You are on page 1of 90

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TRÂM

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ KIÓM SO¸T


THO¶ THUËN H¹N CHÕ C¹NH TRANH
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TRÂM

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ KIÓM SO¸T


THO¶ THUËN H¹N CHÕ C¹NH TRANH
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. Phạm Minh Tuấn


2. TS. Lê Đinh Mùi

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Trâm


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 9
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục nghiên cứu 24
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 29
2.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh 29
2.2. Nội dung pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hình
thức và chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh 41
2.3. Vai trò và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh 52
2.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên
thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam 62
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 74
3.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam hiện nay 74
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay 82
3.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay 104
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH Ở VIỆT NAM 120
4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam 120
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam 125

KẾT LUẬN 151


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
PHỤ LỤC 166
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CT&BVNTD : Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng


EU : European Union (Liên minh châu Âu)
KTTT : Kinh tế thị trường
TTHCCT : Thoả thuận hạn chế cạnh tranh
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang
Bảng 3.1. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý đến hết năm 2018 98
Bảng 3.2. Nguồn nhân lực Cục Quản lý cạnh tranh giai đoạn 2005 - 2015 110

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ doanh nghiệp "hiểu" về Luật Cạnh tranh 87


Biểu đồ 3.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng giai đoạn
2006 – 2016 96
Biểu đồ 3.3. Các vụ việc hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng giai
đoạn 2011-2016 97
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, là động lực cho sự phát
triển của nền kinh tế, từ đó là sự phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, thay vì cạnh
tranh, có những doanh nghiệp chọn con đường bắt tay với đối thủ thiết lập các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh để vừa giảm áp lực cạnh tranh vừa tăng khả năng chi phối
thị trường, từ đó thao túng, ép buộc người tiêu dùng và các doanh nghiệp khác nhằm
tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này “làm cản trở,
làm sai lệch, thậm chí triệt tiêu cạnh tranh tự do trên thị trường, trực tiếp tác động tiêu
cực đến quy luật cạnh tranh, gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của nền kinh tế” [112,
tr.2]. Do đó các nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT) đều phải chú trọng
kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT) để bảo vệ tự do cạnh tranh, thúc
đẩy cạnh tranh hiệu quả. Trên bình diện quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) đã phải có những quy định buộc các thành viên của mình đảm bảo cạnh tranh
công bằng và ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh (Điều 9 Hiệp định GATS -
Phụ lục 1b) nhằm mở cửa thị trường, bảo vệ cạnh tranh và tự do thương mại.
Nhà nước có nhiều phương diện, cách thức khác nhau để kiểm soát TTHCCT
như: phương diện xã hội, phương diện kinh tế, phương diện pháp lý… trong đó
kiểm soát TTHCCT trên phương diện pháp lý, xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT bằng quyền lực và sức mạnh đặc biệt của nhà
nước đã tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng doanh nghiệp luôn
thiết lập rất nhiều thỏa thuận trong hoạt động kinh doanh, và trong vô số các thỏa
thuận đó, làm thế nào để xác định đâu là TTHCCT, xác định mức độ tác động
hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận, cách thức kiểm soát phù hợp để vẫn bảo đảm
quyền tự do thỏa thuận của doanh nghiệp mà vẫn bảo vệ quy luật cạnh tranh…
không phải là điều đơn giản, ngay cả đối với các quốc gia đã phát triển nền
KTTT và tích lũy nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thực hiện pháp luật chống
độc quyền. Vì thế kiểm soát TTHCCT như thế nào là thách thức trong quá trình
xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đặc biệt ở các
quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi và chưa hề có kinh nghiệm trong vấn đề
này như Việt Nam. Do đó, nghiên cứu thấu đáo những vấn đề lý luận làm cơ sở
2

cho việc xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật nhằm kiểm soát TTHCCT
một cách hữu hiệu là vấn đề cấp thiết ở Việt Nam hiện nay.
Sau khi Luật Cạnh tranh 2004 được ban hành và có hiệu lực, thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam đã bước đầu có kết quả khả quan. Nhìn
chung, trong xã hội bắt đầu có một cách nhìn nghiêm túc và khoa học hơn và đã
có những động thái thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT một cách chủ động,
tích cực, các nhà nghiên cứu, nhà thực thi pháp luật đã lên tiếng về những trường
hợp có dấu hiệu TTHCCT và cơ quan có thẩm quyền đã vào cuộc xác minh dấu
hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan quản lý cạnh tranh cũng đã chủ động phát hiện
những vụ việc có dấu hiệu vi phạm và tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật
kiểm soát TTHCCT. Tuy có những điểm sáng như trên, thực tiễn thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT vẫn có rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm. Về phía
cơ quan quản lý nhà nước, việc áp dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT chưa
đầy đủ, chưa thông suốt, xử lý vi phạm pháp luật còn nhiều lúng túng. Cho tới
hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ mới xử lý hoàn tất hai vụ việc TTHCCT
vi phạm pháp luật, mặc dù trong báo cáo thường niên cơ quan này luôn nhận
định TTHCCT hiện đang rất phổ biến tại Việt Nam. Cơ quan quản lý cạnh tranh
cũng cảnh báo nhiều về những trường hợp doanh nghiệp nước ngoài TTHCCT
thao túng thị trường Việt Nam tuy nhiên cũng mới chỉ dừng ở mức độ cảnh báo.
Thông đồng trong đấu thầu là một loại TTHCCT rất phổ biến và gây hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh chưa xử lý được
một vụ thông thầu nào. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật đó làm giảm
hiệu quả kiểm soát và ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Về phía cộng đồng doanh
nghiệp, bên cạnh các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT, vẫn đang tồn tại rất nhiều "thỏa thuận ngầm" của các doanh nghiệp
[17] là biểu hiện của việc thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh, thậm chí cố
tình vi phạm pháp luật. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT
ngày càng tinh vi và phức tạp xuất phát từ hoạt động của hiệp hội ngành nghề, từ
sự thao túng của doanh nghiệp nước ngoài, các hành vi TTHCCT diễn ra ở nhiều
ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế... đã và đang xâm hại nghiêm trọng tới
lợi ích của người tiêu dùng, của các doanh nghiệp khác, gây thiệt hại cho nền
3

kinh tế và ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh của Việt Nam. Để xử lý
những tiêu cực trên cần có nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó đảm bảo thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT đóng vai trò quan trọng.
Xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN),
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương "tôn
trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của KTTT"
[28, tr.52] và "các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh" [28, tr.60].
Để thực hiện chủ trương của Đảng về vận dụng đầy đủ và đúng đắn quy luật
cạnh tranh, để bảo vệ cạnh tranh bình đẳng và bảo vệ các chủ thể tham gia thị
trường, cần nghiên cứu làm rõ luận cứ khoa học của thực hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT, đánh giá những kết quả đạt được và những vấn đề hạn chế, bất
cập, nguyên nhân của thành công và hạn chế của việc thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam thời gian qua, từ đó xác định các quan điểm và
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thời gian tới.
Từ lý luận và thực tiễn có thể thấy nghiên cứu về thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện
nay. Do đó nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: "Thực hiện pháp luật về kiểm soát
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu ở cấp độ
luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng, luận
án có mục đích nghiên cứu là xác định các nguyên nhân của các ưu và nhược điểm,
rút ra các bài học kinh nghiệm, từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp đảm bảo thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay nhằm bảo vệ cạnh
tranh, bảo vệ môi trường kinh doanh, bảo vệ quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh,
thông qua đó góp phần xây dựng nền KTTT định hướng XHCN và thực hiện chủ
trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án có những nhiệm vụ sau đây:
4

Thứ nhất, xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT;
làm rõ nội dung, hình thức, chủ thể, vai trò và các điều kiện đảm bảo thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để tìm ra
những giá trị cần học tập về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Thứ hai, phân tích những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về kiểm soát
TTHCCT hiện nay; phân tích những kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập
trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ
nguyên nhân của những hạn chế và bất cập đó, rút ra các bài học kinh nghiệm.
Thứ ba, luận chứng cơ sở khoa học để đề xuất các quan điểm và giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam dưới góc độ của chuyên ngành Lý
luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT
từ khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành là ngày 01/7/2005 đến nay.
- Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu có tìm hiểu kinh nghiệm thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ nhưng với mục đích
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam chứ không nhằm mục đích so
sánh các hệ thống pháp luật.
- Về mặt nội dung: Do Luật Cạnh tranh 2004 chỉ điều chỉnh các TTHCCT
theo chiều ngang nên đề tài cũng chỉ nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT với các TTHCCT theo chiều ngang, không nghiên cứu về các
TTHCCT theo chiều dọc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và
5

pháp luật, về thực hiện pháp luật và pháp chế XHCN, về pháp luật về kiểm soát
TTHCCT và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Chủ trương, đường lối và
quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền KTTT
định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là cơ sở lý luận của luận án.
Các lý thuyết nghiên cứu cụ thể trong luận án đó là: Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật, Các lý thuyết kinh tế của kinh tế học, Lý luận về pháp
luật cạnh tranh và các học thuyết của pháp luật cạnh tranh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.
Lý luận và thực tiễn của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam
được nghiên cứu trong mối quan hệ với thực hiện pháp luật nói chung, trong mối
quan hệ với lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật cạnh tranh nói riêng, trong
mối liên hệ với các yếu tố của nền KTTT; nghiên cứu trong sự vận động, trong
sự phát triển, từ đó phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa. Quan điểm
lịch sử cụ thể cũng đặt ra yêu cầu chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của sự ra đời và phát triển của đối tượng nghiên cứu để đánh giá, nhận định
những tác động cả khách quan lẫn chủ quan đến thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, trên cơ sở
phương pháp luận trên, luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau tùy thuộc vào nội dung cần nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng trong các chương 1,
chương 2, chương 3 và chương 4 của đề tài. Phân tích khái niệm pháp luật, thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đặc điểm, nội dung, hình thức, vai trò của
thực hiện pháp luật, các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật, phân tích nguyên
nhân của thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam;
phân tích các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT. Các kết quả phân tích được tổng hợp lại nhằm thiết lập hệ thống các
quan điểm, luận giải về nội dung nghiên cứu.
6

Luận án phân tích Luật Cạnh tranh 2004 và văn bản hướng dẫn thi hành,
phân tích Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đồng thời phân tích các vụ việc thực
tiễn "nhằm mục đích làm sáng tỏ luật, làm rõ các quy tắc mà người làm luật
muốn thiết lập và bảo đảm tính chính xác của việc áp dụng luật trong thực tiễn"
[31, tr.16]. Trên cơ sở các nguồn tài liệu có được về vấn đề nghiên cứu bao gồm các
quy định pháp luật, các hồ sơ vụ việc, các tài liệu hướng dẫn áp dụng, các công
trình nghiên cứu… luận án phân tích và tổng hợp các đánh giá, bình luật, dự đoán
về vấn đề nghiên cứu và tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
- Phương pháp thống kê:
Luận án sử dụng phương pháp thống kê để hệ thống hóa các tài liệu liên
quan đến vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được thực hiện nhằm nghiên cứu
các chương 1, 2 và chương 3.
Cách thức thu thập số liệu trong phương pháp thống kê là thu thập gián tiếp
(Desk Study), bao gồm: Kế thừa các công trình nghiên cứu đã được công bố;
tổng hợp các nguồn số liệu thông qua các báo cáo, tổng kết của các nguồn thông
tin chính thức; tổng hợp thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng: Báo chí, Internet...
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi.
+ Mục đích: Thu thập thông tin, số liệu về nhận thức của doanh nghiệp về
pháp luật cạnh tranh; nhận thức của doanh nghiệp về TTHCCT, hành vi
TTHCCT vi phạm pháp luật và thái độ, hình thức thực hiện pháp luật mà doanh
nghiệp lựa chọn trong thực tiễn; các đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp nhằm
đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.
+ Công cụ thực hiện điều tra là bảng hỏi, bên cạnh các câu hỏi có sẵn các
phương án trả lời còn có những câu hỏi về ý kiến khác khi không trả lời theo câu
hỏi đóng. Kết quả điều tra khảo sát cho phép tiến hành những suy luận thống kê,
đo lường và đánh giá mối liên hệ giữa các biến số về nhận thức, thái độ, năng lực
của doanh nghiệp khảo sát đến hành vi thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT. Từ kết quả thu được ở số lượng mẫu đã điều tra thực tế tại địa bàn
nghiên cứu nhằm khái quát cho tổng thể.
7

