You are on page 1of 48

TRẢ LỜI MÔN NGHIỆP VỤ CHUYÊN NGÀNH

Câu 1. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự
- Điểu 112 BLTTHS năm 2003 quy định, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điểu tra các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: (1 điểm)
+ Khởi tố vụ án hình sự.(1,5 điểm)
+ Khởi tố bị can.(1,5 điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can theo quy định của BLTTHS; (1,5 điểm)
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; (1,5 điểm)
+ Khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của
BLTTHS; (1,5 điểm)
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của
BLTTHS; (1,5 điểm)
+ Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; (1,5 điểm)
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện
pháp ngăn chặn khác; (1,5 điểm)
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra
theo quy định của BLTTHS. (1,5 điểm)
+Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý
do; (1,5 điểm)
+ Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; (1,5
điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; (1,5 điểm)
+ Quyết định việc truy tố bị can; (1,5 điểm)
+ Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. (1,5 điểm)
Theo quy định tại Điều 113 BLTTHS năm 2003, khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra,
Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: (1 điểm)
+ Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ
quan điều tra; (1 điểm)
+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; (1 điểm)
+ Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; (1 điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; (1
điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra
viên; (1 điểm)
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp
luật trong khi tiến hành điều tra; (1 điểm)
+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và
vi phạm pháp luật. (1 điểm)
Câu 2. Trình bày nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, phó Viện
trưởng Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Theo Điều 33 của Bộ luật TTHS năm 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân là những người tiến hành tố tụng.
- Điều 36 BLTTHS năm 2003 quy định, trong tố tụng hình sự Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
* Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1
+ Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;
+ Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự;
+ Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án theo quy định của pháp luật;
+ Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Viện kiểm sát cấp dưới;
+ Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Viện trưởng như sau:
+ Khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ
nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng.
+ Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
* Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu
cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo
quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn điều
tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra;
+ Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều
tra;
+ Quyết định chuyển vụ án;
+ Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu
giám định;
+ Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử
lý vật chứng;
+ Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt
động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
* Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và
quyền hạn như Viện trưởng Viện kiểm sát
- Trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
+ Theo Khoản 4, Điều 36 BLTTHS 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
+ Điều 4 BLTTHS năm 2003 quy định khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
2
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
+ Theo quy định tại Điều 14 BLTTHS quy định: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án,
Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc
người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho
rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
+ Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 tại Điều 73 quy định về Trách nhiệm của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp như sau: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình trong việc
khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố, tranh tụng, kháng nghị và các hành vi, quyết định khác thuộc
thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật,
xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường,
bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
(Một cách trả lời khác* Theo quy định tại Khoản 2 Điều 33 của BLTTHS năm 2003, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là những người tiến hành tố tụng.
* Theo quy định tại Điều 36 BLTTHS năm 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
- Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
+ Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;
+ Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự;
+ Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án theo quy định của pháp luật;
+ Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Viện kiểm sát cấp dưới;
+ Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Viện trưởng như sau:
+ Khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ
nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng.
+ Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu
cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo
quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn điều
tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
3
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra;
+ Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều
tra;
+ Quyết định chuyển vụ án;
+ Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu
giám định;
+ Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử
lý vật chứng;
+ Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt
động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
- Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và
quyền hạn như Viện trưởng Viện kiểm sát
- Theo Khoản 4 Điều 36 BLTTHS 2003 thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
* Bên cạnh đó còn một số quy định chung cho những người tiến hành tố tụng
- Điều 4 BLTTHS năm 2003 quy định khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
- Điều 14 BLTTHS quy định: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch,
người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể
không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
* Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 tại Điều 73 quy định về Trách nhiệm của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp như sau: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình trong việc
khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố, tranh tụng, kháng nghị và các hành vi, quyết định khác thuộc
thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật,
xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường,
bồi hoàn theo quy định của pháp luật.)
Câu 3. Phân tích các điều kiện của phòng vệ chính đáng và điều kiện của vượt quá
giới hạn chính đáng phòng vệ chính đáng
* Điều kiện của phòng vệ chính đáng:
Khoản 1 Điều 15 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2009 quy định:
“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức,
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần
thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
- Điều kiện 1: Theo Điều 15 BLHS, cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ là sự tấn công
đang hiện hữu, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác.
4
Quyền hoặc lợi ích chính đáng bị xâm phạm có thể là quyền nhân thân, quyền sở hữu, có
thể bị xâm phạm qua những hành động của người tấn công (hành động cướp, hiếp dâm…) hoặc
cũng có thể qua không hành động (hành vi không cấp cứu người bị tai nạn của bác sỹ mà không
có lý do chính đáng). Hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp được quy định trong luật hình
sự bao gồm: hành vi phạm tội và những hành vi nguy hiểm cho xã hội khác như hành vi của
người chưa đủ tuổi chịu TNHS, hành vi của người không có năng lực TNHS, những hành vi
nguy hiểm cho xã hội chưa đến mức bị coi là tội phạm…
- Điều kiện 2: Hành vi tấn công phải có thật và đang diễn ra chứ không phải do suy đoán
tưởng tượng.
Sự tấn công phải có thật, nghĩa là sự xâm hại đối với những lợi ích được pháp luật bảo vệ
phải tồn tại khách quan chứ không phải do suy đoán, tưởng tượng vì người thực hiện hành vi
phòng vệ tưởng tượng phải chịu TNHS do trên thực tế lợi ích hợp pháp không bị xâm hại hoặc
bị đe dọa xâm hại, trong khi hành vi phòng vệ tưởng tượng lại xâm hại đến lợi ích được pháp
luật bảo vệ nên họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hành vi của họ gây nên. Hành vi tấn
công xâm hại lợi ích hợp pháp phải đang xảy ra thì hành vi phòng vệ mới được coi là hợp pháp
và là PVCĐ. Được coi là hành vi tấn công đang xảy ra khi người tấn công đã thực hiện hành vi
phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm, lợi ích hợp pháp bị xâm hại và hành vi phạm
tội đó chưa kết thúc. Ngoài ra, khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật còn thừa nhận
cả trường hợp hành vi tấn công chưa xảy ra nhưng có nguy cơ thực tế xảy ra ngay tức khắc, nếu
không ngăn chặn kịp thời thì lợi ích hợp pháp không thể bảo vệ được.
- Điều kiện 3: PVCĐ phải gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi tấn công chứ
không được gây thiệt hại cho lợi ích của người khác.
Quy định này xuất phát từ mục đích của PVCĐ muốn ngăn chặn được sự tấn công và bảo
vệ được lợi ích hợp pháp, người có hành vi phòng vệ phải hướng sự chống trả của mình vào
việc gây thiệt hại cho người đang có hành vi tấn công. Hành vi của người phòng vệ chỉ được
chống trả gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người có hành vi tấn công chứ không được
gây thiệt hại cho các lợi ích khác của người đang có hành vi tấn công vì chỉ cần gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe cho người đang có hành vi tấn công đã đủ làm tê liệt nguồn gốc làm phát
sinh sự tấn công, bảo vệ được lợi ích hợp pháp nên gây thiệt hại cho các lợi ích khác của người
tấn công là không cần thiết.
- Điều kiện 4: Giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công phải có sự tương xứng.
Tương xứng giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công không có nghĩa là sự ngang bằng
theo nghĩa cơ học, người tấn công sử dụng công cụ, phương tiện gì thì người phòng vệ cũng sử
dụng công cụ, phương tiện đó hoặc hành vi tấn công gây thiệt hại đến mức nào thì người phòng
vệ cũng được quyền gây thiệt hại đến mức độ đó… mà phải hiểu là sự tương xứng về tính chất
và mức độ giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công. Việc xác định sự tương xứng phải dựa
vào các yếu tố sau:
+ Dựa vào tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại: hành vi tấn công xâm hại tới quan hệ
xã hội có tính chất càng quan trọng thì đòi hỏi hành vi phòng vệ với cường độ cao thì lợi ích
hợp pháp mới có thể được bảo vệ.
+ Dựa vào tính chất của hành vi tấn công: hành vi tấn công sử dụng công cụ, phương tiện,
phương pháp nguy hiểm thì nguy cơ gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp càng lớn, do vậy
phải có sự chống trả quyết liệt mới có khả năng bảo vệ được lợi ích hợp pháp và ngược lại.
+ Dựa vào lực lượng (số người tham gia tấn công).
+ Dựa vào sự quyết tâm của người tấn công.
+ Căn cứ vào thời gian, địa điểm và những hoàn cảnh cụ thể khác khi xảy ra sự việc
Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải
ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người
5
phòng vệ. Trong phòng vệ chính đáng, luật không đặt ra vấn đề tương xứng về mặt hậu quả, có
nghĩa là hậu quả gây ra ở phòng vệ chính đáng có thể lớn hơn hậu quả gây ra của hành vi tấn
công nếu như sự gây hậu quả đó là cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh và mức độ của hành vi tấn
công.
Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thỏa mãn đầy đủ 4 điều kiện nêu trên.
Việc xác đinh một hành vi có được coi là phòng vệ chính đáng hay không có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự vì theo Luật hình sự quy định hành vi phòng vệ
chính đáng không phải là tội phạm.
* Điều kiện phòng vệ vượt quá giới hạn:
Khoản 2 Điều 15 BLHS quy định: “Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi
chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.”
- Điều kiện vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng giống với điều kiện của phòng vệ
chính đáng ở chỗ cơ sở phát sinh cùng là sự tấn công đang hiện hữu xâm phạm đến lợi ích Nhà
nước, tập thế, quyền và lợi ích của mình hoặc của người khác và sự chống trả của người phòng
vệ phải nhằm vào chính người tấn công, vào chính người đang gây ra nguy hiểm cho xã hội: sự
chống trả này có thể nhằm vào trực tiếp người tấn công hoặc nhắm vào công cụ, phương tiện
của người tấn công đang sử dụng nhưng khác nhau ở phạm vi phòng vệ.
- Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại
Điều kiện được coi vượt quá phòng về chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức
cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Tức là mức độ gây thiệt hại của hành vi phòng vệ cao hơn mức độ gây thiệt hại của hành vi tấn
công, nhưng sự gây thiệt hại quá mức này phải là không cần thiết và không phù hợp với tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm tương ứng, nhưng trách nhiệm hình sự không giống với những trường hợp khác, do
đây là một tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 46 BLHS
*Ý nghĩa của việc xác định một hành vi là phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng
- Xác định một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng có ý nghĩa quan trọng trong việc
định tội danh. Luật quy định hành vi phòng vệ chính đáng không bị coi là tội phạm
- Xác định một hành vi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác quyết định hình phạt, định khung hình phạt. Luật coi phạm tội trong trường vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ TNHS
Câu 4. Dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm
- Khái niệm mặt khách quan của tội phạm: Là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách
quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. (2 điểm)
- Các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm
cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội. (2 điểm)
- Hành vi khách quan là dấu hiệu cơ bản trong mặt khách quan của tội phạm, là dấu hiệu
bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. (2
điểm)
- Đặc điểm của dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm:

