You are on page 1of 105

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Công trình được hoàn thành tại: Khoa Luật - Đại học

KHOA LUẬT Quốc gia Hà Nội.

LÊ THẾ PHÚC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị
Lan Hương

ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO LUẬT DOANH Phản biện 1: ...........................................................


NGHIỆP VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ MỘT
VÀI KIẾN NGHỊ Phản biện 2:............................................................

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ : 60 38 50
Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ họp tại:..................................................
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
................................................................................
vào hồi......giờ........ngày......tháng.......năm 200

HÀ NỘI - NĂM 2006


Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện: Trung tâm
Thông tin Thư viện - Đại học Quốc gia Hà Nội

1 2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa 1
Lời cam đoan 2
Lời cảm ơn 3
Mục lục 4
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt 7
Danh mục các bảng 8
Mở đầu 9

Chương 1. Cơ sở lý luận của đăng ký kinh doanh và pháp luật về Đăng ký


kinh doanh 15
1.1. Đăng ký kinh doanh một phương thức thực hiện quyền tự do kinh
doanh 15
1.2. Vài nét về lịch sử pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam 16
1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh và pháp luật đăng ký kinh doanh 18
1.3.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh 18
1.3.2. Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh 20
1.4. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh 22
1.4.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh 22
1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh
doanh 22
1.4.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch 23
1.4.4. Nguyên tắc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm 24
1.4.5. Nguyên tắc giảm chi phí gia nhập thị trường 25
1.5. Đặc điểm của pháp luật về đăng ký kinh doanh 26
1.5.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang tính chất lãnh thổ sâu sắc 26

4
1.5.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc điểm của thủ tục hành
chính 26
1.5.3. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang bản chất tư pháp 27
1.5.4. Pháp luật về đăng ký kinh doanh vì mục đích kinh tế 27
1.5.5. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc trưng xã hội 28
1.6. Mục đích và ý nghĩa của pháp luật về đăng ký kinh doanh 28
1.6.1. Mục đích của pháp luật về đăng ký kinh doanh 28
1.6.2. ý nghĩa của pháp luật về đăng ký kinh doanh 31

Chương 2. Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh theo Luật doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay 34
2.1. Khái quát nội dung pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay ở
Việt Nam 34
2.1.1. Cơ quan đăng ký kinh doanh 37
2.1.2. Điều kiện đăng ký kinh doanh 39
2.1.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh 43
2.1.4. Giải quyết các tranh chấp về đăng ký kinh doanh 44
2.2. Những thành tựu đạt được của pháp luật về đăng ký kinh doanh 45
2.2.1. Những đổi mới mang tính tiên phong của Luật doanh nghiệp năm
1999 46
2.2.2. Tiếp tục ghi nhận những đổi mới tích cực trong Luật doanh
nghiệp năm 2005 48
2.3. Một số vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình xây dựng và thực
thi pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay 50
2.3.1. Về địa điểm đăng ký kinh doanh 51
2.3.2. Về nội dung đăng ký kinh doanh 54
2.3.3. Về chủ thể đăng ký kinh doanh 62

5
2.3.4. Về hồ sơ đăng ký kinh doanh 65
2.3.5. Về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh 66
2.3.6. Về giấy phép và điều kiện kinh doanh 70
2.3.7. Về cơ quan đăng ký kinh doanh 72
2.1.8. Giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh 76
2.4. Những nhân tố tác động tới thực trạng pháp luật về đăng ký kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay 79
2.4.1. Nền tảng chính trị chưa thực sự ủng hộ cho doanh nghiệp dân
doanh 79
2.4.2. Nền kinh tế kém phát triển và chưa ổn định 80
2.4.3. Đặc trưng văn hoá kìm hãm doanh nghiệp ra đời và phát triển 80
2.4.4. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập 82
2.4.5. Năng lực bộ máy, con người còn nhiều yếu kém 83

Chương 3. Một vài kiền nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam 85
3.1 Từ những hạn chế của pháp luật về đăng ký kinh doanh đến việc
hoàn thiện chính sách và pháp luật 85
3.2. Kiến nghị về Cơ quan đăng ký kinh doanh 87
3.3. Kiến nghị về chủ thể đăng ký kinh doanh 91
3.4. Kiến nghị về thủ tục đăng ký kinh doanh 91
3.5. Kiến nghị về giấy phép và điều kiện kinh doanh 94
3.6. Kiến nghị về cơ chế giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh 96

Kết Luận 98
tài liệu tham khảO 101

6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

DNNN Doanh nghiệp nhà nước


DNTN Doanh nghiệp tư nhân
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
LDN Luật doanh nghiệp
TNHH Trách nhiệm hữu hạn

7
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Cơ quan đăng ký kinh doanh 37


Bảng 2.2. Điều kiện chung về đăng ký kinh doanh 40
Bảng 2.3. Những chủ thể không được đăng ký kinh doanh 40
Bảng 2.4. Điều kiện về hồ sơ đăng ký kinh doanh 41
Bảng 2.5. Điều kiện về địa điểm đăng ký kinh doanh 42
Bảng 2.6. Điều kiện về nội dung đăng ký kinh doanh 43
Bảng 2.7. Thủ tục chung về đăng ký kinh doanh 44
Bảng 2.8. Đăng ký kinh doanh kiểu hành doanh nghiệp 52
Bảng 2.9. Tên doanh nghiệp, sao khó thế! 54
Bảng 2.10. Tên doanh nghiệp và truyền thống 58
Bảng 2.11. Doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh 60
Bảng 2.12. Thuế môn bài, rào cản mới đối với tinh thần kinh doanh 64
Bảng 2.13. Lỗ hổng hậu đăng ký kinh doanh 74
Bảng 2.14. Giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh 77

8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Đăng ký kinh doanh là một chế định quan trọng của Luật doanh nghiệp
(LDN), các chủ thể kinh doanh muốn được kinh doanh dưới các hình thức
pháp lý quy định trong LDN thì phải tiến hành đăng ký kinh doanh (ĐKKD)
theo quy định của LDN. Trên cơ sở các quy định của LDN, hoạt động ĐKKD
đã được tiến hành khá nhanh chóng về thủ tục, thông thoáng về điều kiện
thành lập. Cùng với việc đơn giản hoá thủ tục là việc giảm chi phí để thành
lập mới một doanh nghiệp, bãi bỏ những điều kiện mà doanh nghiệp khó đáp
ứng, đồng thời nâng cao yêu cầu và trách nhiệm của cơ quan nhà nước với các
doanh nghiệp. Do vậy, hiện nay để thành lập mới một doanh nghiệp theo quy
định của LDN về mặt lý thuyết là rất đơn giản.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế áp dụng các
quy định về ĐKKD đôi lúc mang lại những kết quả trái ngược, trong đó có
những kết quả không mong muốn, trái với mục đích của LDN. Những quy
định liên quan đến ĐKKD và thực tế hoạt động ĐKKD trên cả nước trong
thời gian qua đã bắt đầu nảy sinh nhiều vấn đề thể hiện ở các mặt như: buông
lỏng quản lý hoạt động ĐKKD; thủ tục ĐKKD và điều kiện kinh doanh đôi
lúc còn chưa rõ ràng và thiếu nhất quán; doanh nhân kinh doanh mà không
ĐKKD; hoạt động kinh doanh sai giấy phép kinh doanh; đặc biệt là nhiều địa
phương, ban ngành còn đặt ra nhiều rào cản khắt khe cho việc gia nhập thị
trường đối với doanh nhân thông qua việc ban hành các loại giấy phép kinh
doanh, chứng chỉ hành nghề kinh doanh… như là một yêu cầu bổ sung cho
điều kiện kinh doanh áp dụng cho một số ngành nghề, dịch vụ. Việc kéo dài
những hiện tượng này trong nền kinh tế nước ta đã khiến cho nhiều doanh
nhân khó tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách chính thức và công bằng.

9
Trước thực tế phát sinh trong hoạt động ĐKKD thời gian vừa qua đòi hỏi
cần có những nghiên cứu thật sự sâu sắc và toàn diện về bản chất của hoạt
động ĐKKD nói chung cũng như nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề này
nói riêng để từ đó có thể đưa ra những kiến giải cả về mặt cơ sở lý luận, cả về
mặt đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn.
Kết quả thu được từ những nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về hoạt
động ĐKKD trên cả bình diện lý thuyết và thực tiễn sẽ đem lại những kết luận
đúng đắn về nhiều vấn đề như: bản chất của ĐKKD là gì? Tại sao doanh nhân
phải ĐKKD? Pháp luật về ĐKKD nên được hoàn thiện như thế nào để đáp
ứng được nhu cầu khuyến khích toàn dân kinh doanh? Cần phải có những giải
pháp gì để cải thiện hơn nữa chất lượng các quy định của pháp luật về ĐKKD
cũng như hiệu quả việc áp dụng các quy định này trên thực tế?
Mặt khác, trong khuôn khổ của chương trình đào tạo thạc sĩ luật học –
Chuyên ngành luật kinh tế. Tác giả nhận thấy việc lựa chọn đề tài “Đăng ký
kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam – Thực trạng và một vài
kiến nghị” là phù hợp với mã ngành Luật kinh tế và hoàn toàn có thể giành
cho một học viên cao học thực hiện và hoàn thành trong thời gian nghiên cứu
khoảng sáu tháng.
Trên đây là những lý do thôi thúc tác giả lựa chọn nội dung nêu trên làm
đề tài nghiên cứu trong luận văn cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Nhìn chung hoạt động ĐKKD nói chung và pháp luật về ĐKKD nói
riêng đã được nghiên cứu và thực hiện từ trước khi ban hành LDN. Rất nhiều
các chương trình khảo sát các hoạt động khởi nghiệp của các doanh nhân
cũng như những hoạt động quản lý doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước
cũng đã được tiến hành. Đặc biệt, sau sáu năm thi hành LDN đã có rất nhiều

10
những khảo sát, tổng kết đánh giá quá trình thực hiện LDN của các cơ quan
Nhà nước cũng như các tổ chức tiến hành đánh giá hoạt động kinh doanh và
ĐKKD của các doanh nhân Việt Nam. Các báo cáo đánh giá hoạt động
ĐKKD của doanh nghiệp Việt Nam đã vạch ra nhiều thiếu sót và gợi mở cho
các nhà làm luật Việt Nam nhiều vấn đề cần phải được thay đổi.
Điển hình trong số đó là cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp cùng chương trình phát triển Liên Hợp
Quốc UNDP về LDN được tiến hành năm 2004, Cuộc khảo sát của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng với trương trình phát
triển kinh tế tư nhân MPDF năm 2005; chương trình nghiên cứu về khu vực
kinh tế phi chính thức của Ngân Hàng Thế Giới năm 2003. Báo cáo đánh giá
sáu năm thi hành LDN của CIEM và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức. Văn
phòng Quốc Hội và Chương trình phát triển kinh tế tư nhân có những tổng
hợp phân tích, đánh giá và bình luận về Dự án LDN thống nhất và Dự án Luật
đầu tư chung… Quá trình thi hành LDN cũng được giám sát và đánh giá
thường xuyên của Tổ công tác thi hành LDN. Bên cạnh đó còn nhiều những
bài viết trong các luận văn, luận án; các báo, tạp chí chuyên ngành về quản lý
nhà nước, chính sách pháp luật, chính sách kinh tế. Chẳng hạn Luật văn của
Nguyễn Thị Loan thực hiện tại Khoa Luật năm 200 về quyền tự do kinh
doanh; bài phát biểu của bà Phạm Chi Lan về Giấy phép kinh doanh đủ tốt và
đủ xấu để cải cách trên báo Tuổi trẻ [37]; bài của Nguyên Tấn về Tên doanh
nghiệp, sao khó thế ! trên Thời báo kinh tế Sài gòn [31, tr 11]…
Nhìn chung các bài viết trong những công trình nghiên cứu cũng như
trong các báo, tạp chí đã có nhiều tìm tòi, đánh giá về chính sách đối với hoạt
động ĐKKD của các doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu cũng đã khái
quát được bức tranh tương đối thực tế về hoạt động ĐKKD của doanh nghiệp
và của cơ quan nhà nước trên cơ sở những số liệu khảo sát thực tế. Các công

11
trình cũng đã vạch ra được những bất cập trong hệ thống pháp luật và những
yếu kém trong tổ chức bộ máy về ĐKKD, cũng như những yếu kém trong
thực thi pháp luật về ĐKKD. Tuy nhiên, những công trình nêu trên mới phần
nào phác hoạ được những thành công hay hạn chế của LDN nói chung khi
được áp dụng trong thực tiễn mà chưa đưa ra được những đánh giá và yêu cầu
riêng đối với pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những bài viết chưa đưa ra được những yêu cầu có hệ thống đối với chính
sách pháp luật về ĐKKD và hướng hoàn thiện chính sách pháp luật về ĐKKD
phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là những vấn đề mới
phát sinh trong giai đoạn hiện nay về điều kiện ĐKKD, thẩm quyền của cơ
quan ĐKKD, quản lý thông tin ĐKKD và những rào cản đối với các doanh
nhân trong suốt quá trình tiến hành ĐKKD.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


Bản luận văn này được thực hiện với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của hoạt động ĐKKD, phân tích thực trạng pháp luật và thực trạng áp
dụng pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này trong tương
lai.
Bản luận văn cũng giành nhiều nội dung để tìm hiểu về những nguyên
nhân thúc đẩy hay cản trở các doanh nhân ĐKKD theo LDN, những nguyên
nhân thúc đẩy các cán bộ, công chức áp dụng đúng đắn và sáng tạo các quy
định của LDN về ĐKKD. Thông qua kết quả nghiên cứu, bản luận văn này
cũng có mong muốn đưa ra những khuyến nghị cho cơ quan nhà nước nên
làm gì và làm như thế nào trước những bất cập trong xây dựng và thực thi các
quy định pháp luật này.

12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật
và chính sách hiện hành của Nhà nước về ĐKKD. Bên cạnh đó, luận văn cũng
nghiên cứu một số nhân tố có tác động đến hoạt động ĐKKD của doanh nhân,
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phân tích và đánh giá những vấn đề
liên quan đến hoạt động ĐKKD của doanh nhân bao gồm những yếu tố tác
động đến doanh nhân trong quá trình doanh nhân thực hiện các quy định của
pháp luật về ĐKKD. Bên cạch việc tập trung nghiên cứu hoạt động ĐKKD
theo quy định của LDN năm 1999 và năm 2005, luận văn cũng giành một
phần nội dung để phân tích hoạt động ĐKKD của các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật đầu tư nước ngoài, Luật doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật hợp tác xã.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


Trong bản luận văn này tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu;
phương pháp tổng hợp; phương pháp đánh giá. Tất cả những phương pháp
được sử dụng đều dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.

6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn


Luận văn được thực hiện trên cơ sở tổng kết thực tiễn của hơn sáu năm
thi hành LDN, thực tiễn áp dụng luật này sẽ là cơ sở để tác giả đi sâu làm rõ
hơn nữa cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ĐKKD áp dụng cho các chủ
thể kinh doanh. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những thông tin
có giá trị với lý luận và thực tiễn. Những khuyến nghị được đưa ra trong luận

13
văn sẽ có giá trị tham khảo hữu ích đối với cơ quan nhà nước, các cán bộ,
công chức nhà nước những người trực tiếp vận dụng các quy định pháp luật
trong thực tiễn và các doanh nhân, những người chịu tác động trực tiếp từ
những quy định này.

7. Kết cấu và nội dung của luận văn


Luận văn được bố cục thành ba chương và phần kết luận, mỗi chương
được viết nhằm giải quyết từng nhiệm vụ cụ thể. Nội dung các chương có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau tạo cơ sở để hoàn thành mục đích nghiên cứu của
cả luận văn. Kết thúc mỗi chương là kết luận của từng chương, phần cuối
cùng là kết luận của luận văn.

Chương 1. Cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam


Trong chương này tác giả nêu và phân tích những vấn đề liên quan đến
cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD. Cụ thể chương này tác giả
tập trung phân tích khái niệm và bản chất của ĐKKD và pháp luật ĐKKD.
Mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc của các quy định pháp luật về ĐKKD ở
Việt Nam trong điều kiện hiên nay.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về ĐKKD theo LDN ở Việt Nam hiện
nay
Trong chương này tác giả tập trung tìm hiểu nội dung pháp luật về
ĐKKD, thực trạng ban hành và thực thi pháp luật về ĐKKD hiện nay. Phát
hiện những tồn tại, bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
ĐKKD, từ đó xác định những nhân tố tác động đến thực trạng pháp luật về
ĐKKD ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam

14
Trên cơ sở những mặt hạn chế của pháp luật về ĐKKD của Việt Nam
hiện nay. Tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
ĐKKD cũng như việc áp dụng pháp luật về ĐKKD trong thời gian tới.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH

1.1. Đăng ký kinh doanh một phương thức thực hiện quyền tự do
kinh doanh
Đối với mỗi người kinh doanh gắn liền với lao động để mưu sinh, hoạt
động kinh doanh vì thế mà khó phân biệt với lao động kiếm sống, tạo thu
nhập. Chính vì vậy nếu nói kinh doanh là quyền tự do gắn liền với quyền cơ
bản của con người cũng không có gì sai lệch. Trong xã hội hiện đại, quyền tự
do kinh doanh ngày càng được coi trọng, nhưng cũng trong xã hội này, càng
ngày càng có nhiều những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh. Những
hạn chế nếu có theo chúng tôi cũng rất hợp lý và nhân bản. Bởi trong thời đại
mà một ý tưởng cũng có thể mang lại rất nhiều tiền thì những quy định bảo vệ
ý tưởng hợp pháp của người này và hạn chế quyền của người khác là có thể
chấp nhận được. Mặt khác, xã hội và pháp luật cần phải có sự giám sát và
quản lý những chủ thể được ĐKKD để hạn chế những tác động không mong
muốn của những chủ thể này tới xã hội và quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể khác. ĐKKD vì thế mà là nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh muốn
được tự do kinh doanh hợp pháp dưới những quy mô và hình thức mà pháp
luật quy định. Do đó, xét ở khía cạnh những quyền và lợi ích mà chủ thể

15
ĐKKD được hưởng sau khi ĐKKD so với những chủ thể chưa hoặc không
ĐKKD thì ĐKKD được nhìn nhận như là một phương thức thực hiện quyền
tự do kinh doanh.
Ở Việt Nam công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật (Điều 57 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992). Trong đó quyền tự do trong việc thành lập doanh nghiệp, hộ kinh
doanh đã được LDN năm 1999 quy định tại Điều 13 “Tổ chức, cá nhân Việt
Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam …”, quy định này vẫn tiếp tục được kế thừa trong LDN
năm 2005. Theo quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh
và quyền ĐKKD thì về cơ bản kinh doanh là quyền tự do nhưng ĐKKD là
nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh. Để được kinh doanh dưới những quy mô và
hình thức theo quy định, doanh nhân có nghĩa vụ phải ĐKKD. Vì vậy, ĐKKD
vừa là nghĩa vụ của doanh nhân vừa là một phương thức để doanh nhân thực
hiện quyền tự do kinh doanh của mình.

1.2. Vài nét về lịch sử pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
Khi nhìn lại lịch sử pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam, chúng ta cũng
không hy vọng học hỏi được nhiều từ một xã hội không coi trọng thương mại
và pháp luật. Trong lịch sử hàng nghìn năm phong kiến, cũng giống như nền
ngoại thương, các thiết chế tổ chức kinh doanh và các quy định về ĐKKD
cũng rất mờ nhạt. Một xã hội “dĩ nông vi bản” không coi trọng thương nhân
và thương mại đã không tạo cho xã hội nhiều điều kiện thuận lợi để tổ chức
kinh doanh. Các quy định hiếm hoi mà lịch sử ghi nhận được về hoạt động
ĐKKD trong truyền thống đó là dưới thời Minh Mạng, các phường, hội, ty
(còn được gọi là cuộc) do nhiều gia đình hợp thành nếu có mười người trở
lên, tự chọn ra người lãnh đạo (cuộc trưởng) và được quan Bố chánh cho phép

16
hoạt động thì hàng năm phải trình quan tỉnh một bản hộ tịnh gồm tên, ngày
sinh và quê quán của những người trong cuộc [25, tr 62]. Như vậy, một thứ sơ
khai của ĐKKD đã hình thành, mục đích chính là để quản lý thuế và các
nghĩa vụ của cuộc [38, tr 238].
Đăng ký kinh doanh thời Pháp thuộc cũng không có nhiều quy định cho
chúng ta tham khảo bởi thời kỳ này pháp luật chủ yếu ban bố chế độ đặc
quyền kinh doanh và khai thác tài nguyên cho người Pháp. Pháp luật kinh
doanh và ĐKKD thời kỳ này cũng không được mở rộng và khuyến khích cho
mọi người dân trong xã hội.
Khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã ban hành những quy định đầu tiên về ĐKKD với mục đích tập thể hoá
và kế hoạch hoá nền sản xuất của miền Bắc. Do đó, các quy định về ĐKKD
chủ yếu tập trung vào phát triển nền sản xuất tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế
ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển. Trong giai đoạn từ
năm 1954 đến năm 1986 Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản về
ĐKKD. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về ĐKKD trong giai đoạn
này chủ yếu được ban hành dưới hình thức văn bản dưới luật, trong đó có sự
phân biệt rất rõ ràng thủ tục ĐKKD giữa hình thức đơn vị kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể và cá thể ngoài quốc doanh. Các đơn vị kinh tế quốc doanh
được ĐKKD khá đơn giản (khi có quyết định thành lập), còn các đơn vị kinh
tế tập thể và cá thể thủ tục sẽ phức tạp hơn. Nhìn chung, các quy định về
ĐKKD thời kỳ này mang nặng tư duy quản lý kinh tế cũ, thiếu tính thống nhất
và những nội dung chủ yếu của một hệ thống ĐKKD hiệu quả.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã thể chế hóa mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh và tổ chức kinh doanh
của tổ chức, cá nhân trong và ngoài quốc doanh. Cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng
định tư tưởng này đó là Luật công ty và LDN tư nhân năm 1990. Cũng từ đây,

17
chế định ĐKKD đã có những bước phát triển mới trên cơ sở những quy định
của luật và các quy định hướng dẫn thi hành hai đạo luật này.
Tuy có nhiều điểm tiến bộ so với những quy định về ĐKKD trước đó
nhưng những quy định về ĐKKD trong giai đoạn này còn rất nhiều điểm còn
hạn chế. Để các quy định pháp luật về ĐKKD thực sự là động lực khuyến
khích toàn dân kinh doanh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì pháp luật về
ĐKKD cũng như cách thức thực hiện các quy định này phải có sự thay đổi
căn bản trong tình hính mới của đất nước.

1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh và pháp luật đăng ký kinh
doanh
1.3.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh
Đăng ký kinh doanh là một thuật ngữ khá mới trong hệ thống thuật ngữ
luật học ở nước ta. Thuật ngữ ĐKKD xuất hiện lần đầu tiên trong Luật công
ty năm 1990 và tiếp tục được sử dụng trong các văn bản pháp luật về tổ chức
kinh doanh sau này. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 về cơ bản mới chỉ
quy định ĐKKD như là một chế định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
kinh doanh mà chưa có quy định về thuật ngữ ĐKKD.
Thuật ngữ ĐKKD được ghép từ hai từ ghép “đăng ký” và “kinh doanh”.
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt [47, tr 60], đăng ký được hiểu là “ghi
vào sổ của cơ quan quản lý để chính thức được công nhận cho hưởng quyền
lợi hay làm nghĩa vụ”. Kinh doanh theo giải thích từ ngữ tại khoản 2 Điều 4
của LDN năm 2005 là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trên cơ sở các quy định của LDN, có thể khẳng định ĐKKD là nghĩa vụ
của các chủ thể muốn kinh doanh và của các cơ quan quản lý nhà nước về

18
ĐKKD. Đối với chủ thể muốn kinh doanh, ĐKKD được hiểu là đăng ký để
được kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận theo quy định của pháp luật,
để được hưởng các quyền lợi hay để thực hiện các nghĩa vụ. Đối với các cơ
quan nhà nước, ĐKKD là việc thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của
mình để thiết lập nên và quản lý một chủ thể pháp lý có mục đích kinh doanh.
Để thành lập một chủ thể pháp lý có chức năng kinh doanh theo quy định của
LDN, chủ thể ĐKKD phải đáp ứng được các điều kiện ĐKKD, hoàn chỉnh hồ
sơ ĐKKD, có nội dung ĐKKD phù hợp và thực hiện các trình tự, thủ tục
ĐKKD. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm kiểm tra các điều kiện ĐKKD,
hồ sơ ĐKKD, nội dung ĐKKD và hướng dẫn các chủ thể ĐKKD thực hiện
các trình tự, thủ tục theo quy định để có căn cứ cho phép hay không cho phép
ĐKKD. Do đó, ĐKKD có thể được hiểu là:
“Đăng ký kinh doanh là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức thực
hiện các yêu cầu về điều kiện, nội dung và trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật nhằm thiết lập nên một chủ thể pháp lý (công cụ
pháp lý) có chức năng kinh doanh.”
Trong phạm vi khái niệm này, các chủ thể tiến hành ĐKKD có thể là cá
nhân, tổ chức muốn ĐKKD hoặc là các công chức, cơ quan nhà nước có trách
nhiệm tiến hành ĐKKD. Chủ thể kinh doanh chỉ được hình thành hoặc được
thay đổi nội dung đã ĐKKD khi đáp ứng được các điều kiện về hồ sơ, nội
dung và thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật về
ĐKKD.
Khái niệm ĐKKD nêu trên không được dùng với mục đích duy nhất để
hình thành một doanh nghiệp bởi theo quy định của pháp luật hiện hành thì
ĐKKD không chỉ tạo ra doanh nghiệp hoạt động theo LDN mà còn tạo ra các
chủ thể kinh doanh khác không hoạt động theo LDN và không phải là một

19
loại hình doanh nghiệp như các hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã.
Thuật ngữ ĐKKD sẽ không bị giới hạn bởi quy mô và hình thức ĐKKD,
có nghĩa là ĐKKD sẽ không chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp mà
còn được thực hiện cả khi ĐKKD hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh
doanh.
ĐKKD thành lập mới một doanh nghiệp, chủ thể ĐKKD sẽ được cấp
giấy chứng nhận ĐKKD, giấy chứng nhận ĐKKD chính là sự ghi nhận của
Nhà nước về việc chủ thể kinh doanh đã ĐKKD và cam kết với Nhà nước về
việc sẽ hoàn thành các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Giấy chứng nhận ĐKKD có bản chất khác với giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chứng nhận về vốn pháp định… (gọi
chung là điều kiện kinh doanh). Về mặt chủ thể cấp thì giấy chứng nhận
ĐKKD được cấp thống nhất bởi các Cơ quan nhà nước về ĐKKD (ví dụ như
các Phòng ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện). Tuỳ theo từng ngành nghề, lĩnh
vực mà điều kiện kinh doanh được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau dưới
hình thức cấp phép hoặc thẩm định mà không nhất thiết phải do Cơ quan
ĐKKD thực hiện.

