You are on page 1of 17

CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS số 01, một báo cáo tài chính hoàn chỉnh bao gồm
6 phần:

● Báo cáo vị thế tài chính


● Báo cáo kết quả kinh doanh
● Báo cáo lưu chuyển vốn chủ sở hữu
● Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
● Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm các chính sách kế toán và các thông tin
giải thích khác
● Báo cáo tình hình tài chính tại thời điểm bắt đầu của kỳ trước khi đơn vị áp dụng
hồi tố một chính sách kế toán hoặc điều chỉnh hồi tố các khoản mục trên báo cáo
tài chính hoặc khi phân loại lại các khoản mục trên báo cáo tài chính

Tuy nhiên, chúng ta sẽ thường chú trọng đến 3 phần chính là Báo cáo vị thế tài
chính, Báo cáo thu nhập và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

1.1 Báo cáo vị thế tài chính

Báo cáo tình hình tài chính, hay còn được gọi là bảng cân đối kế toán liệt kê tất cả các
tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ, tất cả nợ mà doanh nghiệp đang có tại một ngày cụ
thể. Đồng thời thể hiện mức độ quan tâm của chủ sở hữu đến doanh nghiệp, thể hiện
qua vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Báo cáo như một bức ảnh chụp lại tình hình tài
chính của doanh nghiệp ngay vào ngày lập báo cáo.

1.2. Báo cáo kết quả kinh doanh

Báo cáo kết quả kinh doanh, hay còn gọi là báo cáo lãi lỗ trình bày tất cả các khoản mục
thu nhập và chi phí trong kì báo cáo nhằm thể hiện kết quả lãi lỗ trong kì. Báo cáo sẽ
cho thấy liệu doanh nghiệp có lời (thu nhập lớn hơn chi phí) hay ngược lại là lỗ (chi phí
lớn hơn thu nhập).

1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ


Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về sự thay đổi của tiền và các khoản
tương đương tiền, bao gồm 3 phần là dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền từ
hoạt động đầu tư và dòng tiền từ hoạt động tài chính.

CHƯƠNG II: GIAN LẬN VÀ GIAN LẬN TRONG LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH

2.1. Khái niệm về gian lận

Gian lận là hành vi cố ý của một hoặc nhiều cá nhân trong ban quản trị, trong bộ phận
quản lý, hoặc có thể là nhân viên, bên thứ ba, gian dối nhằm chiếm lấy quyền lợi bất
hợp pháp, bất hợp lý.

2.2. Lập báo cáo tài chính gian lận

a) Khái niệm

Lập báo cáo tài chính gian lận liên quan đến việc cố ý khai gian, bao gồm ghi sót
số liệu hoặc những gì được công bố trên báo cáo tài chính nhằm lừa người sử dụng báo
cáo tài chính.

b) Phương thức và dấu hiệu của lập báo cáo tài chính gian lận

- Che dấu công nợ và chi phí: Che dấu công nợ dẫn đến khai thiếu chi phí là một
trong những kỹ thuật gian lận phổ biến trên báo cáo tài chính nhằm mục đích
khai khống lợi nhuận. Từ đó, lợi nhuận trước thuế sẽ tăng tương ứng với số chi
phí hay công nợ bị che dấu. Phương pháp nảy dễ thực hiện và khó bị phát hiện vì
thường ít để lại dấu vết. Có ba phương pháp chính để thực hiện che giấu gian lận
và chi phí bao gồm không ghi nhận công nợ và chi phí, chủ yếu là không lập đầy
đủ các khoản dự phòng; vốn hoá chi phí và không ghi nhận hàng bán trả lại – các
khoản giảm trừ và không trích trước chi phí bảo hành.
- Ghi nhận doanh thu không có thật hay khai khống doanh thu: Ghi nhận
nghiệp vụ bán hàng không tồn tại vào sổ sách hay cung cấp dịch vụ không có
thực. Kỹ thuật thường được sử dụng có thể là lập các chứng từ giả mạo nhằm tạo
các khách hàng giả mạo nhưng hàng hóa không thật sự được giao và vào đầu
niên độ sau sẽ lập bút toán hàng bán bị trả lại. Khai khống doanh thu thường
được thực hiện qua việc cố ý ghi tăng các nhân tố trên hóa đơn như số lượng bán
ra, giá bán… hoặc ghi nhận doanh thu khi các điều kiện giao hàng còn chưa
được hoàn tất, chưa chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối với hàng hoá và
dịch vụ được bán.
- Định giá sai tài sản: Việc định giá sai tài sản được thực hiện bằng các cách như
không ghi giảm giá trị hàng tồn kho khi hàng đã hư hỏng hay không còn sử dụng
được, không lập đầy đủ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, cho nợ phải thu khó
đòi và các khoản đầu tư ngắn, dài hạn. Bên cạnh đó, các tài sản mua qua hợp
nhất kinh doanh, tài sản cố định có thể bị định giá sai, không vốn hoá đầy đủ các
chi phí vô hình và phân loại không đúng tài sản.
- Ghi nhận sai niên độ: Doanh thu hay chi phí được ghi nhận không đúng với thời
kỳ mà nó phát sinh. Doanh thu hoặc chi phí của kỳ này có thể chuyển sang kỳ kế
tiếp hay ngược lại để làm tăng hoặc giảm thu nhập theo mong muốn.
- Che giấu, không tiết lộ đầy đủ các thông tin và sự kiện trọng yếu trong báo
cáo tài chính: Không công bố chính xác các khoản nợ tiềm ẩn, các sự kiện diễn
ra sau kì báo cáo và các thay đổi trong chính sách kế toán như thay đổi phương
pháp khấu hao tài sản cố định hoặc phương pháp đánh giá hàng tồn kho,...
- Tổ chức các giao dịch kinh tế phức tạp: Sửa đổi thông tin về hiệu suất kinh
doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Sửa đổi các chứng từ và điều khoản liên quan đến các giao dịch kinh tế quan
trọng và bất thường.

CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG GIAN LẬN CỦA TẬP ĐOÀN
ENRON

3.1 Giới thiệu về tập đoàn Enron:

Enron là một công ty năng lượng được thành lập vào năm 1986 sau cuộc sáp nhập giữa
Houston Natural Gas Company và InterNorth Incorporated có trụ sở tại Omaha. Sau
cuộc sáp nhập, Kenneth Lay, người đã là Giám đốc điều hành (CEO) của Houston
Natural Gas, trở thành Giám đốc điều hành và Chủ tịch của Enron.
Lay nhanh chóng tái thiết hóa Enron thành một nhà môi giới và nhà cung cấp năng
lượng. Việc mở cửa các thị trường năng lượng cho phép các công ty đặt cược vào giá
trong tương lai. Năm 1990, Lay sáng lập Enron Finance Corporation và bổ nhiệm
Jeffrey Skilling, người đã làm việc tại McKinsey & Company và để lại ấn tượng mạnh
mẽ cho Lay, để đứng đầu công ty mới này.

Skilling lúc đó là một trong những đối tác trẻ tuổi nhất tại McKinsey. Enron cung cấp
đa dạng các dịch vụ năng lượng và tiện ích trên toàn thế giới. Công ty chia hoạt động
của mình thành một số phòng ban chính bao gồm:

● Enron Online: Vào cuối năm 1999, Enron phát triển hệ thống trên web để tăng
cường chức năng cho khách hàng và mở rộng thị trường.
● Dịch vụ Bán buôn: Enron cung cấp nhiều giải pháp giao hàng năng lượng, với
ngành công nghiệp mạnh mẽ nhất là khí tự nhiên. Ở Bắc Mỹ, Enron tuyên bố
cung cấp gần gấp đôi lượng điện so với đối thủ ở hạng thứ hai.
● Dịch vụ Năng lượng: Đơn vị bán lẻ của Enron cung cấp năng lượng trên toàn thế
giới, bao gồm cả châu Âu mà công ty đã mở rộng hoạt động bán lẻ vào năm
2001.
● Dịch vụ Băng thông rộng: Enron cung cấp các giải pháp dịch vụ hậu cần giữa
các nhà cung cấp nội dung và các nhà phân phối năng lượng cuối cùng.
● Dịch vụ Vận chuyển: Enron phát triển một hoạt động đường ống hiệu quả và
sáng tạo để mạng lưới khả năng và điều hành điểm gộp để kết nối với bên thứ ba.

Tuy nhiên, bằng cách tận dụng các phương tiện đặc biệt như phương tiện mục đích đặc
biệt, các thực thể mục đích đặc biệt, phương pháp hạch toán theo giá thị trường và các
lỗ hổng trong báo cáo tài chính, Enron đã trở thành một trong những công ty thành công
nhất trên thế giới. Khi phát hiện ra gian lận, công ty sau đó đã sụp đổ. Giá cổ phiếu
Enron đã giao dịch ở mức cao nhất là 90,75 USD trước khi gian lận được phát hiện,
nhưng sau đó giảm xuống cấp khoảng 0,26 USD trong đợt bán tháo sau khi sự thật được
tiết lộ.

