You are on page 1of 3

1.

khái niệm và nhiệm vụ luật tố tụng hình sự


Luật tố tụng hình sự có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những cách thức dùng để tác động
đến các quan hệ tố tụng hình sự, có hai phương pháp: phương pháp quyền uy,
phương pháp phối hợp và chế ước. Phương pháp quyền uy điều chỉnh quan hệ giữa
cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng, trong đó cơ quan tiến
hành tố tụng có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng còn những người tham gia tố
tụng có nghĩa vụ chấp hành theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Phương pháp
phối hợp và chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án, trong đó các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp với nhau để giải quyết vụ án
đồng thời cũng chế ước nhau, bảo đảm sao cho mỗi cơ quan đều thực hiện đúng chức
năng của mình, tránh sự lạm quyền, vị phạm pháp luật.
Luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và
xử lí kịp thời, công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn
trọng quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.

2. Các giai đoạn của tố tụng hình sự

Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
(khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự). Tố tụng hình sự bao gồm toàn
bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án);
người tiến hành tố tụng (thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên, cán
bộ điều tra; viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, kiểm tra viên;
chánh ấn, phó chánh án toà án, thẩm phán, hội thẩm và thư kí toà án, kiểm tra viên); cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (các cơ quan của bộ đội
biên phòng, các cơ quan của hải quan, các cơ quan của kiểm lâm, các cơ quan của lực
lượng cảnh sát biển, các cơ quan của kiểm ngư, các cơ quan của công an nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan khác trong quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra); người được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; người tham gia tố tụng (người tố
giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người chứng
kiến, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của BLTTHS),
của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định
của luật tố tụng hình sự.
Như đã phân tích ở trên, quá trình giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau. Mỗi giai đoạn thực hiện nhiệm vụ nhất định của tố tụng hình sự. Giai đoạn tố tụng
hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về phạm
vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Theo chúng tôi, Luật tố tụng hình sự Việt
Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn sau (Có nhiều quan điểm khác nhau về
sự phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự. Ví dụ: Có quan điểm cho rằng khởi tố và
điều tra là một giai đoạn. Trong giáo trình này, căn cứ vào tinh thần của các quy định
trong BLTTHS, tố tụng hình sự được chia làm 7 giai đoạn.):
- Khởi tố vụ án hình sự: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền
xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự; quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khác theo quy định
của pháp luật.
- Điều tra vụ án hình sự: Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp theo quy định của pháp luật, tiến hành thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng
cứ làm rõ đối tượng chứng minh để ra kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ
điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều tra và các quyết định khác theo quy định của pháp
luật.
- Truy tố: Trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết để
truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác
để giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, toà án
cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) tiến hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản
án hoặc các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn này, toà án cấp trên trực tiếp (cấp xét
xử thứ hai) của tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của pháp luật (cũng có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm là một giai đoạn).
- Thi hành án hình sự: Trong giai đoạn này, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan, tổ
chức có nhiệm vụ thi hành án tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện bản án và quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật (Hiện nay, có quan điểm cho rằng thi hành án
không phải là một giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng trong BLTTHS năm 2015 vẫn
quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn
xem thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hình sự).
- Giai đoạn đặc biệt: Đây là giai đoạn xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu
lực pháp luật. Trong giai đoạn này, toà án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết
vụ án (giám đốc thẩm - Xem: Điều 370 BLTTHS năm 2015) hoặc có những tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án
không biết được khi ra bản án, quyết định đó (tái thẩm - Xem: Điều 397 BLTTHS năm
2015). Ngoài thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn này còn có thủ tục xem xét lại
quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Xem: Chương 27
BLTTHS năm 2015).

Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ
khăng khít với nhau và tạo thành hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề của
giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Ket thúc một giai đoạn phải có kết
luận dưới hình thức văn bản tố tụng để giải quyết vụ án.

You might also like