du lịch văn hoá ?

VẬN DỤNG

Em hãy tìm hiểu về tài nguyên du lịch ở địa phương em đang sống và hoàn thành
thông tin theo bảng mẫu sau:

Tên huyện, thị xã hoặc thành phố em đang sống:…

STT Tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch văn hoá

1 ? ?

2 ? ?

… ? ?

12
BÀI 2: DU LỊCH – NGÀNH KINH TẾ MŨI NHỌN
CỦA TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

MỤC TIÊU

– Phân tích được vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
– Liên hệ được các ngành nghề liên quan đến du lịch ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHỞI ĐỘNG

Học sinh tham gia trò chơi “Ai nhanh hơn?”, trả lời các câu hỏi sau:
– Khi đi du lịch, du khách thường có nhu cầu gì?
– Cho biết các ngành nghề nào đáp ứng các nhu cầu đó.

KHÁM PHÁ

I. VAI TRÒ CỦA NGÀNH DU LỊCH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
?
Dựa vào thông tin trong mục I, em hãy nêu vai trò của ngành du lịch đối với
phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nằm trong khu vực trọng điểm của chiến lược phát triển du lịch
quốc gia. Hơn 30 năm, từ khi tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được thành lập vào năm 1991, ngành
du lịch của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc, chất lượng được nâng cao.
Trong giai đoạn 2000 – 2020, số lượt khách du lịch lưu trú của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
tăng qua các năm, doanh thu du lịch tăng 3 427 tỉ đồng. Tỉ trọng đóng góp của ngành du lịch
trong cơ cấu GRDP của tỉnh tăng, doanh thu du lịch chiếm khoảng 2,09% trong GRDP tỉnh
(năm 2020), đóng góp vào nguồn thu ngân sách, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

13
Hình 1.19. Số lượt khách du lịch lưu trú và doanh thu du lịch
của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, giai đoạn 2000 – 2020
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, NXB Thống kê, năm 2021)
Bảng 1.1. Tỉ lệ đóng góp của ngành du lịch trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP),
trừ dầu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, giai đoạn 2000 – 2020
Đơn vị (%)

Năm 2000 2005 2010 2015 2020

Tỉ lệ đóng góp của ngành du lịch trong


5,06 2,36 1,69 2,59 2,09
tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn tỉnh
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, NXB Thống kê, năm 2021)
Năm 2020, ngành du lịch của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tạo việc làm thường xuyên cho
21 000 lao động, trong đó, số lao động trực tiếp khoảng 12 070 người. Đến năm 2025,
dự kiến nguồn nhân lực phục vụ cho ngành du lịch của tỉnh có khoảng 38 000 lao động
và năm 2030 sẽ là 46 000 lao động, trong đó, tỉ lệ lao động qua đào tạo chuyên ngành
du lịch đạt từ 80 – 100%.
Ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài với
khoảng 159 dự án đầu tư có tổng diện tích khoảng 6 042 ha. Nhiều dự án du lịch chất
lượng cao đã hình thành và hoạt động kinh doanh có hiệu quả như Khu nghỉ dưỡng
Vietsovpetro, Khu phức hợp nghỉ dưỡng The Grand Hồ Tràm Strip, Khu du lịch cáp treo
Hồ Mây, Khu du lịch suối khoáng nóng Bình Châu,…

14
Đặc biệt, sự phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thúc đẩy sự phát triển hệ thống các
cửa hàng thời trang, đồ lưu niệm, các dịch vụ liên quan, đặc biệt là hệ thống các nhà hàng,
quán ăn đặc sản mang hương vị miền biển. Các món ăn đặc sản của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
phong phú, đặc sắc như bánh khọt Vũng Tàu, bánh hỏi An Nhất, bánh canh Long Hương,
một số món ăn được chế biến từ cá mú đỏ Côn Sơn, cá thu một nắng, mực một nắng,…
không chỉ đáp ứng nhu cầu cho khách du lịch mà còn góp phần quảng bá văn hoá ẩm
thực của tỉnh.
Sự phát triển của ngành du lịch đã thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng , vật chất kĩ thuật
phục vụ du lịch của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hiện nay, cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ du
lịch của tỉnh ngày càng được nâng cao, đồng bộ cả về chất lượng và số lượng . Năm 2021,
tỉnh có 1 481 cơ sở lưu trú du lịch (gồm 29 820 phòng); đã và đang hình thành các khu
du lịch chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hạ tầng giao thông kết nối các vùng du
lịch ngày càng được cải thiện như Vũng Tàu và phụ cận, Long Hải – Phước Hải và phụ cận,
cụm du lịch Hồ Tràm – Bình Châu và phụ cận, cụm du lịch Côn Đảo. Đồng thời, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu tăng cường phát triển giao thông đường bộ (cao tốc Biên Hoà – Vũng Tàu),
đường thuỷ (cảng tàu khách quốc tế),… nhằm tăng sự liên kết các hoạt động du lịch nói
riêng và kinh tế – xã hội nói chung với các địa phương trong nước và quốc tế. Song song
đó, tỉnh đầu tư hạ tầng kĩ thuật như điện, nước, thông tin liên lạc,…; đầu tư các công trình,
giải pháp xử lí rác thải nhằm bảo vệ môi trường. Trong những năm gần đây, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu tiếp tục đẩy mạnh triển khai các hoạt động kinh tế số, tri thức số, dữ liệu số; sử
dụng nền tảng công nghệ số để tăng năng suất lao động, tối ưu hoá việc quảng bá du lịch
trên các phương tiện thông tin trong nước và quốc tế.
Ngành du lịch cũng góp phần khôi phục, gìn giữ các làng nghề truyền thống, tiểu thủ
công nghiệp của địa phương.
Như vậy, ngành du lịch của tỉnh đã khẳng định được vai trò, vị trí là ngành kinh tế
tổng hợp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng, tạo nhiều việc làm cho
người dân. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xác định du lịch là một trong bốn ngành, lĩnh vực lợi thế,
bao gồm công nghiệp, cảng biển, du lịch và nông nghiệp công nghệ cao.

II. CÁC NGÀNH NGHỀ LIÊN QUAN ĐẾN DU LỊCH


?
Dựa vào thông tin trong mục II, em hãy cho biết những ngành nghề liên quan đến
du lịch.

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2025 và
định hướng đến năm 2030, tỉnh phấn đấu đón khoảng 17 triệu lượt khách có lưu trú

15
(trong đó, khách quốc tế đạt 4 triệu lượt), tốc độ tăng trưởng trung bình từ 12 – 14%/năm
(năm 2030). Bên cạnh đó, dự án sân bay Long Thành đang được triển khai, dự kiến đi vào
hoạt động sẽ đón hơn 25 triệu lượt khách quốc tế mỗi năm. Vì vậy, nhiều cơ hội được mở
ra cho các ngành nghề liên quan đến du lịch ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đối với nhóm ngành nghề gián tiếp (gồm lãnh đạo, nhà quản lí, nhà nghiên cứu,…
liên quan đến du lịch) có nhiệm vụ xây dựng chính sách phát triển du lịch, điều tra tài
nguyên du lịch, quy hoạch phát triển du lịch, tổ chức phân vùng du lịch, nghiên cứu môi
trường và cảnh quan du lịch, nghiên cứu các tác động của du lịch tới môi trường,… Ngoài
ra, thuộc nhóm ngành này còn có các ngành về quản trị du lịch, quản trị nguồn nhân lực,…
Đối với nhóm ngành nghề trực tiếp (gồm lễ tân, hướng dẫn viên, đầu bếp, nhân viên
phục vụ tại các khách sạn, nhà hàng, trung tâm mua sắm, khu du lịch,…) phải đáp ứng
các yêu cầu về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ, đạo đức nghề
nghiệp, khả năng sáng tạo, kĩ năng sống, thái độ ứng xử chuyên nghiệp, có khả năng
sử dụng công nghệ tiên tiến,… Với đặc thù là tỉnh giáp biển, nên người lao động hoạt động
trong lĩnh vực này ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phải có nghiệp vụ cấp cứu thuỷ nạn, hiểu biết
về bảo vệ môi trường biển.

LUYỆN TẬP

1. Em hãy sơ đồ hoá các vai trò của ngành du lịch đối với phát triển kinh tế – xã hội tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Theo em, để đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề liên quan đến du lịch ở tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu thì người lao động cần chuẩn bị những gì?
(Gợi ý: kiến thức, kĩ năng, ngoại ngữ,…).

VẬN DỤNG

Em hãy cho biết ngành du lịch đã tạo điều kiện phát triển các dịch vụ du lịch nào ở
địa phương em đang sinh sống.

16
CHỦ ĐỀ DANH NHÂN TRONG LỊCH SỬ
Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
2
MỤC TIÊU

– Nêu được khái niệm về danh nhân.


– Trình bày được vai trò của danh nhân trong lịch sử.
– Giới thiệu và nêu được những đóng góp của các danh nhân tiêu biểu của tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHỞI ĐỘNG

Hãy nêu tên các danh nhân lịch sử tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà em biết.

KHÁM PHÁ

I. KHÁI QUÁT VỀ DANH NHÂN Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Đọc thông tin dưới đây, em hãy:
– Nêu khái niệm về danh nhân.
– Trình bày được vai trò của danh nhân trong lịch sử.

1. Khái niệm về danh nhân


Danh nhân là khái niệm chỉ những cá nhân có tài năng xuất chúng, đạo đức cao cả, có
thân thế và sự nghiệp lừng lẫy, đóng góp to lớn và xuất sắc vào tiến trình lịch sử – xã hội, có
ảnh hưởng rộng lớn trong cộng đồng, được cộng đồng kính phục, thừa nhận và noi theo(1).
2. Vai trò của danh nhân trong lịch sử
Bằng tài năng của mình, các danh nhân đã để lại những dấu ấn sâu sắc trên nhiều lĩnh
vực khác nhau.

(1) Bùi Quang Thanh, Truyền thống tôn vinh danh nhân của người Việt và vấn đề văn hoá đặt tên trong xã hội
đương đại, Tạp chí Di sản văn hoá, số 2, 2005.
17
Về quân sự, họ là những người có những chiến công, đóng góp to lớn cho công cuộc
đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập của Tổ quốc hoặc cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Về chính trị, họ là những người có công đề ra đường lối, các quyết sách để phát triển
đất nước, kiện toàn bộ máy nhà nước, ổn định đời sống nhân dân,...
Về văn hoá, khoa học và giáo dục, họ là các cá nhân có nhiều đóng góp về văn hoá,
giáo dục, sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học – nghệ thuật, khoa học (y học, lịch sử, triết
học,...) hay những phát minh, sáng chế mới. Qua đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
văn hoá, giáo dục, khoa học và kĩ thuật của nước nhà.

II. DANH NHÂN TIÊU BIỂU CỦA TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Đọc thông tin dưới đây và qua sưu tầm tư liệu, em hãy giới thiệu về thân thế, sự nghiệp
và nêu những đóng góp của một số danh nhân tiêu biểu của Bà Rịa – Vũng Tàu đối với
quê hương, đất nước.

1. Một số danh nhân chính trị tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
a) Dương Bạch Mai (1904 – 1964)
Dương Bạch Mai quê xã Long Mỹ, huyện Đất Đỏ, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu. Thuở nhỏ, ông học tại Sài Gòn, sau
học Trường Cao đẳng Thương mại (Hà Nội). Sau khi tốt
nghiệp cao đẳng, ông trở lại Sài Gòn, làm việc tại nhà in
Nguyễn Văn Của.
Năm 1926, Dương Bạch Mai sang Pháp, gia nhập Đảng
Cộng sản Pháp và trở thành người đảng viên Cộng sản đầu
tiên của Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông được Đảng Cộng sản Pháp
giới thiệu sang Liên Xô học Trường Đại học Phương Đông.
Hình 2.1. Dương Bạch Mai
Năm 1929, Dương Bạch Mai gia nhập Đảng Cộng sản Liên (Nguồn: Bảo tàng tỉnh Bà Rịa –
Xô. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, ông Vũng Tàu)
trở lại Pháp.
Năm 1931, ông về nước, dạy học ở Sài Gòn, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, cộng tác
với các báo Chuông rè, Tranh đấu, Dân quyền,…
Tháng 12 – 1945, Dương Bạch Mai được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Năm 1946, ông là thành viên của phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị Phông-ten-nơ-blô (Pháp),...

18
Năm 1949, Dương Bạch Mai ra chiến khu Việt Bắc công tác, giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Liên Việt. Khi hoà bình lập lại (1954), Dương Bạch Mai làm
việc ở Hà Nội. Ông mất năm 1964.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của nhà cách mạng Dương Bạch Mai gắn liền với sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo. Ông là một trong những người
có công trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân, phong
trào yêu nước, chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
b) Hồ Tri Tân (1908 – 1983)
Hồ Tri Tân quê ở xã Triệu Hoà, huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị. Năm 1929, ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên. Trong đợt khủng bố trắng của thực dân Pháp
(tháng 5 – 1931), cơ sở Đảng ở Quảng Trị bị vỡ, Hồ Tri Tân
lánh vào Nam. Ông cư trú ở xã Phước Hải, quận Đất Đỏ (nay
là thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ), tiếp tục hoạt động
cách mạng, vận động thành lập các tổ chức cách mạng ở
Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đầu năm 1932, Hồ Tri Tân, Trần Văn Ý và Nguyễn Văn Liên
thành lập Hội Châu Viên kết nghĩa. Hội Châu Viên kết nghĩa Hình 2.2. Hồ Tri Tân
(Nguồn: Hội Khoa học Lịch sử
tổ chức treo cờ đỏ búa liềm và rải truyền đơn ở Bà Rịa,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
Long Điền và Đất Đỏ.
Hồ Tri Tân cùng với các đảng viên cộng sản Nguyễn Văn Long và Trần Văn Cừ từ nhiều
nơi lánh về Bà Rịa để tránh địch khủng bố đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin,
tập hợp quần chúng, chuẩn bị thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản.
Tháng 2 – 1934, chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Bà Rịa – Vũng Tàu được thành lập tại xã
Phước Hải gồm ba đảng viên: Hồ Tri Tân, Trần Văn Cừ (Bí thư chi bộ) và Nguyễn Văn Long.
Năm 1939, Hồ Tri Tân bị địch bắt đày đi Côn Đảo. Khi Cách mạng tháng Tám thành công,
ông được đón về đất liền và tiếp tục hoạt động cách mạng ở Bà Rịa. Một thời gian sau,
Hồ Tri Tân trở về Quảng Trị.
Hồ Tri Tân là người góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và gây dựng phong trào
ở vùng đất vốn giàu truyền thống cách mạng Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Một số danh nhân quân sự tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
a) Trần Văn Thượng (1918 – 1946)(1)
Trần Văn Thượng xuất thân trong một gia đình giàu lòng yêu nước(2), quê xã Long
Phước, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

(1) Theo Bản thành tích đề nghị tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Trần Văn Thượng
của Uỷ ban nhân dân xã Long Phước (ngày 2 – 3 – 1999).
(2)
Ông Trần Văn Thượng có một người con duy nhất là Trần Văn Khánh, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
19
Từ năm 1943, ông tham gia phong trào cách mạng ở
địa phương dưới sự lãnh đạo của Việt Minh như phong
trào truyền bá chữ Quốc ngữ, hoạt động trong các tổ chức
công khai.
Ngày 09 – 3 – 1945, Nhật đảo chính Pháp, phong trào
kháng Nhật ở Long Phước dâng cao. Trần Văn Thượng hăng
hái tham gia phong trào.
Tháng 5 – 1945, Trần Văn Thượng tham gia Thanh niên
Tiền phong và vận động nhiều thanh niên tham gia vào tổ
chức này.
Tháng 8 – 1945, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, Đảng Hình 2.3. Trần Văn Thượng
và Mặt trận Việt Minh phát động Tổng khởi nghĩa, Trần Văn (Nguồn: Nguyễn Hữu)
Thượng tích cực tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền ở Bà Rịa. Sau đó, ông hăng hái tham gia xây dựng chính quyền cách mạng, phong
trào “xoá nạn mù chữ”, xây dựng nếp sống mới, “Tuần lễ vàng”,…
Tháng 2 – 1946, quân Pháp tái chiếm tỉnh Bà Rịa, Trần Văn Thượng tham gia Đội du kích
Quang Trung(1) chiến đấu chống Pháp.
Ngày 20 – 4 – 1946, Trần Văn Thượng chỉ huy một tiểu đội tập kích một đoàn xe của
địch tại Giồng Ổi (Long Mỹ) trên lộ 44 (nay thuộc xã Tam Phước, huyện Long Điền). Trong
trận này, Trần Văn Thượng bị thương nặng và anh dũng hi sinh.
Gương hi sinh của Trần Văn Thượng đã thức tỉnh tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc
của nhân dân, nhất là trong giới thanh niên. Đội du kích Quang Trung, Đội Thanh niên
Tiền phong xã Long Phước đã phát động phong trào học tập, noi gương tinh thần chiếu
đấu, xã thân vì nước của Trần Văn Thượng.
Trần Văn Thượng đã chiến đấu, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng quê
hương. Ông là một trong những người có công xây dựng lực lượng cách mạng, vận động
nhân dân địa phương tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng
tháng Tám 1945; tham gia xây dựng, chiếu đấu để bảo vệ những thành quả mà nhân dân
ta mới giành được sau cách mạng.
Trần Văn Thượng là người con ưu tú của quê hương Long Phước anh hùng, là chiến sĩ
dũng cảm của Đội du kích Quang Trung. Ngày 10 – 4 – 2001, Chủ tịch nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam kí Quyết định số 288/2001/QĐ – CTN phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Trần Văn Thượng.
b) Lê Thành Duy (1922 – 1946)
Lê Thành Duy xuất thân trong một gia đình trí thức mang quốc tịch Pháp, quê phường
Phước Trung thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Bà Rịa. Sau đó, học Trường Trung cấp Thể dục thể thao
Đông Dương ở Phan Thiết.

(1)
Đội du kích Quang Trung là tổ chức tiền thân của Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
20
Năm 1944, Lê Thành Duy bị động viên vào lính thuộc
Pháp, đóng quân tại biên giới Việt – Trung. Khi Nhật đảo
chính Pháp (9 – 3 – 1945), ông bỏ ngũ, trở về Bà Rịa và gia
nhập Thanh niên Tiền phong.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công (1945), Lê
Thành Duy được chọn vào lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc
của tỉnh (lực lượng công an sau này).
Sau khi quân Pháp tái chiếm Bà Rịa, Lê Thành Duy thoát li
vào rừng tham gia kháng chiến và trở thành cán bộ chỉ huy
lực lượng trinh sát.
Ngày 22 – 5 – 1946, Lê Thành Duy bị quân Pháp bắt ở đảo Hình 2.4. Lê Thành Duy
Long Sơn. Kẻ thù dùng mọi biện pháp vừa mua chuộc vừa (Nguồn: Sách Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tập 1)
tra tấn Lê Thành Duy, nhưng chúng vẫn không khuất phục
được ông.
Ngày 28 – 5 – 1946, Pháp xử bắn Lê Thành Duy bên bờ sông Dinh.
Lê Thành Duy đã chiến đấu, hi sinh và đóng góp một phần xương máu của mình trong
cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ quê hương, đất nước, bảo vệ nền độc lập của
dân tộc mới giành được sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Lê Thành Duy được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.