+ Chọn địa bàn khảo sát: Do chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT là các doanh nghiệp, nên địa bàn khảo sát được lựa chọn là các tỉnh/thành
phố tập trung số lượng doanh nghiệp nhiều nhất của 05 vùng, miền trong cả nước.
Căn cứ vào số liệu tại bảng biểu số 115 của Tổng cục Thống kê công bố trong Niên
giám thống kê xuất bản năm 2016 để chọn ra 05 tỉnh/thành phố như sau: Đồng bằng
sông Hồng chọn Hà Nội, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chọn Đà Nẵng,
Tây Nguyên chọn Lâm Đồng, Đông Nam Bộ chọn Thành phố Hồ Chí Minh và
Đồng bằng sông Cửu Long chọn Cần Thơ [63, tr.276-277].
+ Chọn đối tượng khảo sát: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế,
gồm: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã...
+ Phương pháp chọn mẫu và điều tra thu thập thông tin: Mẫu điều tra được
chọn theo cách chọn mẫu thuận tiện. Trong năm tỉnh, thành phố tại địa bàn khảo
sát, mỗi tỉnh, thành phố, dự kiến chọn 100 mẫu khảo sát trong tổng thể. Tổng
cộng là 500 mẫu khảo sát.
Kết quả điều tra được sử dụng chủ yếu ở chương 3 của luận án.
- Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng phương
pháp so sánh nhằm đối chiếu các quy định pháp luật trong Luật Cạnh tranh 2004
và Luật Cạnh tranh 2018 (sửa đổi) để xem xét, đánh giá mức độ hoàn thiện của
nội dung pháp luật Việt Nam đang nghiên cứu. Luận án cũng sử dụng phương
pháp so sánh khi nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT của EU và Hoa Kỳ để làm rõ tương đồng trong quan điểm của hai hệ
thống pháp luật có những điều kiện lịch sử phát triển khác nhau, từ đó xác lập
những điểm cốt lõi trong kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT. Phương pháp so sánh được sử dụng ở các chương 2 và 3 của luận án.
Trong quá trình áp dụng các phương pháp trên, đề tài sử dụng các công cụ
như: Mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự đoán để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống và toàn diện
đầu tiên về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Điểm mới và cũng là đóng góp khoa học quan trọng của luận án chính là vận
8

dụng lý luận về thực hiện pháp luật để nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể là kiểm
soát TTHCCT, từ đó phát hiện ra những điểm đặc thù của thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực này, cụ thể như sau:
- Luận án góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ cơ sở lý luận thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT. Luận án đã từ các lý thuyết kinh tế và lý thuyết pháp
lý phân tích, luận giải cơ sở kinh tế-pháp lý của pháp luật về kiểm soát TTHCCT
và xây dựng khái niệm, chỉ ra các đặc điểm, nội dung và các điều kiện bảo đảm
thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
- Luận án phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, góp phần nhận dạng những dấu hiệu
nghi vấn về việc không bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT
trong thực tiễn, thậm chí vi phạm pháp luật. Từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân trong việc thực hiện pháp luật và đề xuất quan điểm, giải
pháp để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng hệ thống lý luận về thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Những nghiên cứu về thực trạng pháp luật
và các đề xuất hoàn thiện pháp luật là những đóng góp cho công tác lập pháp. Kết
quả nghiên cứu về thực trạng thực hiện pháp luật và những giải pháp đảm bảo thực
hiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực hiện pháp luật trong
thực tiễn. Những kết quả của luận án sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các cơ
quan, tổ chức và nhân dân về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt
Nam, từ đó từng bước hiện thực hóa những giải pháp được đề xuất trong Luận án.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn như trên, luận án có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong việc
chỉ đạo và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT; là tài liệu tham khảo khi sửa
đổi, bổ sung những chính sách, pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Luận án cũng có
thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào
tạo về pháp luật cạnh tranh và những đề tài nghiên cứu có liên quan đến TTHCCT.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung luận án được kết cấu làm 4 chương, 11 tiết.
9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Trong nước đã có nhiều công trình, bài viết được công bố nghiên cứu liên
quan đến đề tài tập trung vào các nhóm vấn đề sau:
1.1.1.1. Nghiên cứu về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phát sinh trong nền KTTT, vì thế vấn đề này
được nghiên cứu, phân tích cặn kẽ dưới góc độ kinh tế học.
Sách "Kinh tế vi mô" của nhóm tác giả Lê Bảo Lâm, Nguyễn Như Ý, Trần
Thị Bích Dung, Trần Bá Thọ [44] đã nghiên cứu về bản chất kinh tế của
TTHCCT và vai trò của nhà nước trong nền KTTT bên cạnh các nội dung
kinh tế vi mô khác. Các tác giả đã phân tích hành vi TTHCCT (các-ten) hình
thành trong thị trường độc quyền nhóm, sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc ra
quyết định của các doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm đã khiến
cho các doanh nghiệp phải lựa chọn giữa hai phương án: hoặc chúng cạnh
tranh với nhau để gạt dần các đối thủ ra khỏi thị trường, hoặc cấu kết, hợp
tác với nhau nhằm tránh những tổn thất do cạnh tranh gây ra, từ đó xác
định bản chất kinh tế của TTHCCT, các yếu tố có thể phá vỡ một
TTHCCT. Các tác giả cũng nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong nền
KTTT. Mục tiêu tổng quát mà nhà nước can thiệp vào nền KTTT là để sửa
chữa các thất bại của thị trường, trong đó công cụ hữu hiệu nhất của nhà
nước chính là luật pháp. Để nền kinh tế có thể vận hành một cách bình
thường, nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý, bao gồm các quy tắc ứng
xử phù hợp với các quy luật của thị trường.
Bài viết: "Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt
[53] đã tiếp cận từ vị trí và ảnh hưởng của hành vi TTHCCT trong lý thuyết về
cạnh tranh và thực tiễn về cạnh tranh trong nền KTTT để đưa ra khái niệm, phân
10

loại THCCT, tiêu chí để cấm TTHCCT trong bối cảnh nền KTTT còn chưa hoàn
thiện của Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu kinh tế học, bài
viết có khuyến nghị rằng khác với các lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật cạnh
tranh nói chung và pháp luật chống TTHCCT nói riêng chỉ có thể hiểu được, vận
dụng trong mối quan hệ mật thiết với các tiêu chí hiệu quả của kinh tế học.
Các nghiên cứu dưới góc độ luật học sau đó đã tiếp thu những kết quả
nghiên cứu về TTHCCT dưới góc độ kinh tế học này, tiêu biểu như bài viết:
"Cạnh tranh và các dạng thức thoả thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Vân [71] đã tiếp cận hành vi TTHCCT trên nền tảng các lý
thuyết kinh tế để bình luận và đề xuất giải pháp xây dựng hoàn thiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT.
Luận án đã tiếp thu các luận cứ về cơ sở kinh tế - pháp lý này làm nền tảng
lý luận nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của TTHCCT, xây dựng pháp luật
và vai trò, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về TTHCCT ở Việt
Nam hiện nay, đề xuất sửa đổi pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
1.1.1.2. Nghiên cứu pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
- Các nội dung lý luận về pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã được nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến.
Trước khi Luật Cạnh tranh 2004 chưa ra đời đã có Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ: "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Cạnh tranh" của Lê Thị
Bích Thọ [60]. Nghiên cứu này xây dựng một số nội dung lý luận về pháp luật
về kiểm soát TTHCCT, đó là: Tiêu chí xác định hành vi TTHCCT, yêu cầu kiểm
soát hành vi và yêu cầu hội nhập quốc tế khi xây dựng pháp luật.
Sau khi Luật Cạnh tranh 2004 được ban hành, đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ: "Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh
trong thực tiễn" của Tăng Văn Nghĩa [52] đã đặt ra những vấn đề về vai trò của
pháp luật cạnh tranh, vai trò của Nhà nước trong đảm bảo tự do cạnh tranh và
nghiên cứu sinh đã tiếp thu để nghiên cứu về vai trò của thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT trong nền KTTT. Bên cạnh đó, công trình này đã đưa ra các
luận thuyết về "Giới hạn hợp pháp của các TTHCCT", nghiên cứu sinh đã xem
xét những luận thuyết này, so sánh với pháp luật của một số quốc gia để xác định
11

có những TTHCCT được phép thực hiện và những TTHCCT cần phải bị cấm
tuyệt đối trong nội dung pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.
Đề tài: "Điều chỉnh pháp luật đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt
Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Nhung [54]. Đây là một nghiên cứu ở
góc độ pháp luật kinh tế về khái niệm và đặc trưng pháp lý của TTHCCT, về nhu
cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với TTHCCT, cấu trúc và cơ chế điều chỉnh
bằng pháp luật đối với TTHCCT. Công trình này có một số nội dung lý luận về
pháp luật kiểm soát TTHCCT, đó là xây dựng khái niệm pháp luật về kiểm soát
TTHCCT, những đặc trưng pháp lý về TTHCCT và cơ chế điều chỉnh pháp luật.
- Nghiên cứu về thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT:
Ở góc độ khái quát nhất có thể kể đến sách tham khảo: "Pháp luật cạnh
tranh tại Việt Nam" của nhóm tác giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc,
Nguyễn Ngọc Sơn [73]. Công trình này đã tiếp cận chi tiết về chế định pháp
luật về kiểm soát TTHCCT: Định nghĩa, những đặc điểm cơ bản của
TTHCCT và bình luận về điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định
pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam, nêu và đánh giá những nội
dung pháp lý cơ bản về pháp luật kiểm soát TTHCCT Việt Nam.
Ấn phẩm: "Cẩm nang về Luật cạnh tranh Việt Nam" của tác giả Alice
Phạm [55] vận dụng các lý thuyết kinh tế học để luận giải về TTHCCT,
nghiên cứu các vụ việc TTHCCT cũng như so sánh pháp luật để đánh giá thực
trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam, từ đó đưa ra kiến nghị về:
Thị phần của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, mở rộng phạm vi điều chỉnh
và mở rộng quy mô pháp lí của Luật Cạnh tranh ra ngoài biên giới lãnh thổ...
là những điểm đã được nghiên cứu sinh tiếp thu cho nghiên cứu của mình.
Bài báo: "Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế
cạnh tranh của Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh [2] đã nêu lên
những hạn chế của Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luận án đã tiếp thu ý tưởng về quy định miễn trách nhiệm cho doanh nghiệp
tham gia vào các TTHCCT bị cấm nhưng tự nguyện khai báo với cơ quan
quản lí cạnh tranh cho nghiên cứu của mình.
12