1.3.2. Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh


ĐKKD và pháp luật về ĐKKD về mặt nội dung có nội hàm khá giống
nhau. Khi nói đến ĐKKD là nói đến những nội dung, hoạt động, thủ tục của
các chủ thể liên quan nhằm thiết lập nên một chủ thể pháp lý có chức năng
kinh doanh hoặc thực hiện các thủ tục hành chính khác liên quan đến tư cách
pháp lý của doanh nghiệp trước Nhà nước và pháp luật. ĐKKD về bản chất là
những hoạt động nhằm mục đích tạo nên mối quan hệ pháp lý giữa một chủ

20
thể kinh doanh và Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật. Trong khi đó
pháp luật về ĐKKD có nội dung là những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động ĐKKD của các chủ thể. Do đó, trong thực tiễn ĐKKD sẽ có những hoạt
động nhằm mục đích thực hiện ĐKKD nhưng lại chưa được pháp luật về
ĐKKD điều chỉnh. Pháp luật về ĐKKD có thể được hiểu là:
“Pháp luật về đăng ký kinh doanh là tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận bắt buộc áp dụng
và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những vấn đề về điều kiện,
nội dung và trình tự thủ tục đăng ký kinh doanh.”
Theo khái niệm này pháp luật về ĐKKD sẽ không chỉ giới hạn trong các
quy định về ĐKKD theo LDN mà sẽ bao gồm cả những quy phạm pháp luật
về ĐKKD được ban hành tại các văn bản pháp luật khác như Luật DNNN,
Luật đầu tư, Luật hợp tác xã... Tuy vậy, trong phạm vi luận văn này các quy
định pháp luật được nghiên cứu chủ yếu là các quy định về ĐKKD theo LDN
và một số văn bản có liên quan.
Pháp luật về ĐKKD là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan
hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về ĐKKD với cá
nhân, tổ chức có liên quan về việc đăng ký, thay đổi nội dung ĐKKD tại Việt
Nam. Các quy định của pháp luật về ĐKKD chủ yếu được điều chỉnh đối với
các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam. Pháp luật về ĐKKD theo nghĩa rộng cũng điều
chỉnh hoạt động kinh doanh và ĐKKD ra nước ngoài của các tổ chức, cá
nhân, tuy vậy trong phạm vi luận văn này tác giả không đi sâu nghiên cứu các
quy định pháp luật về ĐKKD ra nước ngoài mà chỉ tập trung nghiên cứu các
quy định về ĐKKD theo LDN.

21
1.4. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.4.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là quyền dân sự – kinh tế quan trọng của mỗi
con người, chúng bắt nguồn từ quyền cơ bản của con người và được coi là
nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận quyền
này tại Điều 57 của Hiến pháp năm 1992 “công dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật”. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 đã cụ
thể hoá quyền tự do kinh doanh trong nội dung của Luật. Doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế có quyền tự do kinh doanh các ngành, nghề mà pháp
luật không cấm (khoản 1 Điều 7 của LDN năm 2005); có quyền tự chủ và
phải tự trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh; được lựa chọn, thay đổi hình
thức tổ chức quản lý nội bộ, hình thức đầu tư – kinh doanh phù hợp và được
Nhà nước bảo hộ (Điều 8 của LDN năm 2005). Nhà nước tôn trọng quyền tự
chủ kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp, áp dụng phổ biến chế độ đăng ký
thay cho cấp phép, xoá bỏ những quy định xin cho, phê duyệt, chấp thuận bất
hợp lý gây phiền hà cho doanh nghiệp.

1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh
doanh
Quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh có cơ sở từ đặc điểm phổ
quát của pháp luật đó là pháp luật có giá trị áp dụng như nhau đối với mọi đối
tượng chịu sự điều chỉnh mà không có sự phân biệt. Mọi chủ thể kinh doanh
hoạt động trong cùng một môi trường pháp lý sẽ có các quyền và nghĩa vụ
như nhau mà không có sự phân biệt doanh nghiệp lớn hay nhỏ, DNNN hay
doanh nghiệp dân doanh.

22
Thể chế hoá sâu sắc đường lối đổi mới và các chủ trương chính sách đã
được khẳng định tại Đại hội lần thứ IX của Đảng và các Hội nghị của ban
chấp hành Trung ương đảng; nhất là chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách phát huy
tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. LDN năm 2005 đã thể
chế hoá mạnh mẽ các nội dung trong các văn kiện nêu trên. Khoản 1 Điều 5
của LDN năm 2005 quy định “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát
triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật này; bảo đảm
sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình
thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt
động kinh doanh”.

1.4.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch


Trong các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là
thành viên nguyên tắc công khai, minh bạch là những yêu cầu bắt buộc đối
với các cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước. Đối với pháp luật trong
nước nguyên tắc công khai, minh bạch đang dần trở thành một nguyên tắc cơ
bản của cả hệ thống pháp luật Việt Nam. Pháp luật về ĐKKD là một lĩnh vực
pháp luật vừa liên quan đến doanh nghiệp vừa liên quan đến thủ tục hành
chính. Do vậy, việc áp dụng nguyên tắc công khai, minh bạch đối với các
doanh nghiệp và cơ quan nhà nước cũng đang là những yêu cầu cấp bách
nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật về ĐKKD. Nguyên tắc công khai minh
bạch yêu cầu các doanh nghiệp trung thực trong việc ĐKKD, công khai hoá
và minh bạch hoá các hoạt động liên quan đến ĐKKD đặc biệt là khi thay đổi
các nội dung đã ĐKKD. Đối với các công chức, cơ quan nhà nước nguyên tắc
này yêu cầu phải công khai tất cả những luật và quy định liên quan tới

23
ĐKKD, công khai hoá các thủ tục và điều kiện phải thực hiện khi ĐKKD.
Các quy định và thủ tục về ĐKKD phải được người dân tiếp cận một cách dễ
dàng. Bên cạnh đó, các quy định, thủ tục và chính sách có ảnh hưởng và tác
động đến các doanh nghiệp cần phải tham vấn các doanh nghiệp một cách
công khai trước khi được ban hành và có hiệu lực và chỉ những quy định và
thủ tục được tham vấn như vậy mới có hiệu lực. Doanh nghiệp và người dân
có quyền giám sát, đánh giá hoạt động của công chức cũng như của các cơ
quan nhà nước và có quyền thông tin lại cho các cơ quan có thẩm quyền đối
với những hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, cần phải có cơ chế tài phán
hiệu quả để xử lý những hành vi lạm quyền của các cán bộ, công chức.

1.4.4. Nguyên tắc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm


Để tạo cho doanh nghiệp môi trường tự do kinh doanh thì việc can thiệp
của công quyền vào doanh nghiệp càng ngày càng phải được giảm bớt. Bên
cạnh việc giảm bớt những rào cản khắt khe khi gia nhập thị trường cho doanh
nghiệp, phải đồng thời tăng cường trách nhiệm hậu kiểm của các chủ thể liên
quan. Bên cạnh trách nhiệm hậu kiểm của các cơ quan ĐKKD nói riêng và
các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, trách nhiệm hậu kiểm còn thuộc về
xã hội, đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, hiệp hội người tiên dùng, các hiệp
hội ngành nghề và các chủ nợ [44, tr 100]. Ngoài ra, chức năng kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp cũng đóng góp tích cực vào cơ chế hậu kiểm. Việc
chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị
trường vì cơ chế tiền kiểm vừa hạn chế quyền tự do kinh doanh, vừa mang lại
môi trường tiêu cực khi thực hiện. Cơ chế hậu kiểm coi việc khuyến khích,
trợ giúp là một trong những chức năng chính của từng công chức và cơ quan
nhà nước. Quy chế này coi nhà đầu tư, doanh nghiệp là đối tượng phục vụ của
cơ quan hành chính Nhà nước. Trách nhiệm giám sát doanh nghiệp không chỉ

24
là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn
xã hội, do đó cần có cơ chế và biện pháp khuyến khích các cơ chế hậu kiểm
ngoài nhà nước hoạt động có hiệu quả. Điều này muốn thực hiện được phải
thay đổi cơ bản phong cách làm việc của từng công chức và từng cơ quan nhà
nước cũng như những quy định và chính sách đối với doanh nghiệp.

1.4.5. Nguyên tắc giảm chi phí gia nhập thị trường
Nguyên tắc giảm chi phí gia nhập thị trường là một nguyên tắc quan
trọng của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về ĐKKD. Nguyên tắc này
yêu cầu các quy định của pháp luật về ĐKKD nói riêng cũng như các quy
định pháp luật về gia nhập thị trường của doanh nghiệp nói chung phải giảm
đến mức thấp nhất chi phí cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp ra nhập thị
trường. Điều này sẽ rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp mới lần đầu bước
vào thị trường kinh doanh, đang còn nhiều khó khăn. Thực hiện tốt được
nguyên tắc này sẽ bảo đảm cho việc thành lập doanh nghiệp nhanh chóng với
chi phí thấp, tạo thuận lợi hơn cho gia nhập thị trường. Tuy vậy, nguyên tắc
giảm chi phí gia nhập thị trường chỉ có thể được thực hiện có hiệu quả khi
được thực hiện đồng bộ trên tất cả các quy định về gia nhập thị trường. Giảm
chi phí nếu chỉ được thực hiện trong các quy định về ĐKKD thì sẽ chỉ có ý
nghĩa giảm chi phí ở khâu ĐKKD mà không có nhiều ý nghĩa đối với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Giảm chi phí gia nhập thị trường, chi phí
ĐKKD cần phải được cân nhắc trong mối tương quan với các điều kiện về
ĐKKD và yêu cầu về vốn tối thiểu khi ĐKKD. Mặc dù yêu cầu về vốn tối
thiểu và các yêu cầu về điều kiện ĐKKD không ảnh hưởng trực tiếp đến chi
phí ĐKKD nhưng chúng lại có những ảnh hưởng gián tiếp qua việc bảo đảm
an toàn pháp lý cho thị trường khi ĐKKD. Do đó việc giảm chi phí gia nhập

25
thị trường phải đảm bảo được các doanh nghiệp mới thành lập sẽ vẫn an toàn
cho thị trường và cho những chủ nợ.

1.5. Đặc điểm của pháp luật về đăng ký kinh doanh


1.5.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang tính chất lãnh thổ sâu
sắc
Đặc điểm quan trọng của pháp luật về ĐKKD đó là pháp luật về ĐKKD
luôn thể hiện tính chất lãnh thổ sâu sắc. Tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn
kinh doanh tại Việt Nam bắt buộc phải tiến hành ĐKKD theo luật Việt Nam
và ngược lại tổ chức, cá nhân Việt Nam muốn kinh doanh ở nước ngoài phải
ĐKKD theo pháp luật của nước sở tại. Tại các quốc gia khác nhau thủ tục
ĐKKD và đăng ký đầu tư sẽ được tiến hành rất khác nhau và pháp luật mỗi
quốc gia đều khai sinh ra những doanh nghiệp có quốc tịch tại chính quốc gia
đó. Do đó, doanh nghiệp và quốc tịch của doanh nghiệp luôn gắn liền với hệ
thống pháp luật về ĐKKD của mỗi một quốc gia. Pháp luật quốc tế thông
thường vẫn thừa nhận công ty hay doanh nghiệp của các quốc gia nhưng việc
thành lập chủ thể kinh doanh của công ty hay doanh nghiệp đó tại quốc gia
mình phải được thực hiện từ đầu theo pháp luật quốc gia của nước sở tại.

1.5.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc điểm của thủ tục
hành chính
Pháp luật về ĐKKD có đặc điểm là một thủ tục hành chính bắt buộc,
trong đó người đại diện doanh nghiệp phải khai trình với cơ quan Nhà nước
và giới kinh doanh về hoạt động kinh doanh của mình. Đăng ký kinh doanh
nhìn ở góc độ quản lý Nhà nước là một hoạt động mang tính chất hành chính,
từ đó Nhà nước ghi nhận cho chủ thể đăng ký được chính thức hưởng các
quyền lợi hay thực hiện nghĩa vụ của một tổ chức kinh doanh. Do đó, để hoạt

26
động kinh doanh được chính thức tuân thủ theo những quy định của pháp luật
thì chủ thể kinh doanh phải ĐKKD theo thủ tục hành chính mà pháp luật đã
quy định.

1.5.3. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang bản chất tư pháp
Pháp luật về ĐKKD còn mang bản chất tư pháp, bởi ĐKKD vừa là sự
ghi nhận của Nhà nước về các quyền và lợi ích mà chủ thể ĐKKD được
hưởng nhưng cũng từ khi ĐKKD, tổ chức kinh doanh được ĐKKD sẽ có
những quyền và nghĩa vụ tư pháp khi tổ chức kinh doanh đó tham gia những
quan hệ tố tụng. Điều này sẽ được thể hiện rất rõ khi tổ chức kinh doanh lâm
vào tình trạng phá sản. Chủ thể ĐKKD là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã, hộ kinh doanh sẽ chịu ảnh hưởng của các quy phạm pháp luật tố
tụng rất khác so với các chủ thể không ĐKKD. Điều 29 của Bộ luật tố tụng
dân sự quy định tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có ĐKKD với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì
thuộc thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế (Toà kinh tế). Các tranh chấp
giữa các chủ thể không có ĐKKD hoặc chỉ có một bên có ĐKKD thì sẽ thuộc
thẩm quyền giải quyết các vụ án về dân sự (Xem Điều 29 của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 và Mục 1 Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-1-
2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004).

1.5.4. Pháp luật về đăng ký kinh doanh vì mục đích kinh tế


Pháp luật về ĐKKD mang mục đích kinh tế, bởi ĐKKD sẽ khai sinh ra
một chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh này sẽ có những quan hệ kinh tế
với khách hàng và bạn hàng, từ đó tạo ra những lợi ích kinh tế cho xã hội. Do

27
vậy, trong xã hội hiện đại ĐKKD khai sinh ra cho xã hội những chủ thể để
hoạt động kinh doanh trước hết để thu lợi nhuận cho mình sau đó sẽ tạo ra
phúc lợi cho xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay không chỉ có những
doanh nghiệp được thành lập vì mục đích lợi nhuận mà còn có các doanh
nghiệp được thành lập không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt động vì mục đích
phục vụ cộng đồng.

1.5.5. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc trưng xã hội
Pháp luật về ĐKKD mang đặc điểm của xã hội và vì mục đích phát triển
xã hội. Mỗi hệ thống pháp luật về ĐKKD khác nhau sẽ mang những đặc
điểm, những chính sách của từng xã hội mà hệ thống pháp luật đó được xây
dựng và phát triển. Hoạt động kinh doanh cũng như cách thức thực hiện hoạt
động thông qua ĐKKD có mục đích là thu lợi nhuận và thường mang lại
nhiều tác động tích cực, nhưng đôi lúc cũng mang lại những tác động tiêu
cực. Đặc điểm của xã hội Việt Nam cũng tác động tới hệ thống pháp luật về
ĐKKD làm cho hệ thống pháp luật này có những đặc điểm khác biệt so với
quy định pháp luật về ĐKKD của các nước khác.

1.6. Mục đích và ý nghĩa của pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.6.1. Mục đích của pháp luật về đăng ký kinh doanh
Pháp luật về ĐKKD ở nhiều quốc gia nhìn chung đều ghi nhận sự điều
chỉnh đối với hai đối tượng chính đó là Nhà nước và các chủ thể kinh doanh.
Tuy nhiên mục đích của hai đối tượng này khi tiến hành ĐKKD không phải
lúc nào cũng đồng nhất. Khi mục đích của hai đối tượng này đồng nhất với
nhau thường tạo ra sự thuận lợi cho việc áp dụng, nhưng khi mục đích của các
chủ thể đối nghịch nhau lại thường làm giảm hiệu quả của các quy phạm pháp
luật điều chỉnh nó.

28
Mục đích của Nhà nước
Đối với Nhà nước, ĐKKD là cơ sở để Nhà nước thu thập những thông
tin về các doanh nghiệp đăng ký để từ đó thực hiện trách nhiệm quản lý, kiểm
tra, giám sát doanh nghiệp. Thông qua hoạt động này Nhà nước sẽ cho phép
hay không cho phép những cá nhân, tổ chức được tiến hành kinh doanh trong
một lĩnh vực nhất định, loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không đủ
điều kiện kinh doanh từ đó bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích chung
của toàn xã hội và của các chủ thể kinh doanh khác. Doanh nghiệp kinh doanh
luôn hướng đến mục đích thu được lợi nhuận, khi Nhà nước cho phép doanh
nghiệp kinh doanh sẽ là lúc phát sinh nghĩa vụ đóng thuế đối với doanh
nghiệp, càng nhiều doanh nghiệp hoạt động và hoạt động hiệu quả số thuế
Nhà nước thu được càng nhiều. Quyền thu thuế đối với doanh nghiệp thuộc
về Nhà nước nhưng Nhà nước cũng có nghĩa vụ thực hiện các công việc hỗ
trợ và phục vụ tốt nhu cầu gia nhập thị trường cũng như nhu cầu hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước sẽ phân chia trách nhiệm quản lý, hỗ
trợ và phục vụ các nhu cầu của doanh nghiệp cho các cấp chính quyền và các
cơ quan chuyên trách của mình.
Mặt khác, thông qua việc ĐKKD Nhà nước sẽ phải xây dựng và điều
chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu đầu tư - kinh doanh sao cho phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế, xã hội bền vững của đất nước. Bên cạnh việc
khuyến khích phát triển kinh doanh, ĐKKD còn có mục đích tạo việc làm, thu
nhập cho người lao động đồng thời kết hợp việc phát triển kinh tế với việc
bảo vệ môi trường.

Mục đích của doanh nhân, doanh nghiệp


Đối với Doanh nghiệp, ĐKKD là cơ sở để doanh nghiệp chính thức hóa
hoạt động kinh doanh của mình. Thay vì kinh doanh không đăng ký để trốn

29
thuế, doanh nghiệp có ĐKKD sẽ chính thức hoá hoạt động của mình trước hết
là đối với Nhà nước, sau đó là với người tiêu dùng trong xã hội và với những
đối tác. ĐKKD cũng là cơ sở để doanh nghiệp hình thành nên mối quan hệ
mang tính pháp lý với các cơ quan nhà nước điều này cũng đồng nghĩa với
việc sẽ giảm được các gánh nặng hành chính cho các doanh nghiệp [29, tr 6].
Từ khi ĐKKD doanh nghiệp sẽ được tham gia vào các quan hệ kinh doanh và
thị trường do pháp luật điều chỉnh. Thông qua việc ĐKKD doanh nghiệp sẽ
có nhiều quyền hơn một chủ thể chưa có ĐKKD chẳng hạn như quyền thuê
trên 10 lao động, quyền mua hoá đơn hoặc tiến hành các hoạt động xuất nhập
khẩu. Việc ĐKKD của doanh nghiệp còn là công cụ để doanh nghiệp có thể
hạn chế được những rủi do pháp lý có thể gặp phải, đồng thời cũng khuyến
khích đề cao khả năng tự bảo vệ của cộng đồng và của những doanh nghiệp
khác.
Về mặt lợi ích kinh tế, khi doanh nghiệp có ĐKKD thì cơ hội và yêu cầu
luôn thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cao hơn, với quy mô lớn hơn
để có cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn. ĐKKD tạo cho doanh nghiệp được
hoạt động trong môi trường chính thức từ đó sẽ giúp doanh nghiệp giảm các
chi phí gián tiếp của hoạt động phi chính thức do không ĐKKD mang lại
[21,tr42]. Thông qua việc có quy chế pháp lý của một chủ thể kinh doanh,
doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc vay vốn của các tổ chức tín
dụng hoặc phát hành cổ phiếu để tăng lượng vốn đầu tư. Mặt khác ĐKKD
cũng giúp doanh nghiệp tiếp cận với thị trường nước ngoài tốt hơn, cơ hội
liên doanh, hợp tác nhiều hơn. Doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động ra
nước ngoài, mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài.

30
1.6.2. Ý nghĩa của pháp luật về đăng ký kinh doanh
Xét cho cùng, việc ĐKKD chỉ là thiết lập công cụ hay chủ thể pháp lý để
thực hiện sáng kiến kinh doanh và cơ hội kinh doanh. ĐKKD sẽ hình thành
lên các chủ thể kinh doanh được hoạt động trong một môi trường pháp lý
công bằng và bình đẳng. Đặc biệt là có nhiều các cơ hội bình đẳng để tiếp cận
các nguồn lực, nguồn tài nguyên một cách đầy đủ. Cùng với việc tiếp cận các
nguồn lực, pháp luật về ĐKKD còn tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh,
bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh không phân biệt quy mô kinh doanh,
thành phần kinh tế.
Pháp luật về ĐKKD còn có ý nghĩa hạn chế những tác hại mà hoạt động
kinh doanh không đăng ký mang lại. Nếu việc kinh doanh dưới những quy mô
lớn mà không ĐKKD hoặc có ĐKKD những lại không thực hiện đúng và đủ
các điều kiện kinh doanh thì chi phí và hậu quả cho hoạt động kinh doanh như
vậy cao hơn hoạt động đúng với yêu cầu của pháp luật. Hậu quả của những
hoạt động kinh doanh như vậy thường là khá lớn và không thể lường hết được
những hậu quả sẽ xẩy ra trong tương lai.
Pháp luật về ĐKKD có bản chất là hoạt động mang tính chất hành chính
và tư pháp. Do đó việc cải cách hệ thống pháp luật về ĐKKD sẽ kéo theo
những tiến bộ trong việc lành mạnh và đơn giản các thủ tục ĐKKD theo
hướng đơn giản và thuận tiện. Từ đó hoàn thiện pháp luật về ĐKKD sẽ gián
tiếp thúc đẩy cải cách hành chính và tư pháp.
Bên cạnh đó, việc các chủ thể kinh doanh thực hiện và tuân thủ tốt các
điều kiện của pháp luật về ĐKKD sẽ làm giảm tình trạng tham nhũng. Các
nghĩa vụ về thuế của các chủ thể kinh doanh sẽ được tuân thủ tốt hơn, thu
ngân sách từ nguồn thuế do các chủ thể kinh doanh đóng góp vì thế sẽ cao
hơn.

31
Pháp luật về ĐKKD cũng có vai trò giúp chính thức hoá các nghĩa vụ về
thuế, lao động và môi trường của các doanh nghiệp đối với Nhà nước và xã
hội [29, tr 12]. Doanh nghiệp được đăng ký thông thường sẽ có tác động lớn
tới môi trường, xã hội và người lao động. Do vậy, bên cạnh việc giúp doanh
nghiệp đăng ký có thể thu được lợi nhuận cao, pháp luật về ĐKKD cũng yêu
cầu doanh nghiệp phải có nghĩa vụ lớn hơn với môi trường, xã hội và người
lao động.
Pháp luật về ĐKKD cũng có ý nghĩa làm giảm những tranh chấp không
đáng có về sở hữu trí tuệ. Khi một doanh nghiệp được thành lập, các quyền
của doanh nghiệp cũng phát sinh đối với các đối tượng thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp như tên thương mại, bí mật kinh doanh, tên gọi xuất xứ
hàng hoá, sáng chế… ĐKKD giúp chính thức hoá những chủ thể có quyền đối
với những đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ nên sẽ làm giảm những tranh
chấp không đáng có về sở hữu trí tuệ và bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích
chính đáng của doanh nghiệp.