Hình 2.5. Trường Tiểu học Lê Thành Duy (thành phố Bà Rịa)
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

c) Võ Thị Sáu (1933 – 1952)


Võ Thị Sáu quê thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

21
Năm 1947, Võ Thị Sáu tham gia Đội công an xung phong
của quận Đất Đỏ. Võ Thị Sáu sớm có ý thức căm thù thực
dân, phong kiến, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm
vụ được giao như giao liên, trinh sát, tiếp tế lương thực, thực
phẩm cho cách mạng.
Võ Thị Sáu cùng đồng đội tham gia phá tề, trừ gian, tiêu
diệt nhiều tên ác ôn,...
Năm 1950, Võ Thị Sáu bị địch bắt, giam giữ ở bót Đất
Đỏ, khám Bà Rịa, sau chuyển đến khám Chí Hoà (Sài Gòn).
Mặc dù bị địch tra tấn dã man nhưng Võ Thị Sáu vẫn giữ
vững khí tiết của người công an cách mạng.
Hình 2.6. Võ Thị Sáu
Tháng 4 – 1951, thực dân Pháp đưa Võ Thị Sáu ra xét xử (Nguồn: Bảo tàng tỉnh Bà Rịa –
và kết án tử hình. Vũng Tàu)
Ngày 21 – 1 – 1952, thực dân Pháp đưa Võ Thị Sáu ra
Côn Đảo. Đêm 22 – 1 – 1952, Võ Thị Sáu được Chi bộ nhà tù kết nạp vào Đảng Cộng sản
Việt Nam(1). Ngày 23 – 1 – 1952, bản án tử hình Võ Thị Sáu được thi hành.
Trước khi bị hành hình, Võ Thị Sáu khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt, giữ vững khí tiết
người chiến sĩ cách mạng đến phút cuối cùng. Võ Thị Sáu nhìn thẳng vào họng súng kẻ
thù, hát bài Tiến quân ca và hô lớn: Việt Nam độc lập muôn năm ! Hồ Chủ tịch muôn năm .
Võ Thị Sáu đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
quê hương. Tinh thần chiến đấu và sự hi sinh anh dũng của Võ Thị Sáu đã trở thành biểu
tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cổ vũ, động viên hàng triệu người Việt Nam yêu
nước lên đường chiến đấu chống xâm lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ,...
Tên tuổi Võ Thị Sáu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến trân trọng như những bậc
anh hùng liệt sĩ tiền bối của dân tộc ta. Tên Chị đã trở thành tên sách, tên trường, tên
đường, tên đoàn, tên đội ở khắp mọi miền đất nước. Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Hình 2.7. Học sinh Trường Trung học phổ thông Võ Thị Sáu Hình 2.8. Công viên Võ Thị Sáu
(huyện Đất Đỏ) tham dự Chung kết thi thuyết trình (thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ)
“Lịch sử tên trường em” do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh (Nguồn: Bảo tàng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
và Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức năm 2022
(Nguồn: Bảo tàng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

(1)
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005, Sđd, trang 912.
22
3. Một số danh nhân văn hoá, khoa học, giáo dục của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
a) Huỳnh Tịnh Của (1834 – 1907)
Huỳnh Tịnh Của hiệu là Tịnh Trai, tên thánh là Paulus Của,
quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
Thuở nhỏ, Huỳnh Tịnh Của có thời gian theo học ở
Chủng viện Poulo Pênang (Malaysia). Ông giỏi tiếng Hán
và tiếng Pháp. Huỳnh Tịnh Của dành nhiều công sức cho việc
nghiên cứu văn học dân tộc và chữ Quốc ngữ.
Năm 1865, ông được cử làm chủ bút tờ Gia Định báo (tờ
báo đầu tiên ở Nam Kỳ viết bằng chữ Quốc ngữ). Từ khi ông
làm chủ bút, tờ Gia Định báo phong phú hơn về nội dung, Hình 2.9. Trang bìa cuốn Từ điển
Đại Nam quốc âm tự vị
có nhiều bài nghiên cứu về lịch sử, văn hoá Việt Nam, thơ và (Nguồn: Nguyễn Hữu)
truyện cổ được đăng tải.
Trong sự nghiệp khoa học của mình, Huỳnh Tịnh Của để lại nhiều tác phẩm có giá trị
với nhiều thể loại. Về thể loại sưu tầm, biên khảo, phóng tác có các tác phẩm: Chuyện
giải buồn, quyển I (1880); Chuyện giải buồn, quyển II (1885); Gia Lễ (1886); Sách quan chế
(1888); Câu hát góp (1904); Văn Doan diễn ca (1906); Ca trù thể cách (1907); Thơ mẹ dạy
con (1907);… Về thể loại phiên âm sang tiếng Việt, một số tác phẩm Nôm xưa có các tác
phẩm như: Quan Âm diễn ca (1903), Bạch Viên – Tôn Cúc (1906), Thoại Khanh – Châu Tuấn
(1906),…
Trong các tác phẩm do ông biên soạn, tiêu biểu nhất là bộ Từ điển tiếng Việt Đại Nam
quốc âm tự vị. Đây là bộ từ điển giải thích ngôn ngữ dân tộc bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên
ở nước ta và tổng hợp được một kho từ vựng phong phú trên phạm vi cả nước, kể cả từ
vựng cổ. Bộ từ điển là mốc đánh dấu sự phát triển về trình độ ngôn ngữ văn học dân tộc,
một tư liệu quý cho việc nghiên cứu ngữ âm lịch sử. “Có thể nói bộ sách không những là
chứng tích cần thiết về trình độ phát triển của ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ văn học
dân tộc, mà còn là một tài liệu quan trọng cho người nghiên cứu ngữ âm lịch sử và ngôn
ngữ văn học các đời sau’’(1).
Chuyện giải buồn lần đầu tiên xuất bản bằng chữ Quốc ngữ phần lớn lấy từ chuyện xưa,
tích cũ đã đặt nền móng cho truyện ngắn hiện đại sau này.
Huỳnh Tịnh Của là một trí thức đi tiên phong trong việc kêu gọi người dân học chữ
Quốc ngữ, sưu tập văn hoá dân gian và chấn hưng nền giáo dục truyền thống.
Huỳnh Tịnh Của có những đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển văn hoá chữ
Quốc ngữ trong giai đoạn phôi thai, làm cho chữ Quốc ngữ trở thành một công cụ phổ biến

(1) Từ điển Văn học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1991, tập 1, trang 331.
23
văn hoá, truyền bá học thuật ở Nam Kỳ vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Ông là một nhà
truyền bá chữ Quốc ngữ, một nhà văn hoá lớn của Việt Nam.

Hình 2.10. Trường Trung học cơ sở Huỳnh Tịnh Của, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

b) Phạm Hữu Chí (1905 – 1938)


Phạm Hữu Chí quê ở xã An Ngãi, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Năm lên chín tuổi, ông tốt nghiệp tiểu học. Sau đó, học trung học tại Sài Gòn. Năm
1920, ông học ban tú tài ở Hà Nội. Năm 1922, ông đỗ tú tài toàn phần. Phạm Hữu Chí cùng
với một nhóm sinh viên phản đối một giáo sư người Pháp đối xử thô bạo, thiếu văn hoá
đối với sinh viên Việt Nam nên ông bị nhà trường cắt học bổng.
Từ năm 1925, ông sang Pháp, theo học Đại học Y khoa Pa-ri. Năm 1935, ông tốt nghiệp
bác sĩ y khoa hạng xuất sắc. Ông từ chối lời mời của Công ty khai thác kênh đào Xuy-ê với
mức lương cao.
Sau đó, Phạm Hữu Chí về nước và cùng với một số người khác mở bệnh viện
Henri Coppring tại Hà Nội để chữa bệnh cho đồng bào của mình. Phạm Hữu Chí bị lây
nhiễm bệnh hiểm nghèo. Ông vào Sài Gòn điều trị nhưng không qua khỏi. Năm 1938,
ông mất khi mới 33 tuổi.
Bác sĩ Phạm Hữu Chí là người có công đóng góp cho sự phát triển nền y học Việt Nam,
tận tâm điều trị, cứu chữa cho người bệnh. Trân trọng y đức, tài năng, ý thức dân tộc,
tinh thần phục vụ nhân dân của một thầy thuốc chân chính, chính quyền, nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu và các địa phương khác lấy tên ông để đặt tên trường, tên đường, tên
bệnh viện.

24
Hình 2.11. Trường Trung học cơ sở Phạm Hữu Chí toạ lạc trên quê hương của ông
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

c) Kiều Thanh Quế (1914 – 1948)


Kiều Thanh Quế quê ở xã Tam Phước, huyện Long Điền,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu(1).
Thuở nhỏ, ông học tại Bà Rịa, sau đó, học Trường Pétrus Ký
ở Sài Gòn. Sau khi đỗ bằng thành chung(2), Kiều Thanh Quế
dạy học ở Trường Nguyễn Văn Khuê (Sài Gòn), viết văn,
làm báo.
Kiều Thanh Quế giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp và chữ Hán,
say mê nghiên cứu văn học. Ông xuất hiện trên văn đàn Hình 2.12. Kiều Thanh Quế
vào những năm 40 của thế kỉ XX trên các lĩnh vực sáng tác, (Nguồn: Sách Tuyển tập tác phẩm
Kiều Thanh Quế)
khảo cứu, phê bình văn học và để lại một số tác phẩm có
giá trị đã chứng tỏ năng lực của một người cầm bút.
Về sáng tác, ông có các tiểu thuyết Hai mươi tuổi (1940),
Đứa con tội ác (1941), về khảo luận có Đàn bà và nhà văn
(1942), Thi hào Tagore (1943). Trong số những tác phẩm của
ông để lại, tiêu biểu là các cuốn sách về lí luận và phê bình
văn học như Ba mươi năm văn học (1941), Phê bình văn học
(1942),...
Trong cuốn Ba mươi năm văn học, tác giả trình bày dưới
dạng văn học sử trong 30 năm đầu thế kỉ XX, sắp xếp mạch lạc
các hiện tượng văn học theo trình tự thời gian và chia thành Hình 2.13. Trang bìa sách
chương mục để khảo sát, phân tích. Tuyển tập tác phẩm Kiều Thanh Quế
(Nguồn: Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu)

(1) Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu, Tuyển tập tác phẩm Kiều Thanh Quế, tập 1, NXB Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2021, trang 5.
(2) Bằng Trung học Pháp – Việt (Diplôme de Fin d’Etudes Complémentaires Franco – Indigènes), tương
đương Bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hiện nay.
25
Ở cuốn Phê bình văn học, Kiều Thanh Quế giải thích mối tương quan giữa văn học và
phê bình, giới thiệu các trường phái phê bình văn học ở phương Tây, trình bày mối tương
quan giữa nghệ thuật với chủ nghĩa xã hội và bày tỏ thái độ thiện chí đối với văn học nghệ
thuật lấy đối tượng miêu tả là nông dân và thợ thuyền.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Kiều Thanh Quế tham gia kháng chiến ở Bà Rịa
và hi sinh vào năm 1948.
Kiều Thanh Quế là một trong những người đi tiên phong trong lĩnh vực phê bình văn
học ở Nam Kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông được đánh giá là một trong
những nhà phê bình văn học xuất sắc ở Nam Kỳ.
“Là một nhà văn đa tài với vốn kiến thức sâu rộng, với sự cảm nhận văn học từ góc nhìn
đa chiều, Kiều Thanh Quế là người có vai trò rất lớn trong quá trình hiện đại hoá văn học
của nước nhà. Ông đã có nhiều sáng tác ở các thể loại khác nhau. Các tác phẩm của ông
là các “trang phóng sự” phản ánh hiện thực hoá xã hội thời bấy giờ; góp phần đề cao việc
giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Tầm vóc và thời đại của
ông được thể hiện rõ khi đứng trước giai đoạn giao thoa văn hoá, ông không “bài xích” mà
nhanh chóng tiếp nhận, tiếp biến đồng đại các giá trị văn hoá, tinh thần Đông – Tây hiện đại.
Đi tiên phong trong việc cập nhật, ứng dụng các lí thuyết mới của thế giới phương Tây
hiện đại, giới thiệu một số hiện tượng tác gia, tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Ấn Độ,
Nga, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc đến với các tác giả, độc giả ở Việt Nam”(1).
d) Trần Văn Quan (1917 – 1961)
Trần Văn Quan quê ở phường Bửu Hoà, thành phố Biên
Hoà, tỉnh Đồng Nai. Sau khi tốt nghiệp bằng Thành chung,
ông theo học ngành sư phạm. Từ năm học 1937 – 1938, ông
dạy học ở Trường Tiểu học Thắng Tam (Vũng Tàu).
Ngoài việc dạy học, Trần Văn Quan thường tổ chức các
hoạt động xã hội cho học sinh để giáo dục tinh thần dân
tộc, tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.
Năm 1945, Pháp tái chiếm Biên Hoà, Trần Văn Quan tham
gia tổng bãi công phản đối xâm lược, sau đó, thoát li vào rừng
tham gia kháng chiến, công tác tại Sở Giáo dục Nam Bộ ở Cái
Hình 2.14. Trần Văn Quan
Nước (Cà Mau). Ông cùng các đồng nghiệp dựng trường, mở (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo
lớp dạy học. Trong thời gian này, Trần Văn Quan được vinh dự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), Trần Văn Quan trở về Sài Gòn tham gia dạy học và hoạt
động cách mạng bí mật ở nội thành. Ông tham gia tổ chức Trí vận với nhiệm vụ xây dựng

(1)Tuyển tập tác phẩm Kiều Thanh Quế, tập 1, Sđd, trang 5.
26
cơ sở cách mạng trong tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, bồi dưỡng cán bộ, sau đó, đưa
họ vào chiến khu tham gia kháng chiến.
Ngày 26 – 7 – 1961, Trần Văn Quan bị địch bắt khi đang mang tài liệu cách mạng đi in ấn.
Địch dùng mọi cực hình, tra tấn, nhưng Trần Văn Quan kiên quyết không khai. Không
khuất phục được ý chí trung kiên, bất khuất của người trí thức cộng sản, địch bí mật
thủ tiêu ông vào ngày 20 – 9 – 1961.
Hoạt động của nhà giáo Trần Văn Quan đã góp phần giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ
thành cán bộ cách mạng tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Cuộc đời và
sự nghiệp của Trần Văn Quan là tấm gương sáng của một nhà giáo yêu nước, hết lòng vì
sự nghiệp giáo dục và cách mạng.
Ghi nhận công lao của thầy giáo – liệt sĩ Trần Văn Quan, chính quyền và nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu lấy tên ông đặt tên cho hai ngôi trường: Trường Tiểu học Trần Văn Quan
(thành phố Bà Rịa) và Trường Trung học phổ thông Trần Văn Quan (huyện Long Điền),...
e) Hoàng Việt (1928 – 1967)
Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, quê phường Long Hương,
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Năng khiếu âm
nhạc của ông bộc lộ sớm khi còn là học sinh tiểu học với
việc sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ như phong cầm,
măng cầm, vĩ cầm.
Cách mạng tháng Tám thành công (1945), Hoàng Việt
tham gia Thanh niên tiền phong. Buổi đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp, một số tác phẩm âm nhạc của ông với bút
danh Lê Trực được nhiều người biết đến và ưa thích như Hình 2.15. Hoàng Việt
(Nguồn: Nguyễn Hữu)
Biệt đô thành, Chí cả, Tiếng còi trong sương đêm.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Hoàng Việt lần lượt công tác ở ban văn nghệ
Ty Công an Bà Rịa, phòng Chính trị Bộ tư lệnh Quân khu 8, phòng Chính trị thuộc chiến
khu miền Đông. Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra vô cùng gian lao nhưng anh dũng
đã đem lại cho ông nguồn cảm hứng trong sáng tác. Trong bối cảnh đó, Hoàng Việt cho
ra đời nhạc phẩm nổi tiếng bài Nhạc rừng. Năm 1952, một trận bão lũ lớn đã tàn phá nặng
nề miền Đông Nam Bộ, nhà cửa đổ nát, mùa màng thất bác, làng mạc hoang tàn, ở vùng
căn cứ kháng chiến, lương thực, thực phẩm thiếu thốn, nạn đói đe dọa nghiêm trọng.
Cuộc kháng chiến của quân và dân miền Đông lâm vào giai đoạn khó khăn, gian khổ
nhất. Chính trong hoàn cảnh này, Hoàng Việt sáng tác ca khúc Mùa lúa chín, Lên ngàn với
tinh thần lạc quan cách mạng, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng:

27
“Kháng chiến nhất quyết thành công!
Kháng chiến nhất quyết thành công!
Mai này kháng chiến thành công,
Anh về em thoả ước mong”.
(Lên ngàn)
Năm 1954, Hoàng Việt tập kết ra miền Bắc. Trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia
cắt, sống trong tâm trạng “ngày Bắc, đêm Nam”, nhạc sĩ sáng tác bài Tình ca thể hiện tình
cảm thương nhớ thiết tha, sâu nặng đối với quê hương miền Nam ruột thịt.
Sau khi tốt nghiệp khoá trung cấp âm nhạc đầu tiên tại Trường Âm nhạc Việt Nam,
Hoàng Việt được cử đi học ở Nhạc viện Xô-phi-a (Bulgaria) về bộ môn sáng tác và chỉ huy
giao hưởng. Luận án tốt nghiệp của ông là bản giao hưởng Quê hương được đánh giá
cao và được xem là một tác phẩm âm nhạc lớn của Việt Nam. Trong thời gian học ở nước
ngoài, ông còn sáng tác Tình ca II, Tình ca III. Năm 1965, ông về nước. Năm 1966,
Hoàng Việt trở về miền Nam chiến đấu. Năm 1967, nhạc sĩ hi sinh tại Cái Bè, Tiền Giang.
Ông có những cống hiến quan trọng, góp phần xây dựng nền âm nhạc cách mạng
Việt Nam. Năm 1996, Hoàng Việt được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

LUYỆN TẬP

1. Em hãy giới thiệu một số danh nhân tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Em hãy hoàn thành bảng thể hiện những đóng góp của một số danh nhân tiêu biểu
của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo bảng mẫu sau (học sinh làm vào vở):

Tên danh nhân Những đóng góp tiêu biểu

VẬN DỤNG

1. Em hãy sưu tầm và viết bài giới thiệu thêm về một số nhân vật lịch sử của tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Là người con của quê hương Bà Rịa – Vũng Tàu, em phải làm gì để kế thừa, phát huy
những di sản mà cha anh để lại?
28
CHỦ ĐỀ VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
TRƯỚC NĂM 1975
3
MỤC TIÊU

– Trình bày được những thông tin cơ bản về bối cảnh lịch sử và tiền đề lịch sử –
văn hoá ảnh hưởng đến quá trình hình thành, phát triển văn học viết tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu trước năm 1975.
– Hiểu được những vấn đề cơ bản về nội dung, hình thức của văn học viết tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 1975.
– Lựa chọn và nghiên cứu được một vấn đề về văn học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
trước năm 1975.
– Biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những thành tựu văn học viết tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu trước năm 1975.

BÀI 1. TỔNG QUAN VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA –


VŨNG TÀU TRƯỚC NĂM 1975

Hình 3.1. Một góc thành phố Vũng Tàu


(Nguồn: baobariavungtau.com.vn)

KHỞI ĐỘNG

Chia sẻ với bạn những điều em biết về lịch sử, văn hoá,… của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
trước năm 1975.

29
KHÁM PHÁ VÀ LUYỆN TẬP

TỔNG QUAN VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU TRƯỚC NĂM 1975

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ VĂN HOÁ – XÃ HỘI HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU THỜI KÌ TRƯỚC NĂM 1975
1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Thống suất Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí
vùng Đồng Nai – Gia Định, lập ra phủ Gia Định gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình.
Huyện Phước Long được chia làm bốn tổng, trong đó tổng Phước An là phần đất ngày nay
thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ đó, Bà Rịa – Vũng Tàu là một trong những điểm đến của
các cuộc di dân về phương Nam của nhà Nguyễn.
Từ sau năm 1862, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Chúng
lập nên ở đây nhiều đồn điền cao su, nhà máy, công xưởng, ra sức vơ vét tài nguyên thiên
nhiên và bóc lột sức lao động của nhân dân ta. Vũng Tàu được thực dân Pháp xây dựng
thành nơi nghỉ dưỡng cho viên chức trong chính quyền của chúng.
Ngày 25 – 8 – 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bà Rịa – Vũng Tàu đã đứng
lên giành chính quyền. Từ năm 1946 cho đến năm 1975, nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
cùng với nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Biết
bao chiến sĩ đã chiến đấu kiên cường, bất khuất, hi sinh vì độc lập, thống nhất của đất nước.
Họ không chỉ góp phần tô thắm thêm truyền thống tốt đẹp của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà
còn là nguồn cảm hứng cho sự ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.
2. Tiền đề văn hoá – xã hội
Từ thế kỉ XVII, cư dân vùng Thuận – Quảng đã theo chân các chúa Nguyễn đến khai phá,
sinh sống ở xứ Đồng Nai (tên gọi của cả vùng Đông Nam Bộ lúc bấy giờ). Sau đó, một số
người Hoa trên đường di cư đã được các chúa Nguyễn cho vào khai khẩn, sinh sống ở
vùng đất này. Từ rất sớm, nơi đây đã in dấu chân của các nhà truyền giáo, các thương lái
phương Tây. Vì vậy, có thể xem Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng và Đông Nam Bộ nói chung là
vùng đất mới, vùng đất mở. Cùng với văn hoá của người Việt, người Hoa, con người ở đây
được tiếp xúc với chữ Quốc ngữ và tư tưởng văn hoá phương Tây từ rất sớm. Đây cũng
chính là điều kiện vô cùng thuận lợi để văn học viết hình thành và phát triển.

II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA –
VŨNG TÀU TRƯỚC NĂM 1975
1. Thời kì từ năm 1858 đến trước năm 1945
a) Văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với cảnh sắc tươi đẹp, cuộc sống yên bình, ấm no được tái
hiện trong nhiều bài thơ bằng chữ Hán của các quan lại nhà Nguyễn được cử vào quản lí
công cuộc khai khẩn Nam Bộ như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Nguyễn Liên Phong.