Tài liệu tọa đàm: "Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ Cartel"
của Trung tâm Thông tin Cạnh tranh thuộc Cục CT&BVNTD [66] đã phát
hành gồm tham luận của nhiều tác giả, tập trung trao đổi về cơ chế pháp luật
tạo thuận lợi cho việc "đầu thú" của các bên tham gia vào TTHCCT để
khuyến khích việc tự đưa vụ việc ra ánh sáng nhằm hưởng những ưu đãi miễn
trừ của pháp luật và đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt
Nam đã thiếu hẳn các quy định về chính sách khoan hồng cũng như cơ chế áp
dụng pháp luật trong thực tiễn.
- Bên cạnh đó, một số tác giả cũng nghiên cứu thực trạng pháp luật kiểm
soát TTHCCT Việt Nam trên cơ sở so sánh với pháp luật nước ngoài.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Quốc tế: "Vấn đề thoả thuận hạn chế
cạnh tranh theo pháp luật nước ngoài" của Phùng Văn Thành [57] đã nghiên
cứu về pháp luật về kiểm soát TTHCCT dưới những góc độ: Tác động của
TTHCCT đối với môi trường và cấu trúc cạnh tranh, đối với người tiêu dùng, đối
với nền kinh tế và toàn xã hội và yêu cầu kiểm soát bằng pháp luật; Mục tiêu
chung về kiểm soát TTHCCT và việc giải quyết về mặt chính sách trên bình diện
quốc tế; Giải quyết xung đột pháp luật trong kiểm soát TTHCCT; Những kinh
nghiệm quốc tế trong kiểm soát TTHCCT.
Tài liệu Hội thảo "Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh: Kinh
nghiệm EU và bài học cho Việt Nam" của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên
(EU-Việt Nam MUTRAP III), Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
(VCCI) [26] đã chứa đựng những thông tin đáng tham khảo về kinh nghiệm thực
thi pháp luật của EU và Cộng hòa Pháp. Bên cạnh các thông tin cơ bản về pháp
luật về kiểm soát TTHCCT của Liên minh châu Âu còn có những đánh giá, bình
luận về pháp luật Việt Nam.
Sách có tựa đề: "Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số
nước và một số bình luận về luật cạnh tranh của Việt Nam" của tác giả Nguyễn
Văn Cương [25] đã nghiên cứu về các tiêu chí để đánh giá một TTHCCT là bất
hợp pháp theo pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Tác giả nêu và phân
tích cơ sở pháp lý của việc đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp các TTHCCT,
phân tích các tiêu chí, điều kiện đánh giá như "hạn chế cạnh tranh", "trái với lợi
13

ích công cộng", học thuyết "hạn chế cạnh tranh bổ trợ", các quy tắc như quy tắc
hợp lý, quy tắc per-se. Thông qua các án lệ tác giả phân tích và bình luận về thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCC, bình luận về pháp luật cạnh tranh Việt
Nam, gợi mở những ý tưởng góp phần hoàn thiện pháp luật. Đây là một công
trình nghiên cứu khá sâu về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa
Kỳ, EU mà đề tài đã tham khảo và kế thừa những nội dung về các học thuyết và
quy tắc, điều kiện áp dụng để đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT Việt Nam.
1.1.1.3. Các nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh
- Những nghiên cứu liên quan đến lý thuyết thực hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT.
Các vấn đề lý luận chung về thực hiện pháp luật được nghiên cứu chi tiết trong
các giáo trình về lý luận chung nhà nước và pháp luật. Ngoài ra còn có các công
trình tiêu biểu như "Thực hiện pháp luật - những vấn đề lý luận và thực tiễn" của
tác giả Nguyễn Văn Mạnh [48] phân tích về Khái niệm thực hiện pháp luật, các
hình thức thực hiện và các chủ thể thực hiện pháp luật tương ứng với mỗi hình thức,
nội dung, các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật ở
nước ta. Để làm rõ hơn về một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật có công
trình: "Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Minh Đoan
[32] đã nghiên cứu về các vấn đề: Thực tiễn pháp luật, áp dụng pháp luật, quy trình
thực hiện và áp dụng pháp luật, những bảo đảm thực hiện pháp luật, áp dụng pháp
luật tương tự, giải thích pháp luật và hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam.
Nghiên cứu sinh sử dụng các tài liệu này làm nền tảng lý luận để từ đó nghiên cứu
về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Nhận thức về vai trò và chức năng của nhà nước trong nền KTTT là nền
tảng của lý thuyết về xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đề
cao hay coi nhẹ vai trò của nhà nước, nhà nước can thiệp vào các quy luật của thị
trường hay nhà nước kiến tạo sẽ trực tiếp quyết định việc cấm hay kiểm soát
cạnh tranh, chống hay chỉ kiểm soát TTHCCT, miễn trừ cho độc quyền nhà nước
hay không, cơ chế và phương thức kiểm soát và xử lý vi phạm… Sách "Nhà
14

nước kiến tạo phát triển - Lý luận, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam" của Vũ
Công Giao và Trịnh Quốc Toản [35] với các tham luận của nhiều tác giả về nhà
nước kiến tạo phát triển gợi mở những ý tưởng về những yêu cầu, điều kiện đảm
bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, lý giải nguyên nhân sâu sa của
những hạn chế, bất cập trong pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Sách có nhiều quan điểm tương đồng với tài liệu "Vai trò của Nhà nước
trong phát triển kinh tế Việt Nam" do Ngân hàng Thế giới (WB) [51] phát hành
trong chương trình nghiên cứu về Việt Nam: Tăng cường vai trò kiến tạo của
Nhà nước trong một nền KTTT đưa ra như "quản lý nền KTTT định hướng
XHCN thông qua luật pháp, chiến lược, quy hoạch tổng thể, chính sách và các
công cụ kinh tế phù hợp với các nguyên tắc KTTT; phát triển thể chế, quản lý
kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh, can thiệp giải quyết thất bại thị
trường… [51, tr.26]. Vai trò và chức năng của nhà nước đặc biệt tác động đến lý
thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT vì liên quan trực
tiếp đến quy luật cạnh tranh của nền KTTT và nghiên cứu sinh đã tiếp thu những
nội dung lý thuyết này để đề xuất các phương hướng và giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Bài báo: "Tư duy phát triển và vấn đề thực thi luật cạnh tranh ở Việt Nam"
của Lê Thành Vinh [72] đã đặt vấn đề về tư duy của các nhà hoạch định chính
sách để đưa Luật cạnh tranh vào thực tiễn. Nghiên cứu này nêu lên những vấn đề
lý thuyết liên quan đến thực thi pháp luật, đó là giải quyết mâu thuẫn giữa cạnh
tranh hay hợp tác, mở cửa hay bảo hộ... trong nền KTTT để thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT đạt được kết quả mong đợi.
- Những nghiên cứu liên quan đến thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT đi vào thực trạng thực hiện pháp luật trong thời gian qua, bao
gồm những nghiên cứu chung và đi vào các lĩnh vực cụ thể:
Hội thảo: "5 năm thực thi pháp luật cạnh tranh trong kiểm soát hành vi hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam" của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam (VCC), Dự án
Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn III (EU- Viet Nam MUTRAP III) [40] đã có
nhiều tham luận đã nêu lên các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về
15

kiểm soát TTHCCT như: Vướng mắc trong các quy định và thực thi các quy
định của pháp luật về xử lý vụ việc cạnh tranh, một số vấn đề thực tiễn về điều
tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, thực tiễn giải quyết các vụ việc về hành vi hạn
chế cạnh tranh tại Việt Nam...
Cuốn sổ tay: "Hành vi hạn chế cạnh tranh: Một số vụ việc điển hình của
châu Âu" của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU - Việt Nam MUTRAP III)
[27] đã phân tích và bình luận về TTHCCT theo pháp luật EU và những khuyến
nghị về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam trên cơ sở phân
tích thực trạng thực hiện pháp luật thời gian qua. Luận án đã tham khảo được
nhiều kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT từ tài liệu này.
Nghiên cứu tổng quát nhất về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT:
"Báo cáo rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam" của Cục Quản lý
cạnh tranh [15] đã công bố những nội dung rà soát đối với các chế định pháp luật
cạnh tranh, đánh giá kết quả thực thi các quy định hiện hành về kiểm soát
TTHCCT. Kết quả rà soát cho thấy những tác động tích cực cũng như những bất
cập qua 05 năm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Những kết quả rà
soát của tài liệu này mang giá trị thực tiễn cao, là tài liệu tham khảo hữu ích cho
đề tài nghiên cứu.
Tại Hội thảo 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh ở Việt Nam và những bài học
kinh nghiệm của châu Âu do Hội đồng Cạnh tranh Việt Nam phối hợp với Dự án
hỗ trợ Chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP) tổ chức
tháng 12 năm 2014 có bài tham luận của tác giả F. Naert về "Xử lý Cartel" [49]
nhận định rằng thực tiễn thực thi cho thấy các-ten ngày càng tinh vi, có thể tồn
tại dưới rất nhiều hình thức như thỏa thuận, trao đổi thông tin lỏng lẻo, thông
đồng ‘ngầm’, phối hợp hành động... và để xử lý cần áp dụng nhiều biện pháp
nghiệp vụ phối hợp lẫn nhau. Các diễn giả trong hội thảo cũng nghiên cứu và
thảo luận về các vấn đề lý thuyết áp dụng pháp luật như: Loại bằng chứng, xác
định mức thiệt hại, khoan hồng khi xử lý TTHCCT. Ngoài ra còn có các tham
luận về quá trình tố tụng cạnh tranh và tố tụng hành chính của 04 vụ việc hạn chế
cạnh tranh ở Việt Nam, thị phần và vai trò trong giải quyết vụ việc TTHCCT, vai
trò của hiệp hội doanh nghiệp. Đề tài đã tham khảo các thông tin về tình hình
16

thực hiện pháp luật trong vòng mười năm qua, những bình luận về pháp luật và
thực hiện pháp luật, về vai trò của nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội doanh
nghiệp trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Hội thảo: "Đánh giá 10 năm thực thi luật và chính sách cạnh tranh tại Việt
Nam" của Cục Quản lý cạnh tranh [21] đã tập trung vào điểm mấu chốt là mối
quan hệ phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý ngành để
thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ là bảo vệ cạnh tranh và điều tiết ngành. Hội thảo có
các tham luận đánh giá tổng quan về kết quả thực thi Luật cạnh tranh; các hoạt
động phối hợp xây dựng và thực thi Luật và chính sách cạnh tranh giai đoạn
2005-2015; mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan cạnh tranh và Cơ quan quản lý
ngành trong hoạt động xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật cạnh tranh...
Giá trị tham khảo tài liệu hội thảo là những thông tin về tình hình thực tiễn thực
thi pháp luật cạnh tranh trong vòng mười năm qua, vai trò của cơ quan quản lý
cạnh tranh trong việc áp dụng pháp luật và mối quan hệ với các cơ quan nhà
nước khác trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Bộ tài liệu mang tên chung: "Hồ sơ các vấn đề cạnh tranh" của CUTS
Hanoi Resource Centre [10] đã có bài viết về các vấn đề cạnh tranh ở Việt Nam,
đưa ra những phân tích về pháp luật và các vụ việc vi phạm pháp luật. Một phần
nhỏ phân tích và bình luận vụ việc TTHCCT trong bộ tài liệu này đã gợi mở
những ý tưởng về chính sách và pháp luật để có thể đảm bảo thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT trong thực tiễn Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu như Luận án tiến sĩ Luật học: "Pháp luật hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay"
của Nguyễn Thị Tình [61] không nghiên cứu tổng quát thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT mà nghiên cứu về những lĩnh vực cụ thể, trong đó có liên
quan đến thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Tuy thế, những nội dung
nghiên cứu này cũng góp phần làm rõ hơn về thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT trên nền tảng lý thuyết chung của pháp luật cạnh tranh.
Để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh, Luận án tiến sĩ Kinh tế:
"Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam" của
Trịnh Anh Tuấn [68] đã đưa ra các tiêu chí đánh giá cụ thể, xem xét thực trạng
17

và từ đó kết luận nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
Việt Nam trong thời gian qua chưa cao. Tuy đã làm rõ góc độ đánh giá hiệu quả
thực hiện pháp luật, công trình này không tiếp cận vào nội dung thực hiện pháp
luật của từng hình thức tuân thủ, sử dụng, thi hành và áp dụng pháp luật về kiểm
soát TTHCCT.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.2.1. Các nghiên cứu về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài dưới góc độ kinh tế học về
TTHCCT rất đa dạng, phong phú. Trong đó giải nghĩa về thuật ngữ TTHCCT
dưới góc độ kinh tế của công trình: "The Concise Encyclopedia Of Economic"
(Bác khoa toàn thư về kinh tế) của David R.Henderson [84] được nhiều nghiên
cứu sau này dẫn nguồn và công nhận các nội dung về khái niệm TTHCCT,
nguồn gốc dẫn đến hình thành TTHCCT, động cơ của các bên tham gia
TTHCCT, bản chất của một TTHCCT là sự "đồng thuận" giữa các bên dưới
bất cứ hình thức nào để hạn chế cạnh tranh giữa họ nhằm đem lại lợi ích cao
nhất. Trong công trình "Kinh tế học" của David Begg, Stanley Fisher và
Rudiger Dornbusch [4], các tác giả sử dụng lý thuyết kinh tế hiện đại để xác
định nguyên nhân hình thành và bản chất của một TTHCCT để đi đến kết luận
rằng một TTHCCT theo chiều ngang (các-ten) có khả năng gây tác hại rất lớn
cho nền kinh tế, thậm chí là một loại "ung nhọt" của thị trường, các nhà nước
cần phải sử dụng những chính sách vi mô và vĩ mô để kiểm soát nó. Các tác
giả cũng đưa ra những trường hợp TTHCCT vi phạm pháp luật đã bị xử lý và
bình luận về một số điều kiện thị trường, yếu tố tác động đã thúc đẩy hình
thành và phát triển của TTHCCT.
Bộ sách: "Foundations and Trends® in Microeconomics" (Những nền
tảng và xu hướng trong kinh tế vi mô) của Joseph E. Harrington Jr [100] đã
tập trung vào "How Do Cartels Operate?" (TTHCCT hoạt động như thế nào?).
Tác giả nghiên cứu khoảng 20 Quyết định giải quyết vụ việc các-ten của Ủy
ban Châu Âu trong giai đoạn 2000-2004 dưới góc độ kinh tế học để rút ra cơ
chế vận hành của một các-ten. Các công trình nghiên cứu về TTHCCT dưới
góc độ kinh tế khác cũng tương tự hai công trình trên, tập trung làm rõ khái
18