6
+ Có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội: Hành vi khách quan của tội phạm xâm hại đến
những quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự, vì thế đã gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại đáng kể. (3 điểm)
+ Là hoạt động có ý thức và ý chí. Hành vi khách quan của tội phạm phải là hành vi được
ý thức của chủ thể kiểm soát và ý chí của chủ thể điều khiển. (3 điểm)
+ Là hành vi trái pháp luật hình sự: Hành vi đó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội
phạm được quy định trong Luật hình sự, nên thường gọi là tính được quy định trong Luật hình
sự hay tính trái pháp luật hình sự. (3 điểm)
- Hình thức thể hiện của hành vi khách quan của tội phạm:
+ Hành động (phạm tội):
Là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng
tác động tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị
pháp luật cấm. (2 điểm)
Biểu hiện của hành động (phạm tội) có thể chỉ là động tác đơn giản, xảy ra một lần trong
thời gian ngắn hoặc có thể là tổng hợp nhiều động tác khác nhau hoặc có thể lặp đi lặp lại liên
tục trong thời gian dài. Hành động (phạm tội) có thể là tác động trực tiếp vào đối tượng tác
động của tội phạm hoặc có thể thông qua công cụ, phương tiện. Hành động phạm tội có thể
được thực hiện qua lời nói hoặc việc làm… (2 điểm)
+ Không hành động (phạm tội):
Là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng
tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm
một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm, mặc dù có đủ điều kiện để làm. (2 điểm)
Biểu hiện: chủ thể đã không làm đã không làm một việc có nghĩa vụ pháp lý phải làm,
trong khi có đủ điều kiện để làm (1 điểm)
Điều kiện để việc không hành động trở thành hành vi phạm tội:
Chủ thể có nghĩa vụ pháp lý phải làm (nghĩa vụ phát sinh do luật định, nghĩa vụ phát sinh
do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nghĩa vụ phát sinh do nghề nghiệp, nghĩa
vụ phát sinh do hợp đồng, nghĩa vụ phát sinh do xử sự trước đó của chủ thể).
Chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ, tức là có đủ khả năng (năng lực cá nhân để
hành động thực hiện nghiac vụ) và điều kiện (yếu tố khách quan để thực hiện nghĩa vụ, như có
máy móc, thiết bị, dụng cụ hỗ trợ…) (2 điểm)
- Các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan:
+ Tội ghép: là tội phạm mà hành vi khách quan được hình thành bởi nhiều hành vi khác
nhau xảy ra đồng thời, xâm hại các khách thể khác nhau. (1 điểm)
+ Tội kéo dài: là tội phạm mà hành vi khách quan có khả năng diễn ra không gián đoạn
trong khoảng thời gian dài.(1 điểm)
+ Tội liên tục: là tội phạm có hành vi khách quan bao gồm nhiều hành vi cùng loại xảy ra
kế tiếp nhau về mặt thời gian, xâm hại cùng khách thể và đều bị chi phối bởi ý định phạm tội cụ
thể thống nhất. (1 điểm)
- Ý nghĩa của việc xác định dấu hiệu hành vi trong mặt khác quan của tội phạm:
+ Trong việc định tội: Giúp xác định hành vi đã thực hiện có cấu thành tội phạm hay
không, cấu thành tội gì. (1 điểm)
+ Trong việc định khung hình phạt: Hành vi thực hiện được quy định tại khung hình phạt
nào. (1 điểm)
+ Trong việc quyết định hình phạt.(1 điểm)
Câu 5. Phân biệt trường hơp vô ý phạm tội vì cẩu thả với trường hợp gây hậu quả
nguy hại cho xã hội vì sự kiện bất ngờ theo quy định của BLHS.
1. Các khái niệm
7
- Vô ý phạm tội vì cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội, do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước. (3 điểm)
- Vô ý phạm tội do cẩu thả là một trong hai hình thức của lỗi vô ý phạm tội (1 điểm)
- Trường hợp sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội
do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy
trước hậu quả của hành vi đó (3 điểm)
2. Phân biệt trường hợp vô ý phạm tội do cẩu thả với trường hợp sự kiện bất ngờ:
- Giống nhau:
+ Đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1 điểm)
+ Hậu quả nguy hại cho xã hội đã xảy ra (1 điểm)
- Khác nhau:
+ Người vô ý phạm tội do cẩu thả không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành
vi của mình.
Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không thấy trước hoặc có thể
thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi của mình (4 điểm)
+ Người vô ý phạm tội do cẩu thả buộc phải thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của
hành vi của mình
Người vô ý phạm tội do cẩu thả không thấy trước nhưng có khả năng thấy trước hậu quả
nguy hại cho xã hội mà hành vi của họ đã gây ra nếu họ có sự chú ý cần thiết, người vô ý phạm
tội do cẩu thả có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy tắc xử sự chung trong cuộc sống đã được
mặc nhiên thừa nhận, nghĩa vụ phát sinh từ địa vị của họ trong hoàn cảnh cụ thể…nên họ buộc
phải thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi của mình.
Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không có khả năng thấy trước
hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của họ đã gây ra mặc dù có sự chú ý cần thiết, nên họ
không có nghĩa vụ (không buộc) phải thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi của
mình. (6 điểm)
+ Về nguyên nhân dẫn tới hành vi gây hậu quả thiệt hại cho xã hội:
Trường hợp vô ý phạm tội do cẩu thả có nguyên nhân chủ quan, do người thực hiện hành
vi cẩu thả, thiếu thận trọng khi xử sự.
Trường hợp sự kiện bất ngờ có nguyên nhân khách quan, người thực hiện hành vi không
thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hại. (4 điểm)
+ Về hậu quả pháp lý:
Người vô ý phạm tội do cẩu thả được coi là có lỗi, do đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không có lỗi, do không phải
chịu trách nhiệm hình sự. (4 điểm)
- Ý nghĩa: việc phân biệt hai trường hợp vô ý phạm tội vì cẩu thả với gây thiệt hại do sự
kiện bất ngờ có ý nghĩa giúp xác định hành vi đã xảy ra trong hai trường hợp trên là có tội hay
không có tội. (3 điểm)
Câu 6. Hãy cho biết nhân thân người phạm tội có ý nghĩa như thế nào trong việc giải
quyết trách nhiệm hình sự của họ và tại sao có ý nghĩa đó.
*Khái niệm nhân thân người phạm tội và mối liên hệ của nhân thân người phạm tội với
trách nhiệm hình sự của họ:
- Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng
biệt của người phạm tội. Những đặc điểm này có thể là về mặt xã hội, về tâm lý và về sinh học.
Đó là những đặc điểm như tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh

8
gia đình và bản thân, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức lao động, tôn giáo, tiền án, tiền
sự. (4 điểm)
- Những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết
TNHS của người phạm tội vì:
+ Các đặc điểm đó ảnh hưởng tới tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. (3
điểm)
+ Các đặc điểm đó ảnh hưởng tới khả năng cải tạo và giáo dục của người phạm tội. (3
điểm)
* Ý nghĩa của nhân thân người phạm tội trong việc giải quyết TNHS của họ:
- Có ý nghĩa khi xác định TNHS. Ví dụ: trong nhiều tội phạm, dù chưa gây ra những hậu
quả đã được quy định nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm nếu người thực hiện có tiền án,
tiền sự (được quy định cụ thể trong điều luật). (4 điểm)
- Có ý nghĩa định khung hình phạt. Ví dụ: trong nhiều tội phạm, những đặc điểm nhân
thân người phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng, như “tái phạm nguy hiểm” (4 điểm)
- Có ý nghĩa khi quyết định hình phạt. Một số đặc điểm về nhân thân người phạm tội được
quy định là tình tiết giảm nhẹ TNHS hoặc tăng nặng TNHS tại Điều 46 và 48 BLHS (4 điểm)
- Có ý nghĩa khi xem xét để áp dụng các chế định như: miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn
chấp hành hình phạt, án treo,... (4 điểm)
- Ngoài ra trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, căn cứ vào nhân thân người phạm tội
có thể làm sáng rõ các vấn đề như lỗi, động cơ và mục đích phạm tội ...Trong việc cải tạo giáo
dục người phạm tội, để đạt hiệu quả cũng cần phải dựa vào nhân thân của họ để có những biện
pháp phù hợp. (4 điểm)
Câu 7. Phân biệt lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin theo quy định của
BLHS
* Khái niệm:
- Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và
đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. (2 điểm)
- Lỗi cố ý có hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (1 điểm)
- Lỗi vô ý có hai hình thức là vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả (1 điểm)
- Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức
rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không
mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. (3 điểm)
- Lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hại đó.
(3 điểm)
* Phân biệt lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin:
- Giống nhau:
+ Người phạm tội đều nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình, đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi đó có thể gây ra. (1 điểm)
+ Người phạm tội đều không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. (1
điểm)
- Khác nhau:
+ Hình thức lỗi: Lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý vì quá tự tin khác nhau về hình thức lỗi. (2
điểm)
+ Về lý trí: Tuy đều nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình
nhưng người có lỗi cố ý gián tiếp nhận thức đầy đủ tính chất phạm tội của hành vi của mình.
Họ thấy trước cả khả năng xảy ra và không xảy ra của hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
9
vi của mình, nhưng đối với họ, khả năng nào xảy ra cũng được. Còn đối với người phạm tội do
lỗi vô ý vì quá tự tin, người có lỗi nhận thức không đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình. Họ thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra hoặc không xảy ra
nhưng họ dựa vào những tình tiết thực tế và cụ thể để loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Đối với
họ, chỉ còn lại khả năng hậu quả không xảy ra nên họ mới thực hiện hành vi. (5 điểm)
+ Về ý chí: Tuy đều không mong muốn hậu quả nguy hại cho xã hội xảy ra nhưng ý chí
của người phạm tội trong hai trường hợp này không giống nhau. Người phạm tội với lỗi cố ý
gián tiếp có ý thức chấp nhận hậu quả đó nếu xảy ra, còn người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự
tin không mong muốn hậu quả xảy ra mà cho rằng, với những điều kiện khác quan và chủ quan,
hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. (5 điểm)
Từ đó thấy rằng, trách nhiệm pháp lý mà người có lỗi cố ý gián tiếp phải gánh chịu là do
có thái độ bỏ mặc đối với hậu quả, còn với người có lỗi vô ý vì quá tự tin là do đã quá tự tin khi
đánh giá, lựa chọn cách xử sự dẫn đến việc gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. (2 điểm)
- Ý nghĩa:
+ Việc phân biệt lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin là cơ sở để định tội đúng trong
những trường hợp lỗi cố ý gián tiếp hay lỗi vô ý vì quá tự tin là yếu tố bắt buộc trong cấu thành
tội phạm cụ thể. (2 điểm)
+ Trong những trường hợp hành vi phạm tội giống nhau nhưng thực hiện do lỗi khác nhau
thì việc phân biệt lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin có ý nghĩa đánh giá mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm căn cứ để quyết định hình phạt. Người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý gián tiếp phải chịu trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc
hơn so với việc thực hiện hành vi đó với lỗi vô ý vì quá tự tin. (2 điểm)
Câu 8. Trình bày khái niệm, các ăn cứ để cho hưởng án treo. Phân biệt án treo với
hình phạt cải tạo không giam giữ.
1. Khái niệm án treo: là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Án treo thể hiện tính nhân đạo của đạo luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích
người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực xã hội cũng như
gia đình, (3 điểm)
2. Các căn cứ cho hưởng án treo:
- Về mức hình phạt tù
+ Những người bị tòa án phạt tù không quá 3 năm, không kể tội đã phạm là tội gì đều có
thể được xem xét cho hưởng án treo (2 điểm).
+ Trường hợp bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà hình phạt chung không quá 3
năm tù thì cũng thuộc diện được xem xét cho hưởng án treo. Tuy nhiên, trường hợp này phải
được xem xét thận trọng và chặt chẽ hơn để quyết định có cho hưởng án treo hay không (2
điểm).
- Về thân nhân người phạm tội
+ Người được hưởng án treo phải là người có thân nhân tương đối tốt. Đó là người chấp
hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của bản thân với
tư cách là thành viên trong xã hội, nói chung họ là người chưa có tiền án, tiền sự (3 điểm)
+ Đối với những người có tiền án, tiền sự, nếu xét tính chất của tiền án, tiền sự cùng với
tính chất của tội phạm mới thực hiện và các căn cứ khác thấy không cần bắt chấp hành hình
phạt tù thì cũng có thể cho hưởng án treo nhưng tinh thần chung là hạn chế và thật chặt chẽ (2
điểm).
+ Khi đánh giá nhân thân người phạm tội phải xem xét toàn diện tất cả các đặc điểm về
nhân thân, trong đó cần chú ý những đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến khả năng tự giáo dục,
cải tạo. Thái độ của người phạm tội sau khi gây án và khi bị xét xử cũng có ý nghĩa nhận định
đến việc cho họ hưởng án treo hay không. Vì những đặc điểm nhân thân của người phạm tội
10
không chỉ là căn cứ quan trọng của quyết định hình phạt mà còn là căn cứ cần thiết để xem xét
người phạm tội với đều kiện cụ thể có khả năng tự giáo dục, cải tạo hay không để quyết định
cho hưởng án treo. (3 điểm)
- Có tình tiết giảm nhẹ
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ có nghĩa là phải có từ 2 tình tiết trở lên trong đó nhất định phải
có một tình tiết ghi nhận tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (3 điểm).
- Xét thấy không cần phải bắt chấp hành án phạt tù
Phải căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa và chống tội phạm ở từng loại tội trong môi trường
xã hội cụ thể của từng thời kỳ để các định cần hay không cần bắt người bị phạt tù phải chấp
hành hình phạt tù hay cho hưởng án treo. Người phạm tội được hưởng án treo là người thực sự
có khả năng tự hoàn lương trong môi trường xã hội cụ thể, không có nguy cơ tái phạm, bời tính
chất loại tội phạm họ đã thực hiện cũng như do ảnh hưởng xấu của đối tượng xung quanh (4
điểm).
3. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo:
+ Giống nhau:
Hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo được áp dụng đối với người đang có nơi làm
việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng, người bị kết án không bị tước quyền tự do thân thể
nhưng họ đều bị Tòa án giao cho cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc chính quyền địa
phương nơi họ thường trú giám sát, giáo dục. (2 điểm)
+ Khác nhau:
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt, còn án treo là một
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. (2 điểm)
Phạm vi, điều kiện được áp dụng khác nhau: án treo được áp dụng đối với tất cả các loại
tội nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự. Còn hình phạt cải
tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định. (2 điểm)
Người được hưởng án treo không bị khấu trừ thu nhập còn người bị kết án cải tạo không
giam giữ bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước (riêng đối với
người chưa thành niên phạm tội không bị khấu trừ). (2 điểm)
Câu 9. Phân tích biện pháp tạm giữ theo Điều 86 BLTTHS
- Tạm giữ được quy định tại Điều 79, Điều 86 BLTTHS. Tạm giữ được hiểu là biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với
những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
- Khoản 1 Điều 48 BLHS quy định người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
- Khoản 2 Điều 48 BLHS quy định người bị tạm giữ có quyền:
+ Được biết lý do mình bị tạm giữ;
+ Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
+ Trình bày lời khai;
+ Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
- Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp
luật.
- Mục đích tạm giữ:
11
+ Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người phạm tội đầu thú, tự thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp
luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra bước đầu
thu thập chứng cứ, tài liệu bước đầu xác định được tính chất hành vi của người bị tạm giữ.
+ Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt theo quyết định truy nã là để tạo thời gian cho
cơ quan ra quyết định truy nã đến nhận người.
- Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì
tạm giữ được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp sau đây:
+ Những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
+ Những người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang
+ Người phạm tội tự thú, đầu thú
+ Người bị bắt theo quyết định truy nã.
Trong trường hợp người bị bắt phạm tội qua tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít
nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động hoặc biểu hiện cản
trở điều tra thì không cần phải tạm giữ.
Việc tạm giữ đối với bị lệnh truy nã chỉ được đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra quyết định
truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường sẽ bị tạm giữ vì trong trường hợp này cơ
quan điều tra đã xác định được phải ngăn chặn người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
- Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ
+ Theo quy định tại Khoản 2 Điều 86 BLTTHS, những người có quyền ra lệnh tạm giữ
bao gồm:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn
biên phòng ở hải đảo và biên giới;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển
+ Theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì cơ quan điều tra từ cấp huyện trở lên mới có
quyền ra lệnh tạm giữ. Chính quyền và công an cấp xã phường, thị trấn không có quyền ra lệnh
tạm giữ theo tủ tục tố tụng hình sự. Vì vậy khi nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang, người đang bị truy nã UBND xã phường, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả
tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền.
- Thủ tục tạm giữ
+ Việc tạm giữ phải có quyết định của người có thẩm quyền
+ Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho
người bị tạm giữ một bản.
+ Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra
quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ.
+ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người
bị tạm giữ.
+ Theo quy định tại Điều 14 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014, nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự:
Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ,
việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân.