Tiểu kết
ĐKKD thực chất là một phương thức để thực hiện quyền tự do kinh
doanh trong rất nhiều phương thức để thực hiện quyền này. Ở Việt Nam
phương thức thực hiện quyền tự do kinh doanh được thực hiện dưới hình thức
đăng ký thay vì thực hiện cơ chế cấp phép hay cơ chế gia nhập thị trường.
Theo quy định hiện hành thì kinh doanh là quyền tự do nhưng ĐKKD là một
nghĩa vụ bắt buộc. Việt Nam chúng ta có lịch sử pháp luật về ĐKKD khá non
trẻ. Các quy định về ĐKKD mới chủ yếu được ban hành trong những năm đất
nước tiến hành công cuộc đổi mới. Tuy vậy, những quy định của pháp luật
hiện hành về ĐKKD vẫn mang những nguyên tắc và những đặc điểm phổ
quát của một chế định pháp luật về ĐKKD thông thường. Doanh nhân và các

32
cơ quan tiến hành ĐKKD đều hướng tới những mục đích riêng khi thực hiện
các hoạt động này, nhưng xét đến cùng thì ĐKKD có mục đích là thiết lập
nên công cụ pháp lý hay chủ thể pháp lý để thực hiện sáng kiến kinh doanh và
cơ hội kinh doanh. Ngoài những mục đích ý nghĩa về chính trị, kinh tế, môi
trường và xã hội, ĐKKD còn có mục đích quản lý doanh nghiệp, chính thức
hoá hoạt động của doanh nghiệp, bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh
doanh… Tuy vậy, hoạt động ĐKKD nói riêng cũng như các quy định pháp
luật về ĐKKD nói chung đều có những giới hạn hay hạn chế nhất định đối với
quyền tự do kinh doanh của người dân.

33
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Khái quát nội dung pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay ở
Việt Nam
LDN năm 2005 về cơ bản vẫn thực hiện chế độ ĐKKD theo hình thức
ĐKKD. Tuy nhiên, theo các quy định mới của luật, chế định ĐKKD được
điều chỉnh trong luật đã mở rộng phạm vi áp dụng cho cả những DNNN đã và
đang hoạt động theo Luật DNNN và các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
đầu tư nước ngoài trước đây và Luật đầu tư năm 2005 hiện nay.
Chế định ĐKKD được quy định tại Chương II Thành lập doanh nghiệp
và ĐKKD của LDN. Trong đó quy định những vấn đề về quyền thành lập
doanh nghiệp và ĐKKD; trình tự, thủ tục ĐKKD; hồ sơ ĐKKD; điều kiện cấp
giấy chứng nhận ĐKKD; thay đổi nội dung ĐKKD; đặt tên doanh nghiệp; văn
phòng đại diện, chi nhánh và địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp…
Tuy các quy định trong LDN là những quy định cơ bản trực tiếp áp dụng
cho các loại hình doanh nghiệp được phép hoạt động khi thực hiện nghĩa vụ
ĐKKD. Nhưng nhìn vào thực tế pháp luật trước đây thì các quy định về
ĐKKD lại chủ yếu được quy định tại các văn bản quy định hướng dẫn thi
hành LDN năm 1999 và các quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác
về ĐKKD doanh nghiệp liên doanh, DNNN… Tuy nhiên, hiện nay đối tượng
áp dụng của LDN năm 2005 đã rộng hơn, trong đó các quy định về ĐKKD
theo LDN năm 2005 và Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29-8-2006 của
Chính phủ về ĐKKD (sau đây gọi tắt là Nghị định số 88) được áp dụng cho
các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư và luật DNNN.

34
Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư, theo quy định tại
Điều 20 và 170 của LDN và Điều 50 của Luật đầu tư năm 2005 những nhà
đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam việc ĐKKD sẽ được thực
hiện thông qua việc đăng ký đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư được cấp cũng
đồng thời là giấy chứng nhận ĐKKD mà không phải tiến hành thủ tục ĐKKD.
Nhà đầu tư đã được thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam nếu có dự án đầu tư
mới thì không phải làm thủ tục ĐKKD và thủ tục đăng ký đầu tư. Nếu những
doanh nghiệp này muốn ĐKKD lại để thay đổi hình thức hoạt động, ngành
nghề kinh doanh… thì việc đăng ký lại theo quy định của LDN năm 2005
được thực hiện cho đến hết ngày 01 tháng 7 năm 2008. Nếu những doanh
nghiệp này không đăng ký lại thì chỉ được kinh doanh trong phạm vi ngành
nghề và thời gian đã ghi trong giấy phép đầu tư. Nhà đầu tư trong nước có dự
án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế thì thực hiện việc ĐKKD theo
quy định của LDN, pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo
quy định của Luật đầu tư năm 2005 (khoản 3 Điều 50 của Luật đầu tư năm
2005).
Đối với DNNN được thành lập từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì việc tiến
hành các hoạt động ĐKKD đối với các doanh nghiệp này được thực hiện theo
quy định của LDN. Đối với DNNN đã được thành lập trước ngày 01 tháng 7
năm 2006 thì các vấn đề liên quan đến ĐKKD (như thay đổi nội dung ĐKKD,
ngành nghề ĐKKD, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện…) sẽ vẫn được
tiến hành theo các quy định của Luật DNNN một khi các DNNN này chưa
chuyển đổi hình thức hoạt động sang theo quy định của LDN. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp này cũng chỉ được hoạt động theo LDN nhà nước cho đến hết
ngày 01 tháng 7 năm 2010 (ngày hết thời hạn chuyển đổi các công ty nhà
nước thành các công ty CP, công ty TNHH).

35
Bên cạnh đó, LDN đã quy định chính thức quy định các hộ kinh doanh
thường xuyên sử dụng từ 10 lao động trở lên sẽ phải đăng ký thành lập doanh
nghiệp hoạt động theo quy định của LDN năm 2005. Các hộ kinh doanh nhỏ
sử dụng thường xuyên dưới 10 lao động hoặc có sử dụng trên 10 lao động
nhưng không thường xuyên sẽ tiến hành ĐKKD theo các quy định của Chính
phủ (khoản 4 Điều 170 của LDN năm 2005). Đối với các đối tượng này, trước
đây việc tiến hành ĐKKD được thực hiện theo các quy định của Chính phủ
hướng dẫn thi hành LDN, nay việc ĐKKD đối với các hộ kinh doanh được
thực hiện theo các quy định tại Chương VI của Nghị định số 88.
Cho đến nay, hệ thống pháp luật về ĐKKD của Việt Nam chỉ ghi nhận
một chủ thể duy nhất đó là các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã hoạt động
theo Luật hợp tác xã là có những quy định về chế độ ĐKKD riêng. Kết quả
này phát sinh từ việc loại bỏ các hợp tác xã và liên hiệp các hợp tác xã ra khỏi
đối tượng điều chỉnh của LDN với lý do hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã có
những chức năng đặc thù và không phải là một loại hình doanh nghiệp. Điều
này dẫn đến hệ quả là tuy các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã vẫn được
ĐKKD thông qua hệ thống cơ quan ĐKKD, nhưng những quy định về thủ
tục, điều kiện ĐKKD… lại có những quy định tách biệt với các quy định về
ĐKKD của LDN.
Hiện nay, ĐKKD được thực hiện chủ yếu trên cơ sở các quy định tại
Chương II của LDN năm 2005 và được hướng dẫn tại Nghị định số 88 thay
thế Nghị định số 09/2004/NĐ-CP ngày 02-4-2004 của Chính phủ về ĐKKD
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 09) và Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03-
02-2000 của Chính phủ về ĐKKD.
Nghị định số 88 về ĐKKD về cơ bản vẫn kế thừa những quy định trước
đây của Nghị định số 09 tuy nhiên cũng có những thay đổi cho phù hợp với

36
những quy định mới tại LDN năm 2005. Những thay đổi chủ yếu của pháp
luật về ĐKKD sẽ được thể hiện trong những nội dung dưới đây.

2.1.1. Cơ quan đăng ký kinh doanh


LDN năm 1999 không quy định rõ cơ cấu tổ chức hệ thống cơ quan
ĐKKD mà chỉ quy định thẩm quyền của cơ quan này tại Điều 116. LDN năm
2005 vẫn tiếp tục kế thừa những quy định cũ về thẩm quyền của cơ quan
ĐKKD đồng thời có bổ sung thêm phần cơ cấu tổ chức của cơ quan ĐKKD
tại khoản 2 Điều 163. Cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan ĐKKD theo
quy định tại khoản 1 Điều 163 của LDN như sau:

Bảng 2.1. Cơ quan đăng ký kinh doanh

Cơ quan ĐKKD có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:


a. Giải quyết việc ĐKKD và cấp giấy chứng nhận ĐKKD theo quy định
của pháp luật;
b. Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin doanh nghiệp; cung cấp thông tin
cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp
luật;
c. Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp khi xét thấy cần thiết cho việc thực hiện các quy định của Luật này; đôn
đốc việc thực hiện chế độ báo cáo của doanh nghiệp;
d. Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh
nghiệp theo những nội dung trong hồ sơ ĐKKD.
đ) Xử lý vi phạm các quy định về ĐKKD theo quy định của pháp luật; thu
hồi Giấy chứng nhận ĐKKD và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo
quy định của Luật này;
e. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về những vi phạm trong việc ĐKKD;

37
g. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của Luật này
và pháp luật có liên quan.
(khoản 1 Điều 163 của LDN năm 2005)

Thẩm quyền của cơ quan ĐKKD theo quy định nêu trên đã khá rõ, tuy
nhiên theo quy định tại Nghị đinh số 88 thì hệ thống cơ quan ĐKKD về cơ
bản không có gì thay đổi so với quy định trước đây tại Nghị định số 109 và
các Thông tư hướng dẫn thi hành.
Theo quy định tại các văn bản nêu trên thì cơ quan ĐKKD là các Phòng
ĐKKD sẽ được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện. Riêng thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh có thể được thành lập thêm một hoặc hai Phòng
ĐKKD. Đối với những quận, huyện, thị xã có số lượng thành lập các hộ kinh
doanh và Hợp tác xã hàng năm trung bình từ 500 đơn vị trở lên thì được thành
lập các Phòng ĐKKD nếu chưa đủ điều kiện thì các Phòng Tài chính – Kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ ĐKKD. Đối với các khu kinh tế do Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập được thành lập Phòng ĐKKD tại khu kinh tế
(Điều 6 Nghị định số 88). Ở cấp trung ương có Cục Phát triển Doanh nghiệp
Nhỏ và Vừa thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên cơ quan này mới đảm
nhận vai trò quản lý hệ thống thông tin về doanh nghiệp trên cả nước mà chưa
phải là một cơ quan cấp trên về ĐKKD của các Phòng ĐKKD. Về cơ bản Bộ
Kế hoạch và Đầu tư vẫn là cơ quan quản lý các Phòng ĐKKD thông qua các
Sở Kế hoạch và Đầu tư ở cấp tỉnh và cơ quan về kế hoạch và đầu tư ở cấp
huyện. Nhìn chung cơ quan ĐKKD mới chỉ được thành lập đầy đủ ở cấp tỉnh,
chưa có ở cấp trung ương và chưa đầy đủ ở cấp huyện.
Về thẩm quyền ĐKKD của phòng ĐKKD cấp huyện và cấp tỉnh được
quy định tại Nghị định số 09 (Điều 4 và 5) và Nghị định số 88 (Điều 7 và 8).
Theo đó phòng ĐKKD cấp huyện chỉ có thẩm quyền ĐKKD cho hộ kinh
doanh và Hợp tác xã (Điều 14 Luật hợp tác xã năm 2003); xây dựng, quản lý

38
thông tin, kiểm tra, xác minh thông tin về hộ kinh doanh cá thể và doanh
nghiệp trong phạm vi huyện mình, thu hồi giấy chứng nhận của hộ kinh
doanh cá thể trong những trường hợp quy định… Phòng ĐKKD cấp tỉnh thực
hiện các công việc về ĐKKD cho doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của
pháp luật như: nhận hồ sơ ĐKKD, hướng dẫn thủ tục ĐKKD, xây dựng và
quản lý thông tin về ĐKKD, hướng dẫn về ngành nghề kinh doanh có điều
kiện và điều kiện kinh doanh…
Theo quy định tại Điều 20 của LDN năm 2005 thì giấy chứng nhận đầu
tư đồng thời là giấy chứng nhận ĐKKD. Do đó Cơ quan cấp giấy chứng nhận
đầu tư cũng là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ĐKKD. Luật đầu
tư năm 2005 quy định cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư là
Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh.

2.1.2. Điều kiện đăng ký kinh doanh


Điều kiện ĐKKD theo quy định của pháp luật là những yêu cầu của pháp
luật mà các chủ thể ĐKKD phải thực hiện theo nhằm hoàn tất các thủ tục
ĐKKD. Các tổ chức, cá nhân muốn tiến hành hoạt động kinh doanh phải thực
hiện nghĩa vụ ĐKKD. Do vậy, yêu cầu về nghĩa vụ ĐKKD cũng có thể được
hiểu là một điều kiện kinh doanh theo nghĩa rộng. Tuy LDN năm 2005 có quy
định điều kiện kinh doanh là những yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc
phải thực hiện (khoản 2 Điều 7), có nghĩa là điều kiện kinh doanh phải là
những yêu cầu áp dụng cho doanh nghiệp chứ không áp dụng cho những chủ
thể khác. Điều kiện ĐKKD còn bao gồm cả các điều kiện về thay đổi nội
dung ĐKKD vì thay đổi nội dung ĐKKD là một bộ phận của ĐKKD.
Do đó, điều kiện ĐKKD có thể được hiểu là những điều kiện kinh doanh
trước khi được cấp giấy chứng nhận ĐKKD. Điều kiện ĐKKD theo quy định
của LDN năm 2005 bao gồm các điều kiện như sau:

39
Bảng 2.2. Điều kiện chung về đăng ký kinh doanh

Điều kiện về chủ thể


Điều kiện về hồ sơ
Điều kiện về địa điểm
Điều kiện về nội dung

Về chủ thể đăng ký kinh doanh


Điều kiện về chủ thể ĐKKD được quy định tại Điều 13 của LDN, theo
đó tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được tiến hành ĐKKD khi
không thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Bảng 2.3. Những chủ thể không được đăng ký kinh doanh

1) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan,
đơn vị mình;
2) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
3) Sĩ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng
trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sỹ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam;
4) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở
hữu Nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý
phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
5) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực dân sự hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự;
6) Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề
kinh doanh;
7) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.

40
(Điều 13 của LDN năm 2005 đã cho phép tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài thường trú hoặc không thường trú tại Việt Nam được phép thành lập doanh
nghiệp tại Việt Nam thay thế cho khoản 8 Điều 9 của LDN năm 1999)

Đối với chủ thể ĐKKD là hộ kinh doanh phải thực hiện nghĩa vụ ĐKKD
khi là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các
hộ gia đình đều có quyền ĐKKD theo quy định, trừ những người chưa thành
niên, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị
Toà án tước quyền hành nghề kinh doanh. Đối với hộ kinh doanh có sử dụng
trên 10 lao động trở lên không được ĐKKD dưới hình thức hộ kinh doanh mà
phải ĐKKD dưới hình thức kinh doanh là doanh nghiệp.
Trên đây là những điều kiện chung áp dụng cho tổ chức, cá nhân khi tiến
hành ĐKKD. Tuy vậy, khi tiến hành ĐKKD trong những trường hợp nhất
định pháp luật lại có những quy định điều kiện riêng về chủ thể ĐKKD.
Chẳng hạn như điều kiện về chứng chỉ hành nghề, vốn của người thành lập
doanh nghiệp, điều kiện đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài, mức thu nhập
của cá nhân thành lập hộ kinh doanh…

Về hồ sơ đăng ký kinh doanh


Theo quy định của LDN năm 2005 thì hồ sơ ĐKKD được áp dụng riêng
đối với từng loại hình doanh nghiệp, tuy vậy để đăng ký thành lập một doanh
nghiệp cá nhân, tổ chức nhìn chung phải chuẩn bị một bộ hồ sơ như sau:

Bảng 2. 4. Điều kiện về hồ sơ đăng ký kinh doanh

1) Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu quy định tại Điều 21 LDN 2005.
2) Dự thảo Điều lệ công ty (đối với Công ty hợp danh, cổ phần, TNHH) theo
đúng quy định tại Điều 22 LDN 2005.

41
3) Danh sách thành viên (đối với Công ty hợp danh, công ty TNHH); Danh
sách cổ đông sáng lập (đối với công ty cổ phần) quy định tại Điều 23 LDN 2005.
4) Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp
pháp khác của: chủ DNTN; thành viên công ty HD, công ty TNHH; cổ đông sáng
lập (nếu cổ đông là tổ chức thì áp dụng điểm b khoản 3 Điều 19 LDN 2005).
5) Văn bản xác nhận vốn pháp định (nếu lĩnh vực kinh doanh pháp luật có quy
định).
6) Chứng chỉ hành nghề của cá nhân khác trong doanh nghiệp và của: giám
đốc, tổng giám đốc đối với DNTN, công ty TNHH, công ty CP; thành viên hợp danh
đối với công ty HD (nếu lĩnh vực kinh doanh pháp luật có quy định).

Hồ sơ ĐKKD của hộ kinh doanh đơn giản hơn bao gồm Giấy đề nghị
ĐKKD hộ kinh doanh; Giấy tờ chứng minh cá nhân hợp pháp theo quy định
của pháp luật. Về cơ bản ĐKKD hộ kinh doanh thủ tục đơn giản hơn và thời
gian tiến hành nhanh hơn ĐKKD doanh nghiệp.

Về địa điểm đăng ký kinh doanh


Địa điểm ĐKKD là một trong những điều kiện bắt buộc khi tiến hành
thành lập một doanh nghiệp mới. Chỉ khi có địa điểm kinh doanh đúng như
quy định tại khoản 1 Điều 35 LDN năm 2005, doanh nghiệp mới được phép
thành lập. Địa điểm ĐKKD của chi nhánh, văn phòng đại diện cũng phải tuân
thủ theo điều kiện về địa điểm như địa điểm ĐKKD của doanh nghiệp.

Bảng 2.5. Điều kiện về địa điểm đăng ký kinh doanh

1) Trụ sở chính của doanh nghiệp là điạ điểm liên lạc, giao dịch của doanh
nghiệp; phải ở trên lãnh thổ Việt Nam.

42
2) Có địa chỉ xác định gồm số nhà, tên phố (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị
trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh thành phố trực thuộc trung
ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).
3) Trụ sở của chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có)
(Điều 35 LDN năm 2005)

Về nội dung đăng ký kinh doanh


Điều kiện về nội dung ĐKKD có thể được thể hiện dưới hai hình thức:
chủ thể ĐKKD chỉ được ĐKKD những ngành nghề nhất định và giấy chứng
nhận ĐKKD chỉ ghi những ngành, nghề mà doanh nghiệp được phép kinh
doanh. Những nội dung ĐKKD kinh doanh có điều kiện, bị hạn chế, bị cấm:

Bảng 2.6. Điều kiện về nội dung đăng ký kinh doanh

1. Cấm các hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt
Nam và sức khỏe của nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trường
(khoản 3 Điều 7 của LDN).
2. Ngành, nghề kinh doanh không thuộc lĩnh vực bị cấm kinh doanh (theo Danh
mục những ngành nghề cấm kinh doanh do Chính phủ quy định).
3. Có đủ các điều kiện kinh doanh hoặc thực hiện được các điều kiện kinh doanh
(khoản 2 Điều 7 của LDN).
4. Tên của doanh nghiệp phải được đặt đúng theo quy định tại các điều 31, 32,
33 và 34 của LDN.

2.1.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh


Thủ tục ĐKKD được quy định tại các điều 15, 20, 26 và 28 của LDN
năm 2005 và được tiến hành theo các quy định tại Chương IV và Chương V
của Nghị định số 88 của Chính phủ về ĐKKD.

43
Điều kiện về thủ tục cũng được thực hiện khá thống nhất đối với các loại
hình doanh nghiệp. Các quy định về thủ tục có đơn giản hơn khi áp dụng đối
với việc ĐKKD hộ kinh doanh. Theo quy định của LDN năm 2005 và các văn
bản hướng dẫn, thì về cơ bản thủ tục ĐKKD được các chủ thể ĐKKD thực
hiện theo các bước sau:

Bảng 2.7. Thủ tục chung về đăng ký kinh doanh

1. Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ ĐKKD theo quy định tại cơ
quan ĐKKD nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.
2. Phòng ĐKKD cấp tỉnh trao giấy biên nhận hồ sơ.
3. Nộp đủ lệ phí ĐKKD.
4. Cơ quan ĐKKD xem xét hồ sơ và nếu thấy đủ điều kiện thì cấp giấy chứng
nhận ĐKKD trong thời hạn là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ. Nếu từ chối
cấp thì phải thông báo về lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung.
5. Nếu không đủ điều kiện, Phòng ĐKKD cấp tỉnh phải thông báo rõ nội
dung yêu cầu sửa đổi, bổ sung và cách thức sửa đổi, bổ sung hồ sơ ĐKKD cho
người thành lập doanh nghiệp.
6. Nhận kết quả cấp giấy chứng nhận ĐKKD khi đến hạn.

2.1.4. Giải quyết các tranh chấp về đăng ký kinh doanh


Các tranh chấp về ĐKKD được chia ra thành hai loại, tranh chấp giữa
các doanh nhân, doanh nghiệp với nhau về ĐKKD và giữa doanh nhân, doanh
nghiệp với các cán bộ, công chức nhà nước, cơ quan nhà nước về ĐKKD.
LDN năm 1999 và năm 2005 đều không có quy định cụ thể về vấn đề
giải quyết tranh chấp trong quá trình ĐKKD. Nghị định số 109 và Nghị định
số 88 đã bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp về ĐKKD. Khoản 2 Điều
20 Nghị định số 88 quy định “Nếu sau 10 ngày làm việc mà không được cấp
giấy chứng nhận ĐKKD hoặc không nhận được thông báo yêu cầu sửa đổi,

44
bổ sung hồ sơ ĐKKD thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại
theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.” Điều 35 và khoản 4 Điều
38 của Nghị định số 88 quy định về quyền khiếu nại của doanh nghiệp, hộ
kinh doanh khi tiến hành ĐKKD, thay đổi nội dung ĐKKD cũng có những
quy định tương tự. Điều này cũng có nghĩa là các quyết định của Cơ quan
ĐKKD, hành vi của các cán bộ, công chức ĐKKD sẽ có thể bị khiếu kiện
theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Tranh chấp giữa các doanh nhân, doanh nghiệp với nhau về ĐKKD được
thực hiện trên cơ sở các quy định của LDN năm 2005 và các quy định pháp
luật liên quan. Chẳng hạn tranh chấp về tên doanh nghiệp được LDN 2005 và
Nghị định số 88 khuyến khích giải quyết bằng con đường thương lượng.
Khoản 1 Điều 13 của Nghị định số 88 quy định “… Khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm lẫn tự
thương lượng với nhau để đăng ký đổi tên doanh nghiệp”. Tuy nhiên, cũng
tuỳ từng loại tranh chấp cụ thể giữa các bên mà việc giải quyết tranh chấp sẽ
được thực hiện theo những cách thức khác nhau (ví dụ các tranh chấp về tên
thương mại có liên quan đến ĐKKD sẽ được giải quyết theo các quy định của
pháp luật về sở hữu trí tuệ).

2.2. Những thành tựu đạt được của pháp luật về đăng ký kinh doanh
LDN năm 1999 ra đời và những kết quả thu được trong quá trình áp
dụng luật này trên thực tế đã được đánh giá là một hình mẫu cho quá trình xây
dựng và áp dụng pháp luật ở Việt Nam. Trong khi LDN năm 2005 chưa có
nhiều thời gian để chúng ta có thể đánh giá được những kỳ vọng mà nó sẽ
mang lại, thì việc đánh giá một cách khách quan về những thành tựu cũng như
những hạn chế của LDN năm 1999 là hết sức cần thiết. Những quy định hợp

45
lý cũng như những bất cập của LDN năm 1999 đã được thực tế kiểm nghiệm
sẽ là cơ sở để LDN năm 2005 tiếp tục kế thừa và phát triển.