30
Trong đóphảikểđếncácbàithơtiêubiểunhư:Chuthổsừvân(Đấtđỏbừamây)củaTrịnhHoàiĐức,
Quá Côn Đảo (Qua Côn Đảo) của Phan Thanh Giản, Nam Kì phong tục nhơn vật diễn ca của
Nguyễn Liên Phong. Các tác phẩm này có thể loại rất đa dạng:
Từ khi bị thực dân Pháp chiếm đóng, cuộc sống thanh bình, ấm no ở Bà Rịa Vũng Tàu
không còn nữa. Nơi đây chỉ còn nỗi đau thương, uất hận và niềm thương nhớ quê hương
của những bậc quân vương, những chí sĩ yêu nước bị kẻ thù giam giữ, tù đày. Họ gửi gắm
tất cả những tâm sự ấy vào sáng tác của mình. Vua Thành Thái vì không hợp tác với thực
dân Pháp nên bị chúng đưa về giam lỏng ở Bạch Dinh (Vũng Tàu). Tại đây, vị vua yêu nước
đã làm bài thơ Sầu tây bể cấp để nói lên nỗi lòng của mình trước cảnh nước mất nhà tan.
Lã Xuân Oai, một vị quan triều Nguyễn đứng lên chống Pháp, bị bắt và đày ra Côn Đảo.
Ở chốn địa ngục trần gian này đã viết Côn Lôn thi tập với khoảng hơn 80 bài thơ, bài phú
bằng chữ Hán và chữ Nôm. “Toàn bộ tập thơ toát lên tinh thần trách nhiệm của một sĩ
phu đối với đồng bào, đồng chí và đất nước”(1). Các chí sĩ yêu nước khác như Phan Chu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn,… cũng bị chính quyền thực
dân lưu đày ở Côn Đảo. Thời gian này, họ sáng tác nhiều áng thơ văn rất có giá trị. Huỳnh
Thúc Kháng là người đã ghi chép lại các sáng tác của mình và những đồng chí khác bằng
chữ Hán và sau này được in trong tập Thi tù tùng thoại. Tác phẩm này không chỉ bày tỏ nỗi
niềm, chí khí yêu nước của những người tù mà còn phản ánh chân thực bức tranh nhà
tù Côn Đảo trong hai thập niên đầu thế kỉ XX. Phan Chu Trinh trong thời gian bị tù đày ở
đây cũng để lại nhiều bài thơ bằng chữ Nôm nổi tiếng như: Đập đá ở Côn Lôn, Côn Lôn tức
cảnh, Côn Lôn thư hoài,…Hầu hết các tác phẩm này đều thể hiện tinh thần bất khuất, chí
khí mạnh mẽ, tình cảm và trách nhiệm dành cho quê hương, đất nước của các sĩ phu
yêu nước.
Về nghệ thuật, thơ chữ Hán, chữ Nôm tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhìn chung vẫn có những
hình ảnh ước lệ, các điển cố, điển tích. Trong Chu thổ sừ vân, Trịnh Hoài Đức viết:
Xích huyện hôn mai lê đãi tận,
Hắc lô vu tuế tịch tương chu.
(Gần đô thị, những đám um tùm cuốc cày hầu hết,
Đất đen xấu biết bao rậm rạp, khai phá gần xong)
(Theo: Nguyễn Văn Sâm, Văn học Nam Hà, NXB Lửa thiêng, 1972)
“Xích” là cách gọi kinh đô từ thời Đường, được dùng để chỉ nơi phồn hoa, đô hội. “Hắc
lô” là đất rắn chắc, thuộc loại đất xấu, chỉ nơi còn hoang sơ.
Trong bài thơ Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại của Phan Chu Trinh, người đọc cũng
bắt gặp nhiều điển tích:
Dầu ai tại ngoại đủ thiên thu
So lại không qua nhất nhật tù

(1) Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (Chủ biên), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005.

31
Một bữa Văn Công xoang vận Tống
Hai lần Bành Tổ trải đời Chu
(Theo Lê Ấm, Tây Hồ Phan Châu Trinh di thảo, Quy Nhơn, Nhà in Lê Thị Đàm, 1945)
Mặt khác, thơ chữ Hán, chữ Nôm viết về Bà Rịa – Vũng Tàu cũng có nhiều từ ngữ, hình
ảnh sinh động, gần gũi với lời ăn, tiếng nói hằng ngày của người dân nơi đây. Ta bắt gặp
điều đó trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong:
Nam Kỳ cũng lắm cảnh sang,
Duy Bà Rịa hạt rõ ràng như tiên.
Trời sanh một chỗ thiên nhiên,
Non xanh nước bích phải miền Bồng Lai.
(Theo Nguyễn Q. Thắng (chú thích, giới thiệu), Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca,
NXB Văn học, 2011)
Hay trong Côn Lôn tức cảnh của Phan Chu Trinh:
Cỏ hoa đất nảy cây trăm thức,
Rồng cá trời riêng biển một vùng.
Nước biếc non xanh thiêng chẳng nhẽ,
Gian nan xin hộ bước anh hùng.
(Theo: Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, NXB Đà Nẵng, 1995)
b) Văn học viết bằng chữ Quốc ngữ
Lực lượng nhà văn sáng tác bằng chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ nói chung và Bà Rịa – Vũng Tàu
nói riêng rất đông đảo. Trong đó, Nguyễn Trọng Quản, người sinh ra ở huyện Đất Đỏ, được
xem là nhà văn viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam với tác phẩm
Thầy Lazaro Phiền. Tiểu thuyết này lấy đề tài cộng đồng Thiên Chúa giáo ở nơi ông sinh
ra. Ngoài ra, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm khác như: Bốn anh Chà Và cùng chuyện
tầm phào chẳng nên đọc, Kim vọng phu truyện,…
Nói về dòng văn học Quốc ngữ, không thể không nhắc đến những đóng góp của
Huỳnh Tịnh Của. Ông quê ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sáng tác của
Huỳnh Tịnh Của được chia làm hai loại: biên khảo và phiên âm. Loại biên khảo là những
tác phẩm do ông sưu tầm hoặc phóng tác dựa vào các tác phẩm thời xưa (Chuyện giải
buồn, Câu hát góp, Ca trù thể cách,...). Loại phiên âm gồm những truyện Nôm(1) xưa được
viết lại bằng chữ Quốc ngữ (Quan âm diễn ca, Chiêu Quân cống Hồ truyện, Thoại Khanh –
Châu Tuấn truyện,…). Trong đó, đáng kể nhất là Chuyện giải buồn. “Trong buổi sơ khai của
văn học chữ Quốc ngữ vào những năm cuối thế kỉ XIX, Chuyện giải buồn với kết cấu và

(1) Truyện Nôm (truyện thơ Nôm): truyện được viết bằng chữ Nôm.

32
ngôn ngữ đặc trưng Nam Kỳ là một tín hiệu đáng ghi nhận của tiến trình phát triển thể
loại truyện ngắn hiện đại bằng chữ Quốc ngữ(1)” .
Những người tù yêu nước bị giam giữ ở Côn Đảo cũng đóng góp cho văn học viết
bằng chữ Quốc ngữ nhiều tác phẩm có giá trị như: Bữa cơm tù, Cảnh Côn Lôn (thơ) của
Nguyễn Ngọc Tính, Đàn bò không có sừng, Đi lấy san hô (văn xuôi) của Trần Huy Liệu,…
Trong đó, bài thơ Bữa cơm tù được sáng tác bằng thể thơ tự do, với ngôn ngữ thơ giàu
chất tả thực đã tái hiện tình cảnh khốn khổ, đáng thương của những người tù Côn Đảo:
Nói canh cá nói cho mĩ lệ
Thực ra thì có quỷ gì đâu
Cá là khô mục từ lâu
Bọ dòi đục ruỗng còn màu mè chi
Canh lang úa lượm về từng cục
Cây chuối già xắt khúc nấu suông.
(Theo Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (Chủ biên), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu,
NXB Khoa học Xã hội, 2005)
Văn học Quốc ngữ trước năm 1945 còn xuất hiện thêm những thể loại mới, đặc
biệt là phê bình văn học. Ở lĩnh vực này, Kiều Thanh Quế đã có những đóng góp nổi bật.
Kiều Thanh Quế quê ở huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông bước vào lĩnh vực
nghiên cứu, phê bình văn học từ khi còn trẻ và trở thành một trong những cây bút phê
bình văn học hàng đầu ở Nam Bộ trong những năm 1932 – 1945. Ông để lại khối lượng
tác phẩm lớn, trong đó tiêu biểu nhất là: Ba mươi năm văn học (1941), Phê bình văn học
(1942), Cuộc tiến hoá văn học Việt Nam (1943), Ðàn bà và nhà văn (1943), Học thuyết
Freud (1943),... Trong cuốn Phê bình văn học, Kiều Thanh Quế đã nêu lên quan niệm của
mình về phê bình. Theo ông, phê bình tức là khám phá, giải mã tác phẩm nghệ thuật để
nhận ra cái đẹp trong đó. Ông cũng cho rằng, nghệ thuật cần phải tách biệt với đời sống
vật chất.
2. Thời kì từ năm 1945 đến trước năm 1975
Lực lượng sáng tác chủ yếu thời kì này là chiến sĩ cách mạng, trí thức tiến bộ, trong
đó có nhà văn, nhà báo Tô Nguyệt Đình (1920 – 1988), quê ở làng Phước Lễ, nay thuộc
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Lúc đầu, ông làm cộng tác viên của báo Điện Tín và
Dân Báo. Những năm sau đó, ông trở thành nhà báo tự do, cộng tác với nhiều tờ báo lớn
như Tiếng Chuông, Tiếng Việt, Sài Gòn Mới,... Ngoài bút danh Tô Nguyệt Đình, ông còn có
các bút danh khác như Thanh Tuyền, Tiêu Kim Thuỷ,… Là một trí thức tiến bộ, ông luôn
hăng hái tham gia các phong trào yêu nước ở đô thị. Lấy tên là Nguyễn Bảo Hoá, ông cùng
với các nhà văn Thiên Giang (Trần Kim Bảng), Bùi Đức Thịnh, Bằng Giang,... viết nhiều bài
(1)
Theo Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (Chủ biên), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, NXB Khoa học Xã hội, 2005.

33
đăng báo Tiếng Chuông chỉ rõ âm mưu tha hoá quần chúng bằng văn hoá phẩm đồi trụy của
chế độ thực dân xâm lược. Tô Nguyệt Đình xem văn học – nghệ thuật là một mặt trận trên
lĩnh vực văn hoá, văn nghệ sĩ phải tích cực tham gia vào công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc bằng ngòi bút của mình. Ông viết nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết,
biên khảo, chính luận, phóng sự điều tra,... với nội dung đều thể hiện tinh thần yêu nước
và cách mạng.
Năm 1949, Nhà xuất bản Lửa Sống ở Sài Gòn đã ấn hành tác phẩm biên khảo Nam Bộ
chiến sử của Tô Nguyệt Đình viết về cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
lục tỉnh và các phong trào khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân Nam Bộ (1859 – 1868).
Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm là khích lệ tinh thần yêu nước, động viên quần chúng
nhân dân tiếp tục chiến đấu chống quân xâm lược để giành độc lập, tự do. Tác phẩm này
đã gây được dư luận trong quần chúng và tác động sâu rộng đến phong trào đấu tranh
yêu nước, khiến nhà cầm quyền thực dân phải ra lệnh thu hồi.
Những năm 1954 – 1975, trên miền đất từ vĩ tuyến 17 trở vào, có hai nền văn học
cùng tồn tại, đan xen và tranh chấp với nhau. Trong giai đoạn này, Tô Nguyệt Đình tiếp
tục dùng ngòi bút của mình để tranh đấu cho độc lập, tự do, chống lại chính quyền Mỹ –
Diệm. Năm 1956, ông thành lập Nhà xuất bản Lá Dâu và và in các tác phẩm Tiếp Bội,
Mía sâu có đốt. Các tác phẩm này tạo ảnh hưởng nhất định đối với phong trào đấu tranh
của quần chúng.
Bên cạnh các tác phẩm lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện thực đô thị miền Nam, thời kì
này tiếp tục xuất hiện nhiều tác phẩm tái hiện lại hoàn cảnh sống, chiến đấu của những
chiến sĩ cách mạng ở nhà tù Côn Đảo. Tiêu biểu trong số đó là các tác phẩm Vượt Côn Đảo –
tiểu thuyết, Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo – thơ,… của Phùng Quán. Vượt Côn Đảo là
tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Phùng Quán, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời cầm
bút của ông, xuất bản lần đầu năm 1954 và đã được nhiều người đọc hoan nghênh,
đón nhận. Khi bắt tay vào viết tác phẩm, Phùng Quán chưa một lần đặt chân đến chốn
“địa ngục trần gian” Côn Đảo nhưng ông có dịp được gặp gỡ những người tù cách mạng
từ đây trở về. Những câu chuyện về tinh thần bất khuất và ý chí kiên định của những
người chiến sĩ cách mạng nơi đây là chất liệu để Phùng Quán viết nên bản anh hùng ca
Vượt Côn Đảo.
Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo là bài thơ của Phùng Quán được đăng trên báo Tiền Phong
năm 1955. Bài thơ ca ngợi nữ Anh hùng liệt sĩ trẻ tuổi Võ Thị Sáu bằng ngôn từ giản dị,
giàu hình ảnh. Về sau, tác phẩm này đã trở thành nguồn cảm hứng cho sự ra đời của nhiều
bài hát, bộ phim về chị Võ Thị Sáu.
Ngoài ra, đề tài nhà tù Côn Đảo còn xuất hiện trong nhiều tác phẩm khác như:
trường ca Sóng gầm Côn Đảo của Huyền Kiêu, tự truyện Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận,
hồi kí Từ Yên Bái đến Côn Nôn của Nguyễn Hải Hàn,…

III. CÁC GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIẾT TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU TRƯỚC
34
NĂM 1975
1. Ca ngợi thiên nhiên, đất nước thanh bình, thịnh trị
Thiên nhiên hiền hoà, đất đai màu mỡ, cuộc sống thanh bình ở Bà Rịa – Vũng Tàu là
nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ đặc sắc.
Trịnh Hoài Đức sinh ra, lớn lên ở Gia Định, sau này thi đỗ làm quan, lại được bổ nhiệm
chức quan cai quản chính nơi này. Vì thế, ông rất gắn bó và yêu quý vùng đất này. Khác
với các vị quan lại, nho sĩ đương thời, Trịnh Hoài Đức làm thơ không phải chỉ để bày tỏ chí khí
anh hùng, khát vọng của người quân tử mà còn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên,
bày tỏ niềm vui sướng với cảnh đất nước thanh bình, yên vui. Bài thơ Chu thổ sừ vân
(Đất đỏ bừa mây) ca ngợi sự trù phú, tốt tươi của vùng Trấn Biên (một phần của vùng đất
này nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu):
Khe núi nước đầy đi tháo đập
Đê xuân cỏ tốt thả trâu rong
Khói sương muôn khoảnh tay san sửa
Bừa vác vai về trăng sáng trong.
(Theo Nguyễn Văn Sâm, Văn học Nam Hà, NXB Lửa Thiêng, 1972)
Côn Đảo là một vùng đất nên thơ, hấp dẫn trong bài Quá Côn Lôn (Qua Côn Lôn) của
Phan Thanh Giản:
Côn Lôn nghe nói từ lâu
Con thuyền cô độc buổi đầu lướt qua
Trông vời trời biển bao la
Non xanh gửi tấm lòng ta những ngày
Muông gà trong khoảng rừng cây
Thế gian ngăn cách, khói mây chập chùng
Hỡi người hồ hải mông lung
Có tương quan với non sông thế nào?
Bản dịch thơ của Mai Chưởng Đức
(Theo Cao Tự Thanh, Việt Nam bách gia thi, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2005)
2. Khắc hoạ vẻ đẹp quê hương và sinh hoạt đời thường của người dân
Những người dân đi khai khẩn vùng đất mới mang theo biết bao hoài bão, khát khao
lập nghiệp. Đặt chân vào vùng đất Nam Bộ phì nhiêu, màu mỡ, khí hậu thuận hoà, họ
chăm chỉ lao động, khai khẩn ruộng đồng, trồng trọt, săn bắn,… Theo thời gian, những
người dân đã biến vùng đất này thành nơi đông vui, tấp nập. Tác phẩm Nam Kỳ phong tục
nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong đã phản ánh rất rõ điều này ở những vùng đất
nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:

35
Làng Phước Hải, lưới bạc muôn,
Ở theo mé biển tuy buồn mà vui.
Buồn nghe sóng vỗ từ hồi,
Vui vì đông đảo tới lui chỉnh tề.
Tục kêu là xứ Lưới Rê,
Đình chùa lăng miễu tư bề đẹp sung.
Lợi nhờ con cá Biển Đông,
Cảng đầm nước mặn đờn ông mốt thường.
Nhiều nhà danh giá cột rường,
Nhiều trang viên chức hào cường nội thôn.
(Theo Nguyễn Q. Thắng (chú thích, giới thiệu), Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca,
NXB Văn học, 2011)
3. Bày tỏ nỗi niềm trăn trở và tinh thần bất khuất, kiên cường trước kẻ thù xâm lược
Năm 1859, thời điểm thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Bà Rịa – Vũng Tàu, được xem
là dấu mốc kết thúc cuộc sống thanh bình kéo dài hơn 200 năm ở vùng đất này. Trong
hoàn cảnh lịch sử đó, văn học Nam Bộ nói chung và văn học tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng
đã phản ánh những nỗi niềm đau đớn, nhục nhã của người dân mất nước; cuộc sống vất
vả, nhọc nhằn, bức bối vì chiến tranh, đói kém,…
Bài thơ Sầu tây bể Cấp của vua Thành Thái đã thể hiện nỗi lòng của một vị quân vương
mất nước:
Sống thừa nào biết có hôm nay,
Nhìn thấy non sông đất nước này.
Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ,
Ruột tằm đòi đoạn mối sầu tây.
(Theo Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004)
Trước cảnh đất nước bị đô hộ, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra ở khắp mọi miền
đất nước. Con người Nam Bộ với tính cách thẳng thắn, bộc trực càng không thể cam chịu
sự đè nén của bọn thực dân. Tiểu thuyết Tiếp Bội của Tiêu Kim Thủy (một bút danh khác của
nhà văn Tô Nguyệt Đình) không chỉ tái hiện lại thân phận thấp hèn của những người công
nhân trên bến tàu bị bọn chủ người Pháp bóc lột, khinh rẻ mà còn dự báo một cuộc đấu
tranh quyết liệt sắp nổ ra.
4. Ca ngợi nghị lực và ý chí của những người tù Côn Đảo
Nhiều bài thơ với chí khí mạnh mẽ của những chí sĩ yêu nước được sáng tác ở tù ngục
Côn Đảo. Các tác phẩm này thể hiện nghị lực phi thường và tinh thần bất khuất của họ
trước sự giam cầm, tra tấn của kẻ thù. Tiêu biểu trong số đó là bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
của Phan Chu Trinh:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

36
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con.
(Theo Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, NXB Đà Nẵng, 1995)
Côn Đảo được xem là “địa ngục trần gian”, nơi bọn thực dân, đế quốc giam cầm, tra
tấn các chiến sĩ yêu nước của ta. Nơi đây hiện lên thật rùng rợn, ám ảnh trong tiểu thuyết
Vượt Côn Đảo của nhà văn Phùng Quán: “Tất cả tù Côn Đảo đều gọi Côn Đảo là địa ngục,
một thứ địa ngục trần gian. Nghe người ta nói, ở địa ngục, trên có Diêm Vương hung ác,
dưới có bọn quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Để hành hạ chết người, có vạc dầu nấu sôi, sông
nhúc mãng xà rắn rết, có chỗ cưa chân xẻ tay, róc thịt chẻ xương. Không biết có địa ngục
và địa ngục có những cảnh đó không, nhưng ở Côn Đảo, những cảnh đó không thiếu gì
và còn gấp trăm, gấp nghìn thế là khác” . Nhiều chiến sĩ cách mạng của chúng ta đã ngã
xuống ở đây như Lê Hồng Phong, Võ Thị Sáu,…Thế nhưng, kẻ thù vẫn không sao dập tắt
được ý chí, niềm tin của những người tù yêu nước:
Đêm hôm nay xích sắt cùm hai chân.
Ngồi trên đá như ngồi trên đống tuyết
Ngồi suốt đêm nay đợi ngày mai giặc giết,
Tóc chưa chấm vai, đời đẹp tựa trăng lên.
Nhưng mắt Sáu vẫn long lanh,
Vẫn thấy như mình sống giữa tự do.
Trên đường vào đảo hôm qua
Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven rừng
Cài lên mái tóc rối tung,
Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.
(Phùng Quán – Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo)
Nhìn những người đồng chí của mình bị kẻ thù đánh đập, hành hạ trong nhà tù, nhìn
họ chết “không khác gì một ngọn lá rụng giữa rừng”, ai cũng uất ức, dồn nén căm hờn
đến tột độ. Tiếng thét “phải trả thù” của những người tù trong tiểu thuyết Vượt Côn Đảo
minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Câu hỏi
1. Nêu bối cảnh lịch sử và tiền đề ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của văn
học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 1975.

37
2. Vẽ sơ đồ thể hiện quá trình hình thành, phát triển của nền văn học viết tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu trước năm 1975. Chọn và trình bày những thông tin chính trong một thời kì
hoặc một giai đoạn phát triển cụ thể.
3. Văn học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 1975 có những giá trị nổi bật nào?
4. Điền thông tin liên quan đến nền văn học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 1975
vào bảng dưới đây (học sinh làm vào vở):

Tác phẩm Tác giả Giá trị tác phẩm Cách tìm đọc tác phẩm (nếu có)

VẬN DỤNG

Hãy chọn một vấn đề liên quan đến văn học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà em muốn
nghiên cứu và cho biết:
1. Lí do em chọn vấn đề.
2. Các bước tiến hành nghiên cứu vấn đề.

BÀI 2. TIẾP BỘI

Hình 3.2. Xưởng đóng tàu Ba Son


(Nguồn: tuoitre.vn)

KHỞI ĐỘNG

Tìm những câu ca dao nói về hình ảnh của người Việt Nam dưới ách cai trị của thực
dân Pháp.