12
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp
ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của
luật.
- Thời hạn tạm giữ
Theo Điều 87 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giữ được quy định như sau:
+ Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
+ Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng
không quá ba ngày.
Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai
nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan
đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn.
+ Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng
một ngày tạm giam.
Tạm giữ là những biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, ngăn chặn hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng
cứ, tài liệu, bước đầu xác định hành vi, tính chất của hành vi phạm tội.
Câu 10. Phân tích biện pháp tạm giam theo quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 2003
- Tạm giam được quy định tại Điều 88 BLTTHS. Tạm giam là một trong những biện pháp
ngăn chặn do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo để tiến hành điều tra, truy tố,
xét xử đối với các vụ án (2 điểm)
- Mục đích tạm giam:
+ Ngăn chặn không để bị can, bị cáo có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử (1 điểm)
+ Áp dụng biện pháp tạm giam nhằm mục đích ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội (1 điểm)
+ Để bảo đảm thi hành án (1 điểm)
Đối tượng áp dụng: Theo quy định khoản 1, 2 Điều 88 BLTTHS năm 2003 thì: Tạm giam
có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: (1,5 điểm)
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng (1,5 điểm)
+ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội (1,5 điểm)
+ Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi,
là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác (1,5 điểm), trừ những trường hợp sau đây:
Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; (1,5 điểm)
Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý
gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; (1,5 điểm)
Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không
tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia (1,5 điểm)
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
+ Theo quy định tại Khoản 3 Điều 88 những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam bao
gồm: (1 điểm)
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
(1,5 điểm)
Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; (1,5 điểm)
13
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao; Hội đồng xét xử; (1,5 điểm)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm
giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. (1,5 điểm)
- Thủ tục tạm giam
+ Việc tạm giam phải có lệnh viếtcủa người có thẩm quyền, lệnh tạm giam phải ghi rõ
ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên địa chỉ của người bị tạm giam; lý do
tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản (1,5 điểm)
+ Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành (1,5 điểm)
+ Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và
hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. (1,5 điểm)
+ Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét
phê chuẩn (1,5 điểm)
+ Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo
ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết (1,5 điểm)
Câu 11. Phân tích nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự, quy
định tại Điều 10 BLHTTHS Việt Nam năm 2003
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc cơ bản trong luật tố
tụng hình sự được quy định tại Điều 10 của BLTTHS 2003. Nguyên tắc này có nội dung như
sau:
- Thứ nhất, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. (5 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp
BLTTHS cho phép để xác định sự thật của vụ án như: Lấy lời khai, hỏi cung, khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét và các hoạt động
điều tra khác theo quy định của BLTTHS. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng không được sử dụng các biện pháp không hợp pháp như: Bức cung, nhục hình hoặc các
biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ khác trái với quy định của pháp luật (4 điểm)
+ Xác định sự thật của vụ án một cách khách quan là tiến hành điều tra, truy tố, xét xử một
cách vô tư, không định kiến, không suy diễn, mà phải dựa vào những chứng cứ đã được thu
thập và đánh giá theo đúng quy định của BLTTHS. Các quyết định của các cơ quan tiến hành tố
tụng phải có căn cứ pháp luật. (4 điểm)
+ Xác định sự thật của vụ án một cách toàn diện là xem xét hành vi phạm tội với đầy đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm, không tách rời nhau; thu thập và đánh giá cả chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, kiểm tra mọi giả thiết có thể đặt ra. (4 điểm)
+ Xác định sự thật của vụ án một cách đầy đủ là làm sáng tỏ mọi tình tiết có ý nghĩa giải
quyết đúng đắn vụ án, trong đó có những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo; những nguyên nhân và điều kiện phạm tội… BLTTHS cũng quy định nếu
việc điềutra không đầy đủ thì phải điều tra bổ sung. Việc điều tra không đầy đủ còn là cơ sở để
hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm (5 điểm).
- Thứ hai, trách nhiệm chứng minh tội phạm được BLTTHS quy định thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội; (5 điểm)
14
Như vậy muốn xác định bị can, bị cáo có tội hay không thì các cơ quan tố tụng phải chứng
minh, dựa trên những chứng cứ thu thập được. Bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ
để chứng minh mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ lời khai của bị can, bị cáo, kết
hợp với các chứng cứ khác, các cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị cáo có tội hay
không có tội (3 điểm).
(Câu 11B. Trình bày nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự
- Nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự: Là những phương châm, những định
hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được quy định trong BLTTHS
(1,5 điểm)
- Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc cơ bản trong luật tố
tụng hình sự được quy định tại Điều 10 BLTTHS năm 2003 (1,5 điểm)
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự được thể hiện như sau:
- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (3 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án như: lấy lời khai, hỏi cung, khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét và các hoạt động điều tra khác theo quy
định của BLTTHS (2 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được sử dụng các biện
pháp không hợp pháp như: Bức cung, nhục hình hoặc các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ
khác trái với quy định của pháp luật. (1 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xác định đầy đủ các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định tại Điều 46 BLHS.(1 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định đầy đủ các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định tại điều 48 BLHS. (1 điểm)
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng vì: Cơ quan
tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là các cơ quan được nhà nước giao
nhiệm vụ làm rõ sự thật khách quan của vụ án, những nhiệm vụ này được quy định cụ thể trong
BLTTHS. (3 điểm)
+ Bị can, bị cáo không phải chứng minh mình có tội: Bản chất người phạm tội luôn muốn
che giấu hành vi phạm tội, và lời nhận tội của bị can, bị cáo không phải là nguồn chứng cứ duy
nhất để chứng minh hành vi phạm tội. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh
được bị can, bị cáo có tội thì không thể kết tội. (3 điểm)
+ Luật tố tụng hình sự không quy định bị can, bị cáo phải khai đúng sự thật, mặt khác bị
can, bị cáo không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can, bị cáo có
tội hay không phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng
minh là mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của bị can, bị cáo kết
hợp những chứng khác cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị cáo có tội hay không có
tội. (3 điểm)
+Trong quá trình tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm
không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả
các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn
vụ án. (3 điểm)
- Mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều được đánh giá khách
quan, toàn diện, có căn cứ để rút ra kết luận chính xác về vụ án (2 điểm)
15
- Ý nghĩa:
+ Nguyên tắc này đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (1 điểm)
+ Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự (1 điểm))
Câu 12. Phân tích nguyên tắc: Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” quy định tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
* Yêu cầu của nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật”:
Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước CHXHCNVN có quyền xét xử và quyết
định bị cáo có tội hay không tội, vì thế quyết định của Tòa án phải khách quan và chính xác,
nên độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử là một nguyên tắc quan trọng của tố tụng
hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này không chỉ đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử phải
độc lập, mà còn xác định đây là một nguyên tắc phải được mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân tôn
trọng. (5 điểm)
* Nội dung của nguyên tắc:
Thứ nhất, việc xét xử phải độc lập. Thể hiện:
- Không một cơ quan, tổ chức và cá nhân nào được can thiệp vào việc xét xử của Hội đồng
xét xử. (2,5 điểm)
- Hội đồng xét xử không lệ thuộc vào ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng như
của các bên đương sự (2,5 điểm)
- Tòa án cấp trên hướng dẫn các Tòa án cấp dưới về thống nhất áp dụng pháp luật nhưng
không quyết định trước về chủ trương xét xử một vụ án cụ thể buộc Tòa án cấp dưới phải theo
(2,5 điểm).
- Thẩm phán và Hội thẩm còn phải độc lập với nhau trong suy nghĩ và phán quyết của
mình, không lệ thuộc nhau, không áp đặt nhau. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
(2,5 điểm).
- Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập nhưng không tách rời đường lối của Đảng. Đảng
lãnh đạo Tòa án qua việc chỉ ra đường lối xét xử trong từng giai đoạn cách mạng và với từng
loại án. Độc lập xét xử cũng không có nghĩa là không có sự kiểm tra, giám sát. Tòa án cấp trên
có quyền kiểm tra những bản án và quyết định của tòa án cấp dưới và hủy bỏ chúng trong
trường hợp trái pháp luật hoặc không có cơ sở đúng đắn (5 điểm)
Thứ hai, việc xét xử chỉ tuân theo pháp luật, thể hiện: mọi quyết định của Tòa án, của Hội
đồng xét xử phải dựa vào những quy định của pháp luật, sao cho bản án và các quyết định đảm
bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ pháp luật. (2,5 điểm)
Hai nội dung “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ. Độc lập là
điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật và chỉ tuân theo
pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập. (2,5 điểm)
Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng trong tố tụng hình sự Việt Nam. Để thực hiện tốt
nguyên tắc này, phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơ sở cho việc xét
xử độc lập và không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và ý thức pháp luật
cho Thẩm phán và Hội thẩm. (5 điểm).
Câu 13. Phân tích những quy định về Giới hạn của việc xét xử theo thủ tục xét xử sơ
thẩm hình sự
- Điều 196 BLTTHS quy định giới hạn của việc xét xử theo thủ tục xét xử sơ thẩm hình
sự: (1 điểm)
+ Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy
tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử (2 điểm)
16
+ Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong
cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (2
điểm)
+ Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố
trong cùng một điều luật có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Tòa án có thể
xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã
truy tố trong cùng một điều luật (2 điểm)
+ Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã
truy tố (2 điểm)
Tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy
định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với hai tội phạm như nhau
(2 điểm).
Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy
định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn
so với tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn thì cần
thực hiện theo thứ tự như sau (2 điểm):
Trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy định
mức hình phạt cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội nặng hơn (2 điểm).
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với hai tội là tù có thời
hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù trung thân) thì tội nào, điều luật quy định
mức phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn (2 điểm).
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử hình
hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất đối với cả hai tội
như nhau thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt cao hơn là tội đó nặng hơn (2 điểm).
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều là tù
có thời hạn và mức hình phạt tù khởi điểm , mức hình phạt tù cao nhất như nhau, thì tội nào
điều luật còn quy định loại hình phạt chính khác nhẹ hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền,
cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn. Nếu điều luật cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng
có mức cao nhất, mức khởi điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn được
thực hiện như sau (2 điểm):
+ Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù có
thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân) thì tội nào, điều luật quy
định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn.
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử hình
hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất đối với cả hai tội
như nhau, thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn.
Trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối với cả hai tội như nhau,
thì tội nào đều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội đó nặng hơn. Nếu điều luật cùng quy
định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng đối với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn
đối với tội khác hình phạt bổ sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ
sung bắt buộc là tội đó nặng hơn (3 điểm).
+ Khi Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội, thì Tòa án cũng
có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn
tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó (2 điểm).
+ Trường hợp Viện kiểm sát không đồng ý việc thay đổi khung hình phạt nặng hơn hoặc
khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt đã truy tố; tội bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm
sát truy tố thì Viện kiểm sát cí quyền kháng nghị phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm để Tòa án cấp
trên xem xét lại (2 điểm).
17
+ Trước khi mở phiên tòa, nếu Tòa án thấy cần truy tố thêm người, thêm tội hoặc xét xử bị
cáo theo tội danh khác nặng hơn thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung và thay
đổi cáo trạng (1 điểm).
+ Nấu qua xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội mới
cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát
khởi tố vụ án (1 điểm)
Câu 14. Phân tích các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự và mối quan hệ
giữa các thuộc tính đó.
1. Khái niệm chứng cứ:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 BLTTHS, chứng cứ là những gì có thật, được thu
thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm
tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án (2 điểm).
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS, chứng cứ được xác định bằng: Vật chứng;
lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám
định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử các tài liệu, đồ vật khác (2 điểm).
2. Các thuộc tính của chứng cứ:
- Tính khách quan của chứng cứ:
+ Tính khách quan là một trong những thuộc tính quan trọng của chứng cứ, tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người (2 điểm).
+ Chứng cứ tồn tại khách quan nên các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng sự thật
khách quan, không được áp đặt ý trí chủ quan, khi thu thập chứng cứ phải đảm bảo đúng sự thật
của sự việc. Những thông tin, tư liệu dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị
làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Vì vậy, những thông tin, tư
liệu đó không thể là chứng cư của vụ án (3 điểm).
+ Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, việc xác định đúng đắn tính khách quan của
chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong chứng minh tội phạm. Việc xử dụng các thông tin, tư
liệu bị bóp méo, bị xuyên tạc, bị làm giả để chứng minh cũng như kiểm tra, đánh giá chứng cứ
phụ thuộc vào suy luận chủ quan của nguồn chứng cứ (của người cung cấp lời khai, người báo
cáo...) sẽ làm cho việc chứng minh thiếu chính xác, sự thật khách quan không được xác định (3
điểm).
-Tính liên quan của chứng cứ:
+ Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tư liệu
với các tình tiết của vụ án cần được xác định (2 điểm)
+ Mối quan hệ này thể hiện ở hai mức độ khác nhau:
Thứ nhất (mức độ trực tiếp), mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng chứng minh. Đây là
mối quan hệ cơ bản, chủ yếu. Thể hiện mối quan hệ này, chứng cứ được dùng làm căn cứ để
giải quyết thực chất vụ án (chứng cứ xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người
phạm tội, các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt, việc áp dụng các biện pháp
tư pháp...) (2 điểm)
Thứ hai (mức độ gián tiếp), có những thông tin, tư liệu không được dùng làm căn cứ trực
tiếp để giải quyết thực chất vụ án, nhưng lại được dùng để xác định các tình tiết khác có ý nghĩa
đối với giải quyết vụ án (2 điểm)
- Tính hợp pháp của chứng cứ:
+Tính hợp pháp của chứng cứ là sự phù hợp của nó với các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong các mặt sau (2 điểm):
+ Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của pháp luật (2 điểm)
18
+ Tính hợp pháp đòi hỏi chứng cứ phải được thu thập theo trình tự,thủ tục do BLTTHS
quy định (2 điểm).
- Mối quan hệ giữa các thuộc tính của chứng cứ:
+ Tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là thuộc tính cần và đủ của chứng cứ.
Chúng thể hiện các mặt khác nhau của chứng cứ, những liên quan rất chặt chẽ với nhau tạo
thành một thể thống nhất về nội dung cũng như hình thức, đảm bảo cho chứng cứ có giá trị
chứng minh (2 diểm).
+ Các thuộc tính đều có ý nghĩa pháp lý như nhau, không được coi nhẹ một thuộc tính nào.
Thiếu một trong các thuộc tính trên, các thông tin, tư liệu thu thập được không được coi là
chứng cứ (2 điểm).
- Việc xác định các thuộc tính của chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định
sự thật của vụ án, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết đầy đủ, đúng đắn các vụ án
hình sự, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (2 điểm).
Câu 15 đến 19 chưa thực hiện
Câu 20. Hãy nêu đặc điểm của hệ thống hình phạt trong bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 và cho biết việc quy định hình phạt theo một hệ thống như vậy có ý nghĩa gì?
Nêu khái niệm các biện pháp tư pháp và ý nghĩa các biện pháp tư pháp này.
* Đặc điểm
- Khái niệm hình phạt: quy định tại Điều 26 BLHS 1999: “Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.”
- Hệ thống hình phạt bao gồm những hình phạt được quy định trong luật hình sự, có
phương thức liên kết với nhau theo trật tự nhất định.
- Các yếu tố cấu thành hệ thống hình phạt trong luật hình sự là những hình thức hình phạt
cụ thể với những nội dung và điều kiện áp dụng được quy định trong luật. Nội dung và điều
kiện áp dụng của mỗi hình phạt do sự chuyển biến và hoàn cảnh của xã hội, do yêu cầu của
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nó luôn thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước.
- Đặc điểm của hệ thống hình phạt: tội phạm có nhiều loại khác nhau như tội giết người,
trộm cắp tài sản,... và mỗi loại khi xảy ra có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác
nhau. Để áp dụng TNHS phù hợp với từng loại tội trong từng trường hợp cụ thể Luật hình sự
quy định một hệ thống hình phạt có các đặc điểm sau:
+ Bao gồm nhiều loại hình phạt được sắp xếp theo một phương thức liên kết nhất định,
theo một trật tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc, trật tự này thể hiện chính sách hình sự của
Nhà nước ta kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế, trấn áp
+ Hệ thống hình phạt có 2 loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung
+ Hình phạt chính bao gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có
thời hạn, chung thân, tử hình. HP chính có đặc điểm là được tuyên độc lập và mỗi hành vi phạm
tội chỉ được tuyên một hình phạt chính.
+ Hình phạt bổ sung bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những
công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt
tiền; trục xuất. HP bổ sung có đặc điểm là không được tuyên độc lập mà có thể tuyên kèm với
HP chính đối với mỗi loại tội phạm. Đối với mỗi loại tội phạm, kèm theo HP chính có thể tuyên
một, nhiều hay không tuyên HP bổ sung nào. Bởi HP bổ sung chỉ mang tính chất hỗ trợ hình
phạt chính. Mặt khác nó mở thêm khả năng pháp lý cho Tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm
tội ...Trong hệ thống hình phạt, trục xuất và phạt tiền là 2 hình thức hình phạt vừa là HP chính,
vừa là HP bổ sung.
* Ý nghĩa của hệ thống hình phạt
19
- Hệ thống hình phạt là một trật tự các hình phạt được quy định trong BLHS, không ai có
quyền tùy tiện thêm, bớt hoặc đảo lộn trật tự đó.
- Hệ thống hình phạt được quy định theo một phương thức liên kết từ nhẹ đến nặng thì
kiểu chính sách hình sự của nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm kết hợp
giữa giáo dục với cưỡng chế, trừng trị.
- Việc xác định hình phạt nào nặng hơn hay nhẹ hơn có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể nó
có ý nghĩa khi áp dụng các quy định sau:
+ Việc hiệu lực áp dụng của điều luật theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 7 BLHS 1999,
cụ thể:
Khoản 2 quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng
mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm
hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp
dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
Khoản 3 quy định xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định
một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi
cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật
đó có hiệu lực thi hành.
+ Về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS: theo quy định tại Điều 47 BLHS
khi có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 BLHS, nếu điều luật áp dụng chỉ có
1 khung hình phạt hoặc khung hình phạt là khung nhẹ nhất của điều luật thì Tòa án có thể quyết
định một hình phạt dưới mức thâp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn.
* Khái niệm và ý nghĩa của các biện pháp tư pháp
- Khái niệm: Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được BLHS quy định, do
các cơ quan tư pháp áp dụng đối với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng
hỗ trợ, thay thế hình phạt.
-Biện pháp tư pháp bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh
- Đối với những người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Điều 70 BLHS có các
biện pháp sau: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng
-Ý nghĩa: Cùng với hình phạt, các biện pháp tư pháp thể hiện chính sách hình sự của nhà
nýớc ta
+ Hỗ trợ cho hình phạt trong trường hợp cần thiết phải xử lý cơ bản, toàn diện người
phạm tội về hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, thể hiện sự công minh của pháp luật, đồng
thời loại bỏ những điều kiện phạm tội, đem lại trật tự an toàn cho xã hội.
+ Trong nhiều trường hợp thay thế hình phạt, giúp cho việc xử lý tội phạm được triệt để;
giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vận dụng linh hoạt và đúng đắn chính sách hình sự
của nhà nước ta; thể hiện rõ hình phạt không phải là phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
Câu 21. Nguyên tắc chung về đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội trong
bộ luật hình sự năm 1999. Cơ sở của đường lối đó.
* Nguyên tắc xử lý
- Luật hình sự nước ta hiện nay đề cập đến người chưa thành niên trên 2 phương diện,
một mặt họ là đối tượng cần được bảo vệ bằng Luật hình sự khỏi những hành vi bị coi là tội
phạm. Mặt khác họ còn là chủ thể của tội phạm.
- Khái niệm người chưa thành niên là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi (Điều
68 BLHS). Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý, trình độ nhận
20
thức và kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, bản
năng kiềm chế chưa cao, thiếu hiểu biết xã hội ...
- Điều 12 BLHS quy định “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
- Đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định tại chương X BLHS
1999, đối với người chưa thành niên phạm tội bên cạnh những nguyên tắc chung của BLHS còn
có đường lối xử lý riêng thể hiện chính sách hình sự của nhà nước ta:
+ Điều 68 BLHS 1999 quy định “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo
những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.”
+ Xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều
tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm
+ Người chưa thành niên có thể được miễn TNHS nếu người đó phạm tội ít nghiêm
trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ quan, tổ chức nhận
giám sát giáo dục.
+ Truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội chỉ được
thực hiện trong trường hợp cần thiết phải căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, đặc điểm nhân
thân và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nếu thấy không cần thiết áp dụng hình phạt
thì ta có thể áp dụng biện pháp tư pháp giao cho xã, phường, trường giáo dưỡng để quản lý giáo
dục.
+ Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội thì tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp.
+ Không xử phạt chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, không áp
dụng hình phạt bổ sung, không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên ở độ tuổi
từ 14 đến 16.
+ Án tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi thì không được tính để xác định là tái phạm
hoặc tái phạm nguy hiểm
* Cơ sở của đường lối đó:
- Xuất phát từ cơ sở TNHS, tức là người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất cũng như tâm sinh lý, trình độ, kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế, thiếu điều
kiện và bản lĩnh, dễ bị lôi kéo kích động nên năng lực hành vi của họ còn những điểm bị hạn
chế.
- Người chưa thành niên có sự tự ái, hiếu thắng.
- Đối với người chưa thành niên, gia đình, nhà trường, xã hội, chính quyền có điều kiện
giáo dục cải tạo họ thành người có ích cho xã hội.
- Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, chính sách hình sự của nước ta đối
với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất
của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng.
- Xuất phát từ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, có biện pháp ngăn ngừa để
người chưa thành niên phạm tội, TNHS chỉ đặt ra khi thấy cần thiết.
Câu 22. Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Sự khác biệt đó được thể
hiện như thế nào trong BLHS 1999
Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác

21
Tội phạm hay vi phạm pháp luật đều là những hành vi trái pháp luật. Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS còn các vi phạm pháp luật khác như vi phạm
hành chính, dân sự, kinh tế, lao động được quy định trong các văn bản pháp luật khác.
* Giống nhau
- Tội phạm xét về bản chất pháp lý cũng là loại vi phạm pháp luật. Tội phạm và vi phạm
pháp luật đều là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực pháp lý thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, được quy định tại các văn bản nhà nước trong hệ thống pháp luật Việt
Nam.
- Được xử lý hay đảm bảo việc xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
* Khác nhau
- Về mặt nội dung chính trị - xã hội:
+ Tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể được quy định tại khoản 1,
Điều 8 BLHS: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.”
+ Các vi phạm pháp luật khác cũng nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức độ không đáng
kể, được quy định tại khoản 4, Điều 8 BLHS: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm,
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý
bằng các biện pháp khác.”
- Về hình thức pháp lý:
+ Tội phạm được quy định trong BLHS. Khi xử lý tội phạm phải tuân thủ theo thủ tục rất
chặt chẽ. Một hành vi chỉ có thể bị coi là tội phạm khi đã được quy định trong BLHS
+ Các vi phạm pháp luật khác được quy định trong các văn bản pháp luật khác. Khi xử lý
thì áp dụng thủ tục đơn giản hơn. Mọi hành vi có tính nguy hiểm đáng kể nhưng chưa được
BLHS quy định thì không phải là tội phạm.
- Về hậu quả pháp lý:
+ Tội phạm bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình
phạt theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ.
+ Các vi phạm pháp luật khác được xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước khác ít
nghiêm khắc hơn.
* Sự khác biệt đó thể hiện trong BLHS 1999
- Tại khoản 4, Điều 8 BLHS quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm,
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý
bằng các biện pháp khác.”
- Nhiều tội phạm mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể thể hiện qua các đại lượng, định
lượng cụ thể, như một số tội phạm có cấu thành vật chất thì nó phải phụ thuộc vào giá trị tài sản
bị thiệt hại do tội phạm xâm hại…VD
- Trong một số trường hợp tội phạm không được định lượng cụ thể thì được quy định
dưới các dạng gây thiệt hại nghiêm trọng, hậu quả nghiêm trọng, có số lượng lớn, giá trị lớn…
VD
- Đối với một số loại tội phạm quy định dựa trên những đặc điểm nhân thân người phạm
tội, mặc dù thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra chưa xem xét trách nhiệm hình sự nhưng vẫn
cấu thành tội phạm. VD