niệm, nguồn gốc, bản chất, động cơ hình thành... và cơ chế phá vỡ TTHCCT
một cách hữu hiệu nhất.
Các nghiên cứu về TTHCCT dưới góc độ luật học tập trung vào rõ vấn đề
thống nhất ý chí của một TTHCCT. Trong bài nghiên cứu về: "Combinations,
Concerted Practices and Cartels: Adopting the Concept of Conspiracy in
European Community Competition Law" (Sự kết hợp, phối hợp hành động và
TTHCCT: Áp dụng khái niệm về âm mưu trong Luật cạnh tranh EU) của tác giả
Julian M. Joshua & Sarah Jordan [103] hướng tới xác định khái niệm rộng nhất
của "thỏa thuận" theo hai hệ thống pháp luật cạnh tranh nổi bật nhất hiện nay là
pháp luật cạnh tranh EU và Hoa Kỳ. Tác giả nhận định rằng để có một
TTHCCT, trước hết, phải có một "thỏa thuận", và chỉ cần chứng minh các bên có
"thỏa thuận" với nhau là có thể xác định vi phạm pháp luật chứ không đòi hỏi
chứng minh các bên đã có hành động trong thực tiễn.
Cho rằng trong thực tế việc xác định một TTHCCT là công việc khó khăn
vì cơ sở lý luận và pháp lý về TTHCCT còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, trong các
bài viết: "Objective and Subjective Theories of Concerted Action” (Lý thuyết về
chủ thể và đối tượng của hành động phối hợp) và The Gary Dinners and the
Meaning of Concerted Action" (Vụ việc The Gary Dinners và ý nghĩa của hành
động phối hợp) của William H. Page [127] đã cho rằng có ba câu hỏi cơ bản cần đặt
ra khi áp dụng pháp luật: Thứ nhất, thế nào là một thỏa thuận? Thứ hai, những bằng
chứng cần thiết để chứng minh thỏa thuận? Và cuối cùng, nếu đúng là có một thỏa
thuận và đã được chứng minh, thỏa thuận đó hạn chế thương mại không?
Những luận cứ này đã khơi mở tiếp cho những nghiên cứu nối tiếp như là:
"EU Concerted Practices & US Concerted Actions: Beyond William H. Page's
Proposal" (Phối hợp hành động của EU và phố hợp hành động của Hoa Kỳ:
Theo giả thuyết của William H. Page) của hai tác giả Federico Ghezzi và
Mariateresa Maggiolino [88] đã dẫn ra các án lệ để chứng minh rằng trong thực
tiễn áp dụng pháp luật, các từ ngữ sau là tương đồng về nghĩa và có thể thay thế
cho nhau: "agreement", "concerted actions", "a unity of purpose", "a common
design and understanding", "a meeting of minds" hay là "a conscious
commitment to a common scheme" khi nói về TTHCCT.
19

Bài viết: "The Concept of Concerted Practice and Its Scope from the
Perspective of Turkish and European Competition Law" (Định nghĩa và phạm vi
của hành động phối hợp từ quan điểm của Luật cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ và EU)
của tác giả Metin Topcuoglu [104] đã xác định khái niệm "hành động phối hợp"
hình thành nên một TTHCCT và xác định chủ thể TTHCCT.
Những nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học và luật học đó đã làm rõ tiêu chí
để xác định một TTHCCT là hành vi TTHCCT là hành vi chủ quan, đạt được khi
có sự thống nhất ý chí của các bên và hoàn toàn phân biệt được với các hành vi
ngẫu nhiên trên thị trường.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về pháp luật kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Ở phạm vi ngoài nước, pháp luật về kiểm soát TTHCCT được nghiên cứu
rất rộng rãi dưới nhiều góc độ, trình bày kinh nghiệm xây dựng pháp luật của
nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Tuy thế, do phạm vi nghiên cứu của đề tài nên
chỉ tập trung nghiên cứu những công trình về pháp luật chống độc quyền của EU
và Hoa Kỳ.
Bài viết: "The Fundamental Goal of Antitrust: Protecting Consumers, Not
Increasing Efficiency" (Mục tiêu cơ bản của Luật chống độc quyền: Bảo vệ
người tiêu dùng chứ không phải tăng cường hiệu quả) của của hai tác giả John B.
Kirkwood & Robert H. Lande [101] đã sử dụng các vấn đề lý thuyết để phân tích
mục tiêu cuối cùng của xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT
chính là bảo vệ người tiêu dùng. Mục tiêu đó tác động đến nội dung của pháp
luật. Nghiên cứu này đã gợi mở ý tưởng về yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp
luật tác động đến thực hiện pháp luật cũng như củng cố thêm ý tưởng về mối
quan hệ tương tác giữa áp dụng pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước với tuân
thủ pháp luật, thi hành và sử dụng pháp luật của các chủ thể hướng tới mục tiêu
cuối cùng là bảo vệ người tiêu dùng chứ không phải là xử lý vi phạm.
Để nghiên cứu về việc xây dựng các quy định của pháp luật như thế nào nhằm
phá vỡ cơ sở hình thành và phát triển của các TTHCCT ngay từ đầu, công trình:
"Research Handbook on the Economics of Antitrust Law" (Cẩm nang nghiên cứu về
khía cạnh kinh tế của Luật chống độc quyền) của tác giả Einer Elhauge [85] đã làm
20

rõ cơ sở kinh tế - pháp lý của pháp luật chống độc quyền. Tác giả phân tích nguồn
gốc, động cơ, bản chất của TTHCCT xuất phát từ đặc điểm của thị trường độc
quyền nhóm làm xuất hiện khả năng tập trung quyền lực thị trường vào một nhóm
người để có thể hành xử "như độc quyền" và đề xuất các ý tưởng xây dựng pháp
luật phá vỡ mối liên hệ gắn bó giữa các thành viên tham gia thỏa thuận, đó là quy
chế tuân thủ, là chính sách khoan hồng... Luận án đã tiếp thu nhiều ý tưởng về xây
dựng và hoàn thiện pháp luật từ công trình nghiên cứu này.
Bộ sách: "Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hòa
Pháp" của tác giả Dominique (Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế thực
hiện dịch thuật) [3] đã cung cấp thông tin những tương đồng, khác biệt với pháp
luật về kiểm soát TTHCCT của Pháp với EU, kinh nghiệm của các cơ quan cạnh
tranh Pháp và EU trong giải quyết vụ việc TTHCCT.
Sách tham khảo: "Fundamentals Of American Law" (Những vấn đề cơ bản
của luật pháp Mỹ) của Alan B.Morrison ( [78], trong Phần 16 tác giả Harry First
trình bày cái nhìn tổng quan về các đạo luật chống độc quyền của Hoa Kỳ, trong
đó có kiểm soát TTHCCT và việc thi hành pháp luật. Tác giả đã trình bày chi tiết
về những nguyên tắc chung, áp dụng án lệ, việc thi hành pháp luật ở cấp chính
quyền và ở khu vực tư nhân, phạm vi tài phán, các xu hướng thi hành pháp luật,
phân tích các những thỏa thuận theo chiều ngang và cách thức kiểm soát các
TTHCCT này của Hoa Kỳ, quan điểm của Hoa Kỳ về kiểm soát TTHCCT và vai
trò của luật chống độc quyền.
Từ các công trình tiêu biểu như trên, đề tài đã tiếp nhận kiến thức về pháp
luật chống độc quyền của EU và Hoa Kỳ.
1.2.3. Các nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh
- Có rất nhiều sách đã xuất bản nghiên cứu về vấn đề thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT trên thế giới, trong đó công trình liên quan mật thiết tới nội
dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như gợi mở nhiều vấn đề nghiên
cứu là sách: "Global Price Fixing" (Thỏa thuận ấn định giá toàn cầu) của tác giả
John M.Connor [98]. Công trình đã tập trung vào một loại TTHCCT nghiêm
trọng, đó là thỏa thuận ấn định giá. Giá trị tham khảo lớn mà công trình này đem
21

lại đó là thông qua nghiên cứu và phân tích ba vụ việc là vụ Citric Acid, vụ
Vitamin và vụ Lysine, được coi là "điển hình cho hàng trăm trường hợp các-ten
quốc tế khác bị truy tố trong thập kỷ qua. Lysine, Acid citric và Vitamin là
những vụ việc hàng đầu của một đại dịch trên toàn thế giới chưa từng thấy kể từ
những năm 1940" [98], đã "vươn tầm ở hai ba châu lục" [98], tác giả đối chiếu,
phân tích và bình luận về pháp luật chống các-ten của Hoa Kỳ, EU, Canađa, các
nỗ lực của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc (UNCTAD) và
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và các quốc gia trong thực thi
chống các-ten. Công trình này nhận định các-ten đang biến dạng và phát triển
theo những chiều hướng mà trước đây chỉ một thập kỷ không ai có thể ngờ tới,
đòi hỏi việc phát hiện, nghiên cứu, phân tích và đề xuất những biện pháp xử lý
thích ứng hơn nữa với thực tiễn đang diễn ra. Những câu hỏi đặt ra để tiếp tục
nghiên cứu là: các yếu tố tạo điều kiện làm phát sinh các-ten hiện nay? Tác hại
của các-ten cho nền kinh tế và chi phí xã hội đã hao tổn với các-ten? Giải pháp
tăng cường thực thi pháp luật và hoàn thiện pháp luật về chống các-ten?.
Nghiên cứu rõ hơn về pháp luật chống các-ten của Hoa Kỳ có sách:
"Antitrust law developments" (Sự phát triển của luật chống độc quyền) của tác
giả Jonathan M Jacobson [97] trình bày khá chi tiết về thực thi pháp luật cạnh
tranh Hoa Kỳ, việc áp dụng nguyên tắc per se (vi phạm mặc nhiên) cho các
TTHCCT nghiêm trọng (hard-core cartels), việc áp dụng các hình phạt bao gồm
hình phạt tù cho các cá nhân vi phạm pháp luật, việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật chống độc quyền vì nếu vi phạm mặc nhiên doanh nghiệp sẽ không/rất hiếm
được xin miễn trừ khi bị phát hiện.
Sách: "Legitimacy in EU Cartel Control" (Tính pháp lý trong kiểm soát
TTHCCT của EU) của Ingeborg Simonsson [119] đã trình bày về các vấn đề
pháp lý về điều chỉnh TTHCCT theo pháp luật EU. Ngoài các nội dung về kết
cấu của pháp luật, các quy định về hành vi, các quy định cấm và cho phép, biện
pháp cưỡng chế của EU, các thủ tục và biện pháp trừng phạt, cuốn sách còn bao
gồm một danh mục của hơn 150 quyết định giải quyết vụ việc cartel của EU,
cũng như phân tích các vấn đề mới nảy sinh như TTHCCT xuyên biên giới,
TTHCCT hỗn hợp gồm cả thỏa thuận ngang và dọc... cũng như so sánh chuyên
22