38
KHÁM PHÁ VÀ LUYỆN TẬP

Tiếp Bội
(Trích)
Tiêu Kim Thuỷ

Dưới chế độ thực dân, xã hội nước ta chìm đắm trong cõi tối tăm. Mọi người không được
công khai biểu lộ lòng yêu nước. Trong hoàn cảnh đó, một thế hệ thanh niên mà đại diện là
Tiếp và Bội cảm thấy chán ngán cảnh tù túng, mất tự do đã đứng lên tranh đấu. Tiếp và Bội
đã gác lại tình cảm lứa đôi vì lí tưởng cao cả. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh không hề đơn giản
như họ tưởng. Bọn thực dân đã mua chuộc cha Bội, biến ông trở thành bức tường ngăn
cản tinh thần tranh đấu của con gái mình. Nhưng cuối cùng, cha Bội cũng hiểu được lòng
dạ tàn nhẫn của thực dân. Ông tìm đến cái chết để chuộc lỗi lầm của mình. Cái chết của
cha không hề làm cho Bội buông xuôi, chán nản. Ngược lại, cô thấy mình phải tiếp tục con
đường tranh đấu. Đoạn trích dưới đây ở phần đầu tác phẩm kể về việc Tiếp cùng với anh em
thợ thuyền đòi bọn chủ người Pháp tăng lương nhưng bất thành. Đây cũng chính là khởi
nguồn cho quá trình tranh đấu về sau của nhân vật.
Hôm qua thấy thợ trong sở tính đưa yêu sách tăng lương với chủ, Tiếp được cử ra
thay mặt, anh nhận lời. Tiếp xét thấy nếu được Cai Mầu ưng thuận, thì công việc sẽ có kết
quả, bởi Cai Mầu được lòng tin cậy của chủ Tây. Trước giờ Cai Mầu là kẻ cộng sự đắc lực
của chủ nên được chủ nó vị tình.
Nhờ mềm mỏng, ôn hoà, Tiếp gây được cảm tình với Cai Mầu. Vả lại Tiếp là thơ kí
trong sở, chữ nghĩa khá, tiếng Tây giỏi nên Cai Mầu phải nể, vì vậy Tiếp định vận động với
Cai Mầu trước, một là đứng chung vào yêu sách, hai là đừng cản trở công việc xin lên lương.
Nhà Cai Mầu ở tận Xóm Lách. Ra khỏi đám đông, Tiếp thót lên xe đạp phóng nhanh.
Bữa nào cũng vậy, Cai Mầu về nhà trước khi có còi tan sở. Tiếp tới nơi giữa lúc y ngồi uống
rượu với khô mực.
Tiếp dựng xe đạp ngoài rào lên tiếng:
– Chào ông Cai.
Cai Mầu quay mặt ra cười hỏi:
– Kìa thầy kí, thầy đến nhà tôi chắc có chuyện gì hay?
Tiếp vào nhà và nói:
– Cũng có chút chuyện nhờ ông Cai giúp cho.
Cai Mầu hỏi đùa:

39
– Chuyện hiền hay dữ?
– Chuyện hiền.
– Được rồi, thầy kéo ghế mà ngồi.
Tiếp vui vẻ mở lời:
– Ông Cai à, chắc ông đã biết dự định xin tăng lương của anh em sở mình. Nếu chủ
chịu thì ông cũng có lợi. Lương ông đang lãnh ba nghìn, nếu tăng sẽ được ba nghìn sáu.
Cai Mầu ngắt lời:
– Các sở khác có sở nào được lên lương chưa?
– Họ đang rục rịch xin lên như mình.
Cai Mầu khoát tay:
– Ấy, để chờ họ được lên lương rồi mình hãy xin.
– Mình là sở lớn nên làm gương cho mấy sở nhỏ. Vả lại Nha Thanh tra Lao động ra
thông cáo nhắc các chủ sở tăng lương cho công nhân.
Cai Mầu nói:
– Mình chẳng nên chộn rộn chủ nó biết thì nguy. Còn luật lao động Việt Nam, Tây nó
không áp dụng.
Tiếp đoán biết Cai Mầu muốn thoái thoát nên nói:
– Đồ ăn mắc mỏ, giá sanh hoạt lên hoài, tiền lương của thầy thợ không đủ nuôi gia đình,
lương của ông đành rằng có cao vẫn không bì với giá sanh hoạt, ông cũng cần được
tăng lương.
Cai Mầu cười mơn:
– Tăng lương ai mà không ham, ngặt vì Tây tà bây giờ khó lòng lắm, nó biết mình
toan tính chuyện gì nó đuổi cổ hết.
Tiếp vẫn nói:
– Hàng nghìn thầy thợ trong sở đang trông cậy vào ông, họ nghĩ rằng ông sẵn lòng
giúp họ.
Cai Mầu lặng im suy nghĩ một hồi rồi nói:
– Thầy kí hãy thư thả để tôi còn suy nghĩ lại. Hay là để tôi hỏi thăm chủ…
Tiếp nói:
– Trong lúc ông Cai suy nghĩ, cứ để anh em người ta làm, nếu được thì cùng
hưởng chung.
Cai Mầu nói liền:
– Không được! Anh em làm vậy Tây nó “cạo” tôi, vậy để tôi báo cáo với chủ trước rồi anh
em muốn làm gì thì làm.
Càng đi sâu vào vấn đề, Tiếp càng nhận thấy sự tráo trở của Cai Mầu, một con người lúc
nào cũng trung thành với chủ Tây.
Tiếp hoà nhã đứng dậy cáo từ. Mầu đưa ra cửa còn nhắc:
– Thầy nói lại với anh em nên đình dãi, đừng có hớp tớp mà mang hoạ, bề nào chủ nó
cũng mạnh hơn mình.

40
Tiếp chán nản dắt xe đạp ra về. Bụng đói, anh xề lại quán cơm bên đường. Vừa ăn anh
vừa suy nghĩ về chuyện Cai Mầu có thể học lại với chủ để ngăn trở việc xin lên lương. Lỡ
nói cho Cai Mầu biết rồi, bây giờ phải tìm cách đối phó. Tiếp ăn vội bát cơm để kịp trở lại
sở báo tin với anh em.
Quá trưa, trời nắng gắt, mồ hôi đổ ròng ròng, Tiếp lấy khăn lau mặt, nhìn chiếc xích lô
lạch cạch chạy qua, anh phu xe để lộ lớp da đen nhánh, loang loáng mồ hôi. Từng tia nắng
sáng rỡ lao xao nhảy múa trên chùm cây bàng. Bên kia đường, dãy nhà lá phơi mình dưới
nắng trưa, nổi bật lên mái lá xám xịt, cái cao cái thấp mơ hồ mực sống so le của con người.
Tiếp lắc đầu để xua đuổi một ám ảnh nặng nề rồi leo lên xe đạp.
Trưa nào cũng vậy, một số thầy thợ không về, vì nhà xa, xe cộ mắc mỏ, giờ nghỉ ít ỏi,
họ ăn qua loa ba miếng ở quán cơm rồi trải giấy hay nằm đại dưới bóng cây hay bên vách
tường chợp mắt ngủ. Tiếp trở lại đó thì có người còn thức, anh đi kiếm Tốt cho hay liền.
Tốt lại gọi Mảnh và vài người bạn tùm nhum lại bàn tính:
– Thế nào Cai Mầu cũng mét với chủ, nó sẽ tìm cách làm khó dễ mình, bây giờ phải
tính sao?
Mảnh, một anh thợ hàn trẻ tuổi nóng nảy, phát cáu nói:
– Cai Mầu chó má như vậy để tôi đập nó một trận cho tởn.
Tiếp ngăn lại:
– Mình chẳng nên gây sự để nó có cớ làm rắc rối mình. Theo tôi, mình cứ đưa yêu sách
và thân thiện với nó, làm việc chánh đáng lại có số đông mình sẽ thắng.
Tiếp được nhiều bạn biểu đồng tình nên ngay lúc trở vào làm việc Tiếp và Tốt đem lá đơn
lên trình với chủ. Lúc hai người lên tới văn phòng đã thấy Cai Mầu ở đó. Có lẽ nghe Mầu
báo cáo tự sự rồi, nên viên chủ Tây không cần xem lá đơn, hất hàm hỏi:
– Các anh muốn đòi lên lương phải không? Này, anh nào không bằng lòng làm việc thì
ra khỏi đây ngay.
Đoạn ông ta vò lá đơn vứt vào sọt rác.
Tiếp và Tốt hết sức bất bình, song Tiếp nhịn được, còn Tốt không nhịn được nên nói:
– Chúng tôi là người làm công có quyền xin lên lương, ông không nên có thái độ khiếm nhã
như vậy.
Viên chủ Tây sừng sộ ngay với Tốt:
– Anh muốn sanh sự với tôi hả? À, anh muốn phá hoại sở này, tôi sẽ tống cổ anh vào
tù cho anh biết.
Miệng nói tay ông ta chụp máy điện thoại gọi sở mật thám liên bang. Tiếp biết hắn
muốn vu cáo cho Tốt nên khuyên Tốt lánh mặt đi, Tốt không chịu và nói:
– Anh đừng ngại, nó có giỏi làm gì thì làm chớ tôi không chịu nhịn.
Hai viên mật thám, một Tây, một ta từ ngoài bước vào, viên chủ Tây trỏ Tốt:
– Thằng nầy nó muốn phá hoại sở tôi, xin gởi cho các ông điều tra.
Tốt toan cãi lại song viên mật thám Tây quắc mắt nhìn anh và nắm tay đẩy ra ngoài.

41
Viên chủ Tây quay lại nói với Tiếp:
– Anh về chỗ làm, giao công việc cho người khác, ngày mai đừng đến đây nữa.
Hiểu chưa?
Tiếp hoà nhã nói:
– Tôi đã làm tròn công việc chẳng có điều chi sơ sót, ông đành đuổi tôi sao?
– Anh không nên nói nhiều, Cai Mầu nó bảo anh cầm đầu vụ nầy, tôi không cho lính
bắt anh là may. Thôi anh đi ra.
Trở về chỗ làm thu xếp công việc giao cho người khác, Tiếp thuật lại đúng như chuyện
xảy ra. Nhiều người tức tối nói:
– Chủ nó xử vậy thì ức lắm, phải thẳng tay ăn thua, chớ nhịn gì được.
Sự phẫn nộ làm xôn xao các xưởng thợ. Phần đông muốn la hét đòi trả Tốt lại với họ
và đừng đuổi Tiếp. Tiếp phải khuyên lơn trấn tĩnh từng người mới tránh khỏi sự náo động
trong sở Ba Son… Nếu để cho ai nấy tự do bộc lộ ngay nỗi oán hờn ngay trong sở, chủ nó
sẽ lợi dụng dịp này mà đàn áp thì không có lợi gì. Bởi vậy Tiếp mới khuyên anh em ra về
đợi mình làm đơn thưa với Nha Thanh tra Lao động.
Bây giờ Tiếp dắt chiếc xe đạp cũ mèm đi lang thang về phía bờ sông Sài Gòn. Chiều nay
nhằm một chiều tháng Ba năm 1952 tức là lúc người Tây còn hống hách, Tiếp cảm thấy
một nỗi buồn man mác. Anh cũng là công nhân như Tốt, Tốt làm thợ tiện, anh làm thơ kí,
tuy khác nhau về công việc, nhưng giống nhau về sanh hoạt, nếu Tốt bị bạc đãi thì mình
có may mắn gì hơn. Dưới chế độ thực dân, người Việt Nam như Tiếp hay Tốt bị ngược đãi
là một sự thường. Tiếp hiểu muốn sống cuộc đời no ấm còn phải vượt qua nhiều cuộc
chiến đấu cam go nữa.
(Tiêu Kim Thủy, Tiếp Bội, NXB Lá Dâu, 1957)
Câu hỏi
1. Tiếp cùng với anh em thợ thuyền dự tính điều gì?
2. Tiếp đến gặp Cai Mầu để làm gì?
3. Tìm những hành động của viên chủ Tây khi hắn nhận được đơn của anh em
thợ thuyền. Những hành động đó thể hiện điều gì?
4. Vì sao Tiếp cảm thấy một nỗi buồn man mác khi lang thang về phía bờ sông Sài Gòn?
5. Xác định chủ đề của câu chuyện.

VẬN DỤNG

Truyện Tiếp Bội giúp em hiểu thêm điều gì về cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam
với giới chủ người Pháp?

BÀI 3. TIẾNG HÁT TRÊN ĐỊA NGỤC CÔN ĐẢO


42
Hình 3.3. Nghĩa trang Hàng Dương – Côn Đảo, nơi yên nghỉ của chị Võ Thị Sáu
(Nguồn: condaovungtau.com)

KHỞI ĐỘNG

Đóng vai hướng dẫn viên, giới thiệu về nhà tù Côn Đảo.

KHÁM PHÁ VÀ LUYỆN TẬP

TIẾNG HÁT TRÊN ĐỊA NGỤC CÔN ĐẢO


(Trích)
Một cô gái miền Nam.
Năm nay mười bảy tuổi tròn
Hiền như bông lúa chín thơm giữa đồng.
Đêm hôm nay xích sắt cùm hai chân.
Ngồi trên đá như ngồi trên đống tuyết
Ngồi suốt đêm nay đợi ngày mai giặc giết,
Tóc chưa chấm vai, đời đẹp tựa trăng lên.
Nhưng mắt Sáu vẫn long lanh,
Vẫn thấy như mình sống giữa tự do.
Trên đường vào đảo hôm qua
Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven rừng
Cài lên mái tóc rối tung,
Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.
Bọn lính giặc như mê.
Trợn mắt nhìn cô gái,
Sắp chết mặt vẫn tươi roi rói,
43
Môi không tắt nụ cười:
– Trên cành chim hót chim ơi,
Ta làm cách mạng ta vui đến cùng,
Ngày mai chim đến mà ăn
Nhà tù Côn Đảo thành đồng lúa thơm.

(Phùng Quán, báo Tiền Phong số 63, 19 – 8 – 1955)


Câu hỏi
1. Tìm từ ngữ, hình ảnh miêu tả chị Sáu trước lúc chị hi sinh.
2. Trên đường đi vào nhà lao Côn Đảo, chị Sáu có những cử chỉ, hành động gì? Điều đó
cho thấy vẻ đẹp gì ở chị?
3. Bốn câu thơ cuối bài thể hiện nội dung gì?
4. Hình ảnh chị Sáu trong bài thơ để lại cho em những cảm xúc gì?

VẬN DỤNG

Sưu tầm và nêu cảm nhận của em về một bài thơ khác viết về chị Võ Thị Sáu.

ĐỌC MỞ RỘNG

Bài 4. VIẾT BÀI VĂN THUYẾT MINH VỀ MỘT NHÀ VĂN


HOẶC NHÀ THƠ TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
KHỞI ĐỘNG

Kể tên những nhà thơ, nhà văn quê ở Bà Rịa – Vũng Tàu hoặc có những tác phẩm viết
về Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHÁM PHÁ VÀ LUYỆN TẬP

Bà Rịa – Vũng Tàu ghi dấu tên tuổi của nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Hãy viết bài
văn thuyết minh về một trong số những nhà thơ, nhà văn đó.
Chuẩn bị:
Đọc lại bài Tổng quan văn học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 1975 và các tài liệu
có liên quan mà em sưu tầm được. Từ đó trả lời các câu hỏi:
– Em sẽ viết bài văn thuyết minh về nhà văn, nhà thơ nào? Vì sao?
– Em dự kiến sẽ thuyết minh những nội dung nào?

44
Tìm ý và lập dàn ý:
– Tìm ý:
1) Nhà văn/nhà thơ sống và sáng tác vào thời gian nào? Có phẩm chất và phong cách
gì đặc biệt?
2) Nhà văn/nhà thơ có những tác phẩm tiêu biểu nào? Nội dung cơ bản của các tác
phẩm đó là gì?
3) Các tác phẩm của nhà văn/nhà thơ có giá trị gì đối với nền văn học địa phương nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung?
– Lập dàn ý: Dựa vào câu trả lời ở phần tìm ý, sắp xếp nội dung vào các phần phù hợp
trong bài văn thuyết minh (mở bài, thân bài, kết bài).
Viết bài văn thuyết minh:
Gợi ý: Có thể viết bài văn trên máy tính, kết hợp sử dụng các hình ảnh, sơ đồ,…
Chỉnh sửa, hoàn thiện bài văn:
Dựa vào các tiêu chí sau để chỉnh sửa, hoàn thiện bài văn:
– Thông tin trong bài văn đảm bảo tính chính xác, rõ ràng; có chú thích nguồn dẫn đầy đủ.
– Sắp xếp thông tin theo trình tự hợp lí.
– Diễn đạt trong sáng, chuẩn mực.

VẬN DỤNG

Nêu điểm giống nhau và khác nhau giữa bài văn thuyết minh về nhà văn, nhà thơ và
bài văn thuyết minh về một tác phẩm văn học.

VĂN BẢN 1 Chu thổ(1) sừ vân


Phiên âm
Trấn Biên chu thổ hải chi tưu?
Phá hiểu sừ vân mục tử trù.
Xích huyện hôn mai lê đãi tận,
Hắc lô vu uế tịch tương chu.
Vũ nhiêu sơn giản thần khai yển.
Thảo dụ xuân đê vãn phóng ngưu.
Vạn khoảnh yên hà thu thập túc,
Quy lai sơ nguyệt há kiên đầu.

Trịnh Hoài Đức


(Theo Nguyễn Văn Sâm, Văn học Nam Hà, NXB Lửa Thiêng, 1972)
Dịch nghĩa
(1) Chu thổ: chỉ đất đỏ ở huyện Long Điền.
45
Đất đỏ bừa mây
Trấn Biên có bãi đất son, liền ngay ven bể,
Trong đám mây mờ mịt, mới tảng sáng đã có từng hàng người bừa.
Gần đô thị, những đám um tùm cuốc cày hầu hết,
Đất đen xấu biết bao rậm rạp, khai phá gần xong.
Mưa nhiều, khe núi nước đầy, sáng đi tháo đập,
Xuân tới bờ đê cỏ tốt, chiều đến chăn trâu.
Sương khói một màu muôn khoảng rộng, san sửa vừa xong,
Bừa vác trên vai, đi về nhà dưới bóng trăng mới mọc.

Dịch thơ

Đất đỏ bừa mây


Đất đỏ Trấn Biên góc Biển Đông,
Người bừa tảng sáng kéo ra đồng.
Um tùm bao đám cày vừa hết,
Rậm rạp đất đen vỡ sắp xong.
Khe núi nước đầy đi tháo đập,
Đê xuân cỏ tốt thả trâu rong.
Khói sương muôn khoảnh tay san sửa,
Bừa vác vai về trăng sáng chong.

(Hoài Anh dịch)


Câu hỏi
1. Địa danh Trấn Biên được miêu tả qua những hình ảnh nào?
2. Tìm những từ ngữ miêu tả cảnh vật và con người trên cánh đồng.
3. Nhà thơ muốn thể hiện tình cảm, cảm xúc gì trong bài thơ?
4. Bài thơ giúp em nhận ra điều gì về vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu xa xưa?

VĂN BẢN 2 ĂN MÀY XIN VÀNG NÉN


Có một người giàu có lớn, mà hà tiện cũng lớn, cứ bo bo giữ của không chịu làm phước
cho ai. Có một tên ăn mày tới xin quyết một nén vàng, người nhà giàu phát giận, nói giá
ăn mày dám xin tới vàng nén, biểu đầy tớ đuổi đi. Tên ăn mày la lết không chịu đi, cứ việc
ở trước nhà mà xin mãi. Trong nhà không ai thèm nói tới, tên ăn mày sớm đi xin ăn chỗ
khác, trưa lại lộn về ở tại nhà giàu mà nài hoài cho đặng nén vàng. Nó làm như vậy đã
đặng ba năm, người nhà giàu thấy nó có công gắng vó, cũng mỏi lòng mà chịu cho.
46
Tên ăn mày được nén vàng, thì làm bộ nhảy nhót mầng rỡ bội phần, liền cổi áo gói lại
mà đi. Khi tên ăn mày đi ra một đỗi, thì người nhà giàu sai một đứa đầy tớ theo rình coi lão
ăn mày đem nén vàng đi đâu, cùng làm chuyện gì với nén vàng. Tên đầy tớ đi theo xa xa,
thấy lão ăn mày đi thẳng ra ngoài đồng, tới chỗ bóng mát ngồi xuống mở áo lấy nén vàng,
dồi lên dồi xuống mà giỡn chơi, coi ra ý mầng rỡ lắm. Cách một hồi lão ấy buồn ngủ, nằm
chèo queo, nén vàng thì để trần một bên chỗ ngủ. Đứa đầy tớ nom đặng, chờ lão ăn mày
ngủ mòm, lén lại lấy nén vàng đem về cho chủ, chủ mầng còn nén vàng, liền đem đi cất.
Lão ăn mày thức dậy thấy mất nén vàng, không thèm tìm kiếm, xăm xăm trở lại nhà
giàu mà xin nén khác. Ông nhà giàu nói: mới cho một nén làm gì hết đi, mà còn xin nữa?
Lão ăn mày nói: tôi vừa nhắm mắt, nó liền mất đi, nên phải xin ông nén khác. Ông nhà
giàu nghe nói, dường như ai soi sáng tấm lòng, liền hiểu sự đời: hễ con người ta nhắm
mắt rồi thì chẳng còn của cải sự nghiệp gì nữa; mới khấn nguyền xin táng của cải mà làm
phước với thiên hạ; sau nghĩ lại, mới biết người ăn mày ấy là tiên.
(Theo Huỳnh Tịnh Của, Chuyện giải buồn, Bản in Nhà Hàng Rey Et Curiol, 1887)
Câu hỏi
1. Vì sao người nhà giàu lại cho lão ăn mày vàng nén?
2. Câu nói nào của lão ăn mày khiến cho lão nhà giàu hiểu ra sự đời?
3. Câu chuyện gửi đến chúng ta thông điệp gì?