3.2 Diễn biến chính trong vụ sụp đổ của tập đoàn Enron
1. 16 tháng 10 năm 2001 - Enron thông báo lỗ 618 triệu USD trong quý III.
Công ty sau đó tiết lộ rằng đã làm phồng lợi nhuận từ năm 1997.
2. 31 tháng 10 năm 2001 - Công ty tiết lộ rằng đang bị Ủy ban Chứng khoán
và Giao dịch Mỹ điều tra chính thức.
3. 9 tháng 11 năm 2001 - Enron xác nhận đã đồng ý để đối thủ Dynegy mua
lại với giá 9 tỷ USD. Vào ngày 28 tháng 11, Dynegy thông báo hủy bỏ
cuộc thảo luận hợp nhất với Enron.
4. 2 tháng 12 năm 2001 - Enron đệ trình đơn xin phá sản theo Chương 11.
5. 9 tháng 1 năm 2002 - Bộ Tư pháp Hoa Kỳ mở cuộc điều tra hình sự về sự
sụp đổ của Enron.
6. 10 tháng 1 năm 2002 - Arthur Andersen LLP, công ty kiểm toán xử lý
kiểm toán của Enron, tiết lộ rằng nhân viên của họ đã phá hủy tài liệu của
công ty.
7. 15 tháng 1 năm 2002 - Sàn giao dịch Chứng khoán New York đình chỉ
giao dịch cổ phiếu Enron.
8. 17 tháng 1 năm 2002 - Enron chấm dứt đối tác với Arthur Andersen.
9. 23 tháng 1 năm 2002 - Lay từ chức vị CEO. Sau đó, ông từ chức khỏi hội
đồng quản trị.
10. 25 tháng 1 năm 2002 - Phó Chủ tịch cũ của Enron J. Clifford Baxter được
phát hiện chết trong một vụ tự tử.
11. 12 tháng 2 năm 2002 - Lay kích hoạt quyền thứ Năm trước Ủy ban
Thương mại Thượng viện.
12. 14 tháng 3 năm 2002 - Bộ Tư pháp buộc tội Arthur Andersen về tội cản
trở công lý. Một ban hội thẩm sau đó đưa ra một lời tuyên án có tội cho
công ty kiểm toán. Tòa án Tối cao sau đó bác bỏ bản án.
13. 19 tháng 2 năm 2004 - Skilling bị buộc tội về 35 tội danh về gian lận và
giao dịch có thông tin nội gián. Ông tuyên bố không có tội.
14. 7 tháng 7 năm 2004 - Lay bị buộc tội về âm mưu, gian lận chứng khoán,
gian lận truyền thông, gian lận ngân hàng và đưa ra những tuyên bố giả
mạo. Trong phiên hầu tòa ngày hôm sau, ông tuyên bố không có tội đối
với 11 tội danh và được phóng thích trên 500.000 USD không đảm bảo.
15. 25 tháng 5 năm 2006 - Skilling và Lay bị kết án về âm mưu và gian lận.
Skilling cũng bị kết án về giao dịch có thông tin nội gián và vi phạm lịch
sử. Hội thẩm xử tội bác bỏ Skilling trên 9 tội danh khác về giao dịch có
thông tin nội gián.
16. 5 tháng 7 năm 2006 - Lay qua đời do đau tim khi đang chờ xét xử án phạt.

Arthur Andersen, công ty kiểm toán chịu trách nhiệm, thừa nhận hủy bỏ nhiều tài liệu
liên quan đến sai phạm tài chính của Enron.

3.3 Tình huống gian lận của tập đoàn Enron

Enron đã có hành vi gian lận là lập báo cáo tài chính gian lận.

Enron là một tập đoàn năng lượng lớn của Hoa Kỳ, nhưng nổi tiếng với vụ thất bại tài
chính và gian lận lớn nhất trong lịch sử doanh nghiệp. Dưới đây là mô tả tình huống
gian lận chính của Enron:

Enron đã thực hiện nhiều chiến lược gian lận để làm tăng giá trị cổ phiếu của họ và che
giấu những rủi ro tài chính. Công ty đã sử dụng nhiều kỹ thuật tài chính phức tạp và
không minh bạch để tạo ra doanh số bán hàng và lợi nhuận ảo. Dưới đây là một số
chiến lược chính:

Special Purpose Entities (SPEs): Enron tạo ra các đơn vị kinh doanh đặc biệt (SPEs) để
chuyển các nghĩa vụ nợ và các tài sản không mong muốn khỏi bảng cân đối kế toán
chính của công ty. Điều này giúp Enron che giấu nợ và tạo ra ảnh hưởng tích cực đối
với cổ đông và nhà đầu tư.

Mark-to-Market Accounting: Enron áp dụng phương pháp kế toán Mark-to-Market để


ước lượng giá trị hiện tại của các hợp đồng dài hạn. Thay vì chờ đến khi giao dịch thực
sự diễn ra để xác định lợi nhuận hay lỗ, Enron tự ý ước lượng giá trị của các hợp đồng,
điều này tạo ra lợi nhuận giả mạo và thúc đẩy tăng trưởng cổ phiếu.
Thao túng báo cáo tài chính: Enron đã sử dụng các phương pháp gian lận trong việc báo
cáo tình hình tài chính. Họ giấu nợ bằng cách chuyển nó đến các đơn vị liên kết, giả
mạo doanh thu và lợi nhuận để làm tăng giá trị cổ phiếu.

Giao dịch nội bộ: Một số quan chức cấp cao tại Enron đã tận dụng thông tin nội bộ để
bán cổ phiếu của mình trước khi giá cổ phiếu giảm đột ngột. Điều này dẫn đến việc nhà
đầu tư mất hàng tỷ đô la khi giá cổ phiếu Enron sụp đổ.