sâu với luật pháp Hoa Kỳ để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai
hệ thống.
Các tài liệu này có giá trị tham khảo rất lớn cho nghiên cứu sinh cả về
khung lý thuyết xây dựng pháp luật chống độc quyền cũng như kinh nghiệm
thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ, EU và một số quốc gia
trên thế giới.
- Về tài liệu của các tổ chức quốc tế:
Mạng lưới Cạnh tranh Quốc tế (ICN) đã phát hành tài liệu Anti-Cartel
Enforcement Manual (Hướng dẫn thực thi pháp luật về chống TTHCCT). Cẩm
nang hiện có 10 chương, chương đầu tiên viết từ năm 2008 và cho đến nay vẫn
tiếp tục được ICN viết tiếp, mỗi chương nghiên cứu, phân tích các kỹ thuật được
áp dụng ở các giai đoạn thực thi pháp luật khác nhau và xác định các phương
pháp đã được chứng minh có hiệu quả và thành công dựa trên thực tiễn thực thi
pháp luật kiểm soát TTHCCT của các cơ quan cạnh tranh thành viên ICN trên
toàn thế giới. Cẩm nang này là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho nghiên cứu
sinh về các kỹ thuật, phương pháp mới trong tiếp cận tìm kiếm, thăm dò và khám
phá các TTHCCT ngầm, thu thập chứng cứ số, bắt đầu vụ việc cartel, chiến lược
điều tra, kỹ thuật lấy lời khai, thực hiện chương trình khoan hồng một cách hiệu
quả..., đồng thời là một cơ sở để so sánh các phương pháp thực thi pháp luật
kiểm soát TTHCCT của cơ quan cạnh tranh Việt Nam.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã khởi động một chương
trình từ năm 1998 với tài liệu: "Recommendation of the OECD Council on hard
core cartels" (Khuyến nghị về TTHCCT nghiêm trọng của Hội đồng OECD)
[111] đã góp phần xây dựng, thống nhất khái niệm và đánh giá tác hại của
TTHCCT ngang nghiêm trọng. Các Báo cáo do Ủy ban Cạnh tranh của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xây dựng, như: "Report on the nature and
impact of hard core cartels and sanctions against cartels under national
competition laws" (Báo cáo về bản chất và tác động của TTHCCT nghiêm trọng
và các biện pháp trừng phạt đối với TTHCCT theo luật cạnh tranh các quốc gia)
[112]; "Prosecuting cartels without direct evidence of agreement" (Khởi tố
23

TTHCCT khi không có bằng chứng thỏa thuận trực tiếp) [116] chi tiết hơn về
bản chất và tác động của các-ten, các phương thức điều tra, các hình thức xử
phạt trong luật cạnh tranh các quốc gia, sử dụng tối ưu các biện pháp chế tài để
ngăn chặn hoạt động của các-ten... Báo cáo năm 2014 "Challenges of
International Co-operation in Competition Law Enforcement" (Những thách
thức trong công tác hợp tác quốc tế trong thực thi luật cạnh tranh) [107] cung cấp
nhiều kinh nghiệm thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT, tình hình TTHCCT
quốc tế, thực tiễn phối hợp giữa các quốc gia chống TTHCCT quốc tế. Cũng như
các Tài liệu của ICN, Khuyến nghị và Báo cáo của OECD được nghiên cứu sinh
tham khảo để tiếp cận những thành công và hạn chế trong thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT trên thế giới.
Đặc biệt, tài liệu "Đánh giá của OECD về Luật và Chính sách Cạnh tranh"
phần đánh giá về Việt Nam xuất bản năm 2018 nhận định rằng có bốn hạn chế
cần giải quyết để pháp luật và chính sách cạnh tranh được thực hiện toàn diện và
đủ hiệu quả, đó là: Khung khổ quy định hiện nay không tạo thuận lợi cạnh tranh;
Cấu trúc thị trường còn chưa cạnh tranh; Khung khổ thể chế của các cơ quan
cạnh tranh, các cơ quan quản lý có liên quan và tòa án nơi tiếp nhận hồ sơ kháng
cáo còn hạn chế tính hiệu quả của hệ thống thực thi; và Nội dung kỹ thuật
chuyên ngành trong các văn bản Luật Cạnh tranh còn nhiều hạn chế [62, tr.15-
16]. Các vấn đề về khung khổ thể chế và nội dung kỹ thuật chuyên ngành trong
văn bản quy phạm pháp luật là những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả thực thi
được nghiên cứu sinh tiếp thu để từ đó đi sâu vào phân tích, đánh giá tìm ra
nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
- Về các bài viết nghiên cứu:
Bài nghiên cứu "Deterrence and detection of cartels: Using all the tools
and sanctions" (Phát hiện và ngăn chặn TTHCCT: Sử dụng tất cả các công cụ và
chế tài) của các tác giả Gregory J. Werden, Scott D. Hammond and Belinda A.
Barnett [91] đã đánh giá những thành công trong thực hiện pháp luật chống độc
quyền của Hoa Kỳ trong thời gian qua và tổng kết những yếu tố đã làm nên
24

thành công đó, đặc biệt là áp dụng hình phạt tù cho các cá nhân tổ chức, tham gia
vào TTHCCT là một kinh nghiệm rất đáng tham khảo cho nhiều cơ quan quản lý
cạnh tranh, trong đó có Việt Nam.
Bài tham luận: "Fighting cartels in Europe and the US: different systems,
common goals" (Chống TTHCCT tại châu Âu và Hoa Kỳ: Khác biệt về hệ
thống nhưng chung một mục tiêu) của Alexander Italianer [80] đã nhấn mạnh
vai trò và mục tiêu kiểm soát TTHCCT của các nhà nước và so sánh, đánh giá
công tác thực thi pháp luật của EU và Hoa Kỳ trong lĩnh vực này. Những ý
tưởng về nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT đã được
nghiên cứu sinh tham khảo.
Bài viết: "The rise of ROW Anti-cartel Enforcement" (Sự nổi lên của ROW
trong thực thi pháp luậtt về chống TTHCCT) của John M. Connor [99] nghiên cứu về
việc phát triển của công tác thực thi chống lại các-ten ở Châu Phi, Châu Á và Châu
Mỹ La tinh (gọi chung là phần còn lại của thế giới "ROW") với những tiến bộ vượt
bậc nhanh chóng trong việc xử lý thỏa thuận ấn định giá quốc tế nhờ tiếp nhận những
thành tựu pháp lý từ EU và Hoa Kỳ. Bài viết của tác giả nghiên cứu chi tiết về việc
thực thi chống các-ten của ROW trong 25 năm qua, kể từ tháng 1/1990, trong đó Việt
Nam cũng đã được thống kê với vụ việc xử lý TTHCCT vào năm 2010. Những đề
xuất tác giả đưa ra được nghiên cứu sinh tham khảo nhằm đề ra giải pháp đảm bảo
thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT Việt Nam.
1.2. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ các công trình nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài nước, có thể đưa
ra các đánh giá như sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu kinh tế học trong nước và quốc tế đã nghiên cứu
về TTHCCT từ rất sớm về các góc độ như: những nguyên nhân và cơ chế dẫn
đến hình thành các TTHCCT; cơ chế vận hành các TTHCCT; những tác hại mà
TTHCCT gây ra cho nền kinh tế và cho người tiêu dùng; vai trò kiểm soát của
nhà nước để đảm bảo vận hành nền KTTT hiệu quả. Các nghiên cứu luật học sau
đó đã sử dụng các lý thuyết kinh tế này để xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật
25

kiểm soát TTHCCT. Các vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát TTHCCT như
khái niệm, đặc điểm, mục tiêu, vai trò, học thuyết đánh giá hợp pháp và bất hợp
pháp, các quy tắc pháp lý, chủ thể... cũng đã được các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước nghiên cứu khá nhiều, phong phú, đa dạng, các quan điểm
đưa ra cơ bản là thống nhất với nhau.
Vì thế nghiên cứu sinh tiếp thu những kết quả nghiên cứu này, lựa chọn
những luận thuyết liên quan để làm cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về đề tài của
mình, không tiến hành nghiên cứu sâu thêm.
Thứ hai, nghiên cứu về pháp luật thực định khá phong phú. Các tổ chức như
Mạng lưới Cạnh tranh quốc tế (ICN) hay Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) có nhiều nghiên cứu, tổng kết, báo cáo về sự tiến bộ trong xây dựng
pháp luật cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới. Với những kinh nghiệm và
thành tích trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật chống độc quyền, pháp
luật của Hoa Kỳ và EU được nhiều nhà nghiên cứu tập trung phân tích và bình
luận, bao gồm những nghiên cứu riêng pháp luật của EU hoặc Hoa Kỳ và những
nghiên cứu so sánh hai hệ thống pháp luật với nhau, từ những nghiên cứu đó đã
tìm ra rất nhiều tương đồng của hai hệ thống trong quá trình xây dựng và thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Các nhà nghiên cứu cũng có mục đích
cùng đi đến thống nhất khái niệm, học thuyết... nhằm xây dựng cơ sở lý luận về
pháp luật kiểm soát TTHCCT. Tuy thế do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu,
các tranh luận xoay quanh xác định thế nào là "thỏa thuận", TTHCCT ngầm và
chứng cứ chứng minh, chủ thể của TTHCCT, TTHCCT hoàn toàn là phản cạnh
tranh hay có thể có ích lợi cho cạnh tranh vẫn chưa ngã ngũ.
Do đề tài nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt
Nam nên nghiên cứu sinh chú trọng đến kinh nghiệm thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam, không bình luận về các vấn đề lý luận còn đang tranh luận.
Thứ ba, về pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam và Luật Cạnh tranh
2004, cũng đã có một số công trình nghiên cứu với mục tiêu chung là đóng góp
các luận giải, đánh giá, định hướng góp phần hoàn thiện pháp luật. Trong những
26

công trình nghiên cứu đó nổi bật là tài liệu "Báo cáo rà soát các quy định của
Luật Cạnh tranh Việt Nam" [15].
Tuy những nghiên cứu trên đã phân tích và bình luận pháp luật về kiểm soát
TTHCCT Việt Nam dưới nhiều góc nhìn, nhưng vẫn chưa bao quát hết thực
trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là chưa so
sánh với Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/7/2019.
Do đó nghiên cứu sinh kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, hệ thống hóa các
vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn và bổ sung những nội dung còn thiếu để hoàn
chỉnh về mặt lý luận và thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam
khá ít, chỉ rải rác và nghiên cứu theo một vài lát cắt, không mang tính tổng quát.
Có thể kể đến một luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong công
tác giải quyết khiếu nại vụ việc hạn chế cạnh tranh, những nghiên cứu bình luận
một số khía cạnh của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam qua
các vụ việc xử lý TTHCCT vi phạm pháp luật cụ thể, một luận án tiến sĩ kinh tế
nghiên cứu về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam nói chung và
đánh giá dưới góc độ hiệu quả của kinh tế học, không đi vào các hình thức thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có thể khẳng định hiện chưa có công
trình nghiên cứu nào toàn diện về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở
Việt Nam hiện nay dưới góc độ của chuyên ngành Lý luận và lịch sử về Nhà
nước và pháp luật. Có rất nhiều vấn đề về nội dung và hình thức thực hiện pháp
luật, về chủ thể… cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn.
1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu
1.2.2.1. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Về lý luận, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ:
- Khái niệm thống nhất về TTHCCT nêu lên được bản chất, đặc trưng của
một TTHCCT trên cơ sở kinh tế - pháp lý, các đặc điểm;
- Các vấn đề lý luận về vai trò và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT;
27