Bài 5. GIỚI THIỆU MỘT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT


TIÊU BIỂU CỦA TỈNH BÀ RỊA – VÙNG TÀU

KHỞI ĐỘNG

Kể tên những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu (văn học, hội hoạ, âm nhạc, điện ảnh,…)
của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHÁM PHÁ VÀ LUYỆN TẬP

Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không chỉ có bề dày truyền thống lịch sử mà còn ghi dấu tên
tuổi của nhiều nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ,… nổi tiếng. Họ góp phần làm đẹp thêm
cho địa phương bằng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Hãy chọn và giới thiệu một
tác phẩm mà em thích nhất.
a) Chuẩn bị

47
Đọc lại bài Tổng quan văn học viết tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 1975, bài văn thuyết
minh về một nhà văn, nhà thơ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà em đã viết và các tài liệu khác.
Từ đó trả lời các câu hỏi:
– Em sẽ giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật nào? Vì sao?
– Em dự kiến sẽ giới thiệu những gì?
b) Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý theo các gợi ý sau:
1) Tác phẩm nghệ thuật ra đời vào thời gian nào? Ai là người sáng tác?
2) Nội dung cơ bản hay nét đặc sắc của tác phẩm nghệ thuật là gì?
3) Tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa như thế nào với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và bản thân
em?
– Lập dàn ý: Dựa vào câu trả lời ở phần tìm ý, sắp xếp vào các phần phù hợp trong bài
giới thiệu (mở bài, thân bài, kết bài).
c) Thực hành giới thiệu ở lớp
Gợi ý: Có thể kết hợp sử dụng các hình ảnh, sơ đồ, âm thanh để làm cho bài giới thiệu
thêm rõ ràng, lôi cuốn.
d) Trao đổi, nhận xét
Dựa vào các tiêu chí sau để trao đổi, nhận xét:
– Thông tin chính xác, rõ ràng, hệ thống.
– Sử dụng phương tiện hỗ trợ hợp lí.
– Ngôn ngữ truyền cảm, cử chỉ phù hợp.

VẬN DỤNG

Nêu cách giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật lôi cuốn.

48
CHỦ ĐỀ LỄ HỘI VÀ NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
4
MỤC TIÊU

– Kể tên được một số lễ hội và nghệ thuật truyền thống ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Kể tên được một số nhạc cụ đặc trưng của các dân tộc ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Nghe, cảm thụ và phân biệt được đặc điểm âm nhạc trong một số loại hình
nghệ thuật địa phương.
– Gìn giữ những giá trị nghệ thuật truyền thống địa phương thông qua các hoạt động
biểu diễn nghệ thuật trong và ngoài nhà trường tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHỞI ĐỘNG

– Kể tên một số lễ hội và nghệ thuật truyền thống ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà em biết.
– Kể tên một số nhạc cụ đặc trưng của các dân tộc ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHÁM PHÁ

I. CÁC LỄ HỘI VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Dựa vào thông tin trong mục I, em hãy:
– Kể tên một số lễ hội và nghệ thuật truyền thống của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Nêu ý nghĩa của lễ hội và nghệ thuật truyền thống của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Cho biết ghệ thuật âm nhạc hoặc nhạc cụ truyền thống nào được sử dụng trong
các lễ hội.

1. Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam


Lễ hội Nghinh Ông ở phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, được công nhận là Di
sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào ngày 14 tháng 02 năm 2023. Lễ hội diễn ra từ ngày
15 đến ngày 18 tháng 8 âm lịch hằng năm tại Khu di tích Đình Thắng Tam, thành phố
Vũng Tàu.

49
Âm nhạc trong lễ hội: Lễ hội được bắt
đầu với 3 hồi trống, 3 hồi chiêng làm hiệu
lệnh cho đoàn lân sư rồng thực hiện nghi
thức khai nghinh thuỷ tướng. Nhiều ghe
thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa
chở đoàn rước, trống lớn, đội bả trạo đi
rước cá Ông (cá voi) về Đình Thắng Tam để
cử hành lễ nghi. Đặc biệt trong lễ hội này
người dân được thưởng thức nhiều hoạt
động văn hoá hấp dẫn như: hát bả trạo, Hình 4.1. Trống lớn cùng đoàn người đi rước linh vị
cá Ông về đình Thắng Tam
hát bội, diễn tuồng, múa lân sư rồng, được (Nguồn: Truyền hình Bà Rịa – Vũng Tàu)
tham gia các trò chơi dân gian vui khoẻ liên
quan đến các hoạt động của ngư dân như thi gánh cá, đan lưới, kéo co, bơi biển, bịt mắt
đập niêu, câu cá.
2. Lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành
Miếu Bà Ngũ Hành có rất nhiều ngày
cúng lễ hằng năm, nhưng lớn nhất là Lễ hội
cúng Bà và Nghinh Bà. Lễ hội được tổ chức
hàng năm vào các ngày 16, ngày 17 và ngày
18 tháng 10 âm lịch, tại phường Thắng Tam,
thành phố Vũng Tàu.
Âm nhạc trong lễ hội: Lễ hội có 2 phần,
bao gồm: phần lễ và phần hội. Phần lễ
được bắt đầu với 3 hồi chiêng, trống vang Hình 4.2. Lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành
lên, chủ tế cử hành các ghi thức dâng cúng (Nguồn:Nguyễn Kim Ngân)

theo truyền thống. Sau phần lễ là phần hội, đây là phần sinh động nhất của lễ hội. Người
tham dự được thưởng thức nhiều loại hình nghệ thuật như: hát bội, hát bóng rỗi, trình
diễn tuồng, múa lân sư rồng và một số trò diễn dân gian khác (múa dâng lộc, múa bông huệ,
múa ghế, múa khạp múa dâng rượu).
3. Lễ hội Dinh Cô
Lễ hội Dinh Cô Long Hải đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào
ngày 14 tháng 02 năm 2023. Trước đây, Lễ hội Dinh Cô gọi là lễ giỗ cô, ngày nay phát triển
thành lễ hội và được tổ chức hàng năm vào các ngày 10, ngày 11 và ngày 12 tháng 2 âm
lịch tại thị trấn Long Hải, huyện Long Điền.
Trước ngày diễn ra nghi lễ, người dân tổ chức đêm hội hoa đăng trên biển, các ghe
thuyền trang trí lộng lẫy đậu trên bãi biển, mũi thuyền hướng về Dinh Cô. Đến ngày chính
50
lễ, các đoàn ghe thuyền nối nhau ra khơi
trong tiến trống vang trời đi rước Cô và các
vị thần linh, ông bà tổ tiên cùng về dinh ăn
giỗ. Sau phần chính lễ là phần hội. Người
đến tham dự lễ hội được tham gia các trò
chơi dân gian (đua thuyền, đua thúng, kéo
co,…) và thưởng thức nghệ thuật truyền
thống của nhiều dân tộc như: đánh trống,
đánh chiêng, múa lân sư rồng, hát bả trạo, Hình 4.3. Đội hát bả trạo trong nghi lễ cúng Cô
(Nguồn: baobariavungtau.com.vn)
diễn tuồng, hát bội,…
4. Lễ hội Ông Trần
* Lễ giỗ Ông Trần
Ông Trần (tên thật là Lê Văn Mưu) – người
có công xây dựng công trình Nhà Lớn (là
một quần thể gồm nhiều nhà nhỏ tạo thành)
để cho người di cư đến ở. Do lúc còn sống,
ông Lê Văn Mưu thường ở trần, tóc búi sau
gáy, đi chân đất để làm việc nên người dân
thường gọi là ông Trần. Để tưởng nhớ đến
công lao của ông, hằng năm, người dân ở Bà
Rịa – Vũng Tàu tổ chức lễ giỗ ông vào ngày Hình 4.4. Chuẩn bị trái cây dâng cúng ông Trần
20 tháng 2 âm lịch, tại Nhà Lớn. Lễ giỗ gồm 2 (Nguồn: baobariavungtau.com.vn)

phần, phần cúng chay và phần cúng mặn. Lễ


vật cúng chay hay cúng mặn đều do người dân tự tay làm để tỏ lòng thành của mình đối
với người đã mất.
* Lễ hội Trùng Cửu

Lễ hội Trùng Cửu được tổ chức vào ngày


9 tháng 9 âm lịch hằng năm tại Nhà Lớn,
xã Long Sơn, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phần
chính của lễ, còn gọi là chánh giỗ kỉnh chay,
tức là chỉ cúng đồ chay. Đây là thời gian
người dân vào dâng hương, cầu nguyện.
Lễ hội Trùng Cửu mang tính chất của một lễ
Hình 4.5. Trang trí câu liễn đỏ
(Nguồn: baobariavungtau.com.vn)

51
nghi hơn là lễ hội. Vì toàn bộ buổi lễ diễn ra trong sự trang nghiêm, thành kính, không ồn
ào, không hát múa, rước sắc linh đình như một số lễ hội khác.
5. Lễ giỗ Đức Thánh Trần
Hằng năm, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu long
trọng tổ chức Lễ giỗ Đức Thánh Trần tại Đền thờ
Đức Thánh Trần Hưng Đạo (tại số 68 Hạ Long,
Phường 2, thành phố Vũng Tàu).
Âm nhạc trong lễ hội: Lễ giỗ diễn ra với
nhiều nghi thức như: cúng khao thỉnh, lễ
dâng hương, nam tế quan, thụ lộc, nghi
thức cúng cáo yết,… Một số nhạc khí tham
Hình 4.6. Dàn nhạc (ngồi phía trước) tham gia
gia trong các nghi thức dâng cúng như
nghi thức cúng trong lễ giỗ Đức Thánh Trần
Trống lớn, kèn hoặc chiêng. Trong lễ hội (Nguồn: brt.vn/detail)
này, nhạc khí tham gia với chức năng “báo
hiệu” khi có đoàn người đến dâng cúng, chẳng hạn khi điểm 1 tiếng chiêng thì đoàn dâng
hương cùng cúi đầu sau đó dâng hương. Ngoài ra, các nhạc khí còn hòa tấu những bản
nhạc lễ trong khi đoàn người cử hành các nghi thức dâng cúng, âm nhạc góp phần tạo
cho buổi lễ thêm linh thiêng và trang trọng hơn.
6. Lễ hội truyền thống trong Lễ giỗ Bà Phi Yến
Lễ hội truyền thống trong Lễ giỗ Bà Phi Yến
thường được tổ chức vào ngày 18 tháng 10
âm lịch hằng năm tại An Sơn Miếu, huyện
Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Âm nhạc trong lễ hội: Trước ngày diễn ra
chính lễ, người dân được thưởng thức nghệ
thuật Đờn ca tài tử, với những giọng ca ngọt
ngào và tiếng đàn làm say đắm lòng người.
Hình 4.7. Đoàn dâng hương, mâm ngũ quả
Khi lễ giỗ chính thức bắt đầu, người dâng
trong Lễ giỗ Bà Phi Yến
lễ xếp hàng, đội mâm lễ vật trên đầu, tiến (Nguồn: sodl.baria-vungtau.gov.vn)
đến bàn thờ của Bà để dâng lễ. Bên cạnh
đó, dàn nhạc lễ cất lên giai điệu khi trầm khi bổng hoà cùng làn khói hương, tạo lên một
cảnh linh thiêng cho buổi lễ. Sau khi cử hành các nghi thức của lễ giỗ, người đến tham dự
còn được thưởng thức những món chay do nhân dân nơi đây thực hiện.

52
7. Lễ hội cúng thần lúa (lễ hội Ốp Yang Va)
Lễ hội Ốp Yang Va là lễ hội ăn mừng cơm
mới, lễ cúng thần lúa của người Chơ Ro,
được tổ chức vào tháng 11 âm lịch hằng
năm. Hiện nay, ngoài việc tổ chức lễ hội
tại các buôn làng, người Chơ Ro còn phục
dựng lại lễ hội Ốp Yang Va tại nhà văn hoá
nhằm tạo điều kiện cho nhiều người tham
dự hơn.
Âm nhạc trong lễ hội: Lễ hội gồm 2
phần, phần lễ cúng thần lúa được thực hiện Hình 4.8. Biểu diễn chiêng trong ngày Lễ hội
Ốp Yang Va của người Chơ Ro
với nhiều nghi thức khác nhau, lễ vật cúng (Nguồn: baobariavungtau.com.vn)
cũng đa dạng như: cá, gà, heo, rượu cần,
bánh, xôi,… Phần hội, bao gồm các hoạt động biểu diễn văn hoá, văn nghệ như: biểu
diễn cồng chiêng, nhảy sạp,… hoặc đôi khi là các hoạt động chế biến món ăn truyền
thống của dân tộc Chơ Ro như: làm bánh dày, nấu cơm lam, nấu canh bồi, nướng thịt,…
8. Lễ hội Ốp Yang Vri
Người Chơ Ro ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có nhiều hoạt động về lễ hội cũng như lễ nghi
truyền thống. Lễ hội Yang Vri là lễ hội cúng thần suối, thần sông, thần núi, thần rừng, thần
cây,... người Chơ Ro. Ngoài ý nghĩa về tâm linh, lễ hội còn thể hiện ý thức cộng đồng của
người Chơ Ro trong việc bảo vệ môi trường thiên nhiên, góp phần phát triển môi trường
sinh thái chung của nhân loại.
Âm nhạc trong lễ hội: Lễ hội Yang Vri thường diễn ra 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần
lễ trang nghiêm với nhiều nghi thức khác nhau, nhạc khí phục vụ cho các nghi thức của
buổi lễ chủ yếu là bộ chiêng truyền thống. Trong phần lễ, bộ chiêng đóng vai trò là “vật
linh thiêng” làm cầu nối giữa con người với các vị thần linh hơn là vai trò của một nhạc khí
trình diễn. Khác với phần lễ, phần hội có nhiều hoạt động sôi nổi hơn, có nhiều nhạc khí
tham gia trình diễn như cồng chiêng, đàn goong choloq, goong cla (đàn tre), cầm vuột
(kèn bầu), senh, tuyn (sáo), toon (kèn môi),… Tiết tấu cồng chiêng trong phần hội nhanh
hơn trong phần lễ, âm thanh cũng sinh động, rộn ràng hơn.

II. NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Dựa vào thông tin trong mục II, em hãy:
– Kể tên một số nhạc cụ được sử dụng trong các loại hình nghệ thuật như: nhạc cụ
trong Đờn ca tài tử, nhạc cụ trong cải lương, nhạc cụ trong tuồng, nhạc cụ truyền thống
của dân tộc Chơ Ro.
– Mô tả nhạc cụ thông qua cấu tạo hình dáng, chất liệu,… hoặc âm thanh (nếu
em biết).

53
1. Nhạc cụ trong Đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử là nghệ thuật đặc
trưng của vùng Nam Bộ, đặc biệt năm
2013 UNESCO đã công nhận Đờn ca
tài tử Nam Bộ là Di sản văn hoá phi
vật thể. Hiện nay loại hình nghệ thuật
này được nhiều người yêu thích và phát
triển trên 21 tỉnh thành trong đó có tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đờn ca tài tử là nghệ thuật gồm có Hình 4.9. Ban nhạc tài tử (từ trái sang phải): đàn bầu, đàn
đờn (đàn) và ca, trong đó đờn là ban kìm, đàn cò, guitar phím lõm, đàn tranh, sáo
(Nguồn: Như Kim)
nhạc gồm một số loại đờn (đàn, nhạc
cụ) đệm cho ca hoặc hoà tấu. Ngày nay ban nhạc tài tử thường dùng một số nhạc cụ như:
đàn kìm (nguyệt), đàn cò (nhị), đàn tranh, đàn bầu, guitar phím lõm, sáo,...

Đàn kìm còn gọi là đàn nguyệt, thân


đàn được làm bằng gỗ, 2 dây đàn được
làm từ chất liệu nilon (trước đây dùng dây
tơ). Người diễn tấu có thể dùng móng tay
Hình 4.10.
Đàn kìm hoặc miếng khảy để chơi đàn.
(Nguồn: Như Kim)
Đàn cò (đàn nhị) được làm bằng gỗ,
một đầu của ống nhị (còn gọi là bát nhị)
được bịt bằng da rắn hay da kì đà, đầu
kia không bịt, 2 dây đàn làm bằng sợi tơ,
nilon hoặc kim loại, cung vĩ được làm từ
tre nứa hoặc bằng gỗ, dây cung làm bằng
Hình 4.11. Đàn cò tơ, lông đuôi ngựa.
(Nguồn: Như Kim)

Đàn tranh có thân đàn và ngựa đàn được làm từ chất liệu gỗ, dây đàn làm bằng kim
loại, móng gảy có thể dùng móng tay thật hoặc móng tay giả làm bằng inox, bằng sừng
hay nhựa cao cấp (hình 4.13). Đàn tranh ngày nay có nhiều loại nhưng phổ biến là loại 16,
17 và 18 dây, loại 21 dây hoặc nhiều hơn thì ít người sử dụng. Số lượng móng gảy thường
là 3 móng. Ngày nay có thể do kĩ thuật đàn tranh ngày càng phát triển, có nhiều tác phẩm
mới nên người ta tăng số lượng dây đàn cũng như móng gảy để phù hợp với nhu cầu
thực tế hơn.

54
a) Móng đàn tranh, b) Móng đàn tranh
bằng inox bằng đồi mồi
Hình 4.12. Đàn tranh
(Nguồn: Như Kim)
Hình 4.13. Móng đàn tranh
(Nguồn: Như Kim)
Đàn bầu còn gọi là độc huyền cầm (vì đàn chỉ có một dây), đây là nhạc cụ truyền thống
của người Việt Nam. Ngày xưa bầu đàn (bầu cộng hưởng) được làm từ vỏ trái bầu khô, có
nơi làm bằng gáo dừa, đây là bộ phận cộng hưởng giúp cho tiếng đàn vang xa. Ngày nay
tuy vỏ bầu được thay bằng chất liệu gỗ nhỏ gọn hơn nhưng vẫn giữ lại hình dáng của nửa
quả bầu. Ngoài ra, nhờ sự hỗ trợ của các thiết bị điện tử được lắp vào bên trong thân đàn
để kết nối với loa bên ngoài tạo sự khuếch đại thanh như mong muốn. Thân đàn được
làm bằng tre hoặc gỗ, có hình hộp dài, đầu đàn hơi cao và thuôn hẹp hơn cuối đàn. Dây
đàn bằng dây kim loại. Cần đàn trước đây được làm bằng tre, ngày nay được thay bằng
chất liệu sừng có độ mềm dễ uốn hơn. Que khảy đàn trước đây thường làm bằng tre, ngày
nay được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như gỗ, dừa, sừng hoặc nhựa.

a) Đàn bầu (bằng tre) b) Đàn bầu (bằng gỗ)


Hình 4.14. Đàn bầu
(Nguồn: Như Kim)

Đàn guitar phím lõm hay còn gọi là guitar vọng cổ, guitar
Việt Nam, lục huyền cầm. Guitar phím lõm được cải biên từ
guitar của phương Tây, điểm khác biệt là phím của cần đàn được
khoét sâu hơn so với guitar phương Tây. Thùng đàn và cần đàn
được làm bằng gỗ, dây đàn làm bằng kim loại, trục lên dây có thể
làm bằng nhựa cứng hoặc bằng kim loại. Miếng khảy được làm
bằng nhựa hoặc sừng. Đàn guitar phím lõm có 2 loại, loại 5 dây
và loại 6 dây, tuỳ theo thể loại âm nhạc mà người ta sử dụng đàn
cho phù hợp. Ưu điểm của guitar phím lõm là trình diễn được
những kĩ thuật nhấn nhá, rung, láy, vuốt, vê,… Đây là những kĩ
thuật đặc trưng để tạo lên những âm thanh mang phong cách
Hình 4.15. Đàn guitar ngôn ngữ của người Việt.
phím lõm
(Nguồn: Như Kim)

55
Sáo là loại nhạc cụ phổ biến trên thế giới, được làm từ nhiều chất liệu khác nhau. Ở
Việt Nam, sáo trúc được làm bằng trúc hoặc bằng nứa, có 2 loại sáo trúc phổ biến hiện nay
là loại 6 lỗ và loại 10 lỗ. Về cách thức cầm sáo khi trình diễn, phổ biến nhất là loại sáo đặt
ngang để thổi người ta gọi là sáo ngang, có loại đặt dọc để thổi (giống với ống tiêu) nên
người ta gọi là sáo dọc, loại này xuất hiện muộn hơn và cũng ít người biết đến.

Hình 4.16. Sáo trúc 10 lỗ Hình 4.17. Sáo trúc 6 lỗ
(Nguồn: Như Kim)

2. Nhạc cụ trong cải lương


Ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nghệ thuật cải lương được các ban ngành quan tâm phát
triển, đã có nhiều câu lạc bộ cải lương được thành lập, tạo điều kiện thuận lợi phát triển
đam mê cho người theo đuổi ngành nghệ thuật này.
Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam. Giải thích
về từ ngữ cải lương tuy có nhiều, nhưng chung một ý nghĩa là cải cách, sửa đổi để trở nên
tốt hơn, phù hợp với thời đại, môi trường sống lúc bấy giờ. Âm nhạc cải lương có giai điệu
nhẹ nhàng vì thế nhạc cụ sử dụng thường là những loại đàn dây như đàn kìm, đàn tranh,
đàn cò, đàn bầu. Ngày nay một số ban nhạc còn thêm đàn sến, guitar phím lõm, vĩ cầm, sáo,…
Đàn sến còn biết đến với cái tên là đàn hoa mai, vì phần dưới của đàn được làm theo
hình cánh hoa mai. Đàn sến là nhạc cụ được làm từ chất liệu gỗ, 2 dây đàn làm bằng dây
tơ se hoặc nilon, phím khảy đàn làm bằng nhựa. Ngày nay có thêm loại đàn sến cải tiến 3
dây, đàn cải tiến này có âm vực rộng hơn đàn 2 dây, trình diễn thêm nhiều kĩ thuật mới
(hình 4.20).