Ảnh hưởng chính trị: Enron đã áp dụng ảnh hưởng chính trị để bảo vệ họ khỏi sự kiểm
soát và giám sát. Họ đã sử dụng quyền lực chính trị và ảnh hưởng lớn đối với các quan
chức chính phủ để bảo vệ họ khỏi các cuộc điều tra và kiểm toán.

Cuối cùng, vào năm 2001, Enron tuyên bố phá sản sau khi sự thật về tình hình tài chính
của họ được tiết lộ. Sự sụp đổ của Enron đã gây ra rất nhiều thiệt hại cho nhà đầu tư,
nhân viên và thị trường tài chính toàn cầu.

3.4 Phương thức, hình thức gian lận Báo cáo tài chính của công ty tập đoàn Enron.

Ban giám đốc có trách nhiệm chịu trực tiếp trong việc ngăn chặn và phát hiện gian
lận. Tuy nhiên, ở Enron, Ban giám đốc lại là nhóm người đang tích cực tìm kiếm và
thực hiện các phương thức gian lận về kế toán để đạt được mục đích cá nhân của họ.

a/ Ban giám đốc đã có những hành vi gian lận sau:

Với chiến lược tăng trưởng nhanh, Ban giám đốc Enron tích cực mua thêm các
công ty và tài sản khác. Một phần lớn vốn được huy động từ ngân hàng, và một phần
khác là do công ty phát hành mua cổ phiếu của các công ty đối tác Enron với mức giá
định trước. Lãnh đạo Enron không chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất và buôn bán
năng lượng mà còn mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng,
một lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và đòi hỏi nhiều vốn. Sự độc quyền trong việc
quản lý kiểm soát, điều hành công ty cho phép Enron sản xuất với mức công suất cao
hơn để giảm giá thành đơn vị sản phẩm và tăng lợi nhuận trong năm hiện tại.
Tuy nhiên, mặt trái của chiến lược này là máy móc và thiết bị phải hoạt động với
công suất cao hơn mức tối ưu, ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất và độ bền của chúng.
Sản phẩm tích tụ không bán được có thể dẫn đến chi phí bảo quản cao. Hàng tồn kho
lâu ngày cũng có thể giảm giá trị, ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty trong những
năm tiếp theo. Để giảm chi phí, Enron có thể cắt giảm các khoản chi phí nghiên cứu
phát triển, quảng cáo và bảo dưỡng thiết bị.

Enron, với tư cách là một nhà cung cấp, đã ký các hợp đồng cố định giá với khách
hàng trong tương lai và thu phí từ những hợp đồng này. Những chi phí này được tính
vào doanh thu hiện tại, trong khi rủi ro trong tương lai sẽ được chuyển gánh cho các
công ty con được Enron lập ra để giữ tên tài sản và cô lập các rủi ro tài chính.

Ví dụ, khi Enron phát triển thêm đường ống, công ty có thể tạo ra một công ty con
(SPE) để quản lý đường ống và thế chấp nó, thu doanh thu từ đường ống để thanh toán
nợ. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến việc bảng cân đối kế toán của công ty không thể
hiện đầy đủ tài sản và trách nhiệm nợ tương ứng.

Luật kế toán liên quan đến SPE đặt ra yêu cầu rằng trong tổng vốn của công ty con,
ít nhất 3% phải là cổ phần của Enron. Tuy nhiên, nếu Enron sở hữu dưới 50% tổng số
cổ phần của SPE, sổ sách của Enron không phải thể hiện tài sản và trách nhiệm nợ của
SPE. Vào thời điểm khủng hoảng, Enron có đến 900 SPE, hầu hết được đặt ở các nước
ưu đãi thuế. Enron sử dụng SPE để manipulare các báo cáo tài chính, che giấu thông tin
cần công bố và, mặc dù chỉ sở hữu ít cổ phần, các SPE vẫn có thể vay ngân hàng.

* Thứ nhất: Các chủ nợ tin tưởng là Enron đã ký hợp đồng sử dụng tài sản của
SPE nên hoạt động của SPE được đảm bảo

* Thứ hai : họ tin là Enron đã bảo lãnh rủi ro cho các khoản vay của SPE

Nợ của Enron được quản lý thông qua một chiến lược tài chính sáng tạo, trong đó
Enron, các công ty con (SPE), và công ty JP-Morgan sử dụng các hợp đồng hoán
chuyển để biến nợ dài hạn thành "trách nhiệm chứng khoán" trên bảng cân đối. Điều
này giúp Enron tạo ra một ảo giác về tình hình tài chính tích cực.
Enron còn sử dụng chiến lược thổi phồng doanh thu và lợi nhuận bằng cách bán
tài sản cho các SPE với giá được thổi phồng để tạo ra lợi nhuận ảo. Họ cũng thực hiện
các giao dịch qua lại với SPE để tăng doanh số bán hàng và giảm độ biến động của lợi
nhuận.