22
- Đối với một số loại tội phạm, do tính chất nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật cần bảo
vệ, thì chỉ cần người phạm tội có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quan hệ đó được quy
định về mặt khách quan của tội phạm, thì đã cấu thành tội phạm, mà không cần phải có hậu quả
xảy ra hay không nhý tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân.
- Việc phân biệt tội phạm và vi phạm pháp luật khác có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
áp dụng pháp luật, đòi hỏi phải xác định ranh giới giữa vi phạm và tội phạm để có quan hệ pháp
luật điều chỉnh tương ứng, bảo đảm xử lý thống nhất đúng pháp luật.
Câu 23. Trình bày những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Nêu ý nghĩa
việc quy định những vấn đề này trong BLTTHS 2003
* Các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự: Việc chứng minh tội phạm, làm sáng
tỏ các tình tiết của vụ án, đòi hỏi có các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh
các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm, các yếu tố liên quan đến người phạm tội
- K/n: những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả các tình tiết phải được
xác định bảo đảm cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự.
- Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự được ghi nhận trong Điều 63
BLTTHS, cụ thể:
“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án
phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có
năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.”
* Ý nghĩa
- Việc quy định những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự trong BLTTHS
là để thực hiện đúng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án quy định tại Điều 10 BLTTHS.
Theo nguyên tắc này, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải áp dụng mọi biện pháp do luật
định để làm rõ mọi tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, không bỏ lọt tội
phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội.
- Việc làm rõ đối tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng giúp cho cơ quan điều tra
ngay từ đầu định hướng trước hoạt động điều tra trong việc xác định đúng đắn phạm vi, giới
hạn chứng minh. Việc xác định không đầy đủ đối tượng chứng minh sẽ dẫn đến việc chứng
minh tội phạm không đầy đủ, các tình tiết của vụ án không được làm rõ hết, làm cho việc giải
quyết vụ án chưa toàn diện, thiếu chính xác, ảnh hưởng trực tiếp đến chân lý, sự thật của vụ án.
Ngược lại, nếu xác định quá rộng, làm cho việc điều tra vụ án dàn trải, kéo dài thời gian tiến
hành tố tụng, tón kém làm cho việc giải quyết vụ án không kịp thời, thiếu chính xác.
- Trong trường hợp hồ sơ đã chuyển cho VKS hoặc TA, các cơ quan này cần căn cứ vào
đối tượng chứng minh để kiểm tra tài liệu chứng cứ đã đầy đủ hay chưa. Nếu chưa đủ thì trả hồ
sơ điều tra bổ sung hoặc VKS kháng nghị hay không kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.
- Việc quy định các quy định về những vấn đề cần chứng minh trong BLTTHS để cơ
quan điều tra, VKS, Tòa án xác định nguyên tắc chung thống nhất trong quá trình chứng minh
để từ đó xác định những đối tượng chứng minh cụ thể để giải quyết từng vụ án.
- Làm căn cứ để phân loại đối tượng để chứng minh
- Là cơ sở pháp lý để VKS, TA trả điều tra bổ sung; và là cơ sở để VKS quyết định
kháng nghị hay không kháng nghị.

23
Câu 24. Phân tích nguyên tắc “bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật” tại Điều 5 BLTTHS 2003
Quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được ghi nhận tại Điều 52 Hiến pháp
1992 sửa đổi và được BLTTHS thể chế hóa và ghi nhận là nguyên tắc tại Điều 5 của bộ luật
TTHS: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.” Như vậy, TTHS Việt Nam tiến hành
trên cơ sở những nguyên tắc của pháp luật XHCN trong đó có nguyên tắc bảo đảm mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Nguyên tắc này đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất, thể
hiện bằng những nội dung chính sau:
+ Luật TTHS quy định một trình tự, thủ tục từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án hình sự áp dụng chung cho mọi trường hợp phạm tội và bất cứ ai phạm tội.
+ Mọi công dân, không phân biệt là ai, nếu liên quan đến vụ án đều có quyền và nghĩa vụ
theo đúng với tư cách của mình trong quan hệ tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Ví dụ:
thứ trưởng, vụ trưởng phạm tội thì cũng bị khởi tố với tư cách là bị can.
+ Bất cứ công dân nào phạm tội cũng đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp
luật, không phân biệt thành phần giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, địa vị, giàu, nghèo, nam, nữ ...
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật không phân biệt đối xử, ưu
tiên ưu đãi bất kỳ là ai, không phân biệt tội phạm hay người liên quan vụ án mà phải căn cứ vào
các quy định của pháp luật.
+ Trong quá trình giải quyết vụ án từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ các trình tự thủ tục tố tụng chung không phân
biệt người phạm tội có địa vị hay thành phần như thế nào.
Câu 25. BLTTHS 2003 quy định như thế nào về tranh tụng giữa KSV với bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác?
Vấn đề bảo vệ quyền bào chữa của bị can, bị cáo luôn được Đảng và nhà nước quan tâm.
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến:
- Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với
luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
- Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
- Thể chế hóa quan điểm của Đảng, BLTTHS năm 2003 đã quy định thành một chương
XXI, từ Điều 217 đến Điều 221 BLTTHS. Cụ thể:
+ Điều 217 quy định trình tự phát biểu khi tranh luận: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại
phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần
nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn
bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.”
Sau khi KSV trình bày xong lời luận tội, chủ tọa phiên tòa để bị cáo trình bày lời bào
chữa. Nếu bị cáo không dùng quyền này thì không được bắt buộc phải trình bày, đối với trường
hợp có người bào chữa thì mời người bào chữa cho bị cáo.
Sau đó chủ tọa phiên tòa yêu cầu người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến bảo vệ
quyền, lợi ích của mình.
+ Điều 218 quy định về đối đáp: “Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình;
Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.

24
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà
không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận
trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan
đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa
được Kiểm sát viên tranh luận.”
Tranh luận không chỉ diễn ra giữa KSV với người bào chữa mà còn diễn ra giữa những
người khác khi tham gia tố tụng về những vấn đề liên quan đến họ. Qua tranh luận góp phần
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, làm cho vụ án được xử lý đúng người, đúng pháp
luật.
+ Điều 219 quy định việc trở lại xét hỏi: “Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm
chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục
tranh luận.”
+ Điều 220 cũng quy định “Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết
mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét
hỏi.”
Câu 26. Trình bày giới hạn của việc xét xử, giới hạn này được quy định trên cơ sở
nào?
* Giới hạn của việc xét xử được quy định tại Điều 196 BLTTHS như sau: “Tòa án chỉ xét
xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết
định đưa ra xét xử.
Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong
cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.”
- Tòa án không được xét xử những người và những hành vi mà VKS không truy tố.
- Tòa án không được xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội mà VKS đã truy tố. Tức là
Tòa án chỉ bị giới hạn không được xét xử theo tội danh nặng hơn chứ không bị hạn chế khung
hình phạt nặng hơn. Vậy Tòa án có thể xét xử theo khoản khác nặng hơn hoặc nhẹ hơn khoản
mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật. Tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc Tòa án độc
lập xét xử.
- Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS
đã truy tố hoặc áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà VKS đã đề nghị thì Tòa
án không phải báo trước cho VKS và những người tham gia tố tụng.
- Trường hợp VKS không đồng ý với việc thay đổi khung hình phạt nặng hơn, nhẹ hơn
khung hình phạt đã truy tố thì kháng nghị phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm để tòa án cấp trên
xem xét lại.
- Trước khi mở phiên tòa nếu tòa án thấy cần truy tố thêm người, thêm tội hoặc xét xử bị
cáo theo tội danh khác nặng hơn thì tòa án trả hồ sơ về VKS điều tra bổ sung và thay đổi cáo
trạng.
- Nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà HĐXX phát hiện được tội phạm mới hoặc người
phạm tội mới cần phải điều tra thì HĐXX ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS ra
quyết định khởi tố vụ án.
* Những nguyên tắc để quy định về giới hạn xét xử:
- Quy định giới hạn của việc xét xử dựa trên cơ sở kết hợp giữa nguyên tắc xét xử độc lập
chỉ tuân theo pháp luật của tòa án và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố
tụng hình sự. BLTTHS đã quy định bị cáo phải có quyền được biết mình bị xét xử về tội gì,
phải được nhận cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử.

25
Mục đích của quy định này là tạo điều kiện cho bị cáo chủ động, chuẩn bị thực hiện
quyền bào chữa của mình đồng thời buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền
này của bị cáo.
Giới hạn xét xử còn đảm bảo cho người bị buộc tội biết mình bị truy tố, xét xử về tội gì,
gồm những hành vi nào để họ chủ động trong việc bào chữa nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của
mình.
Do vậy nếu cho phép Tòa á xét xử những bị cáo và hành vi mà VKS không truy tố hoặc
theo một tội nặng hơn thì bị cáo khó bào chữa được gây bất lợi cho bị cáo.
Câu 27. Nêu những thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm có
quyền sửa hướng tăng nặng hình phạt khi cho rằng bản án cấp sơ thẩm tuyên quá nhẹ
không?
* Khái niệm xét xử phúc thẩm:
Điều 230 BLTTHS quy định “xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”, nhằm khắc phục những sai lầm của Tòa án cấp
dưới, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
* Nhiệm vụ của xét xử phúc thẩm
Xem xét, đánh giá lại sự thật của vụ án, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật.
* Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm
Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không vi phạm quy định của BLHS, BLTTHS cùng
những văn bản pháp luật khác, kết luận phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, quyết định
của tòa án phù hợp với tính chất, mức độ của tội phạm thì tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản
án quyết định sơ thẩm.
b) Sửa bản án sơ thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm xác định tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các quy định không đúng pháp
luật thì có quyền sửa bản án theo hai hướng quy định tại Điều 249 BLTTHS như sau:
- Sửa theo hướng có lợi cho bị cáo quy định tại khoản 1 Điều 249 BLTTHS
+ Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
+ áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
+ Giảm hình phạt cho bị cáo;
+ Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
+ Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho
hưởng án treo.
Điều kiện sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo thì không bị giàng buộc bởi phạm vi và
hướng kháng cáo, kháng nghị kể cả trong trường hợp tất cả các kháng cáo, kháng nghị đều là
tăng nặng. Giảm nhẹ đối với cả những bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng
nghị.
- Sửa theo hướng có lợi cho bị cáo quy định tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS
Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa
án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn;
tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người
bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều
khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.

26
Điều kiện để sửa án không có lợi cho bị cáo được quy định rất chặt chẽ không chỉ về
hướng kháng nghị mà về cả chủ thể kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án
cấp phúc thẩm mới có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn, tăng mức
bồi thường thiệt hại.
c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại
Điều 250 BLTTHS quy định: Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi
nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được,
tức là dựa vào kết quả điều tra đó không có đủ cơ sở xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện như không lấy lời khai người có ý nghĩa quan trọng, không trưng cầu giám
định, không thu thập đầy đủ vật chứng có ý nghĩa quyết định…
d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Điều 251 BLTTHS quy định: khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm
2 Điều 107 của Bộ luật này thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo
không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6
và 7 Điều 107 của Bộ luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Câu 28. Hãy cho biết cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi làm oan
hoặc gây thiệt hại cho người khi thực hiện các hoạt động tố tụng được pháp luật quy định như
thế nào?
Quán triệt chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, trong đó
kiên quyết khắc phục các trường hợp oan sai trong hoạt động TTHS và bảo đảm quyền được
bồi thường thiệt hại do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra.
- Đối với người bị oan, Điều 29 BLTTHS 2003 quy định:
“Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi
hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.”
- Đối với việc gây thiệt hại trong các trường hợp khác được quy định tại Điều 30
BLTTHS 2003:
“Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi thường cho người bị thiệt
hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.”
- Hai nguyên tắc này có điểm giống nhau là:
+ Người bị oan hay người bị thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra đều có quyền được bồi
thường thiệt hại.
+ Trách nhiệm bồi thường là cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng và người đã
gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn lại cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.
- Điểm khác nhau giữa hai nguyên tắc như sau: Đối với người bị oan thì được quy định
tại Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước số 35/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội,
người bị oan có quyền được:
+ Được khôi phục danh dự, quy định tại Điều 51
“Điều 51. Khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự
1. Người bị thiệt hại quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 của Luật này hoặc người
đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự trong thời hạn 03 tháng, kể từ
ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật.
27
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản về việc khôi phục
danh dự của người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cơ quan có trách nhiệm bồi
thường đã thụ lý vụ việc phải thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai.
3. Việc xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
a) Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt
hại có sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú, đại diện
của cơ quan nơi người bị thiệt hại làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị - xã hội mà
người bị thiệt hại là thành viên;
b) Đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp theo
yêu cầu của người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ.
4. Trường hợp người bị thiệt hại chết, thân nhân của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh
dự.”
+ Được bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần, quy định tại Điều 47 của Luật
BTNN
“Điều 47. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
1. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh được xác định là hai ngày lương tối thiểu
cho một ngày bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh.
2. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành
hình phạt tù được xác định là ba ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp
hành hình phạt tù.
3. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết được xác
định là ba trăm sáu mươi tháng lương tối thiểu.
4. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm được xác
định căn cứ vào mức độ sức khoẻ bị tổn hại nhưng không quá ba mươi tháng lương tối thiểu.
5. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành
án mà không bị tạm giữ, tạm giam được xác định là một ngày lương tối thiểu cho một ngày bị
khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo. Thời
gian để tính bồi thường thiệt hại được xác định kể từ ngày có quyết định khởi tố bị can cho đến
ngày có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người đó thuộc trường hợp
được bồi thường quy định tại khoản 3 Điều 26 của Luật này.”
+ Được bồi thường thiệt hại về vật chất trong trường hợp bị tổn hại về sức khỏe, quy định
tại Điều 48, 49 Luật BTNN:
“Điều 48. Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết
1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết.
2. Chi phí cho việc mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
3. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Tiền cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Điều 49. Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ
1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất,
bị giảm sút của người bị thiệt hại.
2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại theo quy định tại Điều
46 của Luật này.

