You are on page 1of 21

SỰ BIỆT HÓA CỦA 3 LÁ PHÔI THAI VÀ HÌNH DẠNG CỦA PHÔI 2 THÁNG

(phát triển phôi người trong tuần thứ 4 đến tuần thứ 8)

- Sự tạo mầm các cơ quan từ tuần 4 gọi là thời kỳ phôi. Cuối thời kỳ:
+ cơ quan chính đặt vào vị trí nhất định
+ mầm cơ quan phát sinh từ lá phôi
 Để đi tìm hiểu về sự biệt hóa lá phôi nhằm thấy rõ nguồn gốc
của mô, cơ quan cũng như sự biến đổi của phôi, chúng em xin
mời cô và các bạn tìm hiểu bài học hôm nay

I. Biệt hóa của ngoại bì phôi:


- Đầu tuần 3, ngoại bì:
+ Là một tấm biểu mô dẹt
+ Rộng ở đầu, hẹp đuôi
+ Phủ kín lưng nội bì
+ Bờ ngoại bì tiếp nối với ngoại bì màng ối
- Khi mới được tạo ra, dây sống gây ra sự cảm ứng phần ngoại bì nằm
ngay trên mặt lưng của nó, khiến phần ngoại bì đó dày lên thành một
tấm biểu mô dài, rộng đầu và hẹp đuôi phôi, được gọi là tấm thần kinh,
là nguồn gốc toàn bộ hệ thần kinh
- Phần ngoại bì còn lại (không tam gia vào sự tạo tầm thần kinh) sẽ được
biệt hóa thành ngoại bì da + bộ phận phụ
- Cuốituần 3:
+ tấm thần kinh lõm xuống theo đường giữa  máng thần kinh
+ Tế bào từ bờ máng di cư sang 2 bên và tách rời cái máng -> 2 dải tế
bào gọi là mào thần kinh
- 2 bờ tiến gần + khéplại  ống thần kinh, giai đoạn này phôi được gọi
là phôi thần kinh. Sự khép lại này bắt đầu ở vùng tương ứng với vùng cổ
tương lai (ngang khúc đôi nguyên thủy thứ 4) lan theo cả 2 hướng đầu &
đuôi phôi
+ Đầu & đuôi phôi: sót lại 2 lỗ thông với khoang ối:
ở đầu phôi
Lỗ thần kinh trước
bịt kín ngày thứ 25
ở đuôi phôi
Lỗ thần kinh sau
bịt kín vào ngày 27
– Tấm thần kinh:

(Do tấm thần kinh rộng ở phía đầu , hẹp ở phía đuôi nên khi máng thần
kinh khép lại)
+ Phía đuôi (hình thành) ống tuỷ (nguồn gốc của tuỷ sống)
+ Phía đầu  (hình thành)3 túi não (não trước, não giữa và não sau)
(theo hướng đầu đuôi).
+ Về sau , não trước và não sau phân đôi tạo thành 5 túi não : não
đỉnh , não trung gian , não giữa , não dưới , não cuối . (Các túi não sẽ tạo
ra bộ não )
- Vào khoảng thời gian ống thần kinh khép lại: Sàn não trước lồi sang 2
bên tạo thành 2 túi thị giác (nguồn gốc của võng mạc).
- Ở vùng đầu phôi: (mỗi bên của ống thần kinh có 3 nơi ngoại bì dày
lên tạo thành những tấm biểu mô ngoại bì)
+Tấm khứu giác  biểu mô khứu giác
+Tấm thị giác  nhân mắt
+Tấm thính giác sau  tai trong .
- Khi ống thần kinh khép lại và tách rời ngoại bì da (ngăn cách với ngoại
bì da bởi trung mô) Các mào thần kinh tạm thời sát nhập với nhau ở
đường giữa  Tách nhau ra nằm ở 2 bên ống thần kinh.
+ Mào thần kinh là nguồn gốc của hạch thần kinh não tủy và thực vật ,
của các phó hạch và tuyến thượng thận
- Vậy ngoại bì là nguồn gốc của :
+Toàn bộ hệ thần kinh .
+Biểu mô cảm giác của các giác quan .
+Tuyến thượng thận tùy , phần thần kinh của tuyến yên .
+Biểu bì da và các bộ phận phụ của da .
+Men răng .
+Biểu mô phủ các đoạn tận cùng của ống tiêu hóa , tiết niệu , sinh dục .
+Biểu mô phủ đoạn trước khoang miệng , khoang mũi , các xoang , các
tuyến phụ thuộc vào biểu mô ấy .