Hình 4.18. Trích đoạn cải lương Vương Thuý Kiều Hình 4.19. Đàn sến
do câu lạc bộ cải lương của Trung tâm Văn hoá nghệ (Nguồn: Như Kim)
thuật tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức vào tháng 11 – 2020
(Nguồn: baobariavungtau.com.vn)

56
Hình 4.20. Dàn nhạc trong vở cải lương Thầy Ba Đợi
(Nguồn: vietnamnet.vn)
3. Nhạc cụ trong tuồng
Tuồng là loại hình nghệ thuật sân khấu
cổ truyền đặc sắc của Việt Nam, một loại
hình nghệ thuật tổng hợp gồm có văn học,
hội hoạ, âm nhạc, ca múa và trò diễn,…
Dựa vào tính chất, nội dung của tuồng,
người ta chia tuồng thành 2 loại là tuồng
kinh điển và tuồng dân gian. Ở tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu, nghệ thuật tuồng cổ đã có mặt từ
lâu và ngày càng phát triển cùng với nhiều
thể loại nghệ thuật khác. Nghệ thuật tuồng
tham gia trình diễn trong nhiều lễ hội Hình 4.21. Dàn nhạc tuồng
Vũng Tàu như: Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam, (Nguồn: honque.org)
Lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành, Lễ hội Dinh Cô,
Lễ giỗ Đức Thánh Trần,...
Nhạc cụ trong tuồng có nhiều loại, tuy
nhiên 3 nhạc cụ không thể thiếu đó là
trống, đàn nhị và kèn. Ngoài ra một số nhạc
cụ khác cũng tham gia trong tuồng, tạo
thêm nhiều màu sắc âm thanh cũng như
mở rộng âm vực cho dàn nhạc tuồng, ví dụ
đàn hồ tiểu, đàn nguyệt, đàn tam, đàn sến,
đàn tỳ bà, đàn tranh, sáo, trống cơm, đồng la,
chiêng, mõ,...
Trống chiến đóng vai trò quan trọng
trong dàn nhạc tuồng, dùng để đánh chấm
câu, mở câu, thôi thúc nhịp điệu, xuất trận,
Hình 4.22. Trống chiến
tạo nên tiết tấu múa hát trong tuồng. Nghệ
(Nguồn: Như Kim)
57
nhân có thể đánh ra nhiều âm khác nhau trên nhiều điểm của trống, kết hợp với kĩ thuật
diễn tấu phong phú, trống chiến có thể biểu hiện được nhiều trạng thái tình cảm phù
hợp với diễn xuất của các nhân vật trên sân khấu. Cấu tạo trống đơn giản, thân trống, dùi
trống và đế trống được làm bằng gỗ, 2 mặt trống được làm bằng chất liệu da thú (da trâu,
da bò) hoặc da công nghiệp. Ngoài trống chiến ra, trong dàn nhạc tuồng còn sử dụng
một số loại trống khác như: trống chầu, trống bản, trống lệnh, trống cơm,...
Kèn là một trong 3 nhạc cụ chính của dàn nhạc
tuồng, hỗ trợ đắc lực cho sự biểu hiện tình cảm của
nghệ thuật tuồng, nhất là góp phần cùng trống tạo
các cao trào phục vụ diễn xuất. Kèn tạo không khí cho
nói và hát. Kèn còn dùng âm thanh phục vụ cho không
gian, thời gian. Khi cần, kèn còn tạo ra tiếng động theo
yêu cầu sân khấu như: tiếng ngựa hí, gà gáy,… Kèn có
ưu điểm về âm lượng và giai điệu, tạo nên những tình
huống cao trào cho nên nhạc, đây là điểm thuận lợi cho
việc ứng dụng với diễn xuất của người sử dụng kèn.
Hình 4.23. Kèn Kèn có nhiều kích thước khác nhau, kích thước dài
(Nguồn: Như Kim) thì cho âm trầm, kích thước nhỏ cho âm cao. Cấu tạo
kèn gồm có dăm kèn, thân kèn và loa kèn. Dăm kèn là
bộ phận quan trọng nhất của kèn, được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau nhưng phổ
biến là làm bằng ống sậy mềm. Dăm kèn được cắm vào một đầu nhỏ của thân kèn thông
qua một ống nối bằng kim loại. Thân kèn làm bằng gỗ cứng, rỗng ruột và có các lỗ bấm
để thay đổi cao độ. Loa kèn được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như vỏ quả bầu khô,
tre, nứa hoặc bằng kim loại.
4. Nhạc cụ truyền thống dân tộc Chơ Ro
Người Chơ Ro là một trong những dân tộc sinh sống ở Việt Nam, họ có nền nghệ
thuật truyền thống đa dạng, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Tại tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu, người Chơ Ro có một đời sống âm nhạc rất phong phú, họ sở hữu những
bài hát ru, điệu múa, nhạc cụ cồng chiêng, các nhạc cụ làm từ tre nứa, lồ ô,… Nhạc cụ
truyền thống đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người Chơ Ro, đặc biệt trong
hệ thống lễ nghi không thể thiếu cồng chiêng. Hiện nay, người Chơ Ro ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đã sưu tầm và lưu giữ được một số nhạc cụ như: goong (chiêng), chinh (cồng), goong cla
(chiêng tre), cầm vuột (kèn bầu), goong choloq, senh, tuyn (sáo) và toon (kèn môi),…
Chiêng là loại có phần lồi lên ở giữa mặt của chiêng, cồng không có phần lồi mà
phẳng mặt, hay còn gọi là chiêng bằng. Mỗi bộ cồng chiêng của người Chơ Ro có số
lượng khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng. Bộ chiêng được sử dụng nhiều nhất
là bộ chiêng 7 chiếc. Bộ chiêng này thường dùng trong các dịp lễ cúng thần, cúng thầy,
ngày nay còn dùng trong các dịp lễ hội, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Chiêng được
làm bằng hợp kim đồng, dùi chiêng được làm bằng gỗ. Khi trình diễn thì cần 5 người,
3 chiếc chiêng lớn do 3 người đảm nhiệm, 4 chiếc chiêng nhỏ do 2 người đảm nhiệm
(mỗi người phụ trách 2 chiêng).

58
Hình 4.24. Diễn tấu bộ chiêng 7 chiếc của người Chơ Ro
(Nguồn: Đài phát thanh và truyền hình tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

Goong cla (chiêng tre) là loại nhạc cụ cổ truyền của người Chơ Ro, được làm bằng ống
tre, có 5 dây với thang âm đô, rê, pha, son, la. Ống tre được chọn làm đàn là cây tre già,
chung quanh bề mặt ống tre chia thành 5 phần bằng nhau. Nghệ nhân sẽ khoét vào bề
mặt ống tre theo 5 phần đã đánh dấu, tách lên kéo từ đầu tới cuối ống tạo ra những vết
cắt có độ dài, ngắn khác nhau để làm thành dây đàn. Sau đó, họ vót những miếng tre nhỏ
chèn vào 2 đầu dây để căng dây đàn, tạo nhiều cao độ khác nhau. Khi biểu diễn, đàn được
để trên một thùng gỗ hoặc nhôm làm tăng độ lớn cho tiếng đàn, nghệ nhân dùng hai tay
vừa giữ đàn vừa lấy các ngón tay gảy vào dây đàn (dây tre) để tạo ra cao độ âm nhạc. Hiện
nay, một số nơi còn gắn thêm thiết bị tăng âm để hỗ trợ cho tiếng đàn vang xa hoặc thay
dây đàn tre bằng dây kim loại. Người Chơ Ro còn dùng đàn goong cla để chỉnh cao độ
cho dàn chiêng, qua đó cho thấy loại đàn này rất quan trọng đối với họ.

Hình 4.25. Goong cla (Chiêng tre) Hình 4.26. Diễn tấu bộ goong cla
(Nguồn: baobariavungtau.com.vn) (Nguồn: baobariavungtau.com.vn)

Cầm vuột (kèn bầu) là một nhạc cụ làm bằng ống tre và quả bầu khô. Nhạc cụ này
khá phổ biến của một số dân tộc như: người Ê Đê gọi là kèn đinh năm, người Raglai
gọi là ku puốt, người M’Nông gọi là m’boắt,… còn người Chơ Ro gọi là cầm vuột. Cấu
tạo của kèn gồm 6 ống tre dài ngắn khác nhau xếp thành 2 lớp (2 bè), một đầu rỗng
của ống tre được cắm vào quả bầu khô và dùng sáp ong hoặc keo dán công nghiệp
dán xung quanh chỗ ống tiếp xúc với quả bầu, mục đích hạn chế hơi thoát ra ngoài.
Đầu còn lại của ống tre được bịt kín bằng mắt tre, phần thân các ống tre được khoét lỗ
tròn để điều chỉnh âm thanh. Khi diễn tấu, nghệ nhân ngậm miệng vào phần cuốn của

59
quả bầu khô để thổi. Cầm vuột thường được người Chơ Ro dùng trong các buổi sinh hoạt
cộng đồng, có thể độc tấu, hoà tấu hoặc đệm cho hát. Tuỳ vào mục đích sử dụng mà
người chế tạo kèn lựa chọn độ dài ngắn của ống tre để có cao độ phù hợp. Chẳng hạn, khi
hoà tấu cùng dàn cồng chiêng thì người chế tạo kèn dựa theo thang âm của cồng chiêng
để làm hoặc khi đệm cho hát thì người chế tạo kèn cũng cần lựa chọn cao độ các ống tre
cho phù hợp với giọng hát.

Hình 4.27. Biểu diễn cầm vuột (kèn bầu) trong ngày mừng lúa mới.
(Nguồn: baodantoc.vn)

Goong choloq được làm từ các ống tre có kích thước dài ngắn khác nhau tạo nên
nhiều cao độ khác nhau. Bộ goong choloq của người Chơ Ro gồm 38 ống tre được nối
thành hình vòng tròn, người diễn tấu đứng trong vòng tròn của đàn, hai tay cầm 2 thanh
tre cứng gõ lên thân ống tre để tạo ra âm thanh, âm nhạc. Do số lượng ống tre nhiều nên
khi trình diễn người ta có thể cần đến 4 người tham gia. Bộ đàn goong choloq chủ yếu
trình diễn trong các dịp hội hè, các buổi giao lưu văn hoá hơn là tham gia trong lễ nghi.

Hình 4.28. Bộ goong choloq Hình 4.29. Diễn tấu bộ goong choloq của người Chơ Ro
(Nguồn: baobariavungtau.com.vn) (Nguồn: Đài phát thanh và truyền hình
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

60
III. NÉT NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC TRONG ÂM NHẠC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Dựa vào thông tin trong mục III, em hãy cho biết:
– Nghệ thuật âm nhạc truyền thống nào được sử dụng trong các phần sau đây của
lễ hội truyền thống ở Bà Rịa – Vũng Tàu: phần mở đầu, phần chính lễ, phần kết thúc,
phần hội sau phần lễ.
– Nghệ thuật đặc trưng chỉ xuất hiện trong Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam và Lễ hội
Dinh Cô.
– Theo cảm nhận của em, nghệ thuật âm nhạc nào đặc sắc và được sử dụng trong
nhiều lễ hội ở Bà Rịa – Vũng Tàu?

Có thể nói, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là nơi


hội tụ nhiều loại hình nghệ thuật âm nhạc
truyền thống của Việt Nam. Thông qua các lễ
hội cũng như phong tục tập quán của người
dân miền biển đã hình thành nét văn hoá,
văn nghệ mang phong cách riêng của tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu. Các loại hình nghệ thuật
từ nhiều nơi khi du nhập về đây đã khoác
lên mình một trang phục mới, đầy màu sắc
và sức sống. Mỗi lễ hội là một câu chuyện Hình 4.30. Ban nhạc lễ đi cùng đoàn rước
huyền bí chứa đựng yếu tố tâm linh, tín trong Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam
ngưỡng, phong tục, hội hoạ, kiến trúc,… (Nguồn: vietnam.vnanet.vn)
Những yếu tố này thường ít bị thay đổi
theo thời gian. Tuy nhiên, phần hội trong mỗi lễ hội thì không ngừng phát triển, điển hình
có nhiều loại hình nghệ thuật âm nhạc tham gia trong lễ hội như: múa lân sư rồng, diễn
tuồng, hát bả trạo, cải lương, Đờn ca tài tử,… Ban nhạc phục vụ cho các nghi thức trong
lễ nghi cũng gia tăng thêm nhiều nhạc khí
mới. Có thể nói, phần hội trong lễ hội là nơi
để các loại hình nghệ thuật âm nhạc phát
huy tối đa sở trường của mình. Hiện nay,
những lễ hội được tổ chức ở tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu thường có 3 phần: phần mở đầu,
phần chính lễ (chủ yếu lễ nghi, tâm linh) và
phần kết.
Phần mở đầu của lễ hội diễn ra với sự
tham gia của nghệ thuật âm nhạc, chủ yếu Hình 4.31. Trống lớn cùng đoàn rước
trong Lễ giỗ Bà Phi Yến
là múa lân sư rồng. Âm nhạc, nhạc khí (Nguồn: condao.baria–vungtau.gov.vn)

61
trong múa lân sư rồng chủ yếu là bộ trống với tiết tấu sinh động, tạo bầu không khí
sôi nổi cho buổi lễ. Đội lân còn là người dẫn đường cho đoàn rước đi đến những địa điểm
tổ chức lễ, tiếng trống vang dội của đội múa lân làm cho tinh thần người đi xem hội càng
thêm hào hứng và rộn ràng.
Phần chính lễ diễn ra trong không khí trang nghiêm, mang đậm tính lễ nghi phong
tục, tín ngưỡng. Trong phần này ít có sự tham gia của nghệ thuật âm nhạc, nhạc khí đơn giản
chỉ là một trống lớn hay một chiêng lớn điểm vài âm thanh khi mọi người thực hiện nghi
thức dâng hương, dâng hoa, dâng mâm ngũ quả,… Cũng có ban nhạc lễ phục vụ cho
nghi thức của buổi lễ nhưng rất hiếm hoi, một phần vì ít người biết chơi thể loại nhạc này.
Có thể do tính chất đặc trưng của thể loại nhạc lễ cần tuân thủ một số nguyên tắc nhất
định và thể nhạc này cũng kén chọn địa điểm (là nơi linh thiêng, nơi diễn ra nghi lễ) nên
sự phát triển của thể nhạc này bị hạn chế. Đây cũng là một thiệt thòi cho người dân vì
không được thưởng thức thể loại nghệ thuật truyền thống này.
Phần kết của lễ hội hay nói chính xác
hơn là phần hội của buổi lễ, đây là phần
sinh động và mang lại nhiều sắc màu cho
không khí lễ hội. Phần hội không quy
định thể loại, hình thức, nội dung nghệ
thuật khi trình diễn, đây chính là không
gian thích hợp nhất để các thể loại nghệ
thuật âm nhạc phát huy. Một số thể loại
nghệ thuật trình diễn trong phần hội của
Hình 4.32. Hát bả trạo trong Lễ hội Dinh Cô
lễ hội ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu như: trình
(Nguồn: baobariavungtau.com.vn)
diễn tuồng, hát bội, hát bóng rỗi, Đờn ca
tài tử, múa dâng rượu, múa ghế, múa khạp, múa dao, biểu diễn cồng chiêng, nhảy sạp,…
Đặc biệt trong lễ hội Dinh Ông Thắng Tam và Lễ hội Dinh Cô có thêm nghệ thuật
hát bả trạo. Đây là nghệ thuật diễn xướng dân gian đặc trưng của cư dân miền biển.
Hát bả trạo (bả là nắm chắc, trạo là mái chèo) xuất phát từ tín ngưỡng thờ cá Ông.
Tuy nhiên ở Vũng Tàu nghệ thuật này còn được trình diễn trong dịp “rước Cô” trong lễ hội
Dinh Cô.

IV. GÌN GIỮ CÁC GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP HIỆN NAY TẠI TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Dựa vào thông tin trong mục IV, em hãy cho biết một số phương pháp để lưu giữ
những giá trị nghệ thuật truyền thống hiện nay của Bà Rịa – Vũng Tàu.

Nghệ thuật truyền thống là những hình thức nghệ thuật tồn tại trong dân gian và
được lưu truyền từ đời này sang đời khác như: sân khấu tuồng, chèo, Đờn ca tài tử, hát

62
bội, hát bả trạo, múa bóng rỗi, hội hoạ,… Hiện nay, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức nhiều lễ
hội truyền thống, ngoài mục đích kinh tế xã hội thì đó còn là dịp quảng bá, giới thiệu các
ngành nghệ thuật truyền thống của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh còn đầu tư xây dựng các nhà
văn hoá – văn nghệ, thành lập cổng thông tin điện tử dành riêng cho lĩnh vực nghệ thuật
truyền thống, phục dựng những lễ hội có nguy cơ bị mai một, tổ chức các buổi giao lưu,
buổi biểu diễn văn nghệ,… tạo điều kiện cho mọi ngành nghệ thuật phát triển.

LUYỆN TẬP

1. Gõ tiết tấu bằng tay hoặc nhạc cụ gõ


a) Hai tay gõ chung 1 tiết tấu

– Nhóm tiết tấu 1: – Nhóm tiết tấu 2:

– Nhóm tiết tấu 3: – Nhóm tiết tấu 4:

b) Hai tay gõ 2 tiết tấu khác nhau


– Tiết tấu 5 (kí hiệu tay phải – RH, tay trái – LH).

– Tiết tấu 6:

– Tiết tấu 7:

2. Gõ tiết tấu với trống


* Kí hiệu  gõ trên thành trống (tang trống). Không có kí hiệu thì gõ trên mặt trống.
  
Tiết tấu 1:

63
 
Tiết tấu 2:

Tiết tấu 3: bè trên gõ vào tang trống, bè dưới gõ trên mặt trống

VẬN DỤNG

1. Thực hành đánh trống trong những ngày hội của trường hoặc đánh trống trong các
buổi cổ vũ cho hội diễn thể thao.
2. Em hãy tham gia một số lễ hội truyền thống của địa phương và mô tả lại những tiết
tấu mà em thích nhất trong lễ hội đó. Có thể thực hành tại lớp cho các bạn thưởng thức
(nếu nhà trường có trống) hoặc giới thiệu những nhạc khí mà em nghe, nhìn thấy trong
lễ hội.
3. Theo em, để giữ gìn và phát triển những giá trị nghệ thuật âm nhạc thì cần những
gì? Nêu một vài suy nghĩ của em về cách bảo tồn nghệ thuật truyền thống tại địa phương.

64
CHỦ ĐỀ NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
5 TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

MỤC TIÊU

– Biết được nghệ thuật kiến trúc nổi tiếng của Bà Rịa – Vũng Tàu thông qua các
công trình tiêu biểu.
– Ghi nhớ được tên, giá trị lịch sử của công trình kiến trúc.
– Biết rung động trước vẻ đẹp của công trình.
– Thực hiện sáng tạo, tạo hình được sản phẩm tranh vẽ theo năng lực cá nhân
hoặc nhóm.
– Biết gìn giữ và phát huy giá trị nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của địa phương.

Hình 5.1. Một góc thành phố Vũng Tàu


(Nguồn: Atlas tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)

65
KHỞI ĐỘNG

Học sinh xem hình ảnh hoặc đoạn phim và kể tên một số công trình kiến trúc tiêu biểu
của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Hình 5.2. Nhà Tròn Hình 5.3. Tượng Thích Ca Phật Đài
Toạ lạc ngay trung tâm giao nhau giữa đường Tọa lạc tại số 608 Trần Phú, Phường 5,
27/4 và đường Cách mạng Tháng Tám thành phố Vũng Tàu
thành phố Bà Rịa (Nguồn: Du lịch Vũng Tàu)
(Nguồn: Thi Phong)

Hình 5.4. Dinh Cô Hình 5.5. Bảo tàng Bà Rịa – Vũng Tàu
Toạ lạc dưới mõm núi Thùy Vân nhìn ra biển Toạ lạc tại số 4 Trần Phú, thành phố Vũng Tàu
tỉnh lộ 44A, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền (Nguồn: Bảo tàng Bà Rịa – Vũng Tàu)
(Nguồn: Gia Nguyễn)

KHÁM PHÁ

I. GIỚI THIỆU NHỮNG CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC CỦA TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

?
Quan sát những hình ảnh dưới đây, em hãy:
– Mô tả kiểu dáng, hình thức của các công trình kiến trúc.
– Nêu cảm nhận của em về các công trình kiến trúc này.
– Hãy trình bày ý nghĩa, tầm quan trọng của các công trình kiến trúc này đối với tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.