28
3. Chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị.
4. Trong trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường
xuyên chăm sóc thì thiệt hại được bồi thường bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng. Khoản cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.”
+ Được trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản bị xâm hại, quy
định tại Điều 45 và Điều 50 Luật BTNN
“Điều 45. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
1. Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị
trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao
mòn của tài sản đã bị phát mại, bị mất trên thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2. Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên quan theo
giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài sản
bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục thì thiệt hại được xác định theo quy định tại khoản 1
Điều này.
3. Trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản thì thiệt hại
được xác định là thu nhập thực tế bị mất. Đối với những tài sản trên thị trường có cho thuê, thu
nhập thực tế bị mất được xác định phù hợp với mức giá thuê của tài sản cùng loại hoặc tài sản
có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm giải quyết bồi
thường; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê, thu nhập thực tế bị mất được
xác định trên cơ sở thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước
thời điểm thiệt hại xảy ra; nếu tài sản bị kê biên được giao cho người bị thiệt hại hoặc người
khác quản lý thì chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản được xác
định là những thiệt hại được bồi thường.
4. Các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền
được hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ; trường hợp khoản tiền đó là khoản
vay có lãi thì phải hoàn trả cả khoản lãi hợp pháp; trường hợp khoản tiền đó không phải là
khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ cả khoản lãi theo
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm giải quyết bồi thường.
Điều 50. Trả lại tài sản
Tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu phải được trả lại ngay khi quyết định thu giữ,
tạm giữ, kê biên, tịch thu bị hủy bỏ.”
Câu 29. Trình bày mặt chủ quan của tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ phạm tội
và mục đích phạm tội
* Lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với
hậu quả của hành vi ấy gây ra cho xã hội thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Thái độ tâm lý của
chủ thể với hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải sau sự kiện thực hiện hành vi mà trong
quá trình thực hiện nó, đồng thời với quá trình thực hiện hành vi.
a) Lỗi cố ý: Điều 9 BLHS quy định về cố ý phạm tội như sau:
“Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;

29
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra.”
- Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nhận thức được hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
+ Xét về lý trí: người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nhận thức được tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi đó. Sự nhận thức này phụ thuộc vào những phẩm chất của chủ thể như kinh nghiệm sống,
học vấn, trí tuệ, hiểu biết pháp luật,… Sự nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi không có nghĩa phải nhận thức được tính trái pháp luật của hành vi. Một người biết hay
không biết tính trái pháp luật của hành vi không phải là điều kiện bắt buộc để xác định họ có lỗi
hay không có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
+ Xét về ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, mong
muốn hậu quả mà họ đã thấy trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra trên
thực tế. Ở đây, hậu quả xảy ra hoàn toàn phù hợp với mục đích, sự mong muốn của người phạm
tội.
- Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả
xảy ra.
+ Xét về lý trí: người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nhận thức được tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi đó.
+ Xét về ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội đã thấy trước không phù hợp với mục đích
của họ. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là nhằm mục đích khác và
chính vì để đạt được mục đích này mà người phạm tội đã chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi của mình có thể gây ra.
b) Lỗi vô ý
Điều 10 BLHS quy định về vô ý phạm tội như sau:
“Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”
- Lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin là lỗi của một người trong trường hợp thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy
ra hoặc có thể ngăn ngừa được, vì vậy đã thực hiện hành vi và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã
hội.
+ Xét về lý trí: người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể
gây ra. Người phạm tội có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra nhưng
đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra.
+ Xét về ý chí: người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội vì người phạm tội đã cân nhắc, tính toán và loại trừ khả năng hậu quả xảy ra
hoặc nếu có xảy ra thì có thể ngăn ngừa được. Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa vào những

30
căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật
của mình hoặc tin vào những tình tiết khách quan bên ngoài khác.
- Lỗi vô ý phạm tội do cẩu thả là lỗi của một người trong trường hợp gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội vì cẩu thả nên đã không thấy trước hậu quả đó mặc dù phải thấy trước hoặc có
thể thấy trước.
+ Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà
hành vi của mình đã gây ra: người phạm tội không nhận thức được mặt thực tế của hành vi của
mình và như vậy cũng có nghĩa không nhận thức được khả năng gây hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình (ví dụ người y tá phát nhầm thuốc); người phạm tội tuy nhận thức
được mặt thực tế của hành vi của mình nhưng lại hoàn toàn không nhận thức được khả năng
gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình.
+ Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Họ
với địa vị cụ thể và nghĩa vụ tuân thủ quy tắc thì phải thấy và có đủ điều kiện để có thể thấy
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. Nhưng người phạm tội đã không
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình chỉ vì cẩu thả, thiếu sự thận
trọng cần thiết khi xử sự.
c) Trường hợp hỗn hợp lỗi
- K/n: Là trường hợp trong CTTP có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với
những tình tiết khách quan khác nhau
- Trường hợp tồn tại đồng thời hai loại lỗi chỉ có thể xảy ra ở những cấu thành tội phạm
tăng nặng của những tội phạm cố ý mà tình tiết tăng nặng là những hậu quả nguy hiểm nhất
định cho xã hội và lỗi của người phạm tội đối với những hậu quả đó là lỗi vô ý.
d) Sự kiện bất ngờ (xem câu 8)
* Động cơ phạm tội
- K/n: là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.
- Trong luật hình sự VN, động cơ phạm tội nói chung không được phản ánh trong CTTP
cơ bản là dấu hiệu định tội. Trong một số ít trường hợp, động cơ được phản ánh là dấu hiệu
định tội như động cơ phòng vệ ở tội Giết người do vượt quá giới hạn PVCĐ. Động cơ phạm tội
có thể được phản ánh trong các CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung tăng
nặng hoặc giảm nhẹ (VD động cơ đê hèn là dấu hiệu định khung tăng nặng được phản ánh
trong CTTP tăng nặng của tội giết người). Ngoài ra, động cơ phạm tội còn có thể được xem là
những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt được quy định ở Điều
46 và 48 BLHS.
* Mục đích phạm tội
- K/n: là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực
hiện hành vi phạm tội.
- Mục đích được phản ánh trong CTTP ở những trường hợp sau:
+ TH dấu hiệu hậu quả chưa phản ánh được mục đích phạm tội chính của người phạm
tội. VD hành vi khủng bố tuy xâm phạm đến tính mạng con người nhưng đó chưa phải là mục
đích chính của người phạm tội mà để nhằm chống chính quyền nhân dân.
+ TH dấu hiệu hành vi khách quan không phản ánh được mục đích phạm tội. Đây là
trường hợp hành vi khách quan tuy giống nhau nhưng lại được thực hiện nhằm những mục đích
khác nhau. VD cùng là hành vi xuất cảnh trái phép nhưng có trường hợp nhằm chống chính
quyền nhân dân và có trường hợp không nhằm mục đích đó. Hai loại hành vi này tuy giống
nhau về hành vi khách quan nhưng lại khác nhau về mục đích, do vậy, tính chất nguy hiểm cho
xã hội cũng khác nhau và cấu thành hai tội khác nhau: tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân (Đ 91) và tội xuất cảnh trái phép (Đ 274)
Câu 30. Trình bày mặt chủ thể của tội phạm.
31
* K/n: chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực
hiện hành vi phạm tội cụ thể.
* Năng lực TNHS
a. K/n: Năng lực TNHS là khả năng của một người ở thời điểm thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và
điều khiển được hành vi đó.
- Luật hình sự VN không trực tiếp quy định thế nào là có năng lực TNHS mà quy định tình
trạng đối lập là không có năng lực TNHS.
b. Tình trạng không có năng lực TNHS
Khoản 1 Điều 13 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.”
- Tình trạng không có năng lực TNHS được xác định dựa trên hai dấu hiệu: dấu hiệu y
học và dấu hiệu tâm lý và cả hai dấu hiệu này đều thỏa mãn đồng thời.
+ dấu hiệu y học: người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người mắc bệnh
tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
+ dấu hiệu tâm lý: người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người đã mất năng
lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện,
là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không
nên làm.
c. Vấn đề năng lực TNHS trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh
khác
- Điều 14 BLHS quy định: “Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất
kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.”
- Người say vẫn bị coi là có năng lực TNHS (mặc dù thực tế năng lực nhận thức và năng
lực điều khiển của họ có thể bị hạn chế hoặc có thể loại trừ) chính vì họ có năng lực TNHS khi
đặt mình vào tình trạng say và như vậy cũng có nghĩa họ đã tự tước bỏ năng lực nhận thức và
năng lực điều khiển hành vi của mình, tự đặt mình vào tình trạng năng lực TNHS bị hạn chế
hoặc bị loại trừ. Họ là người có lỗi đối với tình trạng say của mình và do vậy cũng có lỗi đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong khi say.
*. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Điều 12 BLHS quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
- Như vậy, người chưa đạt độ tuổi bắt đầu có năng lực TNHS sẽ luôn luôn được coi là
không có lỗi vì họ chưa có năng lực TNHS. Năng lực TNHS chỉ được hình thành khi con người
đã đạt độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian nhất
định tiếp theo.
* Chủ thể đặc biệt của tội phạm
- K/n: chủ thể đặc biệt là chủ thể có ngoài hai dấu hiệu về năng lực TNHS và tuổi chịu
TNHS trong cấu thành tội phạm thì còn phải có thêm dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ có dấu hiệu
này thì chủ thể đặc biệt mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà CTTP đó phản ánh.
- Các đặc điểm của chủ thể đặc biệt:
+ Các đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn. VD tội tham ô, tội nhận hối lộ
+ Các đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc. VD tội vi phạm quy định
điều khiển tàu bay
32
+ Các đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện. VD tội trốn tránh nghĩa vụ quân
sự, tội không chấp hành án
+ Các đặc điểm về tuổi. VD tội giao cấu với trẻ em
+ Các đặc điểm về giới tính. VD tội hiếp dâm
+ Đặc điểm về quan hệ gia đình họ hàng. VD tội loạn luân, tội từ chối hoặc trốn tránh
nghĩa vụ cấp dưỡng
* Vấn đề nhân thân người phạm tội (xem câu 10)
Câu 31. Trình bày mặt khách thể của tội phạm.
* Khái niệm: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại.
* Các loại khách thể
Khách thể chung
- k/n: khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm
- Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng xâm hại đến khách thể chung của tội phạm, tức
là một trong số cá quan hệ xã hội được nhà nước xác định bảo vệ bằng luật hình sự. Điều 8
BLHS quy định khái niệm tội phạm đã nêu ra khách thể chung của tội phạm là độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Khách thể loại
- Khái niệm: khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được
nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm tội phạm.
- Khách thể loại của tội phạm là cơ sở để phân loại các tội phạm trong Phần các tội phạm
của luật hình sự thành các chương, các hành vi phạm tội cùng xâm hại đến một nhóm quan hệ
xã hội nhất định mà luật hình sự bảo vệ được hệ thống thành một chương
Khách thể trực tiếp
- Khái niệm: khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ
thể trực tiếp xâm hại
- Trong trường hợp nhiều quan hệ xã hội cùng bị gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
thì quan hệ xã hội được coi là khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội mà sự gây thiệt hại cho quan
hệ xã hội đó khi căn cứ vào tất cả các mặt như tính chất quan trọng của quan hệ xã hội, mức độ
bị gây thiệt hại, mục đích chủ quan của người phạm tội… thể hiện được đầy đủ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi.
* Đối tượng tác động của tội phạm
a. Khái niệm
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm
tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ.
b. Một số loại đối tượng tác động của tội phạm
- Con người có thể là đối tượng tác động của tội phạm
- Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng
tác động của tội phạm
- Hoạt động bình thường của chủ thể có thể là đối tượng tác động của tội phạm

II. LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

33
Câu 1. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì thực hành quyền công tố
trong xét xử vụ án hình sự là hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự ở giai đoạn xét xử để thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người phạm tội nhằm đảm bảo việc xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát
nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn
+ Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân
phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 kiểm sát hoạt động tư pháp
trong xét xử vụ án hình sự là hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp trong xét xử hình sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự trong giai đoạn
xét xử được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của
pháp luật
+ Cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi,
quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp
luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;
Theo quy định tại Điều 6 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là một trong số các công tác của Viện kiểm sát nhân dân để
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố Viện kiểm sát nhân dân còn Kiểm sát việc xét xử
vụ án hình sự là một công tác của Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp
Theo quy định tại Điều 18 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKS có những Nhiệm vụ,
quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự:
- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc
buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.
- Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội
phạm, người phạm tội.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.
Theo quy định tại Điều 19 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKS có những Nhiệm vụ,
quyền hạn khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án.
- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
- Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.