2.2.1. Những đổi mới mang tính tiên phong của Luật doanh nghiệp
năm 1999
Những quy định về chế độ ĐKKD trong LDN năm 1999 đã thể hiện
được sự đổi mới nhận thức căn bản về tư duy, trong đó bao gồm cả tư duy về
cải cách kinh tế và cải cách thủ tục hành chính. LDN đã khẳng định rõ ràng
rằng mọi tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đều được quyền thành
lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. Trong
đó, bên cạnh những loại hình doanh nghiệp đã có trước đây, LDN năm 1999
đã quy định thêm nhiều hình thức tổ chức kinh doanh mới nhằm đáp ứng tốt
được mọi yêu cầu của tổ chức, cá nhân về cách thức tổ chức kinh doanh.
Doanh nghiệp được quyền kinh doanh tất cả những ngành nghề, lĩnh vực mà
pháp luật không cấm.
LDN năm 1999 đã cải cách thủ tục hành chính tương đối thành công để
giảm thời gian quy định trong luật và thời gian thực tế ĐKKD thành lập mới
một doanh nghiệp trung bình từ 90 ngày xuống trung bình còn 7 ngày. Đặc
biệt ở một số nơi thời gian chỉ còn khoảng 2 đến 3 ngày [49, tr 11]. Điều này
càng có ý nghĩa hơn khi chưa có các quy định của LDN năm 1999, thủ tục
thành lập doanh nghiệp được đánh giá là rất phức tạp và đòi hỏi nhiều thời
gian. Thời gian thành lập doanh nghiệp được rút ngắn, thủ tục thành lập được
đơn giản hoá có phần đóng góp không nhỏ từ việc đã loại bỏ khỏi luật những
yêu cầu mà các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khó đáp ứng được vào lúc
thành lập một doanh nghiệp như các yêu cầu về vốn pháp định, hợp đồng thuê
văn phòng, xác nhận về vốn doanh nghiệp tại ngân hàng…

46
Bên cạnh đó những yêu cầu đối với các cán bộ, công chức và các cơ
quan nhà nước khi thực thi LDN cũng đã được quy định rõ ràng về nghĩa vụ
đã tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình ĐKKD nhanh chóng và
hiệu quả. Chẳng hạn các nghĩa vụ về trách nhiệm hướng dẫn thủ tục ĐKKD,
nghĩa vụ cấp giấy biên nhận hồ sơ, nghĩa vụ thông báo bằng văn bản khi hồ sơ
chưa hợp lệ, nghĩa vụ tuân thủ các quy định về thời hạn…
Với những quy định phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và của cả xã
hội, LDN đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Theo số liệu thống kê của
Cục phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ đầu
năm 2000 đến hết năm 2005, đã có 160.752 doanh nghiệp ĐKKD, gấp 3,3 lần
tổng số doanh nghiệp đã đăng ký thành lập trong cả giai đoạn 1991-1999). Số
doanh nghiệp đăng ký trung bình hiện nay bằng khoảng gần 6 lần so với số
trung bình hàng năm giai đoạn 1991-1999. Số vốn đăng ký mới đạt khoảng
312,2 nghìn tỷ đồng (khoảng 20 tỷ USD), chưa kể số vốn doanh nghiệp đăng
ký bổ sung trong quá trình hoạt động (khoảng 103,4 nghìn tỷ tương đương
khoảng 6,3 tỷ USD). Con số này gấp hơn nhiều lần so với số vốn đăng ký giai
đoạn 1991-1999 và cao hơn số vốn FDI đăng ký trong cùng thời kỳ. Ngoài ra,
còn có hàng chục nghìn chi nhánh, văn phòng đại diện và khoảng hơn 2 triệu
hộ kinh doanh đang hoạt động [48, tr 9]. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến
năm 2004 tổng số việc làm được tạo ra trong khu vực DNTN (khu vực doanh
nghiệp hoạt động theo LDN) là 2.475.448 việc làm trong tổng số 5.770.201
việc làm được tạo ra trong cả nước, cao hơn cả khu vực DNNN và cao hơn
gấp đôi khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng về tổng
doanh thu, về tổng tài sản có, về vốn tự có và về lợi nhuận cũng tăng trưởng
hết sức ấn tượng. Có thể theo dõi tốc độ tăng trưởng ấn tượng của doanh
nghiệp hoạt động theo LDN tại [48, tr 40].

47
Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng thành công lớn nhất của LDN không
phải là những con số ấn tượng mà đó là tinh thần cải cách mang tính tiên
phong với mục đích phát huy nội lực, giải phóng và phát triển lực lượng sản
xuất và tăng trưởng kinh tế. Tinh thần cải cách này thể hiện rõ trong việc tạo
ra một hành lang pháp lý minh bạch, công bằng cho mọi chủ thể đồng thời
hạn chế tối đa sự cửa quyền, tham nhũng của cán bộ, công chức trong các cơ
quan nhà nước.
Với sự ra đời của LDN, phương thức quản lý theo lối “năng lực quản lý
đến đâu thì mở đến đó đã từng bước được thay thế bằng “năng lực quản lý
phải được xây dựng, tăng cường đủ mức thúc đẩy và quản lý được quá trình
phát triển”. Phương thức quản lý theo hướng kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu
đang từng bước được thay thế bằng phương thức hợp tác và tạo điều kiện là
chủ yếu, “chế độ tiền kiểm” đang được chuyển sang “chế độ hậu kiểm”. Tinh
thần cải cách này đã tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng không chỉ đối với khu
vực DNTN hoạt động theo LDN mà tinh thần này còn được chuyển tải sang
cả khu vực DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những thành
quả này là một trong những nguyên nhân thúc đẩy việc thống nhất hoá quy
phạm điều chỉnh đối với các loại hình kinh doanh nói chung và thống nhất các
quy định về ĐKKD nói riêng trong LDN.

2.2.2. Tiếp tục ghi nhận những đổi mới tích cực trong Luật doanh
nghiệp năm 2005
Có thể nhận thấy, về cơ bản LDN năm 2005 đã kế thừa toàn bộ những
quy định hợp lý về chế độ ĐKKD áp dụng cho các chủ thể kinh doanh của
LDN năm 1999, đồng thời LDN năm 2005 cũng đã có những sửa đổi theo
hướng tính cực nhằm tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp,

48
tạo cơ sở nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả quản lý của Nhà nước nói
chung và của cơ quan ĐKKD nói riêng.
Về những chủ thể được phép thành lập doanh nghiệp, LDN vẫn giữ
nguyên những chủ thể được phép thành lập doanh nghiệp như quy định cũ
đồng thời mở rộng quy định cho phép tất cả những tổ chức, cá nhân nước
ngoài, tổ chức cá nhân Việt Nam bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài
thường trú hay không thường trú tại Việt Nam đều được quyền thành lập và
quản lý doanh nghiệp.
LDN năm 2005 tiếp tục rút ngắn thời hạn ĐKKD từ 15 ngày trong LDN
năm 1999 xuống còn 10 ngày. Thực tế thời gian để đăng ký thành lập một
doanh nghiệp mới đã được rất nhiều Phòng ĐKKD thực hiện chỉ trong thời
hạn từ 2 đến 3 ngày [24, tr 12].
Thay đổi cơ chế hoạt động của Nhà nước từ kiểm soát, ban phát quyền
kinh doanh cho người dân sang cơ chế Nhà nước phục vụ nhân dân kinh
doanh được thể chế hoá trong LDN năm 2005 đã dẫn tới sự thay đổi về quan
niệm từ quy định yêu cầu trong hồ sơ “đơn ĐKKD” sang quy định “giấy đề
nghị ĐKKD” khẳng định quyền ĐKKD của doanh nghiệp và nghĩa vụ ĐKKD
của cơ quan ĐKKD.
Nếu trước đây hồ sơ ĐKKD chỉ được quy định cụ thể tại các Nghị định
và Thông tư hướng dẫn thi hành LDN năm 1999 thì nay LDN năm 2005 đã
chính thức quy định những giấy tờ đầy đủ trong một bộ hồ sơ áp dụng cho
từng loại hình doanh nghiệp, ngoài những giấy tờ này doanh nghiệp không
phải nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác.
Những vướng mắc trước đây khi tiến hành đặt tên một doanh nghiệp nay
cũng đã được LDN năm 2005 quy định khá chi tiết. Các trường hợp bị cấm
trong đặt tên doanh nghiệp, những trường hợp đặt tên doanh nghiệp bằng

49
tiếng nước ngoài, tên viết tắt của doanh nghiệp; trường hợp tên trùng hoặc tên
gây nhầm lẫn cũng đã được LDN năm 2005 điều chỉnh khá rõ ràng.
Đổi mới tính cực nhất ghi nhận được trong LDN năm 2005 về ĐKKD đó
là việc thống nhất thủ tục ĐKKD đối với các loại hình doanh nghiệp hoạt
động theo Luật DNNN, các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu
tư nước ngoài trước đây và Luật đầu tư năm 2005 hiện nay. Đối với những
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì về cơ bản vẫn làm thủ tục đăng
ký đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, tuy nhiên, việc ghi nhận giấy
chứng nhận đầu tư đồng thời cũng là giấy chứng nhận ĐKKD trong LDN năm
2005 lại có một ý nghĩa lớn về sự bình đẳng trước pháp luật của các loại hình
doanh nghiệp. Đối với DNNN và các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động theo
pháp luật đầu tư sẽ được ĐKKD theo quy định của LDN năm 2005. Bên cạnh
đó LDN năm 2005 cũng đã có sự quan tâm đặc biệt đến các hộ kinh doanh
thông qua việc quy định các hộ kinh doanh đáp ứng đầy đủ các điều kiện phải
có nghĩa vụ ĐKKD theo quy định của pháp luật.
Tuy vậy, những quy định về ĐKKD trong LDN năm 2005 mới chỉ là
những quy định chung, mang tính nguyên tắc, do đó để có thể khẳng định các
quy định pháp luật về ĐKKD có tiếp tục thể hiện được sự thành công như
những quy định trước đây hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào các quy định
hướng dẫn về ĐKKD sẽ được ban hành trong thời gian tới.

2.3. Một số vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình xây dựng và
thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay
LDN năm 1999 đã được thực hiện được hơn 6 năm, trong khi đó LDN
năm 2005 mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006. Do đó, tổng kết
công tác thi hành và đánh giá những mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của
pháp luật về ĐKKD trong phần này sẽ được thực hiện chủ yếu trên cơ sở đánh

50
giá kết quả sáu năm thi hành LDN năm 1999. LDN năm 2005 về cơ bản vẫn
kế thừa những quy định của LDN năm 1999, do vậy những bài học rút ra từ
thực tiễn thi hành LDN năm 1999 sẽ vẫn có giá trị hữu ích đối với LDN năm
2005. Thực tiễn hơn sáu năm thi hành LDN năm 1999 đã ghi nhận một số
những bât cập chủ yếu sau đây:

2.3.1. Về địa điểm đăng ký kinh doanh


Địa điểm ĐKKD là một điều kiện bắt buộc theo quy định của LDN khi
doanh nghiệp tiến hành ĐKKD. Địa điểm ĐKKD chính là địa điểm nơi doanh
nghiệp đặt trụ sở chính (khoản 1 Điều 35 LDN năm 2005). Doanh nghiệp khi
ĐKKD cũng như khi thay đổi địa chỉ ĐKKD phải thông báo cho Phòng
ĐKKD địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp về địa chỉ, số nhà, tên phố, ngõ
phố hoặc tên xã phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh;
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Điều này có nghĩa rằng doanh nghiệp
không phải cung cấp thêm bất cứ thông tin gì khác ngoài địa chỉ nơi mình đặt
trụ sở chính. Tuy nhiên, thực tế ĐKKD trong thời gian qua ghi nhận một số
trường hợp cá biệt cán bộ ĐKKD yêu cầu doanh nghiệp cung cấp hợp đồng
thuê nhà, mượn nhà hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà hoặc quyền sử
dụng đất. Nhận thức sai lệch này của cán bộ ĐKKD là trái với tinh thần quy
định của LDN. Điều này cũng hay xảy ra đối với các cán bộ làm thủ tục khắc
dấu, đăng ký mã số thuế và mua hoá đơn.
Có thể tìm thấy trong thực tiễn rất nhiều ví dụ về cách áp dụng quy định
của pháp luật về ĐKKD trái với tinh thần của luật. Rất nhiều trường hợp
không rõ vì nhận thức yếu kém hay do những mong muốn chủ quan của cán
bộ ĐKKD mà việc áp dụng các quy định về ĐKKD lại khó khăn và phức tạp
hơn rất nhiều so với nội dung thực tế của các quy định này. Chúng ta có thể
cảm nhận rõ thực tế này thông qua ví dụ dưới đây:

51
Bảng 2.8. Đăng ký kinh doanh kiểu hành doanh nghiệp

Anh Võ Huỳnh Quang, ngụ tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh cho
biết, anh đứng tên giám đốc, nộp đơn xin thành lập công ty tại Phòng ĐKKD Sở Kế
hoạch và đầu tư thành phố. Trụ sở công ty theo quyết định của Hội đồng quản trị
đặt tại phường 25, quận Bình Thạnh, là nhà thuộc sở hữu của anh ruột anh nhưng
chưa được hợp thức hoá.
“Cán bộ phòng ĐKKD yêu cầu tôi phải nộp hợp đồng thuê nhà có chứng thực
thì mới cấp phép thành lập. Trong khi nhà anh tôi chưa có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, Uỷ ban nhân dân phường không chịu chứng thực
hợp đồng”, anh Quang kể.
Sau nhiều lần lên xuống phường, qua phòng ĐKKD mà không đạt kết quả,
anh Quang phải nhờ một công ty chuyên tư vấn thực hiện dịch vụ ĐKKD mới lách
được bằng cách xin cấp số nhà cho trụ sở và đưa tên người anh vào danh sách uỷ
viên hội đồng quản trị.
“Tôi chỉ cần làm lại danh sách hội đồng quản trị, kèm giấy cho mượn nhà làm
trụ sở của công ty của uỷ viên và quyết định cấp số nhà, bổ sung vào hồ sơ thành
lập công ty là xong” anh Quang thở phào nhẹ nhõm. Thế nhưng, anh đã mất gần 3
tháng mới hoàn tất các thủ tục hồ sơ, sau khi tốn thêm chi phí cấp số nhà và thuê
công ty tư vấn [26].
(Hồng Anh, Báo điện tử www.vnexpress.net)

Như vậy, mặc dù luật không quy định nhưng các cán bộ ĐKKD vẫn yêu
cầu người ĐKKD phải thực hiện thêm những thủ tục và tốn thêm những chi
phí không đáng có. Nhưng cho dù pháp luật có quy định chặt chẽ hơn hay các
cán bộ ĐKKD có đưa ra thêm những yêu cầu về địa điểm ĐKKD cũng vẫn
không làm giảm được các vi phạm pháp luật về địa điểm kinh doanh sau khi
doanh nghiệp đã ĐKKD.

52
Sau hơn sáu năm thi hành LDN năm 1999 đã xuất hiện nhiều các doanh
nghiệp không còn tồn tại tại nơi đăng ký, con số cụ thể thống kê được đến hết
tháng 7 năm 2003 là khoảng 1650 doanh nghiệp chiếm khoảng 2,3% tổng số
doanh nghiệp đã đăng ký. Nhiều ý kiến cho rằng luật quy định về địa điểm
ĐKKD như vậy là quá thoáng tạo điều kiện cho các “công ty ma” hoạt động
và yêu cầu cần phải có quy định chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, thực tế ngay cả khi
đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về địa điểm ĐKKD, số lượng doanh nghiệp không
tồn tại ở nơi ĐKKD vẫn tồn tại. Mặt khác số lượng doanh nghiệp không hoạt
động tại nơi ĐKKD là do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do giải thể mà không
báo cáo, mất cơ hội kinh doanh, dự tính sai cơ hội kinh doanh, chỉ có một số
ít doanh nghiệp thành lập để mua bán hoá đơn. Nếu so con số 2,3% này với tỷ
lệ 10% số doanh nghiệp ở Mỹ và 20-30% số doanh nghiệp tại các nước thành
viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD giải thể sau một thời gian
ĐKKD thì tỷ lệ doanh nghiệp giải thể này ở Việt Nam là có thể chấp nhận
được[23, tr 5].
Xét cả về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn ĐKKD thì chúng ta không
thể mong quy định về địa điểm kinh doanh chặt chẽ để làm giảm những
“doanh nghiệp ma” hoặc những doanh nghiệp làm ăn phi pháp. Bởi cho dù
chứng minh được địa điểm kinh doanh như yêu cầu, nhưng sau một thời gian
kinh doanh chẳng ai có thể khẳng định doanh nghiệp có vi phạm pháp luật
hay không. Theo chúng tôi, nguyên nhân này xuất phát từ cơ chế hậu kiểm
kém hiệu quả và còn nhiều yếu kém nên doanh nghiệp có địa chỉ kinh doanh
không rõ ràng hoặc có thay đổi địa chỉ nhưng không khai báo dẫn đến các cơ
quan ĐKKD không biết hiện doanh nghiệp đó có còn tồn tại hay không.

53
2.3.2. Về nội dung đăng ký kinh doanh
Những vướng mắc lớn nhất gặp phải trong nội dung ĐKKD của doanh
nghiệp đó là các quy định về đặt tên doanh nghiệp. Việc đặt tên doanh nghiệp
theo quy định tại LDN năm 1999 khá đơn giản, do đó thực tế áp dụng đã bắt
đầu phát sinh nhiều tranh luận. Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng
4 năm 2004 của Chính phủ về ĐKKD đã quy định theo hướng cụ thể hơn và
những quy định này đã được pháp điển hoá ại các điều 31, 32, 33 và 34 của
LDN năm 2005. Nghị định số 88 cũng vẫn tiếp tục kế thừa những quy định
trước đây về tên doanh nghiệp tại Chương III về tên doanh nghiệp mà không
có nhiều thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, ngay cả khi Nghị định số 109 nêu trên
được áp dụng trên thực tế, những vướng mắc nảy sinh từ các quy định về đặt
tên doanh nghiệp cũng vẫn xuất hiện. Có thể tham khảo những vấn đề còn tồn
tại trong đặt tên doanh nghiệp tại các Phòng ĐKKD thông qua tình huống
dưới đây:

Bảng 2.9. Tên doanh nghiệp, sao khó thế!

“...Một nhà đầu tư kể, cách đây không lâu, ông cùng một nhóm bạn định lập
một công ty cổ phần lấy tên là X.S. Tuy nhiên, khi đến Sở Kế hoạch và đầu tư TP.
HCM làm thủ tục ĐKKD thì nhân viên ở đây yêu cầu phải lấy tên khác vì cho rằng
tên dự kiến đặt nói trên là tên tiếng Anh(!).
Tranh cãi mãi không xong, ông đành chuyển hướng đầu tư lên Bình Dương
với hy vọng thủ tục sẽ thông thoáng hơn. Thế nhưng, ông cũng hoàn toàn thất vọng
khi cách giải thích của các nhân viên ở đây cũng chẳng khác gì so với tại TP. HCM.
Ý định mở công ty cùng nhóm bạn bè ông, rốt cuộc, đành phải huỷ bỏ!
Trường hợp nói trên cũng không phải là duy nhất. Rất nhiều doanh nghiệp
cũng gặp những cảnh dở khóc, dở cười vì chuyện đặt tên. Một công ty may mặc tại
TP. HCM ban đầu được đặt một cái tên nghe rất “tây”: TONY. Nhưng vì cái tây ấy

54
mà doanh nghiệp bị buộc phải sửa đi, sửa lại, cuối cùng phải thêm vào một cái dấu,
thành TÔNY, thì mới được chấp nhận.
Tương tự, thay vì tên dự kiến là Công ty EROS, một doanh nghiệp phải đổi tên
thành Công ty Thần Tình; Công ty AWARD SHIPPING thì phải đổi thành Công ty
Giải Thưởng; Công ty BEST phải thành B.E.S.T...
Vướng mắc nói trên thực chất xuất phát từ cách hiểu và áp dụng luật pháp của
các cơ quan ĐKKD. LDN năm 1999 quy định tên của doanh nghiệp phải viết được
bằng tiếng Việt. Đến Nghị định 109 của Chính phủ ban hành ngày 2-4-2004, khái
niệm “phải viết bằng tiếng Việt” được hướng dẫn thoáng hơn với quy định “phải
viết được bằng tiếng Việt”...
Ông Nguyễn Đình Cung, người tham gia soạn thảo cả hai LDN, cho rằng
cách vận dụng như trên là quá máy móc và vô lý. “EROS, AWARD SHIPPING,
TONY..., có chữ nào là không viết được bằng tiếng Việt? Và đây là tên riêng của
doanh nghiệp, mà đã là tên riêng thì không thể buộc doanh nghiệp phải chuyển
nghĩa...” [32].
(Hoàng Tấn, Thời báo kinh tế Sài gòn, thứ ba, 27/06/2006)

Rõ ràng là tại các cơ quan ĐKKD cách hiểu và vận dụng pháp luật đang
ngây trở ngại không nhỏ cho việc áp dụng thống nhất và sáng tạo pháp luật.
Nghị định 109 của Chính phủ ngày 2-4-2004 và LDN năm 2005 đã quy định
rõ: tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt và có thể kèm theo chữ số
và có thể phát âm được. Những tên doanh nghiệp nêu trên hoàn toàn có thể
viết được bằng bảng chữ cái tiếng Việt và cũng có thể phát âm được. Mặc dù
cũng đã có những quy định tham vấn các cơ quan hữu quan về cách đặt tên
doanh nghiệp nhưng gần như các Phòng ĐKKD rất ít khi tham vấn mà thường
quyết định một cách rất cảm tính. Tôi nhận thấy rằng nếu việc tham vấn về
tên doanh nghiệp được thực hiện rộng rãi, đầy đủ theo quy định, chắc chắn sẽ
tạo được nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Điểm 4 Mục III Thông tư số

55
03/2004/TT-BKH ngày 29-6-2004 hướng dẫn trình tự, thủ tục ĐKKD theo
quy định tại Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004 của
Chính phủ về ĐKKD quy định:
Trong trường hợp cần thiết để xem xét, trả lời tên doanh nghiệp khi
ĐKKD, Phòng ĐKKD cấp tỉnh gửi công văn tới Sở Văn hoá - Thông
tin, Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (đơn
vị có chức năng nghiên cứu về ngôn ngữ học) theo mẫu MTB-21 để
lấy ý kiến về tên doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp trong trường hợp
này được xem xét trên cơ sở tập hợp ý kiến của các cơ quan trên và
Phòng ĐKKD cấp tỉnh, được quyết định theo đa số; trường hợp ý
kiến trả lời về tên doanh nghiệp không được giải quyết theo đa số, thì
được xem xét và quyết định theo bên có ý kiến của Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam. Phòng ĐKKD cấp tỉnh có trách nhiệm tổng hợp và lưu
giữ ý kiến của các cơ quan trả lời về tên doanh nghiệp. Trường hợp
không đồng ý với ý kiến về tên doanh nghiệp do các cơ quan trả lời,
doanh nghiệp có quyền khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc
kiện ra Toà Hành chính cấp tỉnh nơi nộp hồ sơ ĐKKD theo quy định
của pháp luật.
Trên thực tế, theo những thông tin mà tác giả biết được hiện chưa có
trường hợp đặt tên doanh nghiệp nào được các Phòng ĐKKD tham vấn theo
các quy định nêu trên mà thông thường các Phòng ĐKKD thường yêu cầu các
doanh nghiệp đăng ký đổi tên khác.
Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 31 của LDN năm 2005, thì “Căn
cứ vào các quy định tại các điều 31, 32, 33 và 34 của Luật này, cơ quan
ĐKKD có quyền từ chối chấp thuận tên dự kiến đăng ký của doanh nghiệp và
quyết định của cơ quan ĐKKD là quyết định cuối cùng.” Quy định này sẽ
được hiểu là quyết định của Cơ quan ĐKKD về tên của doanh nghiệp sẽ là

56
quyết định cuối cùng và doanh nghiệp không không có quyền khiếu nại theo
quy định. Và hiện cũng không rõ theo quy định này thì doanh nghiệp có
quyền khiếu kiện quyết định này của Cơ quan ĐKKD ra Toà án hành chính
hay không. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng Điều 7 Chương VI của Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định:
Các Bên duy trì các cơ quan tài phán và thủ tục hành chính và tư
pháp nhằm mục đích, ngoài những điều khác, xem xét và sửa đổi
nhanh chóng theo yêu cầu của người bị ảnh hưởng các quyết định
hành chính liên quan đến các vấn đề được quy định tại Hiệp định này.
Các thủ tục này bao gồm cơ hội khiếu kiện mà không bị trừng phạt
cho người bị ảnh hưởng bởi quyết định có liên quan. Nếu như quyền
khiếu kiện ban đầu là quyền khiếu nại lên một cơ quan hành chính thì
phải có cơ hội để khiếu nại quyết định của cơ quan hành chính đó lên
một cơ quan tư pháp…
Cũng vẫn là chuyện đặt tên doanh nghiệp, nhưng lại là một khía cạch
khác của việc đặt tên. Đó là việc đặt tên doanh nghiệp trùng và tên doanh
nghiệp gây nhầm lẫn. Thực tế có nhiều doanh nghiệp đã rất khó khăn và mất
nhiều thời gian khi phải đến Sở kế hoạch và Đầu tư để tra cứu tên doanh
nghiệp thành lập trước đó nhằm tránh sự trùng lặp. Tuy khó khăn như vậy
nhưng các tên doanh nghiệp được lựa chọn một cách thủ công chỉ tránh được
sự nhầm lẫn và trùng tên trong phạm vi tỉnh, thành phố mà doanh nghiệp đã
đăng ký chứ không có gì để đảm bảo tên đó của doanh nghiệp chưa bị trùng
hay nhầm lẫn với doanh nghiệp ở tỉnh, thành phố khác. Việc tra cứu thủ công
tên doanh nghiệp để tránh nhầm lẫn trong kỷ nguyên công nghệ thông tin này
có vẻ như gây cho các doanh nghiệp nhiều bất ngờ, nhưng họ còn bất ngờ hơn
khi biết rằng chiến lược tin học hoá thủ tục hành chính đã được áp dụng cho
các Sở Kế hoạch và Đầu tư và Cục Phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ thuộc

57
Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ lâu nhưng các đơn vị này vẫn chưa có một phần
mềm thống nhất để quản lý tên doanh nghiệp. Cho đến nay, sau hơn sáu năm
thi hành LDN năm 1999, một cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ, cập nhật, thống
nhất, có thể truy nhập qua Internet về doanh nghiệp và tên doanh nghiệp vẫn
gần như chưa được thiết lập [48, tr 19]. Kết quả là không cơ quan nào kể cả
Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể kiểm soát được doanh nghiệp trùng tên, hoặc
tên có thể gây nhầm lẫn trên cả nước. Việc này hiện nay vẫn tiếp tục còn tái
diễn và chưa được ngăn chặn hiệu quả mà trái lại đang có chiều hướng tăng
lên.
Khi đặt tên doanh nghiệp, doanh nghiệp không được sử dụng những từ
ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống, lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Nhưng từ mặt nội hàm khái niệm hiểu thế nào là “vi
phạm truyền thống, lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân
tộc” thì vẫn chưa có cách hiểu thống nhất và giải thích rõ ràng. Cách hiểu
dưới đây đang được một số người và một Phòng ĐKKD cho rằng vi phạm
truyền thống của dân tộc và không cho phép để đặt tên doanh nghiệp.