- Tổng kết kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của
nước ngoài và những giá trị tham khảo cho Việt Nam hiện nay;
Về thực tiễn, luận án cần tập trung làm rõ:
- Thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT, những kết quả và những bất
cập, thiếu sót đã tác động đến thực trạng thực hiện pháp luật.
- Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam. Những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Về giải pháp để giải quyết vấn đề: Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, xây dựng
luận cứ đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT.
1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
- Giả thuyết nghiên cứu:
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết có
liên quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ cạnh tranh tự do và bình đẳng, góp phần bảo vệ môi trường kinh doanh
lành mạnh trong nền KTTT. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt
Nam hiện nay tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế,
bất cập, vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã không còn "công khai" như
thời gian đầu Luật Cạnh tranh mới có hiệu lực, nhưng TTHCCT không giảm đi,
trái lại tăng về số lượng và hành vi được che dấu một cách tinh vi dưới nhiều
hình thức khác nhau ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Cần nâng cao nhận
thức của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và toàn xã hội,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tăng thẩm quyền của cơ
quan quản lý cạnh tranh và nâng cao trình độ của điều tra viên vụ việc hạn chế
cạnh tranh để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam
hiện nay.
- Câu hỏi nghiên cứu:
Luận án hướng tới việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu như sau:
28

Thế nào là TTHCCT và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT? Nội
dung, hình thức và chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT? Vai trò
và các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT?
Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện
nay? Những hạn chế, bất cập và các nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó?
Những quan điểm và giải pháp nào cần đặt ra nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay?
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này luận án đã tiến hành tổng quan các công trình nghiên
cứu trên các sách, báo, tạp chí, đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các hội thảo khoa học, bài viết của các tác giả trong và
ngoài nước về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài "Thực hiện
pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay".
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được chia thành các nhóm chính:
- Những công trình nghiên cứu về TTHCCT.
- Những công trình nghiên cứu về pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
- Những công trình nghiên cứu liên quan tới lý thuyết và thực tiễn thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong nước và quốc tế.
Các công trình theo những nhóm trên, có công trình nghiên cứu khái quát,
có công trình nghiên cứu chi tiết, cụ thể và dựa trên đánh giá tổng quan về kết
quả nghiên cứu, tác giả nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận
án trên các phương diện lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, phân
tích đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài, đánh giá kết
quả đạt được, những kết quả mà luận án kế thừa, chỉ ra được những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu của luận án là vô cùng quan trọng. Thông qua đó, luận án
xác định cụ thể phạm vi nghiên cứu, đặt ra các giả thuyết nghiên cứu, những câu
hỏi nghiên cứu cụ thể để tiếp tục giải quyết vấn đề, để từ đó nghiên cứu có hệ
thống, toàn diện về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện
nay ở cấp độ luận án tiến sỹ.
29

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Để xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh cần phải làm rõ thế nào là TTHCCT, kiểm soát TTHCCT, pháp luật
về kiểm soát TTHCCT và thực hiện pháp luật.
2.1.1.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hình thành và phát triển trong nền KTTT, từ
thế kỷ 17, nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith nhận định rằng những người
cùng kinh doanh một ngành hàng hiếm khi gặp nhau, thậm chí chỉ để giải trí và
tiêu khiển, nhưng đã trò chuyện với nhau thì kết quả sẽ là một sự thông đồng bất
lợi cho công chúng, hoặc một mưu kế nào đó để tăng giá [77]. Nhận định này
được xem là nền tảng để hình thành nên các khái niệm, quan điểm, lý thuyết về
TTHCCT sau này [79] và đã nêu lên những dấu hiệu đặc thù của một TTHCCT:
Là hành vi thông đồng, của các đối thủ cạnh tranh và hành vi đó sẽ gây ra thiệt
hại cho khách hàng, cho xã hội.
Sau đó đã có rất nhiều lý thuyết bổ sung cho khái niệm TTHCCT như
George Stigler "với bài viết kinh điển của mình về Lý thuyết TTHCCT hiện đại
năm 1964" [98, tr.22], xác định điểm khởi đầu và đích đến của các đối thủ cạnh
tranh khi tham gia TTHCCT là để tránh những tổn thất do cạnh tranh gây ra và
tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh..." Từ đó, một hệ thống lý thuyết về TTHCCT
đã được xây dựng và phát triển trên nền tảng này" [86, tr.446], như
Với mục đích thống nhất các khái niệm cơ bản của kinh tế vi mô hiện đại, Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã xây dựng Từ điển về Kinh tế học
công nghiệp và Pháp luật cạnh tranh vào năm 1993, trong đó định nghĩa rằng:
30

Một TTHCCT là một hình thức thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh trong một ngành độc quyền nhóm. Thành viên TTHCCT có thể
thoả thuận về những vấn đề như giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia
thị trường, phân bổ khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu,
thiết lập các đại lý thương mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp
những việc này... Thỏa thuận được hình thành vì lợi ích chung của các
thành viên... Nói chung, TTHCCT hay hành vi TTHCCT là nỗ lực đi
đến trạng thái độc quyền bằng cách hạn chế sản lượng trong ngành,
nâng cao hoặc ấn định giá để kiếm được lợi nhuận cao hơn [110, tr.18].
Định nghĩa này có thể được xem là tiếp nối, tổng hợp được những khái
niệm từ trước về TTHCCT, và trên cơ sở kế thừa và phát triển, đã mở rộng các
dấu hiệu đặc thù của TTHCCT: Thứ nhất, chủ thể tham gia là các đối thủ cạnh
tranh; thứ hai, hành vi thực hiện là hành vi TTHCCT - "đề cập đến một sự dàn
xếp công khai hoặc ngầm giữa các chủ thể kinh doanh vốn là các đối thủ cạnh
tranh với nhau để cùng có lợi của họ" [62, tr.11]; thứ ba, nội dung là thoả thuận
về những vấn đề như giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia thị trường, phân bổ
khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu, thiết lập các đại lý thương
mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp những việc này; thứ tư, mục đích thực
hiện là vì lợi ích chung của những thành viên tham gia và thứ năm, hậu quả
trước mắt là hạn chế sản lượng, nâng giá... và cuối cùng là độc quyền hóa.
Cũng có nội dung tương đồng với định nghĩa của OECD, Từ điển Bách
khoa về Kinh tế nhấn mạnh thêm về hình thức một TTHCCT, có thể là một văn
bản thỏa thuận rõ ràng, công khai để phối hợp giá cả, một sự ngầm hiểu bất
thành văn để hạn chế cạnh tranh, hoặc chỉ đơn giản là một sự chấp nhận lẫn nhau
rằng tốt hơn là kiềm chế cạnh tranh và ổn định giá cả [84]. Định nghĩa của Từ
điển cho ta thấy TTHCCT có thể tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau, kể
cả thành văn, bất thành văn, công khai ý chí hay ngầm hiểu hoặc có khi là một sự
phối hợp ăn ý cùng hành động.
Các nhà lý luận của Việt Nam cũng đã tiếp cận TTHCCT từ góc độ kinh tế
học và luật học, qua đó TTHCCT mang các dấu hiệu sau: Thứ nhất, về chủ thể,
31

TTHCCT diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau; thứ hai,
hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp,
có thể công khai hoặc không công khai; thứ ba, nội dung của TTHCCT thường tập
trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh
tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật công nghệ, điều kiện ký kết hợp
đồng và nội dung hợp đồng; thứ tư, hậu quả là làm giảm, làm sai lệch và cản trở
cạnh tranh trên thị trường [73, tr.267-269]. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý ở đây là "sự
thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp, có thể công khai hoặc không
công khai" thực chất là dấu hiệu của "hành vi TTHCCT" chứ không hẳn là dấu hiệu
"hình thức TTHCCT". Hành vi TTHCCT là hành vi thống nhất ý chí với nhau, sự
thống nhất cùng hành động hoặc cùng không hành động, các hành động phối hợp
hay hành vi ăn ý với nhau là kết quả của sự thống nhất ý chí đó, còn TTHCCT "có
thể tồn tại dưới hình thức chính thức công khai, và các điều khoản và điều kiện
được viết ra một cách rõ ràng; hoặc chúng có thể tiềm ẩn, tuy thế chúng vẫn được
hiểu và tuân theo giữa các thành viên khác nhau bởi sự quy ước" [110, tr.11].
Theo Giáo trình Luật Thương mại của Đại học Luật Hà Nội thì:
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Các-ten) là hành vi cấu kết giữa hai hay
nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản sự
tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc
của các doanh nghiệp tiềm năng. Về hình thức, Các-ten có thể được hình
thành thông qua các hợp đồng, các nghị quyết, các thỏa thuận ngầm giữa
các doanh nghiệp. Hiện nay, thông thường các Các-ten được thể hiện dưới
dạng thỏa thuận ngầm để tránh bị phát hiện và sự trừng phạt của pháp luật.
Thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh có thể hình thành theo chiều ngang
hoặc chiều dọc của các quy trình kinh doanh [30, tr.336].
Định nghĩa này cho rằng TTHCCT là các-ten, nhưng thực chất các-ten là
thuật ngữ của kinh tế học để chỉ các thỏa thuận theo chiều ngang, là "thỏa thuận
giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình
kinh doanh (ví dụ: thỏa thuận giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với
nhau, giữa những người bán lẻ với nhau)" [15, tr.6], khác với những "thỏa thuận
32

theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints) là thỏa thuận hợp tác giữa
hai hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá trình
sản xuất, hoặc phân phối trên thị trường" [15, tr.11].
Nhìn chung, dù chỉ đưa ra một nhận định như: "Hành vi phối hợp của người
mua hoặc người bán mà với mục tiêu chính là tăng hoặc duy trì sức mạnh thị
trường của họ được gọi là thông đồng trong kinh tế học và là TTHCCT theo
pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước công nghiệp hiện đại" [102, tr.54] hay
xây dựng thành các định nghĩa một cách chi tiết, tổng quát lại có thể thấy một
TTHCCT (các-ten) bao gồm các dấu hiệu đặc thù sau: Thứ nhất, chủ thể tham
gia TTHCCT là các doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thị trường liên quan,
nói cách khác, đó là các đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường; thứ hai,
hành vi thực hiện là hành vi dàn xếp, thông đồng để đi đến sự thống nhất cùng
hành động/cùng không hành động giữa các bên tham gia thỏa thuận; thứ ba, nội
dung thoả thuận là các vấn đề về giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia thị
trường, phân bổ khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu, thiết lập các
đại lý thương mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp những việc này để đạt
được lợi ích chung cho các thành viên tham gia; thứ tư, hình thức của TTHCCT
có thể là văn bản, lời nói hoặc thậm chí là những cử chỉ thể hiện sự đồng thuận
lẫn nhau; thứ năm, TTHCCT luôn có khả năng làm giảm, làm sai lệch, làm hạn
chế, làm triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường.
Từ những phân tích trên có thể kết luận, Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
(các-ten) là sự thống nhất ý chí được thể hiện công khai hoặc ngầm dưới bất kỳ
hình thức nào giữa các đối thủ cạnh tranh về những vấn đề như giá cả, sản
lượng, phân chia thị trường, khách hàng, đấu thầu... nhằm hạn chế hoặc loại bỏ
cạnh tranh giữa các thành viên tham gia thỏa thuận với mục đích tối đa hóa lợi
nhuận của họ, có tác động làm giảm, làm sai lệch, làm cản trở hoặc thủ tiêu
cạnh tranh trên thị trường.
2.1.1.2. Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc và
tuân thủ những quy luật của thị trường. Xây dựng và phát triển nền KTTT đòi
33