66
1. Tượng Chúa Ki-tô núi Tao Phùng
Tượng Chúa Ki-tô được đặt trên đỉnh Núi
Nhỏ của thành phố Vũng Tàu, xây dựng từ
năm 1974, tượng được xác lập là “Tượng
Chúa Giê-su lớn nhất khu vực châu Á” vào
năm 2012. Phần kĩ thuật bê tông của tượng
do kĩ sư Nguyễn Quảng Đức phụ trách,
phần mĩ thuật do điêu khắc gia Văn Nhân
cùng 50 thợ lành nghề thi công. Tượng cao
32 m, chiều dài hai cánh tay là 18,4 m,
Hình 5.6. Tượng Chúa Ki-tô núi Tao Phùng (Núi Nhỏ)
được đặt trên bệ khối, chạm hình Chúa và (Nguồn: cuongdulich.com)
12 tông đồ. Bên trong tượng là cầu thang
xoắn ốc gồm 133 bậc, đường dẫn lên tượng có 1 000 bậc thang cao 500 m. Lòng tượng có
thể chứa 100 khách tham quan cùng một lúc. Đây được xem là một tác phẩm nghệ thuật
hoành tráng có giá trị về văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng gắn với danh lam thắng cảnh, góp
phần phong phú vào hoạt động du lịch tâm linh ấn tượng, nổi tiếng ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Thích Ca Phật Đài
Kiến trúc Thích Ca Phật Đài toạ lạc tại số
608 Trần Phú, Phường 5, thành phố Vũng Tàu
xây dựng trên mạn sườn phía Bắc của núi Lớn,
nổi bật với bức tượng Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni toạ thiền. Vào khoảng năm 1957,
theo ý kiến của Đại đức Na-ra-da Ma-ha The-ra
khi sang Việt Nam thuyết giảng giáo lí
Nam tông, ông Lê Quang Vinh đã xây dựng
chùa Thiền Lâm với kiến trúc đơn giản. Đầu
Hình 5.7. Thích Ca Phật Đài
năm 1961, Giáo hội Tăng già Nguyên thuỷ (Nguồn: Blog Review Du Lịch)
Việt Nam đã tổ chức vận động quyên góp tài
chính để xây dựng một khu Bảo tháp xá lợi và vườn tượng với những công trình điêu khắc
được xây dựng dựa theo cuộc đời của Đức Phật. Trong quá trình vận động, nhiều tăng ni, Phật
tử đã góp ý xây dựng bổ sung thêm Thích Ca Phật Đài. Lễ khởi công xây dựng được tổ chức
vào ngày 20 tháng 7 năm 1961. Sau 19 tháng thi công, lễ khánh thành được tổ chức trọng
thể vào ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1963. Năm 1989, cụm kiến trúc Thích Ca Phật Đài được
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia.
Thích Ca Phật Đài là công trình nổi bật nhất, trở thành tên chung cho cả cụm kiến trúc.
Phần bệ tượng cao 7 m, có bình đồ hình bát giác, tượng trưng cho Bát chánh đạo. Phần tượng

67
Phật ngồi cao 6 m, gồm 3 phần riêng biệt: toà sen với đường kính 4 m, thân tượng và đầu
tượng, tất cả được đúc bê tông cốt thép. Sự kết hợp giữa kiến trúc tôn giáo và phong cảnh
thiên nhiên đã tôn lên vẻ đẹp của Thích Ca Phật Đài. Đây là điểm tham quan du lịch và tín
ngưỡng nổi tiếng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Đình Thắng Tam
Đình Thắng Tam toạ lạc tại số 77 đường
Hoàng Hoa Thám, phường Thắng Tam,
thành phố Vũng Tàu được xây dựng từ
đời vua Minh Mạng với kết cấu đơn sơ.
Năm 1835, đình được cải tạo, trùng tu
và lợp ngói. Đến năm 1965, đình được
xây dựng kiên cố cho tới ngày nay. Cụm
kiến trúc đình Thắng Tam gồm 3 tích: Đình
Thần Thắng Tam, Miếu Ngũ Hành và Lăng
Hình 5.8. Đình Thần Thắng Tam
Cá Ông, đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và (Nguồn: Phạm Hoài Nhân)
Du lịch công nhận là Di tích lịch sử văn
hoá cấp quốc gia vào năm 1991. Nơi đây thường xuyên diễn ra những lễ hội cầu bình
an thu hút đông đảo du khách ghé tới cầu may, nhất là những người dân miền biển.
Ngôi đình được thiết kế theo lối kiến trúc cổ, mái ngói âm dương, trên mái có “Lưỡng Long
chầu Nguyệt”. Bên trong đình có bàn thờ Thổ Công, Tiền Hiền, Hậu Hiền và Tiền Vãng,
Hậu Vãng. Ngoài ra, đình còn thờ nhiều vị thần như Thần Nông, Thiên Y A Na, Ngũ Đức,
Thánh Phi, Hậu Hiền, Hội Đồng, Phụ Án – Cao Các, Thiên Sư, Ngũ Thơ và Ngũ Tự –
Tiền Hiền. Đình có sân khấu võ ca, là nơi tổ chức diễn tuồng, hát bội khi đình có lễ.
Kiến trúc Đình Thắng Tam thể hiện rõ nét dáng vẻ của đình làng Việt từ không gian đến
tỉ lệ kết cấu và nghệ thuật trang trí.
4. Bạch Dinh
Bạch Dinh nằm bên sườn núi lớn của
thành phố Vũng Tàu, số 4 đường Trần Phú, là
một dinh thự được thiết kế theo lối kiến
trúc Pháp, thể hiện tối ưu giá trị nghệ thuật
từ đường nét đến cách bày trí với những
mảng màu đơn giản. Bạch Dinh gọi theo
tên tiếng Pháp là Villa Blanche nghĩa là
biệt thự trắng. Công trình được khởi công
vào năm 1898 đến năm 1902, ở vị trí cao, Hình 5.9. Bạch Dinh
(Nguồn: Hoàng Chương)
đẹp, có thể nhìn bao quát cảnh biển, từng

68
là nơi nghỉ mát của Vua Bảo Đại và các đời tổng thống. Năm 1992, Bạch Dinh đã được
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, là điểm
tham quan nổi tiếng của du khách khi đến Vũng Tàu bởi không gian thơ mộng, không khí
trong lành, Bạch Dinh hòa quyện vào thiên nhiên tạo nên vẻ đẹp vừa sang trọng và lãng
mạn. Hiện nay, Bạch Dinh được dùng làm nhà bảo tàng, trưng bày các chuyên đề về gốm
cổ và các hiện vật khác.
5. Ngọn Hải đăng
Hải đăng Vũng Tàu toạ lạc tại đỉnh
Núi Nhỏ (hay còn gọi là núi Tao Phùng),
thuộc Phường 2, thành phố Vũng Tàu, nằm
ở độ cao 149 m so với mực nước biển, được
người Pháp xây dựng vào năm 1862 nhằm
mục đích chỉ đường, báo hiệu cho các tàu
thuyền qua lại. Đến năm 1913, người Pháp
xây lại ngọn Hải đăng này, dời độ cao lên
đến 170 m. Hải đăng Vũng Tàu là một trong
những hải đăng cổ xưa nhất Việt Nam và Hình 5.10. Ngọn Hải đăng
Đông Nam Á và được xem như biểu tượng (Nguồn: vietfuntravel.com.vn)

của thành phố biển Vũng Tàu. Kiến trúc ngọn Hải đăng là một tháp hình trụ cao 18 m,
đường kính 3 m và được sơn màu trắng. Bên trong ngọn Hải đăng có cầu thang dẫn đến
gần đỉnh Hải đăng và có ban công để ngắm cảnh.
Ngọn Hải đăng là công trình kiến trúc đặc sắc, được xây dựng ở các vị trí thích hợp, có
nhiệm vụ giúp tàu thuyền ngoài khơi định hướng xác định vị trí, báo hiệu dẫn luồng, chỉ
dẫn vị trí có chướng ngại vật ngầm nguy hiểm hoặc các khu vực đặc biệt khác như khu
neo đậu tránh bão. Ngọn Hải đăng Vũng Tàu được xem là cổ nhất trong tổng số 79 ngọn
hải đăng Việt Nam là điểm tham quan di lịch hấp dẫn và thú vị.
6. Nhà Tròn – Bà Rịa
Nhà Tròn – Bà Rịa toạ lạc ngay trung tâm giao
nhau giữa đường 27/4 và đường Cách mạng
Tháng Tám thành phố Bà Rịa, là một tháp
nước, giữ vị trí và vai trò quan trọng trong
lịch sử cách mạng của địa phương. Nhà Tròn
có tổng chiều cao khoảng 20 m, chân Nhà
Tròn là nhà hình bát giác cao 4 m, cạnh 6 m,
có 8 trụ thẳng đứng bằng bê tông cốt thép.
Từ đây, người ta có thể quan sát, bao quát
nhiều hướng. Khi đất nước thống nhất, Nhà
Hình 5.11. Nhà Tròn – Bà Rịa
Tròn được tu sửa lại và trở thành Câu lạc bộ (Nguồn: bazantravel.com)

69
Thanh niên được xem là biểu tượng tinh thần thân quen của người dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
bởi nơi đây đã trải qua nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc.

II. NÉT NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC TRÊN HOA VĂN, HOẠ TIẾT, THIẾT KẾ CÔNG TRÌNH
KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU CỦA TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Trang trí là nghệ thuật làm đẹp. Nghệ thuật trang trí kiến trúc làm tôn thêm vẻ đẹp của
công trình. Đề tài trang trí được các thế hệ cha ông lưu truyền và nghiên cứu sáng tạo,
khai thác từ hình ảnh thiên nhiên, hoa lá, động vật, con người,… thể hiện đời sống tinh
thần, văn hoá tín ngưỡng, đồng thời góp phần nâng cao trình độ thẩm mĩ cho người xem.
Nghệ thuật trang trí kiến trúc được thể hiện qua một số nội dung về kiểu dáng kiến trúc,
trang trí ô hộc, không gian trang trí, đề tài trang trí,…

?
– Hãy trình bày một số đề tài trang
trí ở kiến trúc Đình Thắng Tam mà
em biết.
– Hãy nêu ý nghĩa hoa văn con rồng
trong trang trí ô hộc ở Đình Thắng
Tam.
Hình 5.12. Khu di tích Đình Thắng Tam
(Nguồn: Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu)

?
Em hãy nêu nhận xét của mình về kiểu dáng các ô cửa sổ, nghệ thuật trang trí của
kiến trúc Bạch Dinh.

Hình 5.13. Kiến trúc Bạch Dinh


(Nguồn: Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu)

70
Hình 5.14. Tranh ghép bằng gốm sứ ở Bạch Dinh
(Nguồn: Phương Trần)

LUYỆN TẬP

1. Em hãy viết một bài thuyết trình (không quá 300 từ), về vẻ đẹp kiến trúc, đường nét
trang trí, ý nghĩa và giá trị lịch sử, văn hoá, tín ngưỡng của một công trình kiến trúc tiêu
biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà em đã từng tham quan, học tập.
Gợi ý nội dung thực hiện:
– Học sinh chọn công trình kiến trúc mà mình đã từng tham quan, tìm hiểu.
– Phân tích về giá trị, bối cảnh lịch sử xây dựng của công trình.
– Trình bày giá trị văn hoá, tinh thần, tín ngưỡng của công trình.
– Trình bày phong cách kiến trúc: đường nét, hình khối, màu sắc, bố cục bài trí.
– Nêu giải pháp và trách nhiệm bản thân về việc bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật
của công trình kiến trúc địa phương trong quá trình hội nhập.
Gợi ý phương pháp tổ chức:
– Học sinh làm bài nhóm hoặc cá nhân, trình bày ý kiến trước các bạn trong lớp.
– Tiếp thu ý kiến góp ý của bạn.
2. Em hãy thực hiện một sản phẩm mĩ thuật diễn tả/ mô phỏng một công trình
kiến trúc tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Gợi ý nội dung thực hiện:

71
– Học sinh chọn công trình kiến trúc mà mình đã từng tham quan, tìm hiểu.
– Phác hoạ bố cục, đường nét, khung cảnh.
– Phối màu hài hoà.
– Thực hiện trên khổ giấy A3.
– Chất liệu chì màu, màu nước, xé giấy.
Gợi ý phương pháp tổ chức:
– Học sinh làm bài nhóm hoặc cá nhân, trưng bày và thuyết trình trước các bạn trong lớp.
– Tiếp thu ý kiến góp ý của bạn.

VẬN DỤNG

– Em hãy nêu những việc cần làm để gìn giữ và phát huy giá trị nghệ thuật kiến trúc
đặc sắc của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Sưu tầm và giới thiệu nét đặc sắc về kiểu dáng, hoạ tiết trang trí, giá trị lịch sử, văn hoá,
tín ngưỡng của một số công trình kiến trúc tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

72
SẢN XUẤT KINH DOANH
CHỦ ĐỀ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ
Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
6
MỤC TIÊU

– Nêu được một số doanh nghiệp nhỏ tiêu biểu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Nêu được mô hình hoạt động, những đóng góp của doanh nghiệp nhỏ vào sự
phát triển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Phân tích được những thành công và hạn chế của các doanh nghiệp nhỏ tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
– Phác thảo được dự án khởi nghiệp từ nguồn lực của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

KHỞI ĐỘNG

Em hãy xem video clip và trả lời câu hỏi:


Video clip: Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu củng cố tổ chức
phát triển sản xuất kinh doanh(1).
– Doanh nghiệp nhỏ đóng vai trò như thế nào trong phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu?
– Doanh nghiệp nhỏ cần có những sự hỗ trợ gì để vượt qua khó khăn trong sản xuất –
kinh doanh?

KHÁM PHÁ

I. MỘT SỐ MÔ HÌNH SẢN XUẤT – KINH DOANH VÀ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA


DOANH NGHIỆP NHỎ VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
1. Một số mô hình sản xuất – kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp nhỏ ở
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

?
– Em hãy chỉ ra những biện pháp đem lại sự thành công cho các doanh nghiệp nhỏ
được trình bày dưới đây.
– Kể tên một số doanh nghiệp nhỏ ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

(1)
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=iZHC_WS0urA&t=18s hoặc https://bariavungtausme.vn/
lien-ket-hoi-vien
73
a) Mô hình thực hiện công nghệ mới, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trong
đáp ứng nhu cầu ẩm thực của người nước ngoài
Vũng Tàu là thành phố du lịch nổi tiếng, hằng năm thu hút lượng khách nước ngoài rất
lớn, đồng thời số lượng chuyên gia và công nhân nước ngoài đến làm việc cũng không
nhỏ. Nhằm đáp ứng nhu cầu ẩm thực của người nước ngoài, nhiều doanh nghiệp nhỏ và
vừa đã đầu tư vào lĩnh vực này và đạt được thành công nhất định, trong đó có Công ty
Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Phương Khoa (thành phố Vũng Tàu).
Năm 1992, một cơ sở nhỏ mang tên Phương Khoa ra đời, chuyên sản xuất thịt hun khói,
xúc xích các loại cho chuyên gia của Liên doanh Dầu khí Việt Xô, với quy trình công nghệ
được chuyên gia Nga chuyển giao. Trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến
nay, Công ty Phương Khoa luôn tự hoàn thiện công nghệ sản xuất, tuân thủ quy định về
an toàn vệ sinh thực phẩm, cải thiện, đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thành quả công ty đạt được là Cúp Vàng Thương hiệu thực phẩm an toàn vì sức khoẻ
cộng đồng cho 3 dòng sản phẩm: xúc xích, thịt hun khói, hoành thánh Nga do Ban Tổ chức
Hội chợ Việt Nam Bestfood, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm trao. Từ năm 2005 đến nay,
công ty đã nỗ lực xây dựng và đạt được chứng chỉ HACCP 048.06.03 do Tổ chức QUACERT
cấp cho chương trình phân tích mối nguy, xác định điểm tới hạn trong quá trình sản xuất,
nhờ đó sản phẩm của công ty luôn đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn khi tới tay người
tiêu dùng.

Hình 6.1. Sản phẩm xúc xích của Công ty TNHH Phương Khoa (thương hiệu Misa)
(Nguồn: https://www.facebook.com/xucxichngavungtau/)

74
b) Mô hình phát triển nguồn lực địa phương trong kết nối công nghiệp – nông nghiệp –
dịch vụ – giao thương quốc tế
Với mong muốn kinh doanh, sản xuất làm giàu từ nguồn lực địa phương, ông
Trịnh Văn Thành – Giám đốc Công ty TNHH Thương mại – Dịch vụ – Sản xuất ca cao
Thành Đạt đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về ca cao ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông đại
diện cho hình ảnh bà con nông dân huyện Châu Đức khát khao đưa giá trị đích thực của
những hạt ca cao địa phương ghi tên lên bản đồ ca cao thế giới.
Với tiêu chí nông sản sạch, thời gian qua Công ty TNHH Thương mại – Dịch vụ –
Sản xuất ca cao Thành Đạt đã liên kết với bà con nông dân, hướng dẫn họ cách trồng và
chăm sóc ca cao theo phương pháp hữu cơ, kiểm tra chặt chẽ quy trình sản xuất từ khâu
lựa quả, tách vỏ cho đến lên men, phơi, rang hạt,… để cho ra sản phẩm ca cao hữu cơ
đạt chuẩn. Nhờ vậy, năm 2018, sản phẩm ca cao organic (hữu cơ) 92% của Công ty
Thành Đạt đã đạt giải Bạc tại cuộc thi chocolate khu vực châu Á – Thái Bình Dương và
được nhiều đối tác nước ngoài quan tâm, trong đó có đối tác đến từ Nhật Bản.
Ngày 16 – 12 – 2020, tại huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Công ty Thành Đạt
xuất 2 tấn (15 loại sản phẩm) chocolate organic sang thị trường Nhật Bản. Đây là những
tấn hàng sản phẩm chocolate organic đầu tiên của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được xuất sang
thị trường Nhật Bản theo con đường chính ngạch. Kết quả này là minh chứng của việc liên
kết giữa người dân và doanh nghiệp từ khâu trồng, chăm sóc, đến chế biến, tiêu thụ đã
cung cấp nguyên liệu ca cao sạch, an toàn, đạt chuẩn để sản xuất ra sản phẩm chocolate
organic đáp ứng yêu cầu của thị trường khó tính như Nhật Bản và các nước khác.

Hình 6.2. Sản phẩm ca cao organic


của Công ty TNHH Thương mại – Dịch vụ – Sản xuất ca cao Thành Đạt (OCA)
(Nguồn: thodiavungtau.com)

Ngoài ra, để kết hợp nông nghiệp với du lịch sinh thái và quảng bá sản phẩm ca cao,
vào tháng 5 – 2019, ông Trịnh Văn Thành cùng các cộng sự dưới sự tư vấn và hợp tác chặt chẽ
của các doanh nghiệp Nhật Bản đã đưa Công viên Ca cao đi vào vào khai thác tại xã

75
Xà Bang (huyện Châu Đức). Đây là một điểm du lịch sinh thái thu hút đông khách du
lịch trong và ngoài nước. Mô hình hoạt động này giúp khai thác thế mạnh địa phương,
nâng cao thu nhập của người lao động và đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Hình 6.3. Các em học sinh tham gia cắm trại trong Công viên Ca cao
(Nguồn: https://baobariavungtau.com.vn)

c) Mô hình đổi mới sáng tạo trong ứng dụng khoa học – công nghệ
Thời đại của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đòi hỏi những con người biết xuất phát
từ yêu cầu thực tiễn để nhạy bén, chủ động thực hiện đổi mới, sáng tạo trong ứng dụng
khoa học – công nghệ. Nhiều công ty đã đáp ứng được yêu cầu này, trong đó có Công ty
Giải pháp và Công nghệ Sao Việt do ông Vũ Việt Chiến làm giám đốc.
Trước nạn hàng gian hàng giả, nhiều giải pháp công nghệ đã ra đời để bảo vệ người
tiêu dùng, trong đó công nghệ Chống giả BG của Công ty Sao Việt là sản phẩm 4.0 chống
được việc làm giả sản phẩm, bảo vệ thương hiệu nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Công nghệ chống hàng giả BG đã nhận được sự tham gia phối hợp của các cơ quan liên
ngành như: Bộ Công thương, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục An toàn
thực phẩm – Bộ Y tế, Tổng hội Y học Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,
Hiệp hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Trung tâm Công nghệ chống hàng giả Việt Nam đã tổ chức xác lập kỉ lục Việt Nam
cho Chống giả BG là công nghệ 4.0 duy nhất tại Việt Nam (ở thời điểm xác lập kỉ lục – ngày
15 – 7 – 2021) chống được giả sản phẩm, tích hợp nhiều công nghệ hiện đại như mã vạch nén,
blockchain (chuỗi khối), trí tuệ nhân tạo (AI).
Thành tựu của Công ty Sao Việt đang góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của
quá trình đổi mới và sáng tạo ở Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng và cả nước nói chung.

76
Hình 6.4. Chứng nhận kỉ lục của Công ty Sao Việt
(Nguồn: vietq.vn)

Em có biết?
Theo Điều 5 Nghị định 80/2021/NĐ-CP (ngày 26 – 8 – 2021), việc xác định doanh
nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa căn cứ vào các tiêu chí sau:
Bảng 1: Tiêu chí phân biệt doanh nghiệp siêu nhỏ – doanh nghiệp nhỏ –
doanh nghiệp vừa

Doanh nghiệp siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa

Nông nghiệp, Nông nghiệp, Nông nghiệp,


lâm nghiệp, lâm nghiệp, lâm nghiệp,
Tiêu chí Thương mại, Thương mại, Thương mại,
thuỷ sản và thuỷ sản và thuỷ sản và
dịch vụ dịch vụ dịch vụ
công nghiệp, công nghiệp, công nghiệp,
xây dựng xây dựng xây dựng

Số lao động Bình quân Bình quân Bình quân Bình quân Bình quân Bình quân
tham gia năm không năm không năm không năm không năm không năm không
bảo hiểm quá 10 quá 10 quá 100 quá 50 quá 200 quá 100
xã hội người người người người người người

Tổng
≤ 100 tỉ ≤ 200 tỉ ≤ 300 tỉ
doanh thu ≤ 3 tỉ đồng ≤ 10 tỉ đồng ≤ 50 tỉ đồng
đồng đồng đồng
năm

Tổng ≤ 100 tỉ ≤ 100 tỉ


≤ 3 tỉ đồng ≤ 3 tỉ đồng ≤ 20 tỉ đồng ≤ 50 tỉ đồng
nguồn vốn đồng đồng

77
2. Sự đóng góp của doanh nghiệp nhỏ vào sự phát triển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Video clip: Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức đánh giá, phân hạng 29 sản phẩm OCOP cấp tỉnh
năm 2022(1)
?
Xem video clip và cho biết việc các doanh nghiệp nhỏ tham gia vào chương trình
mỗi xã một sản phẩm (OCOP) sẽ đóng góp gì vào sự phát triển kinh tế địa phương
và tỉnh nhà.