Bảng 2.10. Tên doanh nghiệp và truyền thống

Ở Việt Nam trước đây có một công ty TNHH đặt tên là An Nam, tên này đã bị
một số cựu chiến binh phản đối và cho rằng tên An Nam là không thể chấp nhận
được vì tên này gắn liền với một thời kỳ bi thương của dân tộc. Cuối cùng doanh
nghiệp phải đổi tên khác. Trong khi đó, ở Mỹ (thành phố Dar es Salaam, Tanzania)
có một công dân thành lập câu lạc bộ mang tên Tổng thống Mỹ, George Bush
(George Bush Social Club), và câu lạc bộ này đã thu hút rất nhiều người đến để
thưởng thức bia và các món nhậu tại đây. Cái tên ấy gây ấn tượng chính là nhờ vào
nickname của ông chủ quán George Charles mà bạn bè đặt cho ông vì ông từng gia
sức ủng hộ cho cuộc chiến vùng vịnh năm 1991. Thắng lớn ở câu lạc bộ Bush, ông
Charles đang dự định tiến sang các lĩnh vực khác, ông đổi tên công ty mình thanh

58
công ty TNHH đầu tư George Bush và sắp tới có thể có trang trại hay mỏ than
mang tên George Bush [50].
(Báo Thể thao ngày nay, thứ năm ngày 13 tháng 1 năm 2005, trang 16)

Tình huống ĐKKD trên đây cho phép chúng ta nhận thức rằng, trong
thực tế cuộc sống quan niện về truyền thống, văn hoá, lịch sử, đạo đức và
thuần phong mỹ tục Việt Nam của mỗi một người là khác nhau, mỗi một công
chức cũng khác nhau và chắc chắn quan niệm của mỗi Phòng ĐKKD cũng
khác nhau, thậm chí các cơ quan nhà nước khác nhau cũng có thể khác nhau.
Tiêu chí chung cho vấn đề này chắc chắn sẽ khó có thể định tính và định
lượng một cách chính xác, vậy nên, để tránh sự tuỳ tiện của các Cơ quan
ĐKKD. Các cơ quan ĐKKD nên sử dụng quyền tham vấn đã được quy định
tại Điểm 4 Mục III Thông tư số 03/2004/TT-BKH ngày 29-6-2004 hướng dẫn
trình tự, thủ tục ĐKKD theo quy định tại Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày
02 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về ĐKKD để quyết định trong trường
hợp còn có nhiều ý kiến khác nhau về tên doanh nghiệp.
Trong nhiều trường hợp khác, các cơ quan ĐKKD tại một số địa phương
còn cấm kinh doanh hoặc tạm ngừng kinh doanh một thời hạn nhất định đối
với một số ngành nghề mà địa phương đó cho là nhậy cảm hoặc cung đã vượt
qúa cầu hoặc là để bảo vệ sự độc quyền của các DNNN. Thậm chí có địa
phương còn hạn chế hình thức ĐKKD của doanh nghiệp, chỉ cho phép doanh
nghiệp ĐKKD theo loại hình công ty TNHH, cổ phần, hợp danh mà không
được ĐKKD dưới các hình thức khác như DNTN, hộ kinh doanh [24, tr12-
13]. Trong khi đó pháp luật về ĐKKD hoàn toàn không có quy định cấm
ĐKKD trong những ngành nghề và lĩnh vực đó, mà việc cấm kinh doanh các
ngành nghề như nêu ở trên hoàn toàn là do cảm tính chủ quan của các địa
phương cũng như các cơ quan ĐKKD.

59
Một trong những nội dung quan trọng trong nội dung ĐKKD của doanh
nghiệp đó là ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Doanh nghiệp được quyền
kinh doanh trong những ngành nghề và lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Ngành nghề kinh doanh được quy định tại Thông tư số 07/2001/TTLT-BKH-
TCTK ngày 10-11-2001 hướng dẫn ngành, nghề kinh doanh sử dụng trong
ĐKKD. Nghị định hướng dẫn thi hành LDN năm 1999 cũng như LDN năm
2005 đều có quy định trong trường hợp ngành nghề mà doanh nghiệp ĐKKD
chưa được quy định trong hệ thống ngành nghề quốc dân và chưa được quy
định trong văn bản quy phạm pháp luật nào thì Cơ quan ĐKKD xem xét ghi
ngành nghề đó vào giấy chứng nhận ĐKKD và thông báo cho Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Tổng Cục Thống kê bổ sung mã mới. Tuy nhiên, trên thực tế chưa
có một ngành nghề kinh doanh nào được bổ sung theo quy định nêu trên mặc
dù trên thực tế có rất nhiều ngành nghề kinh doanh mới đã được các doanh
nghiệp ĐKKD nhưng không được các Cơ quan ĐKKD chấp nhận vì chưa có
trong hệ thống ngành nghề kinh doanh của Nhà nước. Một ví dụ điển hình về
ngành nghề ĐKKD đã dẫn tới khiếu kiện ra Toà án.

Bảng 2.11. Doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh

Ngày 24-8-2004 Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Việt Nam có trụ sở tại Hà
Nội đã làm đơn khởi kiện Phòng ĐKKD- Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội
về việc không cấp chứng nhận ĐKKD bổ sung ngành nghề “vận chuyển tiền mặt,
tài sản quý, giấy tờ có giá” cho Công ty. Sau khi Công ty đã gửi rất nhiều công văn
yêu cầu Phòng ĐKKD bổ sung nhưng không được chấp nhận.
Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cho rằng đây là
ngành nghề kinh doanh có điều kiện do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý và
yêu cầu Công ty hỏi ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sau khi xin ý kiến
và nhận được công văn hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công ty đã

60
gửi hồ sơ bổ sung ngành nghề đến Phòng ĐKKD, nhưng sau đó nhận được kết quả
trả lời là phải đợi Phòng ĐKKD xin hướng dẫn của các cơ quan hữu quan.
Sau khi Phòng ĐKKD nhận được công văn trả lời của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam với nội dung “Ngành nghề vận chuyển tiền mặt tài sản quý, giấy tờ có giá
mà Công ty đang có yêu cầu được chứng nhận ĐKKD thì đây là ngành nghề kinh
doanh vận chuyển hàng hoá đặc biệt cần có những điều kiện nhất định do pháp luật
quy định cụ thể.” Phòng ĐKKD đã gửi công văn trả lời cho Công ty là chưa có cơ
sở để bổ sung ngành nghề kinh doanh “vận chuyển tiền mặt, tài sản quý, giấy tờ
có giá” cho công ty.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên Toà và Phòng ĐKKD đều cho rằng không có
cơ sở để chấp nhận bổ sung nội dung ĐKKD như yêu cầu của Công ty. Trong khi
đó đại diện Công ty cho rằng ngành nghề “vận chuyển tiền mặt, tài sản quý, giấy
tờ có giá” hiện vẫn chưa được quy định trong hệ thống ngành nghề kinh tế quốc
dân và thừa nhận hiện tại pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về điều kiện kinh
doanh cũng như việc cấm kinh doanh ngành nghề này. Do đó theo quy định của
LDN năm 1999 thì doanh nghiệp có quyền kinh doanh những ngành nghề mà pháp
luật không cấm.
Tuy vậy, tại phần quyết định Toà Hành chính Toà án nhân dân thành phố Hà
Nội đã tuyên xử bác đơn yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Việt
Nam đối với Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội về việc không
cấp giấy chứng nhận đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh “vận chuyển tiền
mặt, tài sản quý, giấy tờ có giá” [42].
(Trích Bản án hành chính sơ thẩm Số 04/HCST ngày 07-04-2004 của Toà án
nhân dân thành phố Hà Nội)

Có thể dễ nhận thấy các Cơ quan ĐKKD nói riêng cũng như những cơ
quan nhà nước nói chung chưa hình thành được tinh thần mà pháp luật đã ghi
nhận đó là doanh nghiệp, người dân được làm những gì mà pháp luật không
cấm. Do đó, khi pháp luật chưa có quy định là lĩnh vực này pháp luật có cấm

61
kinh doanh hay không, hoặc pháp luật quy định kinh doanh phải có điều kiện
nhưng hiện tại chưa có quy định về những điều kiện đó thì thông thường các
cơ quan nhà nước thường chọn giải pháp an toàn là cấm người dân thực hiện
để tránh những trách nhiệm sau này. Nhiều ngành nghề kinh doanh như môi
giới hôn nhân, dịch vụ thám tử, kinh doanh vận chuyển tiền mặt, tài sản, giấy
tờ có giá... đều nằm trong tình trạng này và chưa biết đến bao giờ mới được
phép tiến hành kinh doanh.

2.3.3. Về chủ thể đăng ký kinh doanh


Về cơ bản các hạn chế đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài so với tổ
chức, cá nhân trong nước đã được loại bỏ trong LDN năm 2005. Tuy vẫn còn
một số những quy định về điều kiện kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với
người nước ngoài, nhưng điều này là cần thiết nhằm bảo đảm an ninh về mặt
kinh tế và chính trị.
LDN năm 1999 cũng như LDN năm 2005 đều có những quy định hạn
chế một số đối tượng thành lập doanh nghiệp trong số đó có cả cán bộ, công
chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng.
Tuy nhiên, do cơ chế kiểm tra, quản lý chưa tốt nên hiện tượng các cán bộ,
công chức cơ quan nhà nước thành lập doanh nghiệp diễn ra rất phổ biến
nhưng chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Trong khi chưa có các quy định
và đổi mới chính sách về cấm kinh doanh của cán bộ, công chức thì việc
ĐKKD của cán bộ, công chức vẫn phải thực hiện theo quy định của LDN.
Ngoài ra hiện tượng người nhà các quan chức đứng ra thành lập doanh nghiệp
để kinh doanh trên cơ sở tận dụng các lợi thế của quan chức cũng cần phải
được xem xét và có những điều chỉnh thích hợp.
LDN năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định khá cụ
thể chi tiết về điều kiện, trình tự, thủ tục ĐKKD cho các hộ kinh doanh. Việc

62
ĐKKD một hộ kinh doanh cũng được tiến hành khá đơn giản và nhanh chóng.
Tuy nhiên, LDN năm 1999 cũng như LDN năm 2005 đều có quy định khuyến
khích việc các hộ kinh doanh chuyển sang hình thức hoạt động theo LDN.
Tuy nhiên tiêu chí cho việc thành lập này nhiều khi cũng chưa rõ ràng theo
LDN năm 1999, năm 2005 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. LDN
năm 2005 quy định đối với hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ mười lao
động trở lên thì phải ĐKKD theo hình thức doanh nghiệp, quy định này thực
chất rất khó cho các cơ quan nhà nước khi xác định, nhưng lại tạo cho doanh
nghiệp sự tuỳ tiện trong ĐKKD. Chẳng hạn doanh nghiệp chỉ sử dụng dưới
mười lao động thường xuyên nhưng lại thường thuê rất nhiều lao động không
thường xuyên và hoạt động với quy mô lớn thì vẫn có thể kinh doanh dưới
hình thức hộ kinh doanh hoặc có nhiều trường hợp doanh nghiệp chỉ thuê từ 1
đến 2 lao động nhưng lại ĐKKD dưới hình thức của doanh nghiệp. Mặt khác
việc xác định thế nào là thuê lao động thường xuyên, căn cứ vào loại hợp
đồng lao động mà hộ kinh doanh đã ký với người lao động hay vào thời gian
lao động thực tế? Rõ ràng nếu không có hướng dẫn cụ thể thì các quy định
này sẽ lại được hiểu rất khác nhau trong thực tế. Do đó, bên cạnh việc hướng
dẫn rõ nội dung các quy định của pháp luật để khuyến khích cho các hộ kinh
doanh đăng ký thành một doanh nghiệp thì rất cần có những quy định mang
tính chuyển tiếp về hồ sơ và thủ tục tạo thuận lợi cho một doanh nghiệp được
thành lập từ hộ kinh doanh. Khi doanh nghiệp nâng cấp từ hộ kinh doanh gia
đình thành công ty về cơ bản những hồ sơ và thủ tục gần giống như ĐKKD
thành lập một doanh nghiệp mới nhưng để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp,
tránh những đòi hỏi thêm về hồ sơ và thủ tục không cần thiết cần quy định hồ
sơ thành lập mới doanh nghiệp trong trường hợp này theo hướng đơn giản.
Điều này sẽ tránh được tình trạng việc thành lập một công ty mới với một cái
tên mới mà không sử dụng tên và thông tin cũ, không đóng cửa hộ kinh doanh

63
cũ. Do đó, sẽ hạn chế được nhiều hộ kinh doanh vẫn tồn tại trên danh nghĩa
trong khi thực tế chúng đã chấm dứt tồn tại và đang là một doanh nghiệp hoạt
động.
Hiện nay cả nước có từ 2,5 – 2,9 triệu hộ kinh doanh vẫn đang hoạt động
dưới hình thức này mà không có mong muốn chuyển đổi từ khu vực “phi
chính thức” sang khu vực “chính thức”. Lý do của thái độ thời ơ này có lẽ bắt
nguồn từ tư tưởng duy lợi của người Việt. Bởi khi so sánh lợi ích giữa hộ kinh
doanh và doanh nghiệp họ cảm thấy các mô hình doanh nghiệp không mang
lại cho họ nhiều lợi ích, trái lại còn mạng lại cho họ nhiều nghĩa vụ hơn với số
lượng quy chế phải tuân thủ là khó có thể thống kê và dự đoán. Tư tưởng ép
buộc hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên trên 10 lao động phải tiến hành
ĐKKD như trên đã phân tích có lẽ khó có thể đem lại thành công như mong
đợi của các nhà làm luật một khi chưa có một chính sách thiết thực và đồng
bộ hơn. Có thể nhìn nhận một xu thế ĐKKD thông qua Bảng 2.13 dưới đây.

Bảng 2.12. Thuế môn bài, rào cản mới đối với tinh thần kinh doanh

Thực tế cho thấy, sau khi có chủ trương tăng mức thuế môn bài đã có nhiều
doanh nghiệp ở một số tỉnh Miền Nam ngừng đăng ký thành lập các chi nhánh, cửa
hàng. Một xu hướng khác là các hộ kinh doanh cá thể không muốn thành lập doanh
nghiệp chính thức vì kèm theo phí ĐKKD chỉ có 200.000 đồng là mức thuế môn bài
phải nộp cao hơn hẳn so với mức hộ kinh doanh phải nộp.
Trong thời gian tới đây, nếu mức thuế môn bài này tiếp tục được áp dụng sẽ
ảnh hưởng đến nhiều chủ trương lớn của Chính phủ như khuyến khích phát triển
doanh nghiệp ngành nghề nông thôn, thành lập doanh nghiệp tạo công ăn việc
làm,… đặc biệt mức thuế môn bài cao sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của những người có
ý tưởng kinh doanh và những doanh nghiệp thành lập mới, những doanh nghiệp có
nhu cầu mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện [30].
(Minh Anh – Gia tăng gánh nặng đầu vào, Báo Đầu tư số 20, ra ngày 14/02/2003)

64
Đối với các hộ kinh doanh không chỉ có thuế là rào cản mà đối với họ
hoạt động theo mô hình doanh nghiệp cũng tạo ra cho họ không ít những khó
khăn, không chỉ đơn thuần là chi phí cao hơn mà tính “chuyên nghiệp” cũng
đòi hỏi họ có nhiều thời gian, kinh nghiệm và kỹ năng hơn [50, tr 23]. Trong
khi đó họ lại không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía nhà nước. Tất cả
những yếu tố đó sẽ làm cho lực đẩy từ các quy định trong LDN năm 2005 sẽ
bị triệt tiêu mà không thể đẩy được các hộ kinh doanh vào ngôi nhà của doanh
nghiệp.
Cũng theo quy định tại Nghị định số 88 nêu trên, thì lệ phí ĐKKD theo
quy định của LDN năm 2005 sẽ được tính trên cơ sở số lượng những ngành,
nghề ĐKKD. Tuy nhiên, hiện các quy định hướng dẫn cũng chưa có quy định
cụ thể mức phí áp dụng cho từng ngành, nghề cụ thể; mức lệ phí sẽ được xác
định trên cơ sở số lượng ngành, nghề thống nhất hay sẽ có những quy định
đặc thù cho những ngành nghề đặc thù. Trường hợp đối với các doanh nghiệp
ĐKKD lại theo quy định mà số lượng ngành nghề có tăng hoặc có giảm
ngành, nghề thì lệ phí sẽ được xác định như thế nào? Những vấn đề này cần
phải có những hướng dẫn cụ thể trong các văn bản hướng dẫn về thủ tục và lệ
phí ĐKKD trong thời gian tới.

2.3.4. Về hồ sơ đăng ký kinh doanh


Bên cạnh vấn đề đặt tên doanh nghiệp, trong thực tiễn ĐKKD các cơ
quan ĐKKD thường yêu cầu cung cấp thêm các giấy tờ diễn ra khá phổ biến.
Chẳng hạn để tránh việc bị truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm
hình sự có thể xảy ra theo quy định tại Điều 29 của Nghị định số 109 và tại
Nghị định số 88. Nhiều cán bộ ĐKKD đã yêu cầu người ĐKKD xác nhận
thêm lý lịch tư pháp của người thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng thuê trụ

65
sở khi ĐKKD. Trong khi đó, theo các quy định hiện hành thì không rõ cơ
quan nào có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này. Thực chất những quy định
do các cơ quan này đặt ra là đặt thêm các quy định trái pháp luật.
Cũng có trường hợp trong hồ sơ ĐKKD của chủ thể ĐKKD có bản điều
lệ mẫu của công ty dự định thành lập không giống với mẫu bản điều lệ
ĐKKD theo mẫu. Chủ thể đó cũng bị từ chối ĐKKD vì bản điều lệ đó chưa
hợp lệ. Doanh nghiệp muốn được ĐKKD thông thường phải mua một bản
điều lệ mẫu của cơ quan ĐKKD và sau đó về điền những thông tin của doanh
nghiệp vào bản điều lệ mẫu đó [49, tr 20]. Trong khi đó quy định về điều lệ
của doanh nghiệp cổ phần, cũng như của công ty TNHH được quy định tại
Nghị định số 03/2000/NĐ-CP và Nghị định số 125/2004/NĐ-CP đều chỉ quy
định doanh nghiệp ĐKKD phải có điều lệ và điều lệ phải có những nội dung
quy định, còn về những nội dung khác doanh nghiệp có quyền quy định
nhưng không trái với quy định của pháp luật. Vậy phải chăng trong những
trường hợp này cơ quan ĐKKD đã can thiệp quá sâu vào quyền tự thoả thuận
trong nội bộ của doanh nghiệp. Điều này chỉ có thể được lý giải bởi sự yếu
kém của cán bộ ĐKKD hoặc vì động cơ khác mà đã hiểu sai các quy định của
pháp luật.

2.3.5. Về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh


Thủ tục hành chính về ĐKKD tuy được đánh giá là đã được cải thiện rất
nhiều, nhưng những vướng mắc mà những doanh nghiệp gặp phải khi tiến
hành ĐKKD thực sự vẫn là một rào cản cho việc thực hiện các ý tưởng kinh
doanh của họ. Việc phải đi lại nhiều lần do không được hướng dẫn rõ ràng,
đầy đủ về thủ tục đôi lúc làm nản lòng các nhà đầu tư. Thay vì thông báo
bằng văn bản cho người nộp đơn về những sai sót trong đơn ĐKKD như quy
định, nhiều nơi thường chỉ xem qua đơn và yêu cầu doanh nghiệp đem về sửa

66
một hai lỗi nhỏ, điều này diễn ra nhiều lần đã tạo cho họ sự mệt mỏi [24, tr
10]. Thực tế những quy định của pháp luật hiện hành cũng đã chưa quy định
cụ thể, chi tiết việc cán bộ kinh doanh phải hướng dẫn như thế nào cho doanh
nghiệp đăng ký. Do đó, cán bộ ĐKKD vẫn hướng dẫn nhưng không hướng
dẫn đầy đủ cũng không phải là vi phạm các quy định của pháp luật. Tôi cho
rằng vấn đề không nằm ở việc các quy định của pháp luật không quy định, mà
vấn đề chính ở đây đó là thái độ của các cán bộ ĐKKD đối với doanh nghiệp.
Chẳng hạn như việc doanh nghiệp phải sửa đổi giấy chứng nhận ĐKKD do sự
không thống nhất giữa ngôn từ chỉ cách hiểu các loại dây chuyền sản xuất và
ngành nghề sử dụng trong quá trình kinh doanh diễn ra khá phổ biến. Tất cả
những trường hợp nêu trên đây sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng nếu
các cán bộ ĐKKD có tinh thần hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
doanh nghiệp.
Trong những trường hợp pháp luật có quy định rõ ràng về thủ tục đã vậy,
nhiều trường hợp pháp luật chưa quy định rõ về thủ tục khi tiến hành ĐKKD
lại càng tạo nhiều khó khăn hơn cho các doanh nghiệp. Đó là các trường hợp
chuyển đổi hình thức hoạt động của các DNNN đang hoạt động theo Luật
DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH và công ty cổ phần và
việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện tại đang
hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo LDN năm 2005.
Đối với các DNNN việc chuyển đổi các công ty nhà nước sang hoạt
động theo mô hình công ty TNHH một thành viên được thực hiện theo quy
định tại Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 08-09-2006 của Chính phủ về
chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên. Tuy vậy,
theo các quy định trong Nghị định này thì thẩm quyền tiến hành thủ tục
ĐKKD đối với các công ty nêu trên chưa được quy định rõ. Mặt khác, các
công ty nhà nước không thuộc các đối tượng nêu trong Nghị định sẽ được

67
chuyển đổi theo hướng nào, thẩm quyền và thủ tục ĐKKD đối với các công ty
loại này hiện cũng chưa được quy định cụ thể.
Đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo
Luật đầu tư nước ngoài, thì việc chuyển đổi tuy không bắt buộc nhưng theo
các quy định của LDN năm 2005 cũng như các quy định hướng dẫn luật này
lại khiến có doanh nghiệp không còn cách lựa chọn nào tốt hơn là nên đăng
ký lại [34, tr 22].
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang tồn tại dưới bốn
hình thức là: doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đã ĐKKD theo các quy định trước đây của pháp luật về doanh
nghiệp cũng như về đầu tư nay thực hiện ĐKKD lại hay chuyển đổi loại hình
theo quy định của LDN năm 2005 hiện đang phải chịu những hạn chế không
công bằng so với các DNNN và doanh nghiệp dân doanh trong nước. Nghị
định 101/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thủ tục đăng ký lại và thủ
tục chuyển đổi đối với các doanh nghiệp này tương đối hẹp đã hạn chế nhiều
quyền lựa chọn của các doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở các quy định các
doanh nghiệp này phải đăng ký lại theo những loại hình doanh nghiệp đã ấn
định mà không có sự lựa chọn nào khác. Rồi sau đó mới được chuyển đổi
sang những loại hình doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt đang hoạt động theo các luật khác Luật đầu tư
như các công ty bảo hiểm, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa biết
mình sẽ đăng ký lại như thế nào [34, tr 22].
Ngoài ra, về tên của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là
một vấn đề cần phải được quy định rõ khi chuyển đổi vì nếu cứ giữ nguyên
những tên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sẽ có những tên doanh

68
nghiệp trái với quy định của LDN. Do đó, cần có những quy định cụ thể
hướng dẫn về tên của doanh nghiệp cho thống nhất.
Thực tế ĐKKD trong cả nước hơn 6 năm qua cũng ghi nhận những sáng
tạo về mặt thủ tục giúp thủ tục ĐKKD được thuận tiện, dễ dàng hơn, thời gian
được rút ngắn hơn. Điển hình về sự sáng tạo đó là việc các Phòng ĐKKD đã
triển khai việc ĐKKD trên mạng để nhận hồ sơ ĐKKD và thông báo tiến độ
cũng như kết quả xử lý hồ sơ ĐKKD qua mạng. Chỉ khi nào việc ĐKKD
thành công doanh nghiệp mới phải đến Phòng ĐKKD để lấy kết quả. Một số
Phòng ĐKKD khác lại triển khai thủ tục ĐKKD một cửa cũng tạo nhiều thuận
lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ ĐKKD một cửa tại
Phòng ĐKKD, các thủ tục khác về đăng ký khắc dấu và đăng ký mã số thuế,
đăng ký mua hoá đơn sẽ được gửi đến các cơ quan hữu quan để tiến hành mà
doanh nghiệp không phải trực tiếp đến nộp. Đến thời hạn, doanh nghiệp sẽ
đến Phòng ĐKKD để nhận kết quả. Những quy định như vậy sẽ giúp ích cho
các doanh nghiệp, khi không phải mất thời gian và công sức đến các cơ quan
hữu quan để hoàn thiện thủ tục hồ sơ. Mặt khác, thực hiện tốt cơ chế này cũng
làm giảm những tiêu cực phát sinh trong quá trình ĐKKD. Tuy nhiên, thực tế
thực hiện cơ chế một cửa một cách máy móc, không khoa học tại một số tỉnh
thành đã đem lại những hệ quả ngược [49, tr 13]. Một thực tế ghi nhân được
qua một cuộc khảo sát là: nếu như quy chế một cửa được thực hiện khá tốt ở
tỉnh Lào Cai, thì ngược lại, ở Đắk Lắk nhà đầu tư muốn ĐKKD sẽ đến phòng
một cửa để nộp hồ sơ, sau đó người nhận hồ sơ sẽ lại chuyển hồ sơ về Phòng
ĐKKD để xử lý; sau đó, nếu được cấp giấy chứng nhận ĐKKD nhà đầu tư sẽ
đến nhận tại phòng một cửa; quy trình này thực chất đã tạo thêm một cửa
nhận hồ sơ nữa trong thủ tục ĐKKD thực chất là trái với quy định của LDN
và các quy định hướng dẫn thi hành. Như vậy, thủ tục một cửa nếu không

69
được thực hiện đúng với bản chất “một cửa, một dấu” sẽ rất dễ trở thành “một
cửa – nhiều khoá”.
Có một điều chắc chắn đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn là
thủ tục và luật lệ càng nhiều thì chi phí kinh doanh càng cao [38, tr 53]. Mặt
khác, nhiều thủ tục thường mang lại kết quả ngược lại với mục tiêu đặt ra.
Trong khi đó những người giầu sẵn sàng bỏ ra thêm những chi phí để có thể
tránh được sự phức tạp của thủ tục, đồng thời ngăn cản những người khác ra
nhập thị trường.