hỏi phải coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết của thị trường, tôn
trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, tự do tham gia và rút khỏi thị trường…
Các nhà nước trong nền KTTT đều phải bảo hộ cạnh tranh như là một quy luật
kinh tế tất yếu để thị trường tồn tại và phát triển, và tạo điều kiện cho các chủ thể
kinh doanh cạnh tranh trong khuôn khổ trật tự mà nhà nước định ra. Khi bảo vệ
cạnh tranh, các lợi ích mà cạnh tranh mang lại không chỉ giới hạn ở việc duy trì
giá cả cận biên có lợi cho người tiêu dùng, mà còn ở chỗ tạo ra một môi trường
kinh doanh có hiệu quả để gia nhập và phát triển trong khi đó thúc ép các doanh
nghiệp đã có mặt trên thị trường phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh tốt
hơn, "tăng cường cạnh tranh ở Anh đã được được coi là một yếu tố quan trọng
trong việc giải thích thu hẹp trong khoảng cách về năng suất sản xuất giữa Anh
và Đức" [108], vì thế nhà nước chỉ cần tôn trọng và bảo vệ cạnh tranh đúng đắn
trên thị trường, lợi ích của người tiêu dùng, nhà sản xuất, khách hàng trung gian,
công nhân... đều sẽ được bảo đảm.
Cạnh tranh là động lực của phát triển trong nền KTTT, trong khi những
hành vi như TTHCCT sẽ làm hạn chế, sai lệch thậm chí triệt tiêu cạnh tranh trên
thị trường, dẫn đến độc quyền hóa nền kinh tế. Do đó, "bàn tay hữu hình" của
nhà nước cần được thể hiện qua vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh và
"sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng
và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển" [29,
tr.25-26], trong đó pháp luật là "công cụ chính" [38, tr.361]. Sự can thiệp của
nhà nước là cần thiết nhưng ở mức độ nào là điều mà các nhà nước phải quan
tâm để vẫn tôn trọng quyền thiết lập các thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh
mà vẫn đảm bảo loại trừ được những thỏa thuận làm phương hại đến cạnh tranh
trên trị trường. Ngoài ra, về bản chất kinh tế một TTHCCT luôn gây tác động
hạn chế cạnh tranh trên thị trường, nhưng cũng có trường hợp những thỏa thuận
giữa các đối thủ cạnh tranh về nghiên cứu, phát triển sản phẩm chung (R&D),
34

thỏa thuận hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh trong việc bán, phân phối và quảng
bá sản phẩm, thống nhất về điều kiện kinh doanh, cung ứng, thanh toán... tuy vẫn
làm hạn chế cạnh tranh nhưng lại có thể góp phần thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ, tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị trường... lợi ích mang lại lớn
hơn mức gây bất lợi mà các nhà nước cũng luôn cân nhắc cấm hay không.
Do đó, đối với TTHCCT, nhà nước cần can thiệp để điều chỉnh hành vi của
các doanh nghiệp, cấm những hành vi gây nguy hại cho thị trường tự nhiên và
trừng phạt những chủ thể vi phạm nhưng đồng thời cũng vẫn bảo vệ được quyền
thiết lập thỏa thuận của doanh nghiệp cũng như có thể cho phép các TTHCCT
mang lại lợi ích cho nền kinh tế tồn tại. Việc cấm, cho phép, miễn trừ... đều thể
hiện vai trò của nhà nước trong nền KTTT và nhằm thực hiện chức năng kiểm
soát hành vi TTHCCT của nhà nước.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, kiểm soát là "kiểm tra, xem xét nhằm ngăn
ngừa những sai phạm các quy định, hoặc đặt trong phạm vi, quyền hành và trách
nhiệm" [76, tr.842], trên cơ sở khái niệm kiểm soát trên, có thể hình dung: Kiểm
soát TTHCCT là nhà nước sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế
hoạch, công cụ kinh tế… để định hướng hành vi TTHCCT của các chủ thể, đặt
các chủ thể trong phạm vi, quyền hành và trách nhiệm, kiểm tra việc thực hiện
trong thực tiễn, xác định và xử lý hành vi vi phạm đồng thời tiến hành các điều
chỉnh nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ cạnh tranh trong nền KTTT. Như vậy
kiểm soát TTHCCT mà nhà nước tiến hành không chỉ có cấm đoán mà còn có
định hướng, cho phép, không chỉ dành cho những TTHCCT đã xảy ra và đã kết
thúc mà còn là cho những TTHCCT đang và sắp diễn ra (chẳng hạn cho những
trường hợp đăng ký miễn trừ). Những yếu tố tác động chính đến hiệu quả kiểm
soát, đó là nhận thức và thái độ của các chủ thể và phương pháp, cách thức được
thực hiện để kiểm soát TTHCCT.
2.1.1.3. Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Pháp luật là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước ssử dụng để
kiểm soát TTHCCT, các quốc gia có nền KTTT phát triển đều xác định mục tiêu
cơ bản của pháp luật về kiểm soát TTHCCT là bảo vệ tự do kinh tế và đảm bảo
35

cơ hội cho mọi người bằng cách thúc đẩy cạnh tranh tự do và công bằng trên thị
trường. Có ba mục tiêu cơ bản mà pháp luật và chính sách cạnh tranh của các quốc
gia hướng tới, đó là thúc đẩy và bảo vệ quá trình cạnh tranh, đạt được hiệu quả kinh
tế cao hơn và bảo vệ lợi ích công cộng, tuy nhiên các quốc gia đều diễn giải rằng
hiệu quả kinh tế cao hơn hay bảo vệ lợi ích công cộng đều chỉ đạt được bằng cách
kiềm chế hoặc ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng sức mạnh
kinh tế [106], có thể nói pháp luật về kiểm soát TTHCCT là công cụ để nhà nước
chủ động ngăn chặn và kiểm soát các nguy cơ có thể làm hạn chế cạnh tranh bằng
cách thiết lập hành lang pháp lý cần thiết cho hành vi thỏa thuận của các chủ thể
kinh doanh và bằng những biện pháp nhằm trừng phạt các hành vi vi phạm. Pháp
luật kiểm soát TTHCCT là để bảo vệ cạnh tranh tự do trên thị trường, thúc đẩy các
doanh nghiệp đã có mặt trên thị trường phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh
tốt hơn, tạo ra một môi trường kinh doanh có hiệu quả để doanh nghiệp mới gia
nhập và phát triển đồng thời duy trì giá cả có lợi cho người tiêu dùng. Do đó, pháp
luật vừa là công cụ hữu hiệu để bảo vệ cạnh tranh, vừa là công cụ bảo vệ quyền tự
do kinh doanh của doanh nghiệp và quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.
Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa
các tổ chức, cá nhân kinh doanh, các hiệp hội ngành nghề, giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với các tổ chức, cá nhân kinh doanh, các hiệp hội ngành
nghề nhằm bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo trật tự thị trường, đảm bảo quyền tự do
kinh doanh và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật của các chủ thể, từ đó bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp, của người tiêu dùng được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự,
Luật Cạnh tranh và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính chất là pháp luật "canh cửa"
cho nền KTTT, là nhân tố bảo đảm tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh trong
khuôn khổ pháp luật, thực hiện phát triển nền KTTT trong một nhà nước pháp
quyền. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là phương tiện để Nhà nước trao quyền
cho các chủ thể cạnh tranh trong khuôn khổ trật tự mà nhà nước định ra, kiểm
36

soát các TTHCCT theo định hướng của Nhà nước, buộc thực thi các nghĩa vụ và
xử lý những hành vi vi phạm, cũng là phương tiện để các chủ thể phát huy quyền
tự do kinh doanh, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế.
Như vậy, Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hệ thống các quy tắc xử sự do
Nhà nước thừa nhận, ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong việc kiểm soát TTHCCT để bảo vệ cạnh tranh và bảo
đảm trật tự thị trường trong nền KTTT, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và của người tiêu dùng.
2.1.1.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Quá trình thực hiện pháp luật được diễn ra tiếp nối với quá trình xây dựng
và hoàn thiện pháp luật. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT chỉ có thể có tác dụng
điều chỉnh các quan hệ xã hội khi được thực hiện trong thực tiễn.
Lý luận về nhà nước và pháp luật đưa ra khái niệm "Thực hiện pháp luật là
hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực
hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [33, tr.396] hay là
"Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động mang tính ý thức, có chủ định
của con người để làm cho các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống trở thành
những hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [37, tr.155]. Có thể nhận
thấy tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng các khái niệm trên đều có nội hàm tương
đối giống nhau, theo đó, thực hiện pháp luật là hoạt động có ý thức, có mục đích
của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật. Đối
với chủ thể nhà nước đó là hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước đối với xã hội, đối với các cá nhân, tổ chức khác thực hiện pháp luật là
hoạt động sử dụng các quyền và thi hành các nghĩa vụ pháp lý theo luật định.
Thực hiện pháp luật có thể mang tính tự giác, tự ý thức của chủ thể pháp luật
hoặc cũng có thể do ý chí của Nhà nước buộc các chủ thể phải thực hiện.
Thực hiện pháp luật "được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hành vi hợp pháp
của chủ thể pháp luật" [37, tr.155], vì thế có thể nói các hành vi của mỗi cá nhân,
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức phù hợp với quy định pháp luật đều
được coi là biểu hiện của thực hiện pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật về kiểm
37

soát TTHCCT là hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về
kiểm soát TTHCCT đi vào thực tiễn đời sống xã hội, chuyển từ nhận thức thành
hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, nhằm bảo vệ cạnh
tranh tự do, lành mạnh trên thị trường, từ đó góp phần tạo lập môi trường kinh
doanh lành mạnh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị
trường cũng như của toàn xã hội. Mục đích của Nhà nước khi xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT sẽ đạt được khi các nội dung điều chỉnh của
pháp luật về kiểm soát TTHCCT được các chủ thể pháp luật tôn trọng và thực hiện
nghiêm minh, biểu hiện thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Từ những phân tích về TTHCCT, vai trò của nhà nước trong kiểm soát
TTHCCT, pháp luật về kiểm soát TTHCCT và thực hiện pháp luật như trên, có thể
đưa ra khái niệm: Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một quá trình hoạt
động có ý thức, có chủ định của các chủ thể pháp luật để đưa các quy định của pháp
luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn cuộc sống trở thành những hoạt động thực
tế của các chủ thể pháp luật nhằm bảo vệ cạnh tranh tự do, bình đẳng trên thị
trường, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường cũng như của toàn xã hội.
2.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh
Theo góc độ và phạm vi tiếp cận như trên, thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT có các đặc điểm như sau:
2.1.2.1. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được tiến hành bởi nhiều chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau
Xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là thực hiện
vai trò của nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền KTTT, là đảm bảo mạnh mẽ của nhà
nước trong bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo cho nền kinh tế vận hành hiệu quả theo các
quy luật của nó và đúng với định hướng của nhà nước. Các nhà nước kiến tạo phát
triển hiện nay xác định "chức năng bảo đảm bình đẳng, công bằng, chống các hành
vi kinh doanh bất hợp pháp, chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng… trở thành
một nội dung quan trọng trong hoạt động của nhà nước [35, tr.377].
38

Do đó, khi tham gia vào quan hệ pháp luật kiểm soát TTHCCT, các chủ thể
pháp luật có địa vị pháp lý không bình đẳng với nhau, trong đó cơ quan cạnh
tranh là chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, là chủ thể tổ chức thực hiện pháp
luật và sử dụng phương pháp quyền uy, mệnh lệnh đối với các chủ thể còn lại.
Doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp là chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT trên cơ sở tuân thủ sự tổ chức thực hiện của chủ thể nhà nước,
được thực hiện các quyền và phải thi hành các nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Tuy có địa vị pháp lý khác nhau nhưng thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể pháp luật để đạt được
mục tiêu kiểm soát TTHCCT trong nền KTTT
Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các hiệp hội không phải là
chủ thể trực tiếp thực hiện TTHCCT và hiện cũng không có biện pháp chế tài
trong trường hợp hiệp hội tổ chức cho các thành viên thực hiện một TTHCCT.
Chính vì thế, việc xác định địa vị pháp lý cho hiệp hội trong thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT càng phải được chú ý để hiệp hội đảm bảo tuân thủ pháp luật,
phát huy được các quyền và tích cực thi hành các nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Do điều kiện lịch sử, ở Việt Nam trước đây các cơ quan quản lý nhà nước
trong các ngành, lĩnh vực cũng là các cơ quan chủ quản các doanh nghiệp nhà
nước. Tuy hiện nay, cùng với tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước mạnh
mẽ mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện, các cơ quan quản lý nhà nước đã
chuyển giao nhiệm vụ chủ quản, chỉ còn tập trung vào nhiệm vụ quản lý nhà
nước nhưng điểm đặc thù này khiến việc thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT ở Việt Nam có thể gặp những trở ngại nếu các chủ thể không rành
mạch giữa địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước và địa vị pháp lý của doanh
nghiệp để xác lập đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
2.1.2.2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
luôn thể hiện rõ nét ý chí của nhà nước nhưng vẫn đặt ra yêu cầu cao về sự tự
giác của các chủ thể khác
Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là công cụ quan trọng để nhà nước điều
tiết thị trường, bảo vệ cạnh tranh. Về mặt lý luận, pháp luật về kiểm soát
39