Đối diện với thua lỗ, Enron đã che giấu thực tế bằng cách chuyển những khoản lỗ
từ các năm trước vào các SPE. Khi các SPE thua lỗ, giá trị cổ phần của Enron trong
chúng giảm xuống dưới mức yêu cầu của luật kế toán. Sự kết hợp tài chính giữa Enron
và các SPE đã dẫn đến việc tăng nợ và giảm lợi nhuận của Enron.

Gian lận kế toán xảy ra toàn diện trong toàn bộ công ty. Nhiều quản lý cấp cao của
Enron đã hưởng lợi từ các giao dịch không minh bạch. Andrew Fastow, Giám đốc điều
hành của Enron, đã hưởng lợi trái phép từ các giao dịch kẽ hở, trong đó mức phí quyền
mua cổ phiếu của nhân viên và độc quyền trong ban quản lý công ty đã đóng vai trò
quan trọng.

Tình hình thị trường cổ phiếu không minh bạch đã tạo ra áp lực lớn cho những nhà
lãnh đạo của Enron, buộc họ phải tạo ra lợi nhuận đáp ứng kỳ vọng cao. Đồng thời, với
lượng cổ phiếu lớn mà họ nắm giữ, họ cũng không muốn giá cổ phiếu giảm sút.

Những thách thức này khiến cho các nhà quản lý không có lựa chọn khác ngoài
việc tìm kiếm các phương pháp phù phép trong BCTC. Thủ thuật này tập trung vào việc
chuyển lợi nhuận từ tương lai sang hiện tại thông qua các ước tính kế toán, không tăng
thêm lợi nhuận thực tế mà chỉ làm giảm lợi nhuận của các năm sau.

b/ Gian lận trong kế toán của tập đoàn Enron

Enron đối mặt với khó khăn tài chính do thất bại trong chiến lược kinh doanh và sự
kém hiệu quả trong quản trị. Trong bối cảnh này, Ban Giám đốc Enron đối diện với áp
lực cần tiền để đáp ứng nhu cầu vốn và cần số liệu về doanh thu và lợi nhuận phản ánh
đúng quy mô đầu tư của công ty. Tuy nhiên, Ban Giám đốc Enron nhận ra rằng nếu báo
cáo tình hình tài chính trung thực, hệ số nợ và lỗ sẽ rất cao. Điều này có thể gây ra phản
ứng tiêu cực từ cổ đông và ngân hàng, ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn và các hoạt động
huy động vốn. Vì vậy, Ban Giám đốc Enron quyết định áp dụng các phương pháp gian
lận kế toán để huy động tiền mà không làm tăng hệ số nợ. Hành động này giúp duy trì
giá cổ phiếu Enron trên thị trường, đồng thời giữ cho sự tăng trưởng của công ty được
duy trì.

Những phương pháp gian lận của Enron, có thể xem xét ba kiểu tiêu biểu sau
đây: Tận dụng hợp đồng trả trước: Enron thực hiện chiến lược vay mượn từ ngân hàng,
tuy nhiên, họ không ghi chú đúng bản chất của các khoản nợ cần trả, mà thay vào đó,
ghi nhận chúng như là "giao dịch kinh doanh năng lượng tương lai". Trong quá trình
này, số tiền vay được ghi làm doanh thu bán hàng, còn lãi vay được ghi làm chi phí rủi
ro về giá. Mặc dù Enron vay khoảng 8.6 tỷ USD, nhưng thông tin này không được công
bố như là nợ vay trong các báo cáo tài chính.

Lạm dụng phương pháp giá trị hợp lý: Enron tận dụng khả năng áp dụng phương pháp
giá trị hợp lý để đánh giá cao giá trị của các tài sản không có giá thị trường hoặc khó
xác định; hoặc để ước tính lợi nhuận từ các dự án đầu tư và ghi nhận lãi mặc dù các dự
án chưa hoạt động; hoặc ghi nhận doanh thu và lợi nhuận ngay khi ký kết các hợp đồng
tương lai dài hạn.

Tạo ra các đơn vị vì mục đích đặc biệt (SPE): Ban giám đốc Enron thành lập nhiều đơn
vị vì mục đích cụ thể (SPE). Mỗi đơn vị này chỉ thực hiện một mục đích nhất định.
Những doanh nghiệp này được coi như "công cụ" thực hiện các giao dịch phức tạp
nhằm che đậy tình hình tài chính thực và tạo ra lợi nhuận ảo cho Enron. Đồng thời,
chúng là cơ sở để thực hiện các hành vi biển thủ tài sản. Điều quan trọng là các báo cáo
tài chính của các SPE không được hợp nhất vào báo cáo tài chính của Enron.