34
- Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định
việc kháng nghị.
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
- Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử
vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Câu 2 đến câu 4
Câu 5. Trình bày chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam
Theo quy định tại Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù là thực hiện chức năng Kiểm sát
hoạt động của VKSND và là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù, nhằm bảo đảm:
+ Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật;
+ Quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ;
+ Mọi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm
minh.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
Theo quy định tại Điều 22 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm
quyền trong việc tạm giữ, tạm giam.
2. Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
a) Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về
việc tạm giữ, tạm giam;
b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;
c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam
và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc
tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc
việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam;
d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp
luật;
đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm
giam đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm
giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;
e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có
dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật;
g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 23 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định việc viải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam
1. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm
giữ, tạm giam.

35
2. Cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam phải chuyển cho Viện
kiểm sát nhân dân khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giữ, tạm giam trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi nhận được khiếu nại, tố cáo.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương
giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của
cơ quan, người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình.
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với việc giải
quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới; quyết định giải quyết khiếu nại của
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật.
4. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm
pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát
của mình.
Trường hợp hết thời hạn pháp luật quy định mà tố cáo không được giải quyết thì Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết tố cáo; kết luận nội dung tố cáo của
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên là kết luận cuối cùng.
Theo quy định tại Điều 24 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định Trách nhiệm thực
hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tạm giữ,
tạm giam
1. Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị, quyết định sau đây của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tạm giữ, tạm giam:
a) Yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam phải được thực
hiện ngay; yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, yêu cầu trả lời về quyết định, biện
pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện trong thời
hạn 15 ngày; yêu cầu tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm
sát nhân dân được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu;
b) Quyết định quy định tại điểm d khoản 2 Điều 22 của Luật này phải được thi hành ngay;
nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên Viện
kiểm sát cấp trên có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên phải giải quyết;
c) Kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 22 của Luật này phải được giải quyết
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị thì
có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền; Viện kiểm sát cấp trên phải giải
quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định của Viện kiểm sát
cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với kiến nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 22 của Luật này, cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết, trả lời theo quy định của pháp luật về tạm giữ,
tạm giam
Câu 6. Trình bày chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi kiểm sát thi
hành án hình sự theo quy định của Luật tổ chức VKSND
Theo quy định tại Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù là thực hiện chức năng Kiểm sát
hoạt động của VKSND và là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù, nhằm bảo đảm:
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
36
Theo quy định tại Điều 25 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc thi hành án hình sự
- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án
hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự.
- Khi kiểm sát thi hành án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
+ Yêu cầu Tòa án ra quyết định thi hành án hình sự; yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án
hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự tự kiểm tra việc thi
hành án hình sự và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có
liên quan đến việc thi hành án hình sự;
+ Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành án hình sự. Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt
tù của trại giam đóng tại địa phương;
+ Quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái
pháp luật;
+ Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn
thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách;
+ Kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền
trong việc thi hành án hình sự;
+ Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật
trong thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm;
+ Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có
dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình sự theo quy định
của pháp luật về thi hành án hình sự.
Theo quy định tại Điều 26 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Trách
nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc thi hành án hình sự
- Đối với yêu cầu ra quyết định thi hành án hình sự đúng quy định của pháp luật, yêu cầu
cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân
được yêu cầu phải thực hiện ngay.
- Đối với yêu cầu tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho Viện kiểm
sát nhân dân thì Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm
vụ thi hành án hình sự phải thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
- Đối với kiến nghị, kháng nghị, quyết định, yêu cầu khác của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc thi hành án hình sự thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, giải
quyết, trả lời hoặc thi hành theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Câu 7. Trình bày nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật theo Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014
* Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật của Viện
kiểm sát nhân dân là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật.
37
* Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật là một trong
những công tác để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được quy
định tại Điểm e Khoản 2 Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
* Hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật của
Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; các hoạt động tư pháp khác được thực
hiện đúng quy định của pháp luật;
* Theo Điều 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
- Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc.
- Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định.
- Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc
giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật.
- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
- Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
- Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị,
yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật.
* Việc kháng nghị, kiến nghị sẽ theo quy định tại Điều 5 Luật tổ chức VKSND và Bộ luật
tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính và các hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền)
Câu 8. Trình bày chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi kiểm sát thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính theo quy định của Luật tổ chức VKSND
Trình bày theo kết cấu của câu 6
Câu 9. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên? Những việc KSV không được làm?
Trong những trường hợp vi phạm nào KSV có thể bị cách chức chức danh KSV?
* Khái niệm Kiểm sát viên
Điều 75 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp.
Nhiệm kỳ của KSV theo Điều 82 luật tổ chức VKS năm 2014 là Kiểm sát viên được bổ
nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời
hạn là 10 năm.
Tiêu chuẩn chung để được bổ nhiệm KSV được quy định tại Điều 75 Luật tổ chức VKS
năm 2014 gồm:
- Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng,
có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Có trình độ cử nhân luật trở lên.
- Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát.
38
- Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này.
- Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao
* Nhiệm vụ, quyền hạn của KSV
Nhiệm vụ quyền hạn của KSV được quy định tại Điều 83 Luật tổ chức VKSND năm 2014,
theo đó KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp
luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
- Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi,
quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát
hoạt động tư pháp.
- Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Khi
có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ
được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng
vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không
phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về quyết định của mình.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với
vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút, đình chỉ
hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp do luật định.
- Trong vụ việc có nhiều Kiểm sát viên tham gia giải quyết thì Kiểm sát viên ở ngạch thấp
hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết luận, yêu cầu, kiến
nghị theo quy định của pháp luật
* Những việc KSV không được làm
Điều 84 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Kiểm sát viên không được làm những
việc sau đây:
- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm.
- Tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng
khác làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không đúng quy định của pháp luật.
- Can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động
đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án, vụ việc.
- Đưa hồ sơ, tài liệu của vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan nếu không vì nhiệm vụ được giao
hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền.
- Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc mà
mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
* Trường hợp KSV có thể bị cách chức chức danh KSV
Điêu 89 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định các trường hợp KSV có thể bị cách
chức
- Kiểm sát viên đương nhiên bị cách chức chức danh Kiểm sát viên khi bị kết tội bằng bản
án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Kiểm sát viên có thể bị cách chức chức danh Kiểm
sát viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Vi phạm trong khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
+ Vi phạm quy định tại Điều 84 của Luật này;
+ Vi phạm về phẩm chất đạo đức;
39
+ Có hành vi vi phạm pháp luật khác
Ngoài ra trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật
tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính… còn quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn của
Kiểm sát viên thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật.)
Câu 10. Kiểm sát viên? Tiêu chuẩn Kiểm sát viên các cấp?Chế độ đối với Kiểm sát
viên theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
Đối chiếu với căn cứ pháp luật trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 để trình bày theo
kết cấu này)
Câu 11. Trình bày chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân và
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Trình bày Điều 2, K1 Điều 3, K1 Điều 4, Điều 41
Câu 12. Trình bày các công tác của Viện kiểm sát nhân dân, việc thực hiện chức
năng của VKS nhằm đảm bảo những yêu cầu gì?
Trình bày Điều 3, 4, 6 (lưu ý có thể chỉ hỏi một phần)

III. TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ LUẬT DÂN SỰ

Câu 1. Phân tích thời hiệu và các loại thời hiệu (có so sánh quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015)?
BLDS 2005 BLDS 2015
Điều 154. Thời hiệu Điều 149. Thời hiệu
Thời hiệu là thời hạn do pháp luật 1. thời hiệu là thời hạn do luật quy
quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát
chủ thể được hưởng quyền dân sự được sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể
miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất theo điều kiện do luật quy định. Thời
quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền hiệu được áp dụng theo quy định cảu Bộ
yêu cầu giải quyết việc dân sự luật này, luật khác có liên quan.
Điều 155. Các loại thời hiệu 2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về
1. thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu
thời hạn mà kết thúc thời hạn đó thì chủ của một bên hoặc các bên với điều kiện
thể được hưởng quyền dân sự. yêu cầu này phải được đưa ra trước khi
2. thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết
sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn định giải quyết vụ, việc
đó thì người có nghĩa vụ dân sự được Người được hưởng lợi từ việc áp
miễn việc thực hiện nghĩa vụ. dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng
3. thời hiệu khởi kiện là thời hạn thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó
mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu nhằm mục đích trốn tránh thực hiện
cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo nghĩa vụ.
vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm Câu 150. Các loại thời hiệu
phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất 1. thời hiệu hưởng quyền dân sự là
quyền khởi kiện. thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì
4. thời hiệu yêu cầu giải quyết việc chủ thể được hưởng quyền dân sự.
dân sự là thời hạn mà chủ thể được 2. thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn
dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp đó thì người có nghĩa vụ dân sự được
40
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi miễn việc thực hiện nghĩa vụ.
ích công cộng, lợi ích nhà nước, nếu 3. thời hiệu khởi kiện là thời hạn
thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu
cầu. cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất
quyền khởi kiện.
4. thời hiệu yêu cầu giải quyết việc
dân sự là thời hạn mà chủ thể được
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc
dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi
ích công cộng, lợi ích nhà nước, nếu
thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu
cầu.
Theo quy định như trên , ta có thể hiểu thời hiệu bao gồm: thời hiệu hưởng quyền, thời
hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, thời hiệu trách nhiệm dân sự. Khi hết thời hạn đó thì phát sinh
hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Điều 152. Hiệu lực của thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự
Trường hợp pháp luật quy định cho các chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc miễn trừ
nghĩa vụ dân sự theo thời hiệu thì chỉ sau khi thời hiệu đó kết thúc, việc hưởng quyền dân sự
hoặc miễn trừ nghĩa vụ dân sự mới có hiệu lực.
Điều 153. Tính liên tục của thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự
1. thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự có tính liên tục từ khi bắt đầu
cho đến khi kết thúc nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu phải được tính lại từ đầu, sau
khi sự kiện làm gián đoạn kết thúc.
2. Thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự bị gián đoạn khi có một trong
các sự kiện sau đây:
a) Có sự giải quyết bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu;
b) Quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ
liên quan tranh chấp và đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án.
3. Thời hiệu cũng được tính liên tục trong trường hợp việc hưởng quyền dân sự, miễn trừ
nghĩa vụ dân sự được chuyển giao hợp pháp cho người khác.
Điều 154. Bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân
sự
1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc
phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
2. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Điều 155. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
41
4. Trường hợp khác do luật quy định.
Điều 156. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu
giải quyết việc dân sự
Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết
việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện,
quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được
và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người
có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;
2. Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu
cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện
khác thay thế trong trường hợp sau đây:
a) Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; b) Người đại
diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Điều 157. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người
khởi kiện;
b) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với
người khởi kiện;
c) Các bên đã tự hòa giải với nhau.
2. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự
kiện quy định tại khoản 1 Điều này.
Ví dụ: Đ 623 BLDS 2015 quy định về thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30
năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Câu 2. Chiếm hữu? Xác định các trường hợp chiếm hữu thuộc về người không phải là chủ
sở hữu? Vận dụng để giải quyết một vụ việc cụ thể?
Điều 179. Khái niệm chiếm hữu
1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
như chủ thể có quyền đối với tài sản.
2. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là
chủ sở hữu.
Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở
hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 bộ luật này.
Điều 187. Quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản
1. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó
trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với
tài sản được giao theo quy định tại Điều 236 Bộ luật này.
Điều 188. Quyền chiếm hữu của người được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự

42
1. Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung
không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc
chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch.
2. Người được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản được giao, được chuyển quyền chiếm
hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý.
3. Người được giao tài sản không thể ở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo
quy định tại Điều 236 của bộ luật này.
Ví dụ: bạn được A cho mượn một tài sản đó là xe máy để bạn đi làm. Trong trường hợp
này bạn chỉ có quyền chiếm hữu chiếc xe và sử dụng chiếc xe vào mục đích đi lại. Tuy nhiên,
bạn không thể có quyền định đoạt chiếc xe hay nói cách khác bạn không có quyền bán, chuyển
nhượng chiếc xe. Vì trong trường hợp này, quyền sở hữu chiếc xe thuộc về A, chỉ A mới có
quyền định đoạt chiếc xe. Vì A cho bạn mượn nên trong trường hợp này bạn sẽ có quyền chiếm
hữu và sử dụng chiếc xe. Như vậy, có thể thấy rằng trong trường hợp này bạn có quyền chiếm
hữu nhưng bạn lại không có quyền sở hữu chiếc xe trên.
Câu 3. Anh/ chị hãy phân tích quyền của người lập, di chúc theo quy định của BLDS
2015?
Điều 626. Quyền của người lập di chúc. Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Điều 624. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác khi chết.
Thứ nhất, quyền chỉ định người thừa kế. Pháp luật Việt Nam cho phép người lập di chức
có quyền chỉ định người thừa kế là bất kỳ người nào, kể cả cơ quan tổ chức làm người thừa kế
để hưởng di sản theo di chúc của mình trên cơ sở tự nguyện của người lập di chúc.
Thứ hai, quyền truất quyền hưởng di sản. Người lập di chúc có quyền phế truất quyền
hưởng di sản của một người thừa kế nào đó (nếu muốn). Mặt khác, để bảo vệ quyền lợi chính
đáng và thiết yếu của một số người thừa kế theo pháp luật, BLDS đã hạn chế việc truất quyền
của người lập di chúc trong một số trường hợp.
Thứ ba, quyền phân định di sản cho từng người thừa kế. Người lập di chúc có quyền phân
chia một cách cụ thể cho người thừa kế nào hưởng phần di sản là bao nhiêu hoặc hưởng di sản
là vật gì, việc phân chia di sản theo di chúc được tiến hành cho phù hợp với ý nguyện người để
lại di sản.
Thứ tư, quyền giao nghĩa vụ cho từng người thừa kế, theo sự chỉ định trong di chúc, người
thừa kế phải thực hiện một công việc vì lợi ích vật chất của người khác mà đáng nhẽ khi còn
sống người để lại di sản phải thực hiện như việc trả nợ, bồi thường thiệt hai.. tuy nhiên, người
thừa kế không phải thực hiện những nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân của người để lại
di sản.
Thứ năm, quyền giành một phần di sản để đi tặng. Người lập di chúc có quyền tặng cho
người khác tài sản của mình mà không cần thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lơi
chính đáng cho các chủ nợ của người chết, pháp luật nước ta quy định: “trường hợp toàn bộ di
sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ của người lập di chúc thì phần đi tặng cũng được dùng để
thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
Thứ sáu, quyền để lại di sản vào việc thờ cúng. Người lập di chúc có quyền giành một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng và cũng không cần quy định cụ thể phần đó là tỷ lệ bao
nhiêu so với giá trị khối tài sản.
43
Thứ bảy, quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc. Nếu người lập di chúc có sự thay đổi ý
chí thì việc định đoạt trong di chúc sẽ bị thay đổi. Sự thay đổi đó xảy ra khi người lập di chúc
thực hiện việc sửa đổi, hủy bỏ di chúc hoặc bổ sung di chúc và di chúc đã lập mâu thuẫn với
phần bổ sung.
Thứ tám, quyền thay thế di chúc. Người lập di chúc có quyền thay thế di chúc đã lập. Khi
người lập di chúc đã thay thế di chúc thì những di chúc trước đã hoàn toàn không còn hiệu lực
pháp luật.
Thứ chín, quyền chỉ định người giữ di chúc, giữ di sản, phần chia di sản. Để đảm bảo ý
nguyện của mình không bị người khác xâm hại, để tránh việc thất lạc, hư hỏng di chúc, người
lập di chúc có thể gửi lại di chúc ở công chứng nhà nước hoặc gửi bất kỳ người nào mình tin
tưởng giữ di chúc, giữ di sản và phần chia di sản.
Câu 4. Có ý kiến cho rằng Bộ luật dân sự năm 2015 đã đổi mới cách tiếp cận về đăng
ký biện pháp bảo đảm từ đăng ký là nghĩ vụ của công dân sang đăng ký là quyền của công
dân. Bằng các quy định về đăng ký biện pháp bảo đảm trong BLDS 2015 hãy bình luận ý
kiến trên.
Điều 298. Đăng ký biện pháp bảo đảm
1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.
Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có
quy định.
2. Trưởng hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký
bảo đảm.
Tại điều 292 BLDS năm 2015 quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ lần lượt
bao gồm; cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, ký cược tài sản, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo
lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. Như vậy, so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã bổ sung thêm 02
biện pháp bảo đảm là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản.
Đặc biệt, BLDS 2015 đã có cách tiếp cận mới về đăng ký biện pháp bảo đảm, tạo tiền đề
và nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký biện pháp và đổi mới
hệ thống đăng ký. Theo đó, đổi mới từ đăng ký là “nghĩa vụ” của công dân sang đăng ký là
“quyền” của công dân trong xã hội hiện đại. Các biện pháp bảo đảm phải đăng ký là trường hợp
đã được một số luật quy định cụ thể gồm thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp rừng sản xuất là
rừng trồng, cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay, thế chấp tàu biển. Ngoài ra, sẽ quy định trường
hợp biện pháp bảo đảm đăng ký theo yêu cầu là thế chấp động sản trừ tàu bay, tàu biển, thế
chấp tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai: đặt cọc, ký
cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu.
Về xác định thời điểm đăng ký, dự kiến sửa đổi phù hợp với các luật liên quan theo hướng
xác định thời điểm ghi vào sổ đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc số có nội dung về đăng ký biện
pháp bảo đảm hoặc cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó, quy định thời điểm đăng ký được tính theo đơn
vị thời gian nào, có căn cứ vào loại tài sản không cũng như thời điểm đăng ký thay đổi do bổ
sung tàu sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản sản gắn liền với đất quốc tế...
Các biện pháp bảo đảm mới được bổ sung trong BLDS 2015 có được đăng ký hay không,
các biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba có cần thiết phải đăng ký
hay không? Hay trong trường hợp nên nhận bảo đảm vẫn có nhu cầu đăng ký, có thực hiện
đăng ký hay không? Trường hợp đăng ký thì thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba sẽ được xác định là thời điểm nào?
Câu 5. Dựa vào quy định tại Điều 420 BLDS 2015, hãy phân tích điều kiện và nội
dung thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Ví dụ?
44
Điều 420. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a, Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng.
b, Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi
hoàn cảnh;
c, Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được
giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d, Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi về nội dung hợp đồng sẽ gây
thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
đ, Bên có lơi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp càn thiết trong khả năng cho
phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh
hưởng đến lợi ích.
2. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu
cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
3. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong thời hạn
hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
a, Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;
b, Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay
đổi cơ bản.
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp
đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
4. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các
bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
Việc BLDS 2015 quy định về việc thực hiện hợp đồng khi thay đổi hoàn cảnh cơ bản là
hoàn toàn hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Vì việc cho phép Tòa án điều chỉnh
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi không vi phạm nguyên tắc tự do ý chí, tự do định đoạt của các
chủ thể quan hệ hợp đồng mà đó là sự cụ thể hóa nguyên tắc về tính có giới hạn của việc thực
hiện quyền dân sự quy định tại Điều 10 BLDS 2015. Theo yêu cầu của nguyên tắc này thì việc
đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên trong hợp đồng, sự ổn định của các quan hệ dân sự,
thương mại có liên quan cần cho phép Tòa án có thể điều chỉnh hợp đồng theo các điều kiện
chặt chẽ được quy định trong BLDS. Bên cạnh đó, việc cho phép Tòa án điều chỉnh hợp đồng
sẽ thúc đẩy các hợp đồng được thực hiện trong thực tiễn đẩy mạnh giao lưu dân sự.
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi là trường hợp xuất hiện những sự kiện không
lường trước được, không làm cho hợp đồng không thể thực hiện được nhưng khi thực hiện thì
bên phải thực hiễn sẽ tốn kém hơn rất nhiều so với dự tính hay bên nhận thực có được giá trị
thấp hơn rất nhiều so với dự tính. ở đây, khác với xuất hiện sự kiện bất khả kháng làm cho hợp
đồng không thực hiện được, hoàn cảnh trong cơ chế mà chúng ta đang nghiên cứu không
nghiêm trọng tới mức đó nhưng nếu thực hiện thì một bên bị thiệt thòi so với bên còn lại; hợp
đồng vẫn có thể thực hiện nhưng bất công bằng xuất hiện với một bên và có lợi cho bên còn lại.
Ví dụ: Năm 1992, ông Thiết và bà Lới đăng ký mua một ki ốt của ông Sơn và bà Thìn với
giá 7,8 triệu đồng và bên mua đã thanh toán được 4,8 triệu đồng (tức còn thiếu 3 triệu đồng) và
nhận ki ốt, sau đó các bên có tranh chấp và năm 2006 (14 năm sau) Tòa án xác định thỏa thuận
mua bán trên là hợp pháp, các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện.
Bất công bằng khi áp dụng đúng hợp đồng. Với hướng thực hiện đúng hợp đồng như đã
cam kết, chúng ta sẽ thấy bất công bằng giữa các bên.
Nếu trong vụ việc trên, chúng ta thấy có bất công bằng cho bên bán: nếu áp dụng đúng
hợp đồng thì bên mua chỉ phải trả 3 triệu đồng như đã nêu trong thỏa thuận nhưng giá trị 3 triệu
45
đồng được thỏa thuận năm 1992 không còn cùng ý nghĩa ở năm 2006. Vì vậy, khi không cho
điều chỉnh lại hợp đồng, bên bán chỉ được nhận tiếp 3 triệu đồng với giá trị rất thấp, cho thấy sự
bất công bằng cho bên bán.
Loại bỏ bất công bằng: nếu chúng ta cho phép thự hiện điều chỉnh lại hợp đồng, chúng ta
có kết quả bên bán không nhận 3 triệu đồng nữa và chúng ta sẽ xem xét giá trị của 3 triệu đồng
được thỏa thuận năm 1992 là bao nhiêu và quy đổi lại ở năm 2006. Với hướng này, bên bán sẽ
không nhận 3 triệu đồng mà sẽ nhận khoản tiền cao hơn vì giá cả nói chung cũng như giá trị ki
ốt không còn 7,8 triệu nữa mà cao hơn rất nhiều sau 14 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập.
Phù hợp với nguyên tắc thiện chí: thực ra, đối với trường hợp chưa có văn bản nào cho
phép điều chỉnh lại hợp đồng, tòa án trong thực tế cũng đã tự tiến hành điều chỉnh lại hợp đồng
khi các bên có tranh chấp.
Chẳng hạn, trong vụ việc trên, HĐXX có thể giải quyết theo hướng “số tiền còn thiếu, bên
mua là ông Thiết, bà Lới phải thanh toán cho bên bán là ông Sơn, bà Thìn theo thời giá (ki ốt
phải được định giá để ông Thiết, bà Lới thanh toán theo giá mới phần chưa thanh toán theo tỷ lệ
tương ứng).
ở đây, Tòa án giải quyết theo hướng phải định giá lại ki ốt có tranh chấp và bên mua phải
thanh toán phần chưa thanh toán theo tỷ lệ tương ứng. Ví dụ, nếu giá trị tài sản có tranh chấp
được định giá lại về giá 78 triệu đồng thì bên mua phải trả cho bên bán là 3/7,8x78= 30 triệu
đồng.
Câu 6. Anh/chị hãy phân tích các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng và nêu các trường hợp gây thiệt hại không bị xác định là trái pháp
luật? Cho ví dụ.
Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp
thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Trừ
trường hợp có thỏa thuận khác, hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 điều
này.
Thứ nhất, phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu
chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn
chặn, khắc phục thiệt, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm hại.
+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần, BLDS quy định; Tòa án có thể buộc người xâm hại
bồi thường khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích,
gần gũi của nạn nhân.
- Thứ hai, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: hành vi trái pháp luật là những xử
sự của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định
định của pháp luật. Có thể là hành vi vi pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả hành vi vi

46
phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng
cộng đồng dân cư..
- Thứ ba, có lỗi của người gây thiệt hại: Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự
khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được
thể hiện dưới dạng vô ý hay cố ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mính sẽ gây thiệt hại
cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng để mặc cho
thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể
ngăn chặn được.
- Thứ tư, có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra
và hành vi trái pháp luật phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Thiệt hại xảy ra phải là kết
quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân
gây ra thiệt hại.
Câu 7. Trong TTDS, những người nào có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời? Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
không cần phải có yêu cầu của những người có quyền yêu cầu hay không?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 111 BLTTDS năm 2015, trong quá trình giải quyết vụ án,
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ
án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời, quy định tại Điều 114 Bộ luật này để tạm
thời giảm quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập
chứng cứ, bảo vệ chứng, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án, thi hành án.
Tại Điều 135 BLTTDS cũng có quy định Tòa án có quyền tự mình ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, theo quy định này Tòa án chỉ được tự mình ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:
- Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục.
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
- Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo đảm y tế, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi
thường hoặc trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
- Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định
sa thải người lao động.`
Câu 8. Viện kiểm sát thu thập chứng cứ trong các trường hợp nào? Các biện pháp
thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát?
Viện kiểm sát thu thập chứng cứ trong các trường hợp (Quy định tại Khoản 6 Điều 97
BLTTDS): để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm:
- Các biện pháp thu thập chứng cứ của VKS:
+ Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng
+ Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng
47
+ Trưng cầu giám định
+ Định giá tài sản:
+ Xem xét thẩm định tại chỗ;
+ Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn đưuọc
hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;
+ Xác minh sự có mặt, vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
+ Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.

48

You might also like