CÂU HỎI
1. Phôi thai 4 tuần có cấu tạo gồm mấy lớp? là những lớp nào?
Trả lời: Trong tuần thứ 4, phôi thai có cấu tạo gồm 3 lớp: ngoại bì, trung
bì và nội bì.
2. Tầng ngoại bì sẽ phát triển thành?
A. hệ thần kinh, biểu mô cảm giác của các giác quan,tuyến thượng thân
tủy, phần thầnkinh của tuyến yên,biểu bì da và các bộ phận phụ của da.
B. Biểu mô phủ bàng quang, gan, tụy.
C. Biểu mô lợp đường hô hấp, biểu mô tuyến giáp, tuyến cận giáp.
D. Biểu mô phủ tai giữa, các xoang mặt, màng nhĩ.
( đáp án A)

3, Trung bì là nguồn gốc của ?


A. Mô liên kết chính thức mô sụn , mô xương, các mô cơ, cơ quan tạo
huyết và các huyết cầu
B. hệ thần kinh, biểu mô cảm giác của các giác quan,tuyến thượng thân
tủy, phần thần kinh của tuyến yên,biểu bì da và các bộ phận phụ của da
C. Men răng
D. Biểu mô phủ đoạn tận cùng của ống tiêu hóa, tiết niệu, sinh dục
( Đáp án A)

4. Mầm chi xuất hiện từ tuần thứ mấy?


A. tuần thứ 1
B. tuần thứ 3
C. tuần thứ 5
D. tuần thứ 7
(Đáp án C)
2. BIỆT HÓA TRUNG BÌ
Lúc mới đầu, các tế bào của trung bì phôi tạo thành một lớp mô thưa
mỏng, nằm ở 2 bên của đường dọc giữa và xen giữa ngoại bì và nội bì.
Vào ngày thứ 17, một số tế bào trung bì nằm sát đường giữa tăng sinh
tạo thành một khối mô dày đặc gọi là trung bì cận trục. Ở 2 bên, gần bờ
đĩa phôi, trung bì còn mỏng tạo thành trung bì bên, nằm xen giữa trung
bì cận trục và trung bì bên là trung bì trung gian.

2.1. Trung bì cận trục


- Cuối tuần thứ 3, trung bì cận trục nằm ở mỗi bên của ống thần kinh
phân thành những đốt cấu tạo bởi những tế bào biểu mô. Mỗi đốt ấy là
một khúc nguyên thủy
-Ðôi khúc nguyên thủy thứ nhất xuất hiện ở vùng đầu phôi vào ngày thứ
20. Từ đó, mỗi ngày có 2 - 3 đôi khúc nguyên thủy được phân lập theo
hướng đầu - đuôi phôi.
-Cuối tuần thứ 5, có 42 - 44 đôi khúc nguyên thủy xuất hiện, Gồm: 4
đôi chẩm, 8 đôi cổ, 12 đôi lưng, 5 đôi thắt lưng, 5 đôi cùng, 8 - 10 đôi
cụt. Ðôi khúc nguyên thủy chẩm thứ nhất và 5 - 7 đôi cụt biến đi sớm,
ngay sau khi được tạo ra.
-Mỗi khúc nguyên thủy là một khối vuông rỗng, gồm 4 thành:
+ thành trong hướng về phía ống thần kinh
+ thành lưng hướng về ngoại bì da
+ thành bên (thành ngoài) hướng về trung bì trung gian
+ thành bụng hướng về nội bì.
-Ðầu tuần thứ 4, những tế bào tạo thành bụng và thành ngoài mất dạng
biểu mô, tăng sinh và di chuyển về phía dây sống tạo thành mô dạng sợi
được gọi là trung mô hoặc mô liên kết nguyên thủy. Những tế bào của
mô này được gọi là những tế bào trung mô, có khả năng biệt hóa thành
nhiều loại khác nhau:
+ biệt hóa thành nguyên bào sợi để tạo ra mô liên kết
+ biệt hóa thành nguyên bào sụn để hình thành mô sụn
+ biệt hóa thành tạo cốt bào liên quan tới sự hình thành mô xương.
-Thành trong của khúc nguyên thủy quặt về phía bụng và áp sát thành
lưng, 2 thành ấy tạo nên đốt da - cơ. Mỗi đốt sinh ra một lớp tế bào mới
ở mặt bụng, chúng tạo nên đốt cơ, tạo ra hệ cơ của các đoạn phân đốt
tương ứng. Sau khi đốt cơ được tạo ra, những tế bào thành lưng khúc
nguyên thủy tạo nên đốt da. Ðốt da tách rời khỏi đốt cơ và phân tán ngay
dưới ngoại bì da, tạo mô liên kết dưới da.
2.2. Trung bì trung gian
Trung bì trung gian biệt hóa khác với trung bì cận trục
- Ở vùng cổ và ngực, chúng biệt hóa thành những đám tế bào chia đốt
gọi là đốt thận.
- Trong khi đó, ở vùng đuôi, chúng tạo thành dải tế bào không chia đốt
gọi là dải sinh thận. Những đốt thận và dải sinh thận sẽ tạo ra đơn vị bài
tiết của thận và của hệ tiết niệu. Trung bì trung gian còn là nguồn gốc
của hệ sinh dục và tuyến vỏ thượng thận.