CHƯƠNG IV: SỰ SỤP ĐỔ CỦA TẬP ĐOÀN NĂNG LƯỢNG ENRON KÉO
THEO SỰ SỤP ĐỔ CỦA A&A

4.1 Giới thiệu về công ty Kiểm Toán Arthur Andersen (A&A)

Arthur Andersen, một trong những "Năm công ty kiểm toán lớn nhất thế giới," cùng với
PricewaterhouseCoopers, Deloitte Touche Tohmatsu, Ernst & Young và KPMG, cung
cấp các dịch vụ kiểm toán, thuế, và tư vấn cho các công ty và tập đoàn lớn có trụ sở tại
Chicago. Trong sự phát triển của mình, công ty đã tự nguyện rút lại giấy phép hành
nghề Kiểm toán công vào năm 2002 sau khi bị phát hiện có hành vi vi phạm liên quan
đến kiểm toán của tập đoàn năng lượng Enron, dẫn đến việc 85.000 người mất việc.
Mặc dù sau đó, Tòa án Tối cao Mỹ đã quyết định gỡ bỏ cáo buộc, Arthur Andersen
không thể khôi phục lại hoạt động.

Ngày thành lập vào năm 1913, Arthur Andersen và Clarence Delaney, đều từ Price
Waterhouse, mua lại Công ty kiểm toán Illinois và thành lập Andersen, Delaney & Co,
sau đó chuyển tên thành Arthur Andersen & Co vào năm 1918. Andersen Consulting đã
tách ra từ Arthur Andersen vào năm 1989, trở thành công ty tư vấn lớn nhất thế giới, và
sau đó đổi tên thành Accenture vào ngày 1 tháng 1 năm 2001.

4.2 Quá trình phát hiện gian lận của Enron bởi công ty kiểm toán A&A

Kiểm toán không độc lập:


● Arthur Andersen không thực hiện kiểm toán độc lập và khách quan. Họ đã
tham gia vào nhiều dự án tư vấn và dịch vụ tài chính với Enron, làm cho
mối quan hệ giữa hai công ty trở nên quá mức gắn kết và làm giảm khả
năng kiểm soát chặt chẽ.
Sử dụng kế toán sáng tạo:
● Enron sử dụng các phương pháp kế toán sáng tạo và phức tạp để giấu nợ
và tạo ra ảnh hưởng tích cực đối với bảng cân đối kế toán. Andersen đã
chấp nhận và không kiểm soát chặt chẽ các phương pháp này, thậm chí
còn tham gia vào quá trình phát triển chúng.
Xóa mọi dấu vết:
● Andersen được cho là đã phá hủy một số tài liệu quan trọng liên quan đến
Enron sau khi bắt đầu cuộc điều tra. Hành động này làm tăng nghi ngờ về
khả năng kiểm soát và chủ thể không phụ thuộc của họ.
Không thông báo rủi ro:
● Arthur Andersen đã không thông báo đến cộng đồng đầu tư về rủi ro tài
chính lớn đối với Enron. Họ đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
mình như là một đơn vị kiểm toán độc lập.
Chấp nhận lợi ích cá nhân:
● Một số nhân viên của Andersen đã nhận lợi ích cá nhân từ việc giữ cổ
phiếu Enron và tham gia vào các giao dịch có lợi nhuận tại Enron, điều
này làm tăng nghi ngờ về sự không độc lập của kiểm toán.