2.3.6. Về giấy phép và điều kiện kinh doanh


Điều kiện kinh doanh được hiểu là những yêu cầu mà doanh nghiệp phải
có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh những ngành, nghề cụ thể được thể
hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh,
chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu
về vốn pháp định hoặc các yêu cầu khác (khoản 2 Điều 7 LDN năm 2005).
Theo cách hiểu này thì giấy phép kinh doanh cũng chỉ là một hình thức biểu
hiện của điều kiện kinh doanh và chỉ khác với điều kiện kinh doanh ở việc nó
được thực hiện bằng cơ chế cấp phép thể hiện qua việc cấp cho chủ thể xin
phép một loại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh một ngành, nghề nào
đó. Điều kiện kinh doanh nói chung là những yêu cầu mà doanh nghiệp phải
đáp ứng có thể là điều kiện phải được cấp phép hoặc có thể chỉ là điều kiện
kinh doanh phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh.
Trong thực tế thi hành LDN biểu hiện của điều kiện kinh doanh khá đa
dạng và cũng là một trong những vấn đề gây nhiều bức xúc nhất cho các chủ
thể khi ĐKKD. Hiện cả nước theo số liệu thống kê được gần 300 loại giấy
phép kinh doanh ở tất cả các ngành nghề. Trong mấy năm gần đây số lượng

70
các loại giấy phép này không những không giảm mà đang có chiều hướng
tăng lên cả về số lượng và tính phức tạp; chúng thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, các doanh nhân rất khó khăn trong việc tìm kiếm những văn
bản pháp luật chuyên ngành quy định những hoạt động kinh doanh phải có
giấy phép kinh doanh. Ngay cả các cơ quan Nhà nước cũng chưa thể thống kê
hết được có bao nhiêu ngành, nghề kinh doanh cần phải có giấy phép. Trong
khi đó, những giấy phép mới được ban hành càng ngày càng nhiều hơn trước
và khó tiên liệu hơn trước. Cơ quan ĐKKD có nghĩa vụ hướng dẫn cho người
dân nhưng chính họ cũng không biết hiện có những loại giấy phép nào đang
có hiệu lực đối với ngành, nghề nào, thủ tục và điều kiện cấp phép ra sao?
Thứ hai, các giấy phép xin mất nhiều thời gian, công sức và chi phí
nhưng lại có giá trị rất ngắn.
Thứ ba, giấy phép thường trùng lặp hoặc không cần thiết và trái luật
chưa được ngăn chặn hiệu quả và cũng chưa được bãi bỏ kịp thời.
Thứ tư, chưa thiết lập được nguyên tắc kiểm soát việc ban hành giấy
phép mới và chưa thường xuyên đánh giá hiệu lực cũng như tính hữu ích của
giấy phép và các điều kiện kinh doanh hiện hành khác.
Thứ năm, việc chuyển giấy phép sang điều kiện kinh doanh cũng không
có nhiều ý nghĩa vì cuối cùng họ cũng phải đáp ứng nhiều yêu cầu và tiêu
chuẩn trước khi đi vào hoạt động.
Thứ sáu, mục tiêu cấp phép đôi lúc không rõ ràng, tiêu chí để cơ quan
hành chính cấp phép hoặc từ chối cấp phép đôi khi chưa rõ ràng.
Thứ bẩy, quy trình cấp phép và giám sát điều kiện kinh doanh chưa có
sự tham gia của những người liên quan, chưa tham vấn và giải thích rõ các
quyền của người làm đơn xin cấp phép, nếu từ chối cấp phép thường cũng
không nêu nguyên nhân và giải thích quyền khiếu nại cho đương sự [39, tr
12,13].

71
Có thể đánh giá rằng nạn giấy phép và điều kiện kinh doanh đang là vấn
đề lớn nhất và khó giải quyết nhất trong nội dung của pháp luật về ĐKKD.
Điều này không chỉ xuất phát từ phạm vi ảnh hưởng rộng của giấy phép ở tất
cả các ngành, lĩnh vực, mà việc duy trì và phát triển chúng còn là một nguồn
lợi lớn của các bộ, ngành. Chính vì gắn với lợi ích của các bộ, ngành mà càng
ngày số lượng các giấy phép và điều kiện kinh doanh không hề giảm mà còn
đang khó loại bỏ vì tính cần thiết của chúng đã được chính các quy định của
pháp luật đã được các đại biểu Quốc hội thừa nhận và thông qua. (Chẳng hạn
như các quy định của Luật thương mại năm 2004, Luật du lịch năm 2005 đã
“vô tình” quy định cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thẩm
quyền xét duyệt và cấp một số loại giấy phép).
Bên cạnh đó, các quy chế hành chính, thủ tục hành chính về điều kiện
kinh doanh cũng xuất hiện ngày càng nhiều trong các quy định của pháp luật.
Đặc điểm của các quy chế và thủ tục này là khó có thể định tính một cách rõ
ràng và tính khó khăn và phức tạp của chúng khi được thực hiện trên thực tế.
Hiện nay, chúng ta mới chỉ thống kê được các giấy phép kinh doanh dưới
hình thức là sự chấp thuận của các cơ quan nhà nước mà chúng ta chưa thống
kê được những quy chế hành chính điều chỉnh các hoạt động kinh doanh có
điều kiện khác. Thực tế này đã và đang tiếp tục là những dào cản khó khăn
đối với các doanh nghiệp khi kinh doanh trong những ngành nghề và lĩnh vực
này.

2.3.7. Về cơ quan đăng ký kinh doanh


Hệ thống cơ quan ĐKKD đã được thành lập tại tất cả các tỉnh, thành phố
trên cả nước. Tuy nhiên, cơ quan ĐKKD cấp huyện chưa được thành lập đầy
đủ tại tất cả các huyện, chưa chính thức có một cơ quan quản lý hệ thống các
cơ quan ĐKKD địa phương tại trung ương. Nhìn chung các cơ quan ĐKKD

72
chưa được kiện toàn về bộ máy và tổ chức nhân sự. Còn nhiều hạn chế và
thiếu thốn về kinh nghiệm công tác cũng như các trang thiết bị phục vụ cho
công tác ĐKKD. Hệ thống cơ quan ĐKKD chưa được quy định và hình thành
một cách rõ ràng về tổ chức, chưa thành một hệ thống cơ quan độc lập. Mối
quan hệ giữa các cơ quan trong hệ thống là chưa rõ ràng. Sự phối hợp trong
việc thực hiện nhiệm vụ giữa Phòng ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện là rất yếu
và kém hiệu quả. Chủ yếu quan hệ giữa các cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và trung
ương thông qua Sở Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Về mặt nhân sự, hiện cả nước có khoảng hơn 1000 cán bộ làm công tác
ĐKKD, trong đó có trên 300 cán bộ chuyên trách phòng ĐKKD cấp tỉnh và
khoảng 700 cán bộ (cả chuyên trách và kiêm nhiệm) ở cấp huyện [48, tr 8].
Trong khi đó mỗi năm phải đăng ký trung bình cho khoảng 20.000 doanh
nghiệp và số lượng doanh nghiệp phải kiểm tra, thanh tra cho đến hiện nay là
khoảng trên 100.000 doanh nghiệp. Đây quả là một khối lượng công việc
khổng lồ. Mặt khác biên chế của các phòng ĐKKD đều thuộc biên chế của Sở
Kế hoạch và Đầu tư. Ngân sách, cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư. Do đó, với nguồn lực và cơ sở vật chất còn hạn chế các
Phòng ĐKKD còn được ví von là “sự đau khổ kéo dài”.
Các phòng ĐKKD trên cả nước về cơ bản đã thực hiện tốt được nhiệm
vụ cấp giấy chứng nhận ĐKKD theo quy định của pháp luật nhưng chưa có
phòng ĐKKD nào hoàn thành nhiệm vụ hướng dẫn các doanh nhân về ngành
nghề có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó theo quy định
của pháp luật. Thực trạng này cũng không hoàn toàn xuất phát từ sự yếu kém
của các cán bộ ĐKKD mà nó là hệ quả của sự chồng chéo, phức tạp, kém
minh bạch và công khai của các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề
đó của các bộ ngành, địa phương. Hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay

73
đang chứa đựng những quy định chính thức và cả không chính thức, cả thành
văn và bất thành văn về những ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều
kiện kinh doanh các ngành nghề. Hệ quả là ngay cả các bộ, ngành và địa
phương đặt ra các điều kiện và giấy phép cũng không thể chắc chắn trong
ngành, địa phương mình có bao nhiêu những điều kiện và giấy phép? Do đó,
các cán bộ ĐKKD không thể hướng dẫn được cho các doanh nhân về ngành
nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh là có thể lý giải được.
Thực trạng này cho chúng ta thấy rằng để các cán bộ ĐKKD có thể hoàn
thành được nhiệm vụ của mình thì nỗ lực bản thân của riêng các phòng
ĐKKD và cán bộ ĐKKD không thôi vẫn chưa đủ mà cần phải có những quy
định rõ ràng và thống nhất về các nội dung liên quan đến pháp luật về ĐKKD.
Thực tiễn tiến hành các quy định về ĐKKD đã bộc lộ nhiều hạn chế của
các cơ quan ĐKKD đối với hệ thống thông tin về doanh nghiệp. Đặc biệt là
việc quản lý thông tin liên quan đến việc đặt tên cho các doanh nghiệp, thay
đổi các thông tin về doanh nghiệp và quản lý những doanh nghiệp đã giải thể
hoặc phá sản. Cục phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ thuộc Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cũng đã bắt đầu triển khai hệ thống quản lý thông tin về doanh nghiệp
nhưng do không được triển khai thống nhất và đồng bộ trên phạm vi cả nước
nên vẫn chưa hạn chế được hiện tượng doanh nghiệp trùng tên hoặc có tên
gây nhầm lẫn với các doanh nghiệp khác. Mặt khác số lượng thống kê các
doanh nghiệp còn đang hoạt động và các doanh nghiệp đã giải thể được Cục
phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ thống kê so với con số thống kê của
Tổng cục Thống kê và Tổng Cục thuế là khác nhau [48, tr 12]. Chúng ta có
thể đánh giá phần nào năng lực của các Cơ quan ĐKKD thông qua ví dụ dưới
đây:

Bảng 2.13. Lỗ hổng hậu đăng ký kinh doanh

74
83 Doanh nghiệp có tên là “Bình Minh”
“Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên, hiện tượng tên doanh nghiệp
gây nhầm lẫn hoặc trùng hoàn toàn ngày càng nhiều. Cả nước có 8 doanh nghiệp
có tên là “Công ty TNHH Phương Đông”, 6 doanh nghiệp có tên “DNTN Phương
Đông”, 12 doanh nghiệp có tên “Công ty TNHH Bình Minh” và có 83 doanh
nghiệp có từ Bình Minh trong tên đã ĐKKD… Quản lý của Nhà nước ban đầu ở
công tác ĐKKD còn thể hiện nhiều yếu kém khi Tổng Cục thuế mới đây đã phát
hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh có một cá nhân đã thành lập và ĐKKD tới 6 doanh
nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. Hay một đối tượng
đang có lệnh truy nã về tội lạm dụng tín nhiệm ở tỉnh Hải Dương đã thành lập được
01 doanh nghiệp ở Gia Lai.
Ông Liên cho rằng, nguyên nhân của tình trạng này là quản lý ĐKKD mới chỉ
dừng lại ở các địa phương. “Các loại nghiệp vụ này phải được xét ở tầm quốc gia
nhưng với cách tổ chức cơ quan ĐKKD như hiện nay thì ngay phạm vi cấp tỉnh
cũng không đủ thông tin để đảm bảo chính xác các nội dung đã đăng ký” ông Liên
nói.
Những tồn tại này tạo nên tranh chấp, khiếu nại giữa doanh nghiệp với cơ
quan ĐKKD, giữa các doanh nghiệp với nhau, nếu tiếp tục kéo dài thì số lượng
tranh chấp ngày càng nhiều, môi trường kinh doanh bị rối loạn, gây tốn kém về thời
gian và chi phí cho các doanh nghiệp. Theo ông Liên, nếu việc quản lý Nhà nước về
ĐKKD không đủ thẩm quyền để tác động nghiệp vụ thì hoạt động đó chỉ mang tính
chất tư vấn”… [41].
(Báo Việt Nam nét ngày 10/11/2003 có thể tài về từ www.vietnamnet.vn)

Các cơ quan ĐKKD cũng còn nhiều hạn chế trong việc quản lý và giám
sát các doanh nghiệp và hộ kinh doanh. Trong khi đó việc thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp của một số cơ quan ĐKKD được ghi nhận là gây nhiều phiền hà
cho doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Cơ chế hậu kiểm của các cơ quan

75
ĐKKD ít được thực hiện và thường là cơ hội để các cán bộ gây phiền hà cho
doanh nghiệp hơn là thực chất kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp.
Việc thành lập các phòng ĐKKD ở cấp huyện diễn ra không đúng theo
yêu cầu của pháp luật. Về điều kiện thành lập phòng ĐKKD cấp huyện chưa
cụ thể dẫn đến nhiều huyện ở nhiều nơi đủ điều kiện thành lập phòng ĐKKD
nhưng vẫn không thành lập mà vẫn giao cho một phòng chuyên môn thuộc
Uỷ ban nhân dân để thành lập doanh nghiệp, thậm chí có nơi giao nhiệm vụ
này cho phòng kinh tế có nơi lại giao cho phòng thống kê, kế hoạch dẫn đến
hệ thống cơ quan ĐKKD ở cấp huyện là một hệ thống không thống nhất và
đầy đủ.
Hiện nay, theo quy định của các văn bản quy phạm hệ thống ĐKKD
được thực hiện đối với từng loại hình doanh nghiệp khác nhau có chế độ
ĐKKD riêng. Chế độ ĐKKD của doanh nghiệp thông thường được thực hiện
tại các Phòng ĐKKD thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, ĐKKD các hộ kinh
doanh và các hợp tác xã được thực hiện tại các Phòng ĐKKD hoặc các Phòng
ban chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Hiện các quy định của
Luật hợp tác xã quy định cho phép người thành lập hợp tác xã quyền lựa chọn
cơ quan ĐKKD cho phù hợp. Do đó, về cơ bản việc phân biệt thẩm quyền của
các cơ quan ĐKKD hiện nay là chưa rõ ràng và điều này sẽ rất khó thay đổi
một khi hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã không thuộc đối tượng điều chỉnh
của LDN và Luật hợp tác xã năm 2003 cũng đã quy định rõ quyền lựa chọn
của người ĐKKD hợp tác xã (Điều 14 Luật hợp tác xã năm 2003).

2.1.8. Giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh


Các tranh chấp về ĐKKD có thể được chia ra thành hai loại, tranh chấp
giữa các cá nhân, tổ chức với nhau có liên quan đến ĐKKD và tranh chấp
giữa cá nhân, tổ chức với Cơ quan ĐKKD, cán bộ, công chức ĐKKD. Các

76
tranh chấp về ĐKKD chủ yếu là các tranh chấp thứ hai, tranh chấp giữa cá
nhân, tổ chức có liên quan với các cán bộ, công chức ĐKKD hoặc Cơ quan
ĐKKD. Theo quy định hiện hành các tranh chấp này sẽ được giải quyết theo
các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính. Các tranh chấp về ĐKKD tại Toà án là tương đối ít, chủ yếu là
tranh chấp về các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công
chức ĐKKD và cơ quan ĐKKD. Điển hình về tranh chấp kinh doanh là vụ
việc dưới đây:

Bảng 2.14. Giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh

Công ty cổ phần cáp treo và dịch vụ du lịch Chùa Hương (HuPaCo) được
thành lập theo giấy phép số 289/1998/GP-UB ngày 23-3-1998 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Hà Tây và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây cấp giấy chứng nhận
ĐKKD số 055739. Do tình hình kinh doanh khó khăn, hội nghị sáng lập viên của
Công ty HuPaCo đã họp đại hội cổ đông và đi đến nhất chí đồng ý cho một số
thành viên rút vốn khỏi công ty và bầu ông Lâm làm Tổng giám đốc, với cương vị
này ông Lâm đã làm thủ tục thay đổi ĐKKD đổi tên Công ty thành Công ty cổ phần
cáp treo Chùa Hương do chính ông làm đại diện là đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Hà Tây cấp giấy chứng nhận ĐKKD. Tuy nhiên, do có một số thành viên cũ
của Công ty khiếu nại, ngày 15-7-2002 Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh
Hà Tây ra thông báo số 483/TB-ĐKKD về việc thu hồi giấy chứng nhận ĐKKD số
055739 đã cấp cho Công ty cổphần cáp treo Chùa Hương do ông Lâm làm giám
đốc. Đồng thời Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây đã cấp Giấy
chứng nhận ĐKKD số 0303000076 cho Công ty cổ phần cáp treo và dịch vụ du lịch
Chùa Hương do ông Bùi Văn Sướng làm đại diện theo pháp luật.
Ngày 15-7-2003 ông Ngô Ngọc Lâm Tổng giám đốc Công ty cổ phần cáp treo
Chùa Hương có đơn khởi kiện Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây
do ông Ngô Minh Hoạt làm đại diện yêu cầu Phòng ĐKKD huỷ Thông báo số
483/TB-ĐKKD về việc thu hồi giấy chứng nhận ĐKKD số 055739 đã cấp cho Công

77
ty cổ phần cáp treo Chùa Hương. Đồng thời ông Lâm cũng đề nghị huỷ Giấy chứng
nhận ĐKKD số 0303000076 đã cấp cho Công ty cổ phần cáp treo và dịch vụ du
lịch Chùa Hương.
Tại phiên Toà sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây, Hội đồng xét xử đã
nhận định việc Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây cấp giấy Chứng
nhận ĐKKD số 0303000076 đã cấp cho Công ty cổ phần cáp treo và dịch vụ du
lịch Chùa Hương là trái với quy định của LDN về hồ sơ và thủ tục ĐKKD. Điều này
cũng đã được bản án phúc thẩm tái khẳng định.
Tuy vậy, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã không chấp nhận
yêu cầu của ông Lâm huỷ Thông báo số 483/TB-ĐKKD về việc thu hồi giấy chứng
nhận ĐKKD số 055739. Do đó, ông Lâm phải tiến hành ĐKKD lại theo quy định
của pháp luật [43].
( Trính Bản án phúc thẩm số 13/HCPT ngày 18/01/2005 của Toà Phúc thẩm –
Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội)

Tranh chấp nên trên có nguồn gốc từ chính những mâu thuẫn trong nội
bộ các thành viên của Công ty, đặc biệt là giữa các thành viên đã rút vốn khỏi
công ty với các thành viên còn lại. Tuy vậy, nếu không có sự can thiệp trái
pháp luật của Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây thông qua
việc huỷ Giấy chứng nhận ĐKKD cũ và cấp Giấy chứng nhận ĐKKD mới thì
sẽ không có tranh chấp giữa cá nhân ông Lâm và Phòng ĐKKD Sở Kế hoạch
và Đầu tư tỉnh Hà Tây. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Toà án về cơ bản là
phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về ĐKKD. Tuy nhiên Toà án
đã không huỷ Thông báo thu hồi giấy chứng nhận ĐKKD với lý do đã hết
thời hiệu theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính là hợp pháp nhưng chưa hợp lý. Việc không tuyên huỷ Thông báo thu
hồi giấy chứng nhận ĐKKD nêu trên đã khiến cá nhân ông Lâm và doanh
nghiệp phải tiến hành lại thủ tục ĐKKD mà lẽ ra không cần phải thực hiện lại.

78
2.4. Những nhân tố tác động tới thực trạng pháp luật về đăng ký
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay
Trong mục này, tác giả cố gắng tìm hiểu những nhân tố cơ bản đã tác
động tới quá trình xây dựng và thực thi pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện
nay. Những nhân tố nêu trong mục này là những nhân tố trên thực tế đã có
những tác động tiêu cực đến việc xây dựng và áp dụng những quy định pháp
luật ĐKKD. Do vậy, xác định được những nhân tố này sẽ có ý nghĩa góp phần
đưa ra được những giải pháp có hiệu quả nhằm làm giảm thực trạng trên.

2.4.1. Nền tảng chính trị chưa thực sự ủng hộ cho doanh nghiệp dân
doanh
Rất dễ nhận thấy những vấn nạn trong khi kinh doanh phần nào bắt
nguồn từ những bất cập trong tư duy, nhận thức chính trị về quyền tự do kinh
doanh của người dân. Đã và đang có những tư lợi trong những mong muốn về
chính trị đối với lợi ích cộng đồng, lợi ích nhà nước và lợi ích cá nhân. Những
đặc điểm này trong nền tảng chính trị của Việt Nam đã dẫn đến sự bất khả thi
hay sự méo mó của chính sách và pháp luật, vì chính sách và pháp luật
thường xa rời với lợi ích và nguyện vọng của người dân.
Mặc dù cũng đã có những cam kết thúc đẩy cải cách mạnh mẽ hơn nữa
từ cấp cao nhất, nhưng đây đó trong cả hệ thống vẫn còn nhiều những níu kéo
và hành xử theo cơ chế cũ. Để chính sách và luật pháp mang lại lợi ích cho
người dân cần có những nhận thức và hành động đúng đắn của cả hệ thống
chính trị về quyền tự do kinh doanh của người dân và về những lợi ích cần
được ưu tiên bảo vệ. Chỉ có người dân mới được quyền làm tất cả những gì
mà luật pháp không cấm và quyền lực nhà nước là hữu hạn trong khuôn khổ

79
luật định, Nhà nước và công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp
luật cho phép.

2.4.2. Nền kinh tế kém phát triển và chưa ổn định


Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nhìn chung nền kinh tế của Việt Nam
mới đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, về cơ bản cả nước vẫn đang
trong tình trạng kém phát triển, đất nước vẫn chưa hoàn thành quá trình cải
cách theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thị trường
cơ bản trong nền kinh tế như thị trường vốn, lao động, bất động sản, khoa học
công nghệ chưa được thiết lập và hoạt động đồng bộ. Các nguyên tắc của nền
kinh tế trị trường chưa được vận hành đầy đủ, tàn dư và quán tính của nền
kinh tế kế hoạch hoá còn quá nặng nề [27, tr 3, 4]. Nhà nước chưa xây dựng
được mô hình phát triển theo kịp xu thế hội nhập của nền kinh tế. Những đặc
điểm nêu trên của cả nền kinh tế đã ảnh hưởng đến các thành phần kinh tế,
loại hình và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp. Các thị trường quan
trọng của nền kinh tế chưa được hình thành đã kéo theo quyền tự do kinh
doanh của người dân trong những lĩnh vực này đôi lúc còn bị hạn chế. Sự kém
ổn định của nền kinh tế vĩ mô tạo cho người dân thiếu niềm tin vào thị trường,
vì thế mà hạn chế đầu tư, kinh doanh. Sự thao túng thị trường của một vài
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đã làm cho các doanh nghiệp chân chính gặp
nhiều khó khăn, người dân không dám đầu tư, kinh doanh vì không còn thị
trường hoặc khó tiếp cận thị trường.