2.3. Trung bì bên


-Trong trung bì bên xuất hiện những hốc nhỏ được tạo ra từ những
khoảng gian bào nở rộng. Các hốc nhỏ này dần dần họp với nhau tạo
thành hốc lớn gọi là khoang cơ thể (còn gọi là khoang trong phôi).
-Khoang cơ thể tách trung bì bên tạo thành 2 lá:
+ lá thành dán sát vào ngoại bì và tiếp nối với lá thành trung bì ngoài
phôi phủ ngoài màng ối
+ lá tạng dán vào nội bì và tiếp nối với lá tạng trung bì ngoài phôi phủ
ngoài túi noãn hoàng, ở bờ đĩa phôi.
- Khoang cơ thể phải và trái thông với khoang ngoài phôi ở bờ đĩa phôi
(H. 3 C,D). Ở những giai đoạn phát triển tiếp theo, khoang cơ thể được
ngăn thành khoang màng ngoài tim (phần đầu của khoang), khoang
màng phổi (phần giữa) và khoang màng bụng (phần đuôi).
2.4. Máu và mạch máu
-Trong quá trình tạo phôi vị, một phần trung bì phát sinh từ đường
nguyên thủy, sau khi lan sang 2 bên, tiến về phía đầu phôi tạo thành diện
mạch nằm ở 2 bên và phía trước màng họng.
-Vào khoảng tuần thứ 3, ở diện mạch, những tế bào biệt hóa thành
những tế bào trung mô gọi là những tế bào tạo máu và tạo mạch. Chúng
hợp lại thành đám hay dây tế bào gọi là những tiểu đảo tạo máu và tạo
mạch. Trong mỗi tiểu đảo, những khoảng gian bào dần dần rộng ra, đẩy
các tế bào xa nhau. Ở trung tâm mỗi tiểu đảo, tế bào trở thành hình cầu
và biệt hóa thành tế bào máu nguyên thủy. Ở ngoại vi mỗi tiểu đảo, tế
bào tạo ra một ống nội mô chứa đầy huyết cầu. Về sau, do sự nẩy mầm
của các tế bào nội mô, những tiểu đảo tạo máu và tạo mạch lân cận
thông với nhau tạo thành một hệ thống mạch chứa huyết cầu.
Những huyết cầu và mạch máu cũng được tạo ra như vậy trong trung mô
của cuống phôi, màng đệm, nhung mao đệm và thành túi noãn hoàng
( H. 6). Sau đó, những mạch ngoài phôi sẽ nối tiếp với những hệ thống
mạch trong phôi. Tim và các mạch máu lớn đầu tiên của phôi được tạo
ra ở diện mạch.
Tóm lại: Trung bì là nguồn gốc:
Các mô chống đỡ: mô liên kết chính thức, mô sụn, mô xương.
Các mô cơ: cơ vân, cơ trơn, cơ tim.
Thận, tuyến sinh dục, đường bài xuất của hệ tiết niệu - sinh dục.
Tuyến vỏ thượng thận
Cơ quan tạo huyết và các huyết cầu, mạch máu, mạch bạch huyết.