Khi sự thật về tình hình tài chính của Enron bắt đầu nổi lên, vai trò của Arthur
Andersen trong việc che giấu thông tin và không đảm bảo tính minh bạch trong quá
trình kiểm toán đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của
cả hai công ty. Enron đã phá sản vào năm 2001, và Arthur Andersen cũng bị hủy bỏ
giấy phép kinh doanh của họ sau đó.
4.3 Vi phạm chuyên môn và chuẩn mực đạo đức
Sai phạm về chuyên môn:
Không Thực Hiện Đánh Giá Khả Năng Tiếp Tục Hoạt Động:
Arthur Andersen (AA) không thực hiện đánh giá về khả năng tiếp tục hoạt động của
Enron khi công ty đối mặt với tình trạng khó khăn về tài chính và nguy cơ phá sản.
Không thực hiện đầy đủ quy trình kiểm toán để xác định các liên kết với các bên liên
quan và không đưa ra yêu cầu Enron để công bố thông tin liên quan.
Không đưa ra đánh giá chính xác về mức độ rủi ro và gian lận khi tham gia kiểm toán
cho một khách hàng không trung thực như Enron.
Không yêu cầu Enron công bố lợi nhuận ngay khi phát hiện các sự kiện xảy ra sau ngày
kết thúc niên độ.
Không nộp đầy đủ hồ sơ kiểm toán về quá trình áp dụng phương pháp giá trị hợp lý,
khả năng tiếp tục hoạt động và hủy chứng từ, tài liệu liên quan đến Enron trong quá
trình điều tra.
Vi Phạm Chuẩn Mực Đạo Đức Của AA:
1. Sai lầm nghiêm trọng trong việc đảm bảo tính độc lập:
Kiểm toán viên Arthur Andersen đã vi phạm tính độc lập cả về hình thức và bản chất
khi không chỉ đóng vai trò là người xác nhận mà còn là tư vấn cho các dịch vụ phi kiểm
toán của Enron.
Tham gia vào việc thiết kế cấu trúc của các Đơn vị Vì mục đích Đặc biệt (SPE) và các
giao dịch giả mạo, ghi sổ và lập báo cáo tài chính, không chỉ không phát hiện mà còn hỗ
trợ khách hàng thực hiện các hành vi gian lận kế toán và tài chính.
Tư vấn của AA thúc đẩy Ban giám đốc Enron thực hiện các hình thức gian lận trong
báo cáo tài chính, mà không quan tâm đến tính độc lập của Kiểm toán viên và không
xem xét đến lợi ích cộng đồng.
2. Tiêu Hủy Tài Liệu Trong Quá Trình Điều Tra:
Một sai lầm nghiêm trọng của Arthur Andersen là việc tiêu hủy tài liệu liên quan đến
cuộc kiểm toán của Enron trong quá trình điều tra.
Hành động này mang tính chất hình sự và làm mất đi khả năng xác minh và đánh giá
công bằng của thông tin tài chính.
3. Vi Phạm Chuẩn Mực Đạo Đức và Đối Tác Không Trung Thực:
AA đã vi phạm chuẩn mực đạo đức khi không báo cáo về các hành vi gian lận tài chính
và biển thủ của Ban giám đốc của Enron cho công ty kiểm toán, hội đồng quản trị của
Enron, và Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ.
Không công bố thông tin về các mối quan hệ giữa đội ngũ kiểm toán viên của Arthur
Andersen và Ban giám đốc của Enron, cũng như các khoản phí kiểm toán và dịch vụ tư
vấn từ các hợp đồng kiểm toán và hợp đồng tư vấn hàng năm giữa Arthur Andersen và
Enron.
4.4 Yếu tố của vụ việc kiểm toán viên của A&A không phát hiện sai phạm trong
báo cáo tài chính của tập đoàn Enron
· Động cơ lợi nhuận và những xung đột lợi ích

· Hệ thống kiểm soát hoạt động kiểm toán tại Hoa Kỳ lỏng lẻo và không hữu hiệu.

Arthur Andersen đã thực hiện kiểm toán liên tục cho Enron trong suốt 15 niên độ tài
chính mà không có yêu cầu buộc phải thay đổi công ty kiểm toán. Trong thời gian
dài đó, Arthur Andersen không phải đối mặt với bất kỳ quá trình kiểm tra nào từ
phía Ban Kiểm tra Chéo, Ủy ban Kiểm soát Chất lượng của Hiệp hội Kế toán Công
cộng Hoa Kỳ (AICPA), ISB, hoặc các tổ chức kiểm toán khác.

· AA thiếu tính độc lập.

AA đã bất chấp đối với tính độc lập, mặc dù đây là yếu tố chính của nghề kiểm
toán. Mức phí được đặt ra là quá cao, với thu nhập khoảng 1 triệu đôla mỗi tuần
và trong bối cảnh kiểm soát lỏng lẻo, điều này có nghĩa là chi phí trả cho dịch vụ
kiểm toán quá thấp so với lợi ích, tạo điều kiện cho AA dễ dàng đặt danh tiếng
của mình lên hàng đầu trước lợi nhuận.

Nguy cơ tự bào chữa cũng là một vấn đề, vì AA không thể duy trì tính khách
quan khi tự xác nhận kết quả và quy trình của mình. AA đồng thời là nhà tư vấn
kế toán và người xác nhận báo cáo tài chính của Enron, tạo ra một tình huống
mâu thuẫn trong vai trò và quyền lợi.

Nguy cơ từ sự quen thuộc cũng có thể đe dọa tính khách quan của quá trình kiểm
toán. Enron đã là khách hàng quen thuộc của AA trong suốt 15 năm, và sự quen
thuộc này có thể dẫn đến các đánh giá chủ quan và thao túng trong quá trình
kiểm toán.

CHƯƠNG V: BÀI HỌC TỪ VỤ SỤP ĐỔ CỦA CÔNG TY ENRON

5.1 Bài học

Đạo đức kinh doanh và Trách nhiệm xã hội:


● Enron là một minh chứng cho việc quản lý không đạo đức và thiếu trách
nhiệm xã hội có thể dẫn đến hậu quả nặng nề. Doanh nghiệp cần phải đặt
đạo đức và trách nhiệm xã hội lên hàng đầu để xây dựng một hệ thống
kinh doanh bền vững và đáng tin cậy.
Minh bạch và Tính minh bạch trong Báo cáo Tài chính:
● Việc Enron sử dụng các chiến lược gian lận để che giấu nợ và tạo lợi
nhuận giả mạo nhấn mạnh sự quan trọng của tính minh bạch trong báo
cáo tài chính. Doanh nghiệp cần thể hiện thông tin tài chính một cách
chân thực và minh bạch để giữ lòng tin của cổ đông và nhà đầu tư.
Độc lập của Kiểm toán:
● Enron đã tận dụng mối quan hệ quá mức chặt chẽ giữa họ và công ty kiểm
toán Arthur Andersen để thực hiện các chiến lược gian lận. Bài học từ đây
là sự quan trọng của việc duy trì sự độc lập giữa doanh nghiệp và đơn vị
kiểm toán.
Quản lý Rủi ro và Tuân thủ Pháp luật:
● Enron không chỉ vi phạm các nguyên tắc kế toán mà còn vi phạm pháp
luật. Bài học ở đây là sự cần thiết của quản lý rủi ro hiệu quả và tuân thủ
pháp luật để tránh rủi ro tài chính và hậu quả pháp lý.
Quản lý Điều hành và Quản lý Rủi ro:
● Mô hình kinh doanh phức tạp của Enron không chỉ khó hiểu đối với cổ
đông mà còn tạo ra rủi ro tài chính lớn. Bài học ở đây là sự cần thiết của
quản lý điều hành hiệu quả và quản lý rủi ro để đảm bảo sự bền vững của
doanh nghiệp.
Trách nhiệm Cá nhân và Chính trị Đạo đức:
● Nhiều nhân viên và quan chức của Enron tham gia vào các hành vi gian
lận. Bài học ở đây là sự cần thiết của trách nhiệm cá nhân và đạo đức
chính trị trong doanh nghiệp.
Sự Kiểm soát và Giám sát Hiệu quả:
● Sự sụp đổ của Enron đã làm nổi bật vấn đề về sự kiểm soát và giám sát
trong doanh nghiệp. Bài học là cần phải có các cơ chế kiểm soát hiệu quả
để ngăn chặn các hành vi gian lận và đảm bảo tính minh bạch trong quá
trình quản lý, ví dụ như tăng cường giám sát chặt chẽ và đào tạo bài bản
CPA.

Những bài học này không chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp mà còn đặt ra những thách
thức và trách nhiệm cho cơ quan quản lý và giám sát trong việc đảm bảo tính minh bạch
và đạo đức trong thị trường tài chính.

5.2 Tác động đối với ngành kiểm toán Mỹ

Vụ sụp đổ của Enron đã tạo ra tác động đáng kể đối với ngành kiểm toán Mỹ, và nó đã
làm thay đổi cách ngành này thực hiện kiểm toán và quản lý đạo đức nghề nghiệp. Dưới
đây là một số tác động chính:

1. Tăng Cường Quy Định và Quy Chuẩn Kiểm Toán:


Vụ Enron đã thúc đẩy sự chú ý đối với cần phải có những quy định và quy chuẩn kiểm
toán mạnh mẽ hơn để ngăn chặn các hành vi gian lận và tăng cường tính minh bạch
trong báo cáo tài chính.

2. Tăng Cường Độc Lập Của Kiểm Toán Viên:

Có sự tăng cường về độc lập và tự chủ của kiểm toán viên trong quá trình thực hiện
kiểm toán. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ cho kiểm toán viên làm
việc mà không bị ảnh hưởng bởi áp lực từ phía khách hàng.

3. Kiểm Soát Nội Bộ và Quản Lý Rủi Ro:

Doanh nghiệp kiểm toán cần tăng cường hơn nữa về kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro
để đảm bảo rằng các hành vi gian lận không thể xâm phạm quá trình kiểm toán.

4. Chấm Dứt Mô Hình Kiểm Toán Truyền Thống:

Mô hình kiểm toán truyền thống dựa trên sự tin tưởng và quá mức tập trung vào việc
kiểm tra chứng từ đã được đặt dấu chấm hỏi. Ngành kiểm toán chuyển sang mô hình
kiểm toán dựa trên rủi ro để đánh giá và quản lý mối quan ngại.

5. Quy Tắc và Đạo Đức Nghề Nghiệp:

Các tổ chức kiểm toán tăng cường các quy tắc và đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo tính
chất chính xác và minh bạch trong quá trình kiểm toán. Các bước cụ thể được đề ra để
kiểm soát hành vi không đạo đức.

6. Chấm Dứt Quan Hệ Kinh Doanh Quá Mức:

Enron đã làm nổi bật vấn đề của việc kiểm toán viên cung cấp không chỉ dịch vụ kiểm
toán mà còn là dịch vụ tư vấn. Các biện pháp đã được thực hiện để giới hạn các quan hệ
kinh doanh quá mức giữa các công ty kiểm toán và khách hàng.

7. Kiểm Soát Pháp Lý và Quản Lý Tài Liệu:


Tăng cường kiểm soát pháp lý và quản lý tài liệu trong ngành kiểm toán để ngăn chặn
việc tiêu hủy tài liệu liên quan, như đã thấy trong vụ Arthur Andersen hủy tài liệu liên
quan đến Enron.

Tác động này đã làm thay đổi cảnh quan của ngành kiểm toán Mỹ và đã góp phần vào
sự chú ý và nâng cao chất lượng của quá trình kiểm toán và báo cáo tài chính.

You might also like