2.4.3. Đặc trưng văn hoá kìm hãm doanh nghiệp ra đời và phát triển
Nhìn vào những đặc điểm của nền kinh tế thị trường thì những khác biệt
giữa văn hoá truyền thống và nền kinh tế thị trường là rất lớn. Nếu văn hoá cổ
truyền coi trọng tính cộng đồng, coi nhẹ thương nghiệp, sống theo lối sống

80
trọng tình nghĩa, thường dựa vào sự quen biết, quản lý xã hội theo kiểu lệ
làng, phép nước [45, tr 577]. Nền kinh tế thị trường có đặc trưng đề cao chủ
nghĩa cá nhân, coi trọng thương mại, có lối sống tuân thủ luật pháp và con
người hành động theo các quy luật kinh tế như quy luật giá cả, quy luật cung
cầu, quy luật lợi ích… Khi Nhà nước quyết tâm xây dựng một nền kinh tế vận
hành theo những quy luật của thị trường, khuyến khích toàn dân tự do kinh
doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì chắc chắn nền kinh tế mới sẽ
có những “va đập” ít nhiều với nền văn hoá truyền thống, chưa bàn đến những
cái được mất cho văn hoá nước nhà, nhưng trước mắt đặc trưng văn hoá
truyền thống sẽ là những lực cản không nhỏ cho mục tiêu xây dựng 200.000
doanh nghiệp và hơn 80 triệu người dân có tư duy kinh doanh.
Tuy văn hoá người Việt có đặc tính là linh hoạt và thích nghi cao với
mọi tình huống và biến đổi nhưng điều đó chỉ có ý nghĩa làm nhẹ nhàng hơn
quá trình tiếp nhận nền kinh tế thị trường chứ không làm giảm những khó
khăn của quá trình tiếp nhận. Đặc biệt là quá trình tiếp nhận những thứ tân kỳ
như các loại hình doanh nghiệp hay các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia.
Thói quen hành xử tuỳ tiện, chưa quen sống và hành xử theo pháp luật trong
dân chúng, chỉ quen làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ, nhanh mún theo kiểu làng
xã, địa phương cũng đang còn rất phổ biến. Dân chúng còn thiếu niềm tin vào
các cơ quan công quyền, một số thiên về chạy để xin những quyền, lợi riêng
cho mình hơn là đấu tranh cho tất cả cùng được hưởng [37, tr 2].
Trong khi đó các cơ quan nhà nước vẫn còn sử dụng phong cách quản lý
của nền kinh tế bao cấp khi quản lý nền kinh tế thị trường mà chưa thực sự tin
vào dân, chưa xuất phát từ lợi ích của dân; các quan chức vẫn giữ thái độ cửa
quyền, ban phát chính sách cho dân khi thực thi công vụ mà chưa hình thành
nhận thức và tâm lý hỗ trợ người dân kinh doanh. Thái độ thân thiện và hỗ trợ
doanh nhân kinh doanh theo pháp luật còn rất thưa thớt tại các địa phương.

81
Nền kinh tế vẫn dựa trên cơ sở những quan hệ và lối áp dụng pháp luật tuỳ
tiện, thiếu nghiêm khắc và công bằng.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay xung đột giữa tự do kinh doanh, tôn
trọng tự do cá nhân, bảo vệ sở hữu tuyệt đối, bảo vệ tự do khế ước với thói
quen văn hoá của người Việt là khá gay gắt. Để thúc đẩy tự do kinh doanh và
kinh tế thị trường thì không thể chỉ trông chờ vào lối ứng xử linh hoạt và năng
động của từng người dân mà phải có sự thay đổi trong nhận thức và tư duy
khuyến khích tự do kinh doanh thể hiện thành chính sách, pháp luật và hành
động của cả hệ thống chính trị và từng công chức nhà nước.

2.4.4. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập
Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật sẽ đóng vai trò là công cụ hỗ trợ
và bảo vệ các chủ thể kinh doanh và Nhà nước sẽ là thiết chế khuyến khích,
phục vụ toàn dân kinh doanh. Tuy vậy, những quy định pháp luật được áp
dụng ở nước ta trong thời gian qua lại thể hiện nhiều những mảng tối mà ít
thấy những mảng sáng. Nhìn tổng quát hệ thống pháp luật và chính sách phát
triển kinh tế vừa không thống nhất vừa thiếu đồng bộ, các quy định dưới luật
quá nhiều, quy định vừa thừa vừa thiếu; các quy định thường phức tạp, không
nhất quán và hay thay đổi. Có một nhận xét ngắn gọn và khá chính xác về hệ
thống pháp luật của Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa ra sáu cái thiếu
của hệ thống pháp luật đó là: “thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu đồng
bộ, thiếu ổn định, thiếu tiên liệu và thiếu khả thi” [37, tr4].
Bên cạnh đó các quy định của pháp luật về luật tài sản, về tiếp cận các
nguồn vốn, tài nguyên, lao động là thực sự tốn kém và khó tiếp cận cho phát
triển kinh doanh. Thủ tục hành chính cũng vẫn còn mang bóng dáng của cơ
chế bao cấp, nặng về thủ tục xin cho đang là những lực cản trong việc thành
lập doanh nghiệp. Đặc biệt là quy trình sau ĐKKD vẫn còn phức tạp và tốn

82
kém nhiều thời gian, chi phí. Các quy định pháp luật về hệ thống thuế, đất đai,
tiếp cận nguồn vốn, thủ tục và các chính sách của Nhà nước còn có sự phân
biệt bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đặc biệt là giữa doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; DNNN và doanh
nghiệp dân doanh.
Hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện và còn nhiều lỗ hổng lại được
hiểu, vận dụng thiếu chính xác và thống nhất tại các địa phương đôi lúc đã đặt
ra cho pháp luật về ĐKKD của chúng ta những yêu cầu cấp bách cần phải
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

2.4.5. Năng lực bộ máy, con người còn nhiều yếu kém
Những yếu kém trong nhận thức và áp dụng pháp luật về ĐKKD khiến
chúng ta nghĩ ngay đến sự yếu kém về năng lực, trình độ chuyên môn của mỗi
một cán bộ, công chức và năng lực của cả hệ thống các cơ quan nhà nước về
ĐKKD. Sự “đau khổ kéo dài” của các cơ quan ĐKKD bắt nguồn từ khối
lượng công việc quá lớn trong khi cơ sở vật chất và biên chế con người có
hạn. Hoạt động ĐKKD về cơ bản vẫn được thực hiện thủ công mà chưa tận
dụng được những khả năng và ưu điểm của khoa học và công nghệ. Mất cân
đối nghiêm trọng giữa nhu cầu đòi hỏi và năng lực đáp ứng của các cơ quan
ĐKKD vì thế mà không ngừng gia tăng.
Hệ thống các cơ quan nhà nước thực thi pháp luật còn nhiều bất cập,
trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế; sự
cửa quyền, tham nhũng và trách nhiệm của cả bộ máy nhà nước chưa cao đã
ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường đầu tư và chi phí giao dịch của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó cơ chế giải quyết tranh chấp và cưỡng chế thực thi hợp
đồng kém hiệu quả đang hạn chế việc gia nhập thị trường và ký kết hợp đồng
kinh doanh của các doanh nghiệp.

83
Trong khi đó tâm lý của nhiều người, trong đó có cả cán bộ ĐKKD còn
thiếu thiện chí đối với doanh nghiệp, môi trường kinh doanh còn thiếu các
thiết chế giám sát và hỗ trợ doanh nghiệp. Các tổ chức nghề nghiệp và hiệp
hội hoạt động chưa hiệu quả và chưa đem lại lợi ích thiết thực cho các doanh
nghiệp. Việc thiếu các cơ chế giám sát và hỗ trợ các doanh nghiệp sẽ vẫn là
nguyên nhân làm cho doanh nghiệp trở lên nguy hiểm cho an toàn pháp lý và
trật tự công cộng, đồng thời hạn chế khả năng hỗ trợ từng doanh nghiệp phát
triển từ đó ảnh hưởng đến khả năng phát triển của cả nền kinh tế.
Những ảnh hưởng và sức ép từ các tổ chức quốc tế, hay các quốc gia
cũng như những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ vừa là
động lực thúc đẩy cải cách đồng thời cũng là những lực cản bất lợi cho an
ninh và sự phát triển bền vững của cả nền kinh tế. Tuy những ảnh hưởng của
những yếu tố nêu trên đối với hệ thông pháp luật là không thể tránh khỏi
nhưng nhận diện được các yếu tố này khi xây dựng thực thi các quy định pháp
luật về ĐKKD sẽ làm giảm những tác động tiêu cực của chúng và làm cho các
quy định và chính sách có lợi hơn cho đất nước.

Tiểu kết
Trong Chương này, các quy định pháp luật hiện hành về ĐKKD đã được
giới thiệu khái quát theo từng vấn đề cụ thể mà khi tiến hành ĐKKD người
ĐKKD phải thực hiện. Về cơ bản các quy định pháp luật về ĐKKD của LDN
năm 2005 đã kế thừa và phát triển những quy định tại LDN năm 1999. LDN
năm 2005 và Nghị định số 88 hướng dẫn thi hành về ĐKKD đã có những sửa
đổi nhằm hạn chế những bất cập trước đây về ĐKKD. Tuy vậy, những quy
định mới hướng dẫn về ĐKKD vẫn còn để ngỏ nhiều vấn đề nảy sinh từ thực
tiễn mà chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả. Đặc biệt là những vấn đề nổi
cộm trong ĐKKD như: vấn đề đặt tên doanh nghiệp; chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan ĐKKD; nội dung, thủ tục ĐKKD; giấy phép và điều kiện kinh

84
doanh… Những thực trạng được nêu trong Chương này thực sự là những vấn
đề cần nhanh chóng được giải quyết, nhưng những vấn đề này chỉ được giải
quyết triệt để khi chúng ta nhận biết được rõ ràng những nguyên nhân của
thực trạng này. Trong Chương này tác giả cũng đã đưa ra được những nguyên
nhân cản trở hay hạn chế các cán bộ, công chức áp dụng pháp luật đúng và
thống nhất để từ đó đưa ra được những khuyến nghị phù hợp.
Chương 3
MỘT VÀI KIỀN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG
KÝ KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

3.1 Từ những hạn chế của pháp luật về đăng ký kinh doanh đến việc
hoàn thiện chính sách và pháp luật
Khi nói đến ĐKKD là đã nói đến việc thực hiện các thủ tục hành chính
để thành lập một doanh nghiệp. Điều này sẽ đặt ra cho các chủ thể kinh doanh
nhiều thủ tục, nhiều thời gian, nhiều yêu cầu phải đáp ứng. Trong khi đó
quyền tự do kinh doanh của mỗi người đã được pháp luật ghi nhận, về mặt lý
thuyết thì công dân có quyền tự do kinh doanh mà không nhất thiết phải tiến
hành thủ tục thành lập doanh nghiệp. ĐKKD đối với các mỗi cá nhân, tổ chức
kinh doanh là một nghĩa vụ mà không phải chủ thể nào cũng có thể đáp ứng
được. Nếu xét quyền tự do kinh doanh theo nghĩa tự do tuyệt đối thì các chủ
thể kinh doanh sẽ không phải ĐKKD, do đó, nghĩa vụ ĐKKD xét trong
trường hợp này sẽ phần nào hạn chế quyền tự do kinh doanh của mỗi cá nhân,
tổ chức khi muốn kinh doanh dưới những hình thức và quy mô nhất định.
ĐKKD về mặt kết quả sẽ tạo ra cho Nhà nước cơ sở để tiến hành hoạt
động quản lý, kiểm tra giám sát doanh nghiệp thông qua các quy định của
pháp luật. Các quy định của pháp luật càng phức tạp, càng khắt khe sẽ càng
tạo cho các chủ thể kinh doanh nhiều chi phí, thời gian và công sức để thực

85
hiện những quy định đó [38, tr 52]. Chúng tôi nhận thức rằng, các thủ tục
hành chính liên quan đến ĐKKD cũng như đến hoạt động của doanh nghiệp là
tất yếu nhằm mục đích bảo vệ những lợi ích chung. Do vậy, cải thiện chất
lượng và hiệu quả của chính sách và pháp luật để người dân có thể tuân thủ rễ
ràng hơn sẽ là một bước đi thích hợp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
ĐKKD thực chất là sự kiểm soát của Nhà nước đối với các chủ thể kinh
doanh. Trên thực tế, sự kiểm soát quá mức của Nhà nước đối với hoạt động
của doanh nghiệp cũng như những chi phí, thời gian và công sức phát sinh từ
các quy định pháp luật khắt khe và phức tạp đối với hoạt động ĐKKD cũng
như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã khiến gia tăng hoạt động kinh
doanh không đăng ký hoặc hoạt động không đúng với nội dung đã ĐKKD.
Ngược lại, pháp luật về ĐKKD quy định quá rễ ràng khi gia nhập thị trường
sẽ đẩy các chủ nợ và thị trường vào tình trạng bất an. Vì vậy, pháp luật về
ĐKKD chỉ nên giám sát và quản lý doanh nghiệp ở mức độ hợp lý để bảo vệ
thị trường, xã hội. Mọi hoạt động của doanh nghiệp không ảnh hưởng tới lợi
ích chung của xã hội phải được hiểu và giải thích là quyền tự do của doanh
nghiệp.
Trong khi đó, hoạt động kinh doanh “không chính thức” tạo ra cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân không tuân thủ pháp luật những lợi thế cạnh
tranh một cách không công bằng so với những doanh nghiệp có ĐKKD và
tuân thủ đầy đủ các quy định. Một cá nhân kinh doanh không ĐKKD và
không nộp thuế sẽ tiết kiệm được toàn bộ chi phí ĐKKD, thuế và các nghĩa
vụ do pháp luật quy định. Trong khi đó một cá nhân, doanh nghiệp có ĐKKD
và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp của mình
sẽ vừa mất chi phí và thời gian cho việc tuân thủ đồng thời thường xuyên phải
chịu sự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước [21, tr 37]. Điều này xảy
ra khá phổ biến trên thực tế thực sự là một thách thức đối với việc áp dụng

86
công bằng và thống nhất pháp luật về kinh doanh. Xây dựng một hệ thống
pháp luật bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao khả năng thực thi
và giám sát thực thi hiệu quả sẽ xoá bỏ được những lợi thế do không tuân thủ
pháp luật. Từ đó sẽ dần xoá bỏ được nền “kinh tế ngầm” đang âm ỉ và thúc
đẩy một nền kinh tế thị trường có định hướng phát triển mạnh mẽ.
Thực tế thi hành các quy định pháp luật về ĐKKD đã chứng minh rằng
một số quy định pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp đã tác động tiêu cực
tới pháp luật về ĐKKD làm cho các quy định này ảnh hưởng xấu đến xã hội
và môi trường kinh doanh. Chẳng hạn theo Thông tư số 95/2005/TT-BTC của
Bộ Tài chính ngày 26 tháng 10 năm 2005 hướng dẫn thực hiện các quy định
của pháp luật về lệ phí trước bạ trong đó quy định về lệ phí trước bạ khi đăng
ký xe ô tô du lịch dưới 7 chỗ là 5%, tuy nhiên đối với các doanh nghiệp, công
ty kinh doanh vận tải hành khách thì được hưởng mức thu lệ phí là 2%. Lợi
dụng quy định này nhiều cá nhân đã thành lập các DNTN để đăng ký xe nhằm
được hưởng mức lệ phí ưu đãi là 2% mà không tiến hành hoạt động kinh
doanh. Tình trạng này không chỉ xảy ra trong lịch vực pháp luật về thuế mà
còn hay xảy ra trong các lĩnh vực khác như tiếp cận các nguồn vốn, tài
nguyên, pháp luật môi trường, lao động… Đã đặt ra nhu cầu phải xây dựng
những quy định phù hợp hơn với quy luật của thị trường, để chúng có thể rễ
ràng thực thi mà không ảnh hưởng đến những chính sách và quy định khác.
Xây dựng các quy định tuân thủ theo các quy luật của thị trường, sẽ nhận
được sự hỗ trợ thực thi từ chính thị trường và sẽ được sự ủng hộ bởi chính
những lực lượng thị trường mà chúng bảo vệ [21, tr 112].

3.2. Kiến nghị về Cơ quan đăng ký kinh doanh


Cơ quan ĐKKD có một vị trí rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự
do kinh doanh của người dân và triển khai thực thi LDN. Để LDN thực sự đi

87
vào cuộc sống, đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của người dân, cơ cấu
tổ chức, năng lực, chức năng của hệ thống cơ quan ĐKKD phải ngày càng
được hoàn thiện.
Trước hết, hệ thống cơ quan ĐKKD phải được kiện toàn thống nhất
trong cả nước về mặt cơ cấu tổ chức. Đặc biệt là hệ thống các cơ quan ĐKKD
cấp huyện và cơ quan ĐKKD ở cấp trung ương. Tránh tình trạng quá tải cho
các Phòng ĐKKD cấp tỉnh, cơ quan ĐKKD cấp huyện cần được nhanh chóng
thành lập ở những nơi đủ điều kiện thành lập. Những quận, huyện chưa đủ
điều kiện thành lập cơ quan ĐKKD thì cần chuyển trách nhiệm ĐKKD ở
những nơi này cho một cơ quan thống nhất thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Nhưng tiến tới cần hệ thống hoá và chuyên nghiệp hoá hệ thống cơ quan
ĐKKD các cấp. Cần có sự phân tách rõ về nguồn lực, tổ chức của các cơ quan
ĐKKD với các Sở Kế hoạch và Đầu tư và các Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Sao cho các cơ quan ĐKKD các cấp phải có nhân lực và vật lực đủ để có thể
phục vụ cho nhu cầu ĐKKD trong nhân dân.
Tiếp đó, là kiện toàn lại chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan
ĐKKD các cấp, trong đó đặc biệt chú ý tới việc phân tách thẩm quyền của cơ
quan ĐKKD cấp huyện và cấp tỉnh. Cơ quan ĐKKD cấp huyện bên cạnh
chức năng ĐKKD cho các hộ kinh doanh và các hợp tác xã nên được giao
trách nhiệm lớn hơn trong việc giám sát hoạt động của tất cả các chủ thể kinh
doanh hiện đang hoạt động trong phạm vi quận, huyện mình. Qua đó cũng cần
tiến tới thống nhất hệ thống quy phạm điều chỉnh hoạt động ĐKKD hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã với hệ thống các quy phạm điều chỉnh hoạt động
ĐKKD của doanh nghiệp và hộ kinh doanh nhằm tạo sự thống nhất và đơn
giản hơn trong quá trình thực hiện. Để hoạt động ĐKKD được tiến hành
thống nhất và đảm bảo công tác ĐKKD được tiến hành hiệu quả thì việc lựa

88
chọn cơ quan ĐKKD để thành lập hợp tác xã cần nhanh chóng phải được quy
định lại cụ thể.
Trong thời gian tới, cần tăng cường hơn nữa khả năng và đề cao hơn nữa
công tác hậu kiểm doanh nghiệp. Vì cùng với xu thế tạo thuận lợi hơn nữa
cho doanh nghiệp, các cơ quan ĐKKD, cơ quan thuế và các cơ quan hữu quan
phải tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp sau
đăng ký. Có như vậy mới đảm bảo duy trì được môi trường kinh doanh vừa
thông thoáng vừa an toàn.
Cần có cơ chế để các cán bộ ĐKKD có thể nắm bắt được hệ thống các
ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề
đó nhằm hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân có yêu cầu ĐKKD. Phải khẳng định
rằng việc hướng dẫn các tổ chức, cá nhân về ngành nghề kinh doanh có điều
kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó là trách nhiệm của các cán bộ
ĐKKD. Do đó, cán bộ ĐKKD cùng với các cơ quan hữu quan cần sớm hệ
thống hoá toàn bộ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh
doanh các ngành nghề đó để có cơ sở phục vụ tốt hơn công tác ĐKKD. Đồng
thời thường xuyên rà soát và hệ thống hoá các điều kiện kinh doanh và văn
bản quy phạm pháp luật về ĐKKD đã hết hiệu lực và mới được ban hành.
Từ thực trạng quản lý tên doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh có
điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đã đặt ra yêu cầu cấp bách
trong việc nâng cao tính chuyên nghiệp và hiện đại tại các cơ quan ĐKKD.
Bên cạnh việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các
cán bộ ĐKKD cần thiết lập một hệ thống thông tin thống nhất trong cả nước
về các nội dung liên quan đến ĐKKD.
Nâng cao hơn nữa hệ thống thông tin, cơ sở vật chất lưu giữ thông tin và
cập nhật thường xuyên những thông tin thay đổi về ĐKKD. Điều cần thiết là
phải thành lập được một trung tâm toàn quốc để tập hợp được thông tin của

89
tất cả các doanh nghiệp đã ĐKKD. Các cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện
có thể rễ ràng cập nhật thông tin và tra cứu những thông tin về các doanh
nghiệp đã đăng ký nhằm phục vụ tốt hơn công tác ĐKKD. Hoàn thiện hệ
thống thông tin ĐKKD theo hướng thống nhất, tập trung, hỗ trợ có hiệu quả
cho doanh nghiệp trong việc bảo vệ tên của doanh nghiệp, cung cấp thông tin
gia nhập thị trường và rút lui khỏi thị trường trên một công báo doanh nghiệp
duy nhất. Việc ban hành công báo về doanh nghiệp sẽ vừa giúp chính thức
hoá hoạt động của doanh nghiệp đồng thời giúp công khai hoá các doanh
nghiệp không còn hoạt động trên thị trường.
Nghị định số 88/2006/NĐ-CP đã đưa ra nội dung chuẩn bị phát hành tờ
Thông tin doanh nghiệp (điểm đ khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 88) để thực
hiện đăng bố cáo thành lập, thay đổi nội dung ĐKKD, thành lập chi nhánh,
văn phòng đại diện, giải thể, phá sản và các trường hợp vi phạm của các
doanh nghiệp trên toàn quốc. Đây chắc chắn là một ý tưởng cần phải được
nhanh chóng triển khai trên thực tế. Tuy nhiên, điều mà doanh nghiệp quan
tâm đó là chi phí và thủ tục cho việc công khai này hiện tại vẫn chưa được
công bố. Việc công bố thông tin trên một tờ Thông tin về doanh nghiệp thống
nhất sẽ là việc nên làm nhưng nếu chi phí cho việc này quá cao, hoặc thủ tục
tiến hành việc này quá phiền hà và mất nhiều thời gian thì giá trị của việc làm
này là không lớn.
Theo chúng tôi, song song với việc ấn hành tờ Thông tin doanh nghiệp
vẫn nên xây dựng một hệ thống thông tin trên mạng Internet thường xuyên
cập nhật hàng tháng những thay đổi trong nội dung ĐKKD của doanh nghiệp
cũng như việc đăng ký thành lập doanh nghiệp mới. Việc làm này sẽ có hiệu
quả và tốn ít chi phí thực hiện cho cả các cơ quan Nhà nước muốn cập nhật
thông tin cũng như các doanh nghiệp muốn tiếp cận thông tin.

90
Hiện tại, các quy định hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về quy
chế cung cấp thông tin của doanh nghiệp tại cơ quan ĐKKD. Cơ quan ĐKKD
sẽ có tránh nhiệm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin gì, nội dung
như thế nào? Đối tượng nào thì được cung cấp thông tin nào, trình tự, thủ tục
và hình thức cung cấp ra sao? Do đó, các cơ quan ĐKKD rất lúng túng trong
những trường hợp này. Đây thực sự là một hạn chế lớn cần phải được khắc
phục trong thời gian tới khi ban hành các quy định hướng dẫn về ĐKKD.
Việc này nếu tiếp tục kéo dài sẽ gây khó khăn cho việc ĐKKD, hạn chế sự
minh bạch, công khai và rủi ro cho thị trường.

3.3. Kiến nghị về chủ thể đăng ký kinh doanh


Nhằm hạn chế việc thành lập doanh nghiệp của các cá nhân, tổ chức
không đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp hay bị cấm thành lập doanh
nghiệp. Các cơ quan ĐKKD mà cụ thể là Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần có cơ
chế phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ để có cơ chế kiểm
tra và giám sát được việc thành lập doanh nghiệp của những cá nhân, tổ chức
không đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp. Cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức nên được thực hiện trên cả hai phương diện trao đổi thông tin
và chia sẻ trách nhiệm quản lý. Các Cơ quan ĐKKD nên thường xuyên kiểm
tra và cập nhật những thông tin về nhân thân người thành lập doanh nghiệp
của các cơ quan hữu quan khi tiến hành ĐKKD. Có như vậy mới kiểm soát
được những cá nhân, tổ chức không đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp.