3. BIỆT HÓA CỦA NỘI BÌ-SỰ KHÉP MÌNH CỦA


PHÔI
3.1. Sự biệt hóa của nội bì
 Lúc mới tạo ra, lớp nội bì có dạng hình đĩa dẹt và nằm sát với
ngoại bì
 Sau đó, Sự phát triển của ống thần kinh(Túi não)=>vồng lên vào
trong khoa ối=>nếp gấp vùng đầu đuôi (sâu nhất ở vùng đầu và
đuôi)
 Túi noãn hoàng dài ra và thắt lại đồng thời một phần lớn liên tục
của nội bì túi noãn hoàng sát nhập vào thân phôi và nối với cuống
noãn hoàng.
 Sự nếp gấp hai bên sườn=> ống ruột nguyên thủy (đầu nội bì->
đoạn ruột trước, đuôi nội bì->đoạn ruột sau)
 Sau giai đoạn phôi vị, nội bì là một phần của thành túi noãn hoàng
và tiếp giáp với nội bì noãn hoàng ở bờ của đĩa phôi. Ở mặt lưng,
nội bì tiếp xúc với trung bì, ngoại trừ hai vị trí là màng hầu và

màng nhớp.

Nội bì phát triển và biệt hóa cho ra:

 • Biểu mô phủ tai giữa, các xoang mặt và vòi Eustach


 • Biểu mô tuyến của tuyến giáp, cận giáp và tuyến ức, gan, tuỵ
 • Biểu mô phủ và biểu mô tuyến của đường hô hấp từ họng đến
phế nang
 • Biểu mô phủ ống tiêu hóa, trừ biểu mô khoang miệng và đoạn
thấp của ống hậu môn
 • Biểu mô tuyến của các tuyến thuộc thành của của các đoạn ống
tiêu hóa ( tuyến thực quản, tâm vị, môn vị, đáy vị, tuyến
Lieberkuhn, Brunner); và các tuyến nằm ngoài đường tiêu
hóa( gan, tụy, tuyến nước bọt trừ tuyến mang tai)
 • Biểu mô phủ bàng quang, một phần âm đạo, toàn bộ niệu đạo ở
nữ nhưng chỉ một phần niệu đạo ở nam, trừ đoạn niệu đạo dương
vật.
3.2. Sự khép mình của phôi – sự định ranh giới cho phôi
Sự kiện phức tạp diễn ra vào tuần thứ 4 , biến đĩa phôi 3 lá thành phôi có
cấu trúc không gian ba chiều.

-Nguyên nhân: Là hậu quả của sự tăng


trưởng không đồng đều giữa các thành
phần của phôi .

• Đĩa phôi phát triển nhanh đặc biệt là


chiều dài

• Túi noãn hoàng vẫn gắn với mép


quanh đĩa phôi trong khi túi ối tăng
trưởng mạnh mẽ hơn túi noãn hoàng

=>Đĩa phôi phát triển vồng lên trên


phải khoảng ối

· Dây sống, ống thần kinh và các đốt


phôi trở thành trục theo hướng đầu
đuôi khi 2 bên mép bên đĩa phôi tiến
lại gần nhau .

-Kết quả:

• Đầu và đuôi phôi gập về phía bụng


phôi

• Hai mép bên của phôi sát nhập lại


gần nhau và sát nhập với nhau ở đường
giữa bụng.

-Những hiện tượng sâu khi phôi thai


khép mình:
• Khoang ối bành trướng và đựng toàn bộ phôi

• Túi noãn hoàng dài ra và bị thắt lại => cuốn noãn hoàng

• Phôi gập ở 2 bên sườn, nội bì cuộn lại thành ống ruột nguyên thủy

• Trung bì cuống phôi sát nhập với trung bì noãn hoàng => dây rốn

• Cuối tháng thứ nhất, mọi lối thông giữa khoảng cơ thể và khoáng ngoài
cơ thể đã bị bít kín , phôi đã khép mình và ranh giới phôi đã được xác
định.

4.Những biến đổi hình dạng bên ngoài và sự lớn lên của phôi
trong tháng thứ 2
Trong thời gian này, đầu phôi lớn lên rất mau so với khối lượng toàn
bộ cơ thể do các túi não phát triển mạnh, chiều dài của phôi tăng mau.
Hình dạng bên ngoài của phôi có những thay đổi lớn bởi sự hình thành
của chi, mặt, tai, mũi, mắt.
Phôi tuần thứ 5
Sang tuần thứ 5 của thai kỳ, thai nhi đã có sự phát triển mạnh mẽ, đặc
biệt là sự phát triển của hệ thần kinh và hệ tuần hoàn. Cụ thể: Trong túi
phôi, hình thành mầm phôi 3 lá (lá phôi ngoài, lá phôi giữa và lá phôi
trong). Thai nhi cũng hình thành hệ thống tuần toàn từ mesoderm. Do
đó, nhịp tim của bé cũng đã xuất hiện, nhịp tim trong khoảng 100 – 160
lần/phút. Trên khuôn mặt các đường nét cũng rõ dần. Não phát triển
nhanh với khoảng 100 tế bào não được hình thành trong 1 phút. Tuyến
sinh dục bắt đầu phát triển nhưng chưa thể xác định được giới tính. Ở
tuần thai này, các cơ quan như hệ thần kinh, tim mạch của thai nhi dễ bị
tổn thương, dẫn đến dị tật bẩm sinh. Do đó, bạn cần hết sức cẩn thận,
tránh tiếp xúc với hóa chất độc hại, chất phóng xạ, vận động mạnh,…
Nếu dùng thuốc phải có chỉ định của bác sĩ.