Theo Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tính đến ngày 31 – 12 – 2020, số doanh nghiệp
thực tế hoạt động trên địa bàn tỉnh là 9 649. Đến tháng 10 – 2022, trên địa bàn tỉnh
có 20 543 doanh nghiệp trong nước còn đăng kí hoạt động. Trong đó, hơn 90% là
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ hoạt động trải đều khắp các lĩnh vực:
thương mại, du lịch, công nghiệp,… và ngày càng khẳng định vai trò động lực quan trọng
để phát triển kinh tế – xã hội ở Bà Rịa – Vũng Tàu trên nhiều lĩnh vực.
Thứ nhất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giảm thất nghiệp:
Do sản xuất – kinh doanh nhỏ trong một số lĩnh vực không yêu cầu trình độ cao nên có
thể sử dụng được lao động phổ thông, lao động ở các vùng sâu, vùng xa. Doanh nghiệp
nhỏ cũng có thể thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và linh hoạt biến đổi
theo chu kì sản xuất mà không phải cắt giảm nhân công.
Thứ hai, có vai trò quan trọng trong việc ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Với lợi thế về vốn đầu tư ít và nguồn lao động dồi dào, doanh nghiệp nhỏ phát triển ngày
càng nhanh và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng số doanh nghiệp. Doanh nghiệp
nhỏ cung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Nhờ
đó, doanh nghiệp nhỏ giúp ổn định và từng bước thúc đẩy mở rộng thị trường tiêu thụ,
đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản lượng của nền kinh tế.
Thứ ba, doanh nghiệp nhỏ giúp khai thác và phát huy các nguồn lực địa phương,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Với quy mô vốn đầu tư nhỏ, bộ máy tổ chức gọn nhẹ,
dễ đi vào hoạt động, các doanh nghiệp nhỏ có thể khai thác tiềm năng và thế mạnh về đất
đai, tài nguyên và lao động của từng vùng, các ngành nông – lâm – hải sản – công nghiệp
chế biến, đặc biệt là có thể duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống như thủ công
mĩ nghệ, mây tre đan, gốm sứ, dệt,… qua đó từng bước giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế
địa phương, thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, công nghệ phát triển, xoá dần cách
biệt thành thị – nông thôn, đưa sản xuất nhỏ, thủ công tiến dần lên sản xuất lớn, máy
móc, công nghệ hiện đại.

(1) (Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=fOyLj5Xzdqs&t=1s)


78
Thứ tư, doanh nghiệp nhỏ thúc đẩy nền kinh tế năng động, đổi mới, sáng tạo
trong ứng dụng khoa học – công nghệ và ươm mầm các tài năng quản trị kinh doanh:
Doanh nghiệp nhỏ thường tập hợp những người trẻ đầy hoài bão và rất năng động, bộ
máy nhân sự gọn nhẹ, linh hoạt, thích nghi được với những biến động thị trường và có
khả năng đáp ứng kịp xu hướng đổi mới khoa học – công nghệ của nền kinh tế thế giới.

II. THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ TRONG SẢN XUẤT –
KINH DOANH Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
1. Thành công và nguyên nhân
?
Theo em, muốn thành công hơn nữa trong sản xuất – kinh doanh, các doanh
nghiệp nhỏ ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cần có thêm những yếu tố nào khác?

a) Một số thành công của các doanh nghiệp nhỏ


Trong quá trình góp phần phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, các doanh nghiệp
nhỏ đã đạt được một số thành công nhất định:
– Các doanh nghiệp nhỏ đã từng bước tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị;
hỗ trợ nhau mở rộng thị trường đầu vào, đầu ra. Nhờ đó, giúp bảo đảm nguồn nguyên liệu
đầu vào, tìm kiếm được thị trường đầu ra, tăng được các đơn hàng; duy trì và đào tạo
thêm việc làm cho người lao động và tăng doanh thu.
– Các doanh nghiệp nhỏ tiếp cận được với sàn thương mại điện tử, quảng bá được
sản phẩm, từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ, có lượng khách hàng ổn định, quy mô
sản xuất, kinh doanh từng bước được mở rộng.
– Để đáp ứng nhiều đơn hàng mới, các doanh nghiệp nhỏ đã thực hiện quá trình
ứng dụng khoa học – công nghệ, máy móc hiện đại, công nghệ số, qua đó nâng cao dần
năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, tạo ra được giá trị mới, nâng cao lợi thế cạnh tranh.
b) Những yếu tố thúc đẩy sự thành công
– Các chính sách thuế, tài chính, tín dụng, hỗ trợ khoa học – công nghệ, đào tạo nguồn
nhân lực được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng đã góp phần làm giảm chi phí
cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có thêm nguồn vốn duy trì, phát triển sản xuất –
kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh.
– Công tác cải cách hành chính được quan tâm thực hiện, nhất là cải cách hành chính
trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng,... giúp doanh nghiệp giảm thời gian làm thủ tục,
chi phí và tạo điều kiện cho hộ kinh doanh cá thể chuyển sang hoạt động theo mô hình
doanh nghiệp.

79
– Các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, thiết lập các sàn thương mại của
tỉnh được đẩy mạnh, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm,
giảm hàng tồn kho, đẩy nhanh tiến độ đầu tư và thu hút các nguồn vốn đầu tư.
– Sự nỗ lực, cố gắng của các doanh nghiệp nhỏ trong việc nắm bắt thời cơ, tận dụng thế
mạnh, khai thác khá tốt tiềm năng và biết kết nối với nhau trong các hoạt động sản xuất –
kinh doanh.

Em có biết?
* Ngày 21 – 4 – 2020, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Kế hoạch
số 63/KH-UBND về thực hiện Quyết định số 1362/QĐ-TTg ngày 11 – 10 – 2019 của
Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch phát triển bền vững doanh nghiệp khu
vực tư nhân đến năm 2025, tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh với mục tiêu:
– Phát huy tối đa nguồn lực để doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân phát triển
ổn định, mở rộng quy mô sản xuất – kinh doanh, đáp ứng khả năng cạnh tranh và
hội nhập kinh tế quốc tế.
– Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp khu vực tư
nhân; phấn đấu có ít nhất 25 000 doanh nghiệp vào năm 2025 và 35 000 doanh
nghiệp vào năm 2030 còn đăng kí hoạt động.
– Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng cường liên kết trong doanh nghiệp khu vực
tư nhân; thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực;
nâng cao sức cạnh tranh và tăng mức đóng góp ngân sách nhà nước của doanh
nghiệp khu vực tư nhân.
* Trước đó, ngày 7 – 3 – 2019, để triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành Quyết định số 514/QĐ-UBND về
phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu giai đoạn 2019 – 2025. Theo đó, dự kiến tới năm 2025 sẽ hỗ trợ 750 lượt
doanh nghiệp.
* Ngày 15 – 3 – 2023, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 38/KH-UB-
ND hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2023 – 2025 với
mục đích triển khai đồng bộ, hiệu quả các nội dung của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa, trong đó chú trọng nội dung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện
chuyển đổi số.

2. Hạn chế và nguyên nhân


?
Doanh nghiệp nhỏ phải làm gì để khắc phục những nguyên nhân gây ra sự hạn
chế trong sản xuất – kinh doanh?

80
a) Một số hạn chế
Trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
còn gặp nhiều hạn chế:
– Nguồn vốn hoạt động không lớn, khó tiếp cận các nguồn vốn vay nên kế hoạch sản
xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ khó mở rộng; khó ứng dụng khoa học –
công nghệ và trang bị máy móc.
– Chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhỏ không cao, năng lực quản lí,
điều hành còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh.
– Năng suất lao động thấp, việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm chất lượng, hiệu quả công việc.
Đặc biệt, khi Việt Nam đã kí kết các hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU),
Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), các doanh nghiệp nhỏ càng rơi
vào vị thế bất lợi trong cạnh tranh.
b) Những nguyên nhân gây ra sự hạn chế
Nguyên nhân khách quan
– Chính sách đất đai, thuế còn nhiều bất cập, chưa thật sự hỗ trợ, tháo gỡ cho sản xuất
– kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ.
– Kinh tế toàn cầu suy thoái, ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga – Ucraine gây đứt gãy
chuỗi cung ứng; giá cả leo thang, đồng ngoại tệ mất giá; xăng dầu tăng giá ảnh hưởng
đến chi phí sản xuất, gây khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, tạo nguy cơ phá sản.
Nguyên nhân chủ quan
– Các doanh nghiệp nhỏ thường thiếu vốn, thiếu nhạy bén trong nắm bắt cơ hội
kinh doanh, khả năng chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất – kinh doanh chưa theo
kịp với Cách mạng xanh và Cách mạng công nghiệp 4.0 nên sản phẩm chưa đáp ứng kịp
nhu cầu tiêu dùng hiện đại của thị trường.
– Năng lực đổi mới, sáng tạo, liên kết đối tác và kết nối giao thương của doanh nghiệp
nhỏ còn hạn chế nên chưa khai thác hiệu quả các nguồn lực địa phương, thị trường kém
rộng mở.
– Thông tin tình hình tài chính của một số doanh nghiệp nhỏ chưa minh bạch, quản lí
tài chính kém hiệu quả, gây khó khăn cho ngân hàng trong thẩm định năng lực tài chính
và hiệu quả sản xuất – kinh doanh để cấp vốn hỗ trợ phát triển sản xuất.

III. MỘT SỐ DỰ ÁN KHỞI NGHIỆP THÀNH CÔNG TỪ NGUỒN LỰC ĐỊA PHƯƠNG
BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Khởi nghiệp là hoạt động bắt đầu sản xuất – kinh doanh dựa theo ý tưởng, cơ hội
kinh doanh và năng lực kinh doanh của cá nhân hay tập thể dưới hình thức doanh
nghiệp trong những điều kiện mới chưa nắm chắc, chưa bền vững. Muốn khởi nghiệp

81
làm giàu phải xuất phát từ đam mê kinh doanh, từ năng lực quản lí tài chính, quản
trị doanh nghiệp, từ sự nhạy bén trong nắm bắt được các nguồn lực địa phương gắn với
năng lực thích ứng, đổi mới, sáng tạo và kết nối của bộ máy nhân sự trong doanh nghiệp.
Chiều 26 – 12 – 2021, tại Thủ đô Hà Nội, Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam,
Trung ương Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam tổ chức lễ trao danh hiệu Doanh nhân trẻ
khởi nghiệp xuất sắc 2021. Tại buổi lễ, có ba doanh nhân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được
tôn vinh. Đó là anh Nguyễn Bá Ngọc – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Mực nhảy
Biển Đông, anh Đinh Tiến Dũng – Giám đốc Công ty TNHH Nhà Vũng Tàu và chị
Ong Thị Thanh Nguyệt – Giám đốc Công ty Nội thất Nguyên Á. Ba doanh nhân trẻ này đều
đáp ứng được yêu cầu của một dự án khởi nghiệp thành công từ nguồn lực địa phương.
Các doanh nhân đạt danh hiệu Doanh nhân trẻ khởi nghiệp xuất sắc năm 2021 đã tạo
ra doanh thu 1 350 tỉ đồng năm 2020, lợi nhuận đạt 100 tỉ đồng, nộp ngân sách 66 tỉ đồng.

Hình 6.5. TOP 100 “Doanh nhân trẻ khởi nghiệp xuất sắc 2021”.
(Nguồn: VGP/Quang Thương)

1. Thích ứng linh hoạt với diễn biến thị trường để bảo vệ và phát triển dự án
khởi nghiệp

?
Em đánh giá như thế nào về biện pháp của doanh nhân Đinh Tiến Dũng trong
bảo vệ và phát triển dự án khởi nghiệp của mình? Em hãy đề xuất vài biện pháp
giúp dự án khởi nghiệp này thành công hơn.

Thành phố biển Vũng Tàu hằng năm đón lượng khách du lịch, nghỉ dưỡng rất lớn.
Nắm bắt được nhu cầu thị trường về biệt thự và nhà nghỉ dưỡng sẽ ngày càng tăng, anh
Đinh Tiến Dũng đã thành lập Công ty TNHH Nhà Vũng Tàu, hiện đang sở hữu hệ thống
biệt thự và căn hộ nghỉ dưỡng với thương hiệu Ruby Homes.

82
Năm 2019, anh Đinh Tiến Dũng từng là 1 trong
72 doanh nhân trẻ được vinh danh trong lễ trao giải
Doanh nhân trẻ khởi nghiệp xuất sắc toàn quốc.
Sau gần hai năm bị ảnh hưởng bởi đại dịch
Covid, ngành du lịch gặp nhiều khó khăn, phải
tạm dừng hoạt động, nhưng Đinh Tiến Dũng vẫn
lọt vào vòng chung tuyển Doanh nhân trẻ khởi
nghiệp xuất sắc năm 2021. Đó là nhờ anh đã thích
ứng linh hoạt với tình hình kinh doanh thực tế Hình 6.6. Một góc khu biệt thự Ruby Homes
theo phương châm “tăng thu, giảm chi, tích cực đường Trần Phú, thành phố Vũng Tàu
điều đình”, chuyển từ cho thuê ngắn hạn sang (Nguồn: sosanhnha.com)

cho thuê dài hạn gắn với việc “tinh giản lại bộ máy, tu bổ kiến thức trong xây dựng hệ
thống quản trị doanh nghiệp”, cố gắng duy trì hoạt động của công ty để nhân viên có việc
làm, chấp nhận doanh thu bị sụt giảm từ 30 tỉ đồng/năm xuống khoảng 14 tỉ đồng. Đồng
thời, doanh nghiệp phát huy tính năng động và đổi mới để đón đầu những xu hướng du
lịch nghỉ dưỡng thời kì hậu Covid.
2. Nắm bắt và đáp ứng nhu cầu thị trường để từng bước ổn định, phát triển dự án
khởi nghiệp

?
Em hãy chỉ ra những yếu tố giúp dự án khởi nghiệp của công ty TNHH Nội thất
Nguyệt Á thành công. Em học hỏi được điều gì cho dự án khởi nghiệp của bản thân
(nếu có)?

Chị Ong Thị Thanh Nguyệt đã có nhiều năm


lăn lộn trong lĩnh vực kinh doanh, thành công
có, thất bại có. Năm 2015, chị thành lập Công
ty TNHH Nội thất Nguyên Á chuyên sản xuất
và kinh doanh các mặt hàng nội thất như: sofa,
bàn, ghế, giường, tủ, kệ ti vi,… vì nhận thấy đó là
thị trường đầy tiềm năng trong một thành phố
du lịch có lượng khách sạn, nhà nghỉ không ngừng
tăng lên và phải định kì tân trang, đổi mới nội thất.
Hình 6.7. Cửa hàng trưng bày sản phẩm của
Trong những ngày đầu khởi nghiệp, vốn Công ty TNHH Nội thất Nguyên Á
(Nguồn: sofanguyena.com)
điều lệ của công ty chỉ có 300 triệu đồng nên
chị Nguyệt phải gói ghém mọi thứ, hạn chế thuê nhân viên. Bản thân chị trực tiếp làm
tiếp thị bán hàng, chồng phụ trách kĩ thuật và sản xuất. Cạnh tranh trên thương trường

83
rất gay gắt, có lúc khó khăn quá, tưởng chừng phải bỏ cuộc nhưng chị vẫn kiên định với
chiến lược lấy uy tín, chất lượng lên hàng đầu. Vì vậy, qua nhiều năm, công ty đã có lượng
khách hàng ngày càng lớn. Điều này đã giúp công ty từng bước phát triển: từ doanh thu
vài trăm triệu đồng mỗi năm, đến năm 2020, doanh thu của công ty đã đạt mức 5 tỉ đồng/
năm, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 15 – 25 người.
3. Khởi nghiệp từ đam mê và thấu hiểu đặc điểm địa phương, từ đó mở rộng
lĩnh vực hoạt động
?
Theo em, dự án khởi nghiệp của công ty Mực nhảy Biển Đông đã mang lại những
ích lợi gì cho ngư dân, người tiêu dùng và môi trường ở Bà Rịa – Vũng Tàu? Em hãy
tìm hiểu các nguồn lực ở địa phương mình sinh sống và đề xuất một dự án
khởi nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ.

Từng có một tuổi thơ lam lũ, nhà nghèo phải bỏ học theo cha mẹ bám biển mưu sinh,
anh Nguyễn Bá Ngọc giờ đây đã trở thành một doanh nhân khởi nghiệp thành đạt.
Suốt những năm “vào lộng, ra khơi” cùng cha mẹ, anh Ngọc đã hiểu được công việc
của ngư dân, quá trình khai thác và đánh bắt hải sản. Anh nhận thấy, trong tất cả các loại
hải sản, mực là loại khó bảo quản nhất vì chỉ cần đưa lên bờ 30 giây là mực đã chết. Nếu
làm cho mực sống, bơi được trong nước (mực nhảy) cho đến khi tới tay người tiêu dùng
thì lợi nhuận sẽ rất cao, ngư dân cũng có thu nhập tốt. Sau nhiều năm nghiên cứu tập tính
loài mực, anh Ngọc đã thiết kế và đầu tư hộp thông thuỷ từ đáy thuyền xuống biển lắp
vào thuyền đánh cá cho ngư dân nuôi giữ mực sống. Sau khi đưa mực lên lại có hệ thống
lồng bè, bể bơi và cả bể bơi trên các bồn xe tải vận chuyển mực nhảy đi tiêu thụ.

Hình 6.8. Cửa hàng của Công ty TNHH Mực nhảy Biển Đông
(Nguồn: mucnhaybiendong.com)

84
Từ đó, anh Nguyễn Bá Ngọc đã thành công với lĩnh vực kinh doanh, phân phối mực
nhảy tại các tỉnh, thành phố từ Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, đến Bình Dương,
Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh,… Năm 2019, anh Ngọc thành lập Công ty cổ phần
Mực nhảy Biển Đông tại Vũng Tàu và 2 chi nhánh tại Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh,
doanh thu mỗi tháng của công ty khoảng 700 triệu đồng.
Không chỉ giúp ngư dân có được lợi nhuận cao nhất từ đánh bắt hải sản, anh Ngọc còn
ấp ủ quá trình nhân giống và nuôi mực trong môi trường tự nhiên tại Côn Đảo. Nếu thành
công, dự án khởi nghiệp này sẽ nâng sản lượng khai thác mực nhảy lên 150 tấn/tháng,
mở rộng tới 50 ngư trường và 50 thị trường tiêu thụ sản phẩm mực nhảy, tương đương
30 tỉ đồng mỗi năm.

LUYỆN TẬP

1. Trình bày về một mô hình hoạt động thành công của doanh nghiệp nhỏ ở tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Nêu những hạn chế của một doanh nghiệp nhỏ mà em biết và chỉ ra nguyên nhân
của những hạn chế đó.

VẬN DỤNG

1. Tham quan một doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp từ nguồn lực địa phương. Sau đó viết
bài thu hoạch về thành công và hạn chế của doanh nghiệp này, đề xuất những biện pháp
giúp doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
2. Thử phác thảo một dự án khởi nghiệp từ nguồn lực địa phương em sinh sống.

85
GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM

THUẬT NGỮ,
GIẢI THÍCH
KHÁI NIỆM

Bát chánh đạo Là một giáo lí Phật giáo hướng con người đến đời sống an lạc.

Chống li khai
Đấu tranh không rời bỏ, không tách mình ra khỏi Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản

Người chịu trách nhiệm chính trong việc biên tập của một tờ
Chủ bút
báo hoặc tạp chí.

Lối đánh dựa vào địa hình, địa vật lúc ẩn, lúc hiện, không thể
(Lối đánh) du kích
đoán trước được.

Khảo cứu Tìm hiểu vấn đề bằng cách nghiên cứu, đối chiếu tài liệu cũ.

Tham biện Viên chức cao cấp trong thời phong kiến và thời Pháp thuộc.

Thống suất Người chỉ huy toàn quân đội.

Những hạt nhỏ nhiều màu có dạng hình viên tròn, sót lại trong
Xá lợi thi thể được hoả táng hoặc thân cốt sau khi chết của các vị cao
tăng Phật giáo.

Yêu sách Điều đòi hỏi, bắt buộc về quyền lợi.

86
Chịu trách nhiệm xuất bản

Chịu trách nhiệm nội dung

Tổ chức và chịu trách nhiệm bản thảo

Biên tập nội dung:

Trình bày bìa:

Hình minh hoạ:

Thiết kế sách:

Sửa bản in:

Chế bản:

87
TÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU – LỚP 11
Mã số: ....................
In .................... bản (QĐ .................... ), khổ 19 x 26,5 cm.
Đơn vị in : ....................
Địa chỉ : ....................
Số ĐKXB: ....................
Số QĐXB : .................... ngày .................... tháng .................... năm 2021
In xong và nộp lưu chiểu tháng .................... năm 2021.

88

You might also like