3.4. Kiến nghị về thủ tục đăng ký kinh doanh


Thủ tục ĐKKD vẫn là một rào cản đối với các doanh nghiệp. Về cơ bản
các quy định pháp luật về thủ tục ĐKKD đã khá rõ ràng, tuy nhiên việc thực
hiện các quy định về thủ tục ĐKKD cần phải được thường xuyên kiểm tra,

91
thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo việc thực
hiện thủ tục này thống nhất. Ban hành một số quy chế chính thức điều chỉnh
những hành vi ứng xử với doanh nghiệp của các cơ quan có thẩm quyền và
nhân viên của các cơ quan này. Công khai hoá các thủ tục và có những chỉ
dẫn chi tiết các công việc thuộc chức năng ĐKKD của các cơ quan ĐKKD.
Tiến tới nghiên cứu áp dụng cơ chế gia nhập thị trường thay cho cơ chế cấp
phép gia nhập thị trường như hiện nay.
Cần khuyến khích và nhân rộng mô hình ĐKKD một cửa và ĐKKD qua
mạng Internet nhằm rút ngắn thời hạn cấp phép. Các thủ tục ĐKKD một cửa
và qua mạng cần phải lấy tiêu chí giảm phiền hà, thời gian, chi phí và công
sức cho người dân khi thực hiện. Tránh việc thực hiện cải cách thủ tục chỉ
mang tính hình thức nhưng thực chất lại tạo thêm phiền hà cho dân.
Các trường hợp chuyển đổi hình thức hoạt động của các DNNN đang
hoạt động theo LDN nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH
và công ty cổ phần và việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hiện tại đang hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài sang hoạt động
theo LDN cần phải có những quy định hướng dẫn cho phù hợp. Việc chuyển
đổi cũng phải đảm bảo được tinh thần chung của LDN đó là nhanh chóng về
thời gian, đơn giản về thủ tục và tiết kiệm chi phí.
Đối với việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần
quy định cụ thể doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có 100% vốn đầu
tư nước ngoài có từ hai thành viên trở lên chuyển sang hoạt động theo hình
thức công ty TNHH có hai thành viên trở lên. Doanh nghiệp có 100% vốn đầu
tư nước ngoài do một cá nhân hoặc tổ chức làm chủ sở hữu sẽ chuyển sang
hoạt động theo hình thức công ty TNHH một thành viên. Công ty cổ phần có
vốn đầu tư nước ngoài sẽ chuyển sang hoạt động theo công ty cổ phần. Riêng
đối với Hợp đồng hợp tác kinh doanh mặc dù LDN năm 2005 không quy định

92
về đối tượng này nhưng trên thực tế nếu loại hình này muốn đăng ký lại theo
quy định thì cũng cần nghiên cứu hình thức chuyển đổi cho thích hợp. Các
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được chuyển đổi dưới nhiều hình thức
hoạt động như công ty hợp danh, công ty TNHH hay Hợp đồng hợp tác kinh
doanh quy định tại Luật đầu tư.
Việc ĐKKD của doanh nghiệp hộ gia đình quy trình đăng ký cần đơn
giản hơn và cần thể hiện được lợi ích của việc đăng ký để khuyến khích các
hộ gia đình đăng ký thành lập doanh nghiệp. Cần nhanh chóng ban hành quy
định hướng dẫn việc đăng ký chuyển đổi hộ kinh doanh lên thành doanh
nghiệp hoạt động theo LDN. Tuy vậy, để thúc đẩy các hộ kinh doanh đăng ký
hoạt động theo các loại hình của LDN, Nhà nước cần phải thực hiện nhiều
biện pháp đồng bộ và thiết thực hơn mới có thể đưa được các hộ kinh doanh
vào mái nhà của LDN. Đối với các hộ kinh doanh mối quan tâm hàng đầu của
họ là chi phí và lợi ích thu được. Ngoài ra họ cần nhiều hỗ trợ từ phía nhà
nước về kinh nghiệm, kỹ năng quản trị các loại hình doanh nghiệp. Nếu lợi
ích của việc thành lập doanh nghiệp không có hoặc chưa rõ ràng thì các hộ
kinh doanh vẫn tiếp tục kinh doanh như cũ mặc cho những hô hào to tát của
Nhà nước.
Thực hiện thủ tục về ĐKKD cũng phải đảm bảo sự thuận lợi của doanh
nghiệp không chỉ trong việc lấy giấy chứng nhận ĐKKD mà cả trong những
thủ tục hành chính tiếp theo. Đặc biệt là những thủ tục như đăng ký mã số
thuế, đăng ký con dấu và mua hoá đơn. Cần sớm nghiên cứu cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan hữu quan như Bộ Tài Chính, Bộ Công an để sớm tìm ra cơ
chế và thủ tục ĐKKD thống nhất cho cả giấy chứng nhận ĐKKD, chứng nhận
đăng ký mẫu dấu, chứng nhận đăng ký mã số thuế và mua hoá đơn. Hướng tới
mục tiêu doanh nghiệp sau khi đăng ký thành lập có thể hoạt động được ngay
mà không phải thực hiện tất cả từng thủ tục tại từng cơ quan với thời gian và

93
chi phí khá lớn và khó có thể dự đoán được kết quả. Việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp nên nghiên cứu cung cấp cho doanh nghiệp đăng ký một mã số
quản lý, có thể mã số này cũng đồng thời là mã số thuế, hải quan để từ đó có
cơ sở quản lý và kiểm tra, giám sát doanh nghiệp được thuận lợi và hiệu quả
hơn. Tạo cơ sở hậu kiểm dễ dàng cho các cơ quan nhà nước sau này.

3.5. Kiến nghị về giấy phép và điều kiện kinh doanh


Điều kiện kinh doanh hiện đang là một vấn đề khá nhức nhối trong nội
dung của pháp luật về ĐKKD. Để lành mạnh hoá điều kiện kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay theo tôi cần cải cách hệ thống quy định pháp luật về điều kiện
kinh doanh và cải cách cách thức thực thi các điều kiện kinh doanh.
Về cải cách điều kiện kinh doanh thông qua các quy định pháp luật về
điều kiện kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng làm lành mạnh
môi trường kinh doanh tự do. Việc cải cách điều kiện kinh doanh trong đó có
cả các giấy phép kinh doanh phải được bắt đầu từ các quy định của pháp luật.
Tiến tới nên giới hạn việc quy định các điều kiện kinh doanh và giấy phép
kinh doanh tại các Luật và Bộ luật mà không được quy định trong các văn bản
dưới luật. Đồng thời triển khai tại Quốc hội phương pháp loại bỏ khi ban hành
văn bản luật có chức đựng giấy phép và quy chế hành chính hạn chế kinh
doanh. Nếu các cơ quan thực thi pháp luật không chứng minh được sự cần
thiết phải ban hành văn bản đó, thì văn bản đó sẽ không được Quốc hội thông
qua [22, tr 10]. Trong giai đoạn trước mắt cần xây dựng một cơ chế giám sát
việc ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh và giấy phép kinh doanh,
cơ chế này phải được công khai và có sự giám sát và tham gia của doanh
nghiệp và xã hội. Cơ chế giám sát này nên được thực hiện bởi một Cơ quan
trực thuộc Thủ tướng Chính phủ và có quyền đề nghị Thủ tướng Chính phủ

94
bãi bỏ những điều kiện kinh doanh và giấy phép kinh doanh không cần thiết
trái với tinh thần của LDN, hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân.
Thường xuyên rà soát và hệ thống lại toàn bộ các giấy phép kinh doanh,
điều kiện kinh doanh hiện đang tồn tại và có hiệu lực trên thực tế. Từ đó đánh
giá những giấy phép và điều kiện kinh doanh nào hợp lý cần tiếp tục duy trì
và đề nghị bãi bỏ những giấy phép và điều kiện kinh doanh không phù hợp
với thực tế kinh doanh trong xã hội. Cần nhanh chóng rà soát, thống kê những
quy chế hành chính mà bản chất là các điều kiện kinh doanh đối với doanh
nghiệp trên phạm vi cả nước. Từ đó loại bỏ những quy chế trái luật hoặc chi
phí thực thi lớn mà hiệu quả không cao, không đáp ứng được các lợi ích xã
hội cần được bảo vệ. Dần dần pháp điển hoá và minh bạch hoá về những quy
đinh chế hành chính cần thiết phải duy trì trong xã hội và công khai hoá
những quy chế này trong cộng đồng doanh nghiệp.
Cải cách điều kiện kinh doanh cũng được thực hiện thông qua việc
chuyển những giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ nghề
nghiệp... sang các dạng điều kiện kinh doanh dưới hình thức là những điều
kiện kinh doanh phải duy trì thường xuyên nhưng vẫn đảm bảo bảo vệ được
lợi ích xã hội. Việc thiết lập một cơ chế giám sát việc ban hành các điều kiện
kinh doanh và giấy phép kinh doanh phải được tiến hành song song với một
hệ thống giám sát pháp lý mới. Theo đó hệ thống giám sát pháp lý này sẽ dựa
trên những cam kết của doanh nghiệp khi kinh doanh để tăng tính chịu trách
nhiệm của chính các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước ghi
nhận những cam kết đó và thực hiện việc giám sát trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua cơ chế hậu kiểm doanh nghiệp
của các cơ quan nhà nước và cơ chế hậu kiểm của các lực lượng thị trường.
Ban hành những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp vi
phạm các cam kết khi ĐKKD.

95
3.6. Kiến nghị về cơ chế giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh
doanh
Cơ chế giải quyết tranh chấp ĐKKD về cơ bản được thực hiện theo các
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp thông qua
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Quy định tại khoản 3 Điều 31 của
LDN năm 2005 đang có những phản ứng gay gắt từ phía các doanh nghiệp
bởi quy định này đã đương nhiên hạn chế quyền khiếu kiện ra Toà án hành
chính của doanh nghiệp. Trong khi các quy định khác của pháp luật lại yêu
cầu mọi quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền
đều phải được giải quyết cuối cùng bởi cơ quan tài phán là Toà án. Việc đảm
bảo quyền khiếu nại và khiếu kiện của người dân phải được thực hiện cùng
với việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hành chính theo hướng nghiêm
minh và công bằng.
Cùng với việc sửa đổi các quy định về khiếu kiện hành chính, pháp luật
về ĐKKD cũng như các quy định của pháp luật có liên quan cần thiết lập một
cơ chế tài phán đối với những quyết định hành chính, hành vi hành chính và
cả những văn bản quy phạm pháp luật có nội dung vi phạm các quy định của
hiến pháp về quyền tự do kinh doanh của người dân. Các quy định như vậy
nếu được ban hành sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền tự do
kinh doanh của người dân trước các hành vi vi hiến của các cơ quan công
quyền. Đặc biệt là các quy định của các cơ quan nhà nước, DNNN liên quan
đến việc ban hành các điều kiện kinh doanh, giấy phép kinh doanh, chứng chỉ
hành nghề… có mục đích ngăn cản quyền tự do kinh doanh hợp pháp.

Tiểu kết

96
Những kiến nghị nêu trong Chương này thực sự là những việc cần nhanh
chóng thực hiện nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu đặt ra cho pháp luật về
ĐKKD. Trong những kiến nghị đã nêu, nhóm kiến nghị về cơ quan ĐKKD
cũng như những chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan này được chúng
tôi kỳ vọng là nếu được thực hiện sẽ mang lại nhiều kết quả nhất và có tác
động rộng nhất đối với cộng đồng doanh nghiệp. Nhóm kiến nghị về giấy
phép và điều kiện kinh doanh được chúng tôi đánh giá đang là khâu nhức nhối
nhất đối với doanh nghiệp. Đối với nhóm kiến nghị này, hiện nay cũng có rất
nhiều kiến nghị khác nhau đã được đưa ra nhưng việc lựa chọn giải pháp nào
hiện vẫn đang còn chờ các quy định của Chính phủ hướng dẫn về giấy phép
và điều kiện kinh doanh. Đa số các quan điểm đều cho rằng nếu giải quyết
được vấn đề này sẽ tạo ra được một sân chơi thật sự thông thoáng và công
bằng cho doanh nghiệp. Tuy vậy, để có được những kết quả như mong muốn
chắc sẽ rất khó khăn và cần nhiều quyết tâm chính trị hơn là các giải pháp đơn
lẻ. Đối với những kiến nghị khác liên quan đến thủ tục, nội dung và điều kiện
ĐKKD thực chất là những giải pháp mang tính chất đơn lẻ, thiên về chuyên
môn ĐKKD, thiết nghĩ chắc sẽ được các cơ quan quản lý và xây dựng văn
bản quy phạm về ĐKKD lưu tâm và sớm có những sửa đổi. Riêng các kiến
nghị về cơ chế giải quyết các tranh chấp về ĐKKD sẽ chỉ có tác dụng khi các
cơ chế bảo hiến, cơ chế bảo đảm tố quyền của người dân phát huy hiệu quả.

97
KẾT LUẬN

ĐKKD không chỉ là nghĩa vụ của mỗi người dân Việt Nam khi tham gia
kinh doanh mà còn là phương thức để mỗi người dân Việt thực hiện quyền tự
do kinh doanh và là cách thức để họ được Nhà nước bảo vệ quyền tự do này.
ĐKKD xét cho cùng là nhằm thiết lập nên một công cụ hay chủ thể pháp lý để
thực hiện sáng kiến kinh doanh và cơ hội kinh doanh. Nhưng đằng sau hệ quả
đương nhiên đó, ĐKKD còn mang lại cho từng người dân, doanh nghiệp, Nhà
nước và toàn xã hội nhiều lợi ích và cả những tác động tiêu cực. Pháp luật về
ĐKKD được hình thành với mục đích cao cả là khuyến khích toàn dân kinh
doanh mang lại lợi ích cho bản thân và xã hội, đồng thời kìm chế những mặt
trái mà hoạt động này mang lại. Về mặt lý thuyết điều này đặc biệt đúng khi
chúng ta phân tích những đặc điểm, những nguyên tắc, ý nghĩa của chính sách
và pháp luật về ĐKKD. Pháp luật về ĐKKD trong trường hợp này là cần thiết
cho doanh nhân khi thực hiện quyền tự do kinh doanh. Có chăng chỉ phụ
thuộc vào chính sách và pháp luật về ĐKKD sẽ được ban hành và thực hiện
như thế nào trên thực tế mà thôi.
Các quy định của pháp luật về ĐKKD của Việt Nam hiện nay về cơ bản
là đáp ứng được những đòi hỏi cơ bản của nhu cầu ĐKKD. LDN năm 2005
quy định về ĐKKD cũng không có nhiều thay đổi so với các quy định trước
đây của LDN năm 1999. Trước những thay đổi không đáng kể của LDN năm
2005, chúng ta sẽ hy vọng vào những quy định hướng dẫn thi hành về ĐKKD
của Chính phủ sẽ lưu ý tới những bất cập của pháp luật về ĐKKD hiện hành.
Nhìn vào những quy định của pháp luật về ĐKKD theo quy định tại LDN
năm 1999 nhiều người dự đoán hoạt động này sẽ được tiến hành hiệu quả.
Tuy nhiên, thực tế thi hành các quy định này mới là vấn đề đáng bàn. Mặc dù
số lượng doanh nghiệp được thành lập đã đạt con số kỷ lục nhưng chất lượng

98
và hiệu quả ĐKKD lại phản ánh những con số ngược lại. Bên cạnh đó các bất
cập về hệ thống cơ quan ĐKKD còn nhiều yếu kém và hạn chế cả về mặt cơ
sở vật chất và con người. Thủ tục, điều kiện, nội dung và các vấn đề khác liên
quan đến ĐKKD đã được một số cán bộ ĐKKD hiểu và vận dụng sai lệch.
Hoạt động ĐKKD còn chịu nhiều những tác động tiêu cực từ một hệ thống
giấy phép và điều kiện kinh doanh phức tạp, khó thực hiện và chi phí thực
hiện rất tốn kém. Số lượng và hình thức các giấy phép và điều kiện loại này
hiện nay đang gia tăng cả mà vẫn chưa có những giải pháp hữu hiệu nào ngăn
chặn hiệu quả. Trong khi đó các cơ chế và biện pháp khuyến khích người dân
tham gia kinh doanh lại chưa được chú trọng đúng mực. Các chính sách hỗ
trợ cho các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường, các hộ kinh doanh phát
triển lên thành các doanh nghiệp cũng chưa được Nhà nước coi trọng. Tất cả
những hiện tượng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan. Trong đó có những yếu tố băt nguồn từ những khuynh hướng
chính trị chưa tin vào thị trường, vẫn còn hoài niệm với tư tưởng Nhà nước
toàn trị được chúng tôi đánh giá là có những ảnh hưởng tiêu cực đến chính
sách và pháp luật về ĐKKD. Bên cạnh đó, các đặc điểm của nền kinh tế và
các đặc trưng về văn hoá lại có những níu kéo nhất định đến tinh thần mong
muốn ĐKKD và pháp luật về ĐKKD. Những nguyên nhân về thực trạng bất
cập của hệ thống pháp luật và những yếu kém bắt ngồn từ các cơ quan nhà
nước và các cán bộ công chức đã tác động trực tiếp gây ra những bất cập về
ĐKKD hiện nay. Ngoài ra, việc khuyến khích các doanh nhân hoạt động theo
LDN còn chịu nhiều tác động tiêu cực từ khâu hậu ĐKKD như đăng ký con
dấu, mã số thuế và mua hoá đơn…
Mục đích của LDN là tạo cơ sở cho toàn dân làm giầu chính đáng. Đồng
thời khuyến khích và bảo vệ mỗi cá nhân có ý tưởng kinh doanh cũng như các
doanh nghiệp còn non nớt khi mới buổi đầu được thành lập. Nhưng để điều

99
này trở thành hiện thực, pháp luật và chính sách về ĐKKD phải đảm bảo mọi
thuận lợi cho mỗi người dân khi muốn tiếp cận và sử dụng những quy định về
ĐKKD nói riêng và các quy định về gia nhập thị trường nói chung. Mục tiêu
của việc xây dựng và thực thi pháp luật về ĐKKD trong thời gian tới là làm
cho các thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp chỉ như là một nghĩa
vụ nhẹ nhàng rễ thực hiện. Các quy định về ĐKKD và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp phải phù hợp với đặc điểm và thói quen kinh doanh của
người dân. Các quy định phải đảm bảo công khai, minh bạch, đồng bộ, nhất
quán, rễ tiên liệu, thuận lợi khi thực hiện và phù hợp với quy luật chung của
thị trường. Bản thân người kinh doanh cảm thấy vững tin khi bước vào
thương trường. Có như vậy nước ta mới mong tận dụng được tối đa nguồn lực
khan hiếm trong nhân dân để xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính
là chìa khoá để mở cánh cửa đi tới sự phồn vinh./.

100
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản quy phạm pháp luật


1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ Nội vụ (2004), Thông tư liên tịch số
02/2004/TT-BKH-BNV ngày 01-06-2004 hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban
nhân dân quản lý Nhà nước về kế hoạch và đầu tư ở địa phương, Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư số
03/2004/NĐ-TT-BKH ngày 29-06-2004 hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng
ký kinh doanh quy định tại Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02-04-
2004 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Công văn số 4957/BKH-PTDN của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư về thực hiện Luật doanh nghiệp năm 2005, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2005), Thông tư số 95/2005/TT-BTC ngày 26 tháng 10
năm 2005 hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về lệ phí
trước bạ, Hà Nội.
5. Chính phủ (2000), Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03-02-2000 của
Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.
6. Chính phủ (2000), Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03-02-2000 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, Hà
Nội.
7. Chính phủ (2003), Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 27/2003/CT-TTG
ngày 11-12-2003 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện LDN, khuyến khích phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hà Nội.
8. Chính phủ (2004), Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02-04-2004 của
Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.

101
9. Chính phủ (2004), Nghị định số 125/2004/NĐ-CP ngày 19-05-2004 của
Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 03/2000/NĐ-
CP ngày 03-02-2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
10. Chính phủ (2005), Nghị định số 87/2005/NĐ-CP ngày 11-07-2005 của
Chính phủ về đăng ký kinh doanh hợp tác xã, Hà Nội.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ quy định về việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký
đổi giấy chứng nhận đầu tưu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài theo quy định của Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư, Hà Nội.
12. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật đầu tư,
Hà Nội.
13. Chính phủ (2006), Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm
2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.
14. Chính phủ (2006), Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 08 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, Hà Nội.
15. Quốc hội (1999), Luật doanh nghiệp đã được Quốc Hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12
tháng 6 năm 1999, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị Quyết số 51/2001-QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội (2003), Luật doanh nhiệp nhà nước đã được Quốc Hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 5 thông qua
ngày 12 tháng 6 năm 2003, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

102
18. Quốc Hội (2003), Luật hợp tác xã đã được Quốc Hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng
11 năm 2003, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội (2005), Luật đầu tư đã được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2005, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp đã được Quốc Hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29
tháng 11 năm 2005, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Tài liệu
21. Amada Carlier, Nguyễn Quỳnh Trang, Omar Chaudry, Stoyan Tenev,
(2003), Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở Việt
Nam, Thông tấn, Hà Nội.
22. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (2005), Tài liệu hội thảo: Giấy
phép kinh doanh tại Việt Nam: Hiện trạng và Giải pháp, Ban nghiên cứu
của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
23. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật
doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
24. Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP - Viện Nghiên cứu Quản
lý Kinh tế Trung ương – Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (2004), Thời
điểm cho sự thay đổi: Đánh giá Luật doanh nghiệp và Kiến nghị, Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hà Nội.
25. Đào Duy Anh (2006), Việt Nam Văn hoá Sử cương, Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.

103
26. Hồng Anh (2004), “Đăng ký kinh doanh kiểu hành doanh nghiệp”, Báo
VnExpress điện tử ngày 10-06-2006(có thể tải về từ
www.vnexpress.net), Hà Nội.
27. Lê Đăng Doanh (2005), Báo cáo phát triển cải cách kinh tế và năng lực
cạnh tranh ở Việt Nam – Triển vọng và thách thức, Ban nghiên cứu của
Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
28. Leila Webster (1999), “Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Trên
đường tiến đến phồn vinh”, Chuyên đề nghiên cứu tư nhân (10), Chương
trình phát triển dự án Mê Kông, Hà Nội.
29. Markus Taussig, Phạm Thu Hằng (2004), “Tính chính thức của khu vực
tư nhân và vai trò của Chính quyền địa phương”, Tài liệu thảo luận dự
án nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo (02), Chương trình
phát triển dự án Mê Kông, Hà Nội.
30. Minh Anh (2003), Gia tăng gánh nặng đầu vào, Báo Đầu tư số ra ngày10
tháng 02 năm 2003 (20), Hà Nội.
31. Nguyên Tấn (2006), “Tên doanh nghiệp, sao khó thế!”, Thời báo kinh tế
Sài Gòn, (số ra ngày 22-06-2006), tr 16.
32. Nguyễn Đình Cung (2004), Báo cáo đánh giá những điểm mạnh và yếu
của Luật doanh nghiệp, Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương,
Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Làn, Nguyễn Hạnh Nam, Nick Freeman (2005), “Đăng ký
và thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam con số và thực trạng”, Chuyên đề
nghiên cứu kinh tế tư nhân (20), Chương trình phát triển dự án Mê Kông,
Hà Nội.
34. Nguyễn Vạn Phú (2006), Đăng ký lại hay thôi, Thời báo kinh tế Sài gòn,
(số ra ngày 13-04-2006), tr 22.

104
35. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2005), Hội thảo dự thảo Luật doanh nghiệp
thống nhất và Luật đầu tư chung, Nhà pháp luật Việt – Pháp, Hà Nội.
36. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Kỷ yếu toạ đàm dự thảo Nghị định
hướng dẫn thi hành Luật đầu tư, Nhà pháp luật Việt - Pháp, Hà Nội.
37. Phạm Chi Lan (2006), “Giấy phép kinh doanh: “đủ tốt” và “đủ xấu” để
cải cách!”, Tạp chí Nhà quản lý, (số 01 ra ngày 07/01/2006), tr 24-25.
38. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế (chương trình sau
đại học), Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giám sát giấy phép và điều kiện kinh doanh ở
Việt Nam nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
40. Tổng Cục thống kê (2005), Niên giám thống kê năm 2005, Thống kê, Hà
Nội.
41. Thanh Minh, 2003, “Lỗ hổng “hậu” Đăng ký kinh doanh”, Báo điện tử
VietNamnet, (số ra ngày 10/11/2003), có thể tải về từ www.vnn.vn.
42. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2004), Bản án hành chính sơ thẩm
Số 04/HCST ngày 07-04-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội,
Hà Nội.
43. Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội (2005), Bản án phúc
thẩm số 13/HCPT ngày 18/01/2005 của Toà Phúc thẩm – Toà án nhân
dân tối cao tại Hà Nội, Hà Nội.
44. Trần Hữu Huỳnh (2003), “Xây dựng hệ thống giám sát hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (01), tr 100.
45. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
46. Văn phòng Quốc hội, Chương trình phát triển kinh tế tư nhân MPDF
(2005), Tổng hợp phân tích, đánh giá và bình luận về Dự án Luật doanh

105
nghiệp thống nhất và Dự án Luật đầu tư chung, Văn phòng Quốc hội,
Hà Nội.
47. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Đà Nẵng, Đà Nẵng.
48. Viện Nghiên cứu Quản ký Kinh tế Trung ương – Tổ chức Hợp tác Kỹ
thuật Đức (2006), Sáu năm thi hành LDN – Những vấn đề nổi bật và Bài
học kinh nghiêm, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hà nội.
49. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương – Tổ chức Hợp tác Kỹ
thuật Đức (2005), Từ ý tưởng kinh doanh đến hiện thực vẫn còn nhiều
gian nan, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hà Nội.
50. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), Đề tài khoa học
cấp Bộ: Tinh thần kinh doanh của doanh nhân khu vực kinh tế tư nhân
Việt Nam và chính sách, biện pháp nhằm phát huy tinh thần kinh doanh
trong sự nghiệp phát triển đất nước, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương, Hà Nội.

106
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one

You might also like