Phôi tuần thứ 6


Phôi thai được hình thành vào tuần thứ 5 (từ thời điểm thụ tinh) và phát
triển trong vòng 6 tuần trước khi được gọi là thai nhi. Trong tuần thứ 6,
ống thần kinh dọc theo lưng của phôi thai đóng lại, tim bắt đầu hoạt
động bơm máu, tai trong và cung hàm bắt đầu được hình thành. Phôi
thai bắt đầu uốn cong hình chữ C, mầm chi trên và chi dưới xuất hiện.
Thông thường, sau khi phụ nữ mang thai khoảng 5 - 6 tuần, trứng đã thụ
tinh sẽ có phôi thai và túi thai (nơi thai nhi phát triển) rộng khoảng
18mm. Đối với trường hợp thai trứng trống, túi thai vẫn hình thành và
phát triển nhưng lại không có phôi thai. Trong những tuần đầu của thai
kỳ, khi siêu âm sẽ cho hình ảnh túi thai từ 19 - 36 mm nhưng không có
phôi thai. Nếu tiếp tục không tìm thấy phôi thai ở tuần thứ 8 - 13 thì có
thể kết luận là bất thường và chỉ là một túi thai rỗng.

Phôi tuần thứ 7


Tuần thứ 7 của thai kỳ, bé yêu đã có sự thay đổi rõ ràng hơn về kích
thước, trọng lượng cũng như các bộ phận trên cơ thể. Thai nhi 7 tuần
tuổi đã có sự thay đổi vượt bậc so với các tuần trước rồi. Bé đã to chừng
như quả nho xinh xinh với kích thước chừng 0,9cm đến 1,3 cm và cân
nặng mới chỉ vài gam. Như vậy, so với lúc bắt đầu thụ thai, kích thước
của bé đã tăng gấp 10.000 lần. Và sự tăng trưởng ở thời điểm này phần
lớn sẽ diễn ra ở phần đầu và mỗi phút sẽ có khoảng 100 tế bào mới được
sinh ra. Chính vì lý do đó mà lúc này, cơ thể của mẹ cũng bắt đầu có
những thay đổi rõ rệt hơn để minh chứng chính xác hơn cho sự có mặt
của bé yêu trong cơ thể rồi đấy.
Phôi tuần thứ 8
Khi thai đạt 8 tuần tuổi (tức bước vào tháng thứ 2 của thai kỳ), thai nhi
đã phát triển tương đối nhanh chóng, dài khoảng 11-14mm, tim thai đập
150-170 nhịp/ phút (gấp đôi nhịp tim của mẹ). Khuôn mặt đang dần hình
thành với môi trên, mũi và mí mắt. Cơ thể của thai nhi cũng duỗi thẳng
hơn, đuôi dần biến mất. Các ngón chân và ngón tay dù vẫn có màng dính
nhưng đã bắt đầu chia ra.
Bên cạnh đó, bước vào tuần thứ 8 của thai kỳ, mẹ bầu còn có thể cảm
nhận được một số thay đổi trên cơ thể như:
• Ốm nghén: Cảm giác buồn nôn và nôn xảy ra nhiều lần trong ngày,
thậm chí còn khiến mẹ bầu không muốn ăn.
• Mệt mỏi: Nội tiết tố thay đổi cùng sự phát triển nhanh chóng của thai
nhi khiến mẹ bầu hay cảm thấy mệt mỏi.
• Tăng tiết dịch âm đạo: Lượng estrogen tăng đồng nghĩa với việc dịch
âm đạo được tiết ra nhiều hơn bình thường.
• Tình trạng đầy hơi và táo bón: Mẹ bầu thường cảm thấy đầy hơi do
đường tiêu hoá hoạt động chậm lại và có thể xuất hiện tình trạng táo
bón.

You might also like