TTHCCT không xây dựng dưới góc độ quy định cách xử sự mà quy định những
loại thỏa thuận bị cấm và cách thức xử lý nên "phải được thực hiện theo phương
pháp của luật công" [31, tr.34]. Trong thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT, các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho ý chí của nhà nước vừa tự
thực hiện pháp luật vừa tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật, tiến
hành theo ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng
để tuyên bố các thỏa thuận là bị cấm, buộc chấm dứt hoạt động TTHCCT, xử
phạt vi phạm, thậm chí có thể áp dụng các biện pháp hình sự để xử lý hành vi vi
phạm. Chủ thể nhà nước có thẩm quyền sử dụng pháp luật làm công cụ cơ bản
và sử dụng phương pháp hành chính, tố tụng với đặc trưng là quyền uy mệnh
lệnh, có tính chất bắt buộc và bảo đảm bằng cưỡng chế của Nhà nước. Cơ quan
quản lý cạnh tranh có thể quyết định điều tra tiền tố tụng đối với các trường hợp
nhận thấy có dấu hiệu TTHCCT mà không cần phải có đơn kiện hay sự tố giác.
Khi cơ quan quản lý cạnh tranh điều tra, xét xử vụ việc TTHCCT, các chủ thể
khác phải tuân thủ các yêu cầu, quyết định của các cơ quan này và các quyết
định của cơ quan quản lý cạnh tranh có giá trị bắt buộc thi hành và được đảm
bảo bằng cưỡng chế Nhà nước.
Tuy thể hiện rõ nét ý chí của chủ thể nhà nước, hiệu quả thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT phụ thuộc rất nhiều vào bản thân các doanh nghiệp, các
hiệp hội doanh nghiệp có sự tự giác cao trong tuân thủ pháp luật, có ý thức chấp
hành pháp luật thì sẽ không tham gia TTHCCT bị cấm dù có sự cám dỗ của lợi
ích khi tham gia TTHCCT.
Trong nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam, Nhà nước công nhận và
đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận, quyền lập và tham gia hiệp
hội trong khuôn khổ pháp luật của các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Doanh
nghiệp được quyền quyết định đối với hoạt động kinh doanh của mình mà không
phải chịu sự can thiệp hành chính từ cơ quan nhà nước nên càng đòi hỏi sự ý
thức, tự giác cao để thực hiện hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Mặc dù Việt Nam chưa xây dựng được chính sách khoan hồng hoàn chỉnh để
khuyến khích sự tự giác của doanh nghiệp trong việc tố giác hành vi TTHCCT,
40

nhưng khi đã tham gia vào TTHCCT, nếu doanh nghiệp ý thức tự giác cao chủ
động khai báo, cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh sự tồn tại của TTHCCT
và hợp tác với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra thì có thể được miễn
trừ hoặc giảm nhẹ mức chế tài và làm cho việc điều tra, xử lý của cơ quan điều
tra nhanh chóng, hiệu quả hơn. Đồng thời, các quy định về tăng nặng chế tài
cũng là cảnh báo nhằm yêu cầu cao sự tự giác của doanh nghiệp.
2.1.2.3. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
luôn thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với các
cơ quan khác và với các cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới
Về bản chất kinh tế, một TTHCCT thành công hay không phụ thuộc vào
khả năng chi phối thị trường của nó. Do kiểm soát TTHCCT trong các lĩnh vực
của nền kinh tế, nên trong quá trình thực thi cơ quan quản lý cạnh tranh luôn có
sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực để giám sát mức độ chi
phối thị trường của các doanh nghiệp nhằm phát hiện sớm dấu hiệu TTHCCT.
Quá trình điều tra, xử lý vi phạm, áp dụng chế tài của cơ quan quản lý cạnh tranh
cũng luôn có sự phối hợp của nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác.
Quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay hầu như không để quốc
gia nào đứng ngoài cuộc, đường biên giới tự nhiên ngày càng trở nên mờ nhạt,
các công ty đa quốc gia hình thành và phát triển, sự chi phối của công ty mẹ đối
với các công ty con trên toàn thế giới... làm cho sức mạnh thị trường của doanh
nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà có thể hướng
tới phạm vi khu vực, châu lục và thậm chí toàn cầu. Số TTHCCT xuyên biên
giới đã tăng rất nhanh "Dữ liệu cho TTHCCT xuyên biên giới giai đoạn 2007-2011
tăng 527% so với giai đoạn năm 1990-1994" [118, tr.26]. Để giải quyết những
thách thức mà các TTHCCT xuyên biên giới đem lại, các cơ quan quản lý cạnh
tranh trên thế giới đã có nhiều hành động hợp tác với nhau để tăng cường năng lực
pháp lí của các cơ quan quản lí cạnh tranh trong việc kiểm soát TTHCCT quốc tế,
để phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp điều tra và xử lý vi phạm.
Các quốc gia đều bị thiệt hại do TTHCCT xuyên biên giới, "tuy nhiên do sự
chưa hoàn thiện về thể chế, chính sách, sự hạn chế về trình độ phát triển, kinh
41

nghiệm... các quốc gia đang phát triển dường như sẽ chịu nhiều tác động nặng nề
hơn" [55, tr.68], đó là một cảnh báo cho Việt Nam. Thực hiện chủ trương của
Đảng về chủ động hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng gia nhập
sâu và rộng vào nền kinh tế toàn cầu, điều đó tạo nên đặc điểm quốc tế hóa
trong hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và cũng đặt ra yêu cầu cơ quan
quản lý cạnh tranh Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà
nước khác và với các cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới trong thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH, HÌNH THỨC VÀ CHỦ THỂ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.2.1. Nội dung pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
2.2.1.1. Cơ sở kinh tế - pháp lý của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi của các chủ thể kinh doanh trong
nền KTTT, các lý thuyết của kinh tế học được sử dụng để lý giải cơ chế hình
thành, bản chất và cơ chế phá vỡ một TTHCCT.
- Theo Lý thuyết về cấu trúc thị trường, kinh tế học phân loại thị trường
thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, thị
trường cạnh tranh không hoàn hảo lại được chia thành thị trường độc quyền, thị
trường cạnh tranh độc quyền và thị trường độc quyền nhóm [4, tr.149]. Trong thị
trường độc quyền nhóm, hành vi của mỗi doanh nghiệp đều tạo ra những tác động
đến thị trường, và như thế tác động đến đối thủ cạnh tranh, sự ảnh hưởng lẫn nhau
đó làm cho các doanh nghiệp trong thị trường độc quyền nhóm sẽ phải quan tâm
đến những phản ứng có thể của các đối thủ cạnh tranh của mình. Chẳng hạn khi
muốn tăng giá, một doanh nghiệp độc quyền nhóm sẽ phải dự đoán xem các đối
thủ cạnh tranh có tăng giá theo không, còn khi doanh nghiệp muốn giảm giá để
mở rộng thị phần, doanh nghiệp cũng sẽ phải dự đoán xem các đối thủ cạnh tranh
có giảm giá theo để giữ khách hàng không. Sự phụ thuộc lẫn nhau trên thị trường
độc quyền nhóm đã khiến cho doanh nghiệp phải lựa chọn giữa hai phương án:
42

hoặc chúng cạnh tranh với nhau để gạt dần đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường
(cuộc chiến này sẽ rất khốc liệt), hoặc cấu kết với nhau nhằm tránh những tổn thất
do cạnh tranh gây ra (cho cả đôi bên) [38, tr.216]. Khi đã kinh doanh, các doanh
nghiệp đều muốn có sức mạnh thị trường, muốn có khả năng khống chế được thị
trường để từ đó thu lợi nhuận nhiều nhất có thể, cũng luôn mong muốn không phải
đương đầu với những cuộc cạnh tranh khốc liệt mà có thể gây tổn thất cho mình.
Do đó, động cơ thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện hành vi TTHCCT luôn tồn tại
sẵn. Khi các doanh nghiệp chọn phương án cấu kết với nhau, TTHCCT hình
thành, cơ chế cạnh tranh giữa họ đã bị triệt tiêu, tính chất "hạn chế cạnh tranh" đã
xuất hiện ngay khi có hành vi hợp tác. Và như thế bản thân hành vi hợp tác giữa
các đối thủ cạnh tranh đã luôn làm sai lệch, làm giảm, làm cản trở cạnh tranh thậm
chí triệt tiêu cạnh tranh giữa các bên thỏa thuận. Với đặc điểm của thị trường độc
quyền nhóm, TTHCCT luôn tác động đến thị trường, trong trường hợp sức mạnh
thị trường đủ lớn, nó còn có thể đem lại cho các thành viên thỏa thuận khả năng
"ứng xử như một nhà độc quyền" [38, tr.224], từ đó độc quyền hóa thị trường và
cạnh tranh trên thị trường lúc này có thể nói là đã bị triệt tiêu. Lúc này, thị trường
mất khả năng tự điều tiết theo quy luật các quy luật cung cầu hay quy luật cạnh
tranh và phải cần đến vai trò điều tiết của nhà nước.
Lý thuyết về thị trường độc quyền nhóm của kinh tế học lý giải về cơ chế hạn
chế cạnh tranh của một TTHCCT và phân tích cơ chế hạn chế cạnh tranh này cho
thấy tác hại hạn chế cạnh tranh đã hình thành ngay khi doanh nghiệp lựa chọn hợp
tác thay vì cạnh tranh. Do đó bản thân hành vi TTHCCT luôn gây hạn chế cạnh
tranh tự do trong thị trường, nghĩa là gây tác hại cho môi trường kinh doanh cho
dù thiệt hại trực tiếp cho người tiêu dùng hay các doanh nghiệp khác có thể chưa
diễn ra. Chính vì tác hại hạn chế cạnh tranh của hành vi TTHCCT, hành vi này
luôn xâm hại đến những quan hệ xã hội mà pháp luật cạnh tranh bảo vệ, đây là cơ
sở lý luận để xây dựng các quy định pháp luật cấm đối với TTHCCT.
- Lý thuyết trò chơi được kinh tế học sử dụng để phân tích những tương tác
chiến lược giữa các bên tham gia TTHCCT. Lý thuyết trò chơi nghiên cứu các
tình huống ra quyết định có liên quan tới nhiều bên và các quyết định của mỗi bên
43

ảnh hưởng tới lợi ích và quyết định của các bên khác [1, tr.1], trong Lý thuyết trò
chơi có mô hình "Thế tiến thoái lưỡng nan của người tù", một bài toán điển hình
của Lý thuyết trò chơi phân tích về chiến lược hợp tác hay không hợp tác của
doanh nghiệp, qua phân tích mỗi một chiến lược cho chúng ta các thông số tương
ứng về người chơi, hành vi chiến lược và kết quả.
Xác định hành vi TTHCCT là hành vi hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó là "nó ngăn cấm một suy luận về thỏa thuận
trong các trường hợp mà ở đó các hành động của mỗi bị cáo là do ý thích cá
nhân của mình, bất kể các bị cáo khác đã có những hoạt động giống như thế"
[126]. Kết quả cuối cùng của trò chơi mà các bên nhận được do hành vi hợp tác
của mình đó là tránh được cuộc chiến cạnh tranh, chỉ cần sản xuất ở mức sản
lượng đã cam kết và vẫn thu được lợi nhuận tối đa. Tuy thế, mỗi một bên tham
gia TTHCCT đều rơi vào tình thế không dám đặt niềm tin vào người cấu kết
với mình, họ luôn không chắc tất cả đều trung thành với thỏa thuận và luôn e
ngại một bên phá vỡ thỏa thuận để chiếm lợi ích… do đó "tiến thoái lưỡng nan"
trong chiến lược của mình.
Trên cơ sở những lý giải về cơ chế tồn tại một TTHCCT của Lý thuyết trò
chơi, có thể nhận thấy hành vi cấu kết, thông đồng giữa những đối thủ cạnh tranh
(người chơi) chính là mấu chốt, để từ đó pháp luật xác định "hành vi thỏa thuận
chính nó đã là những gì cấu thành hành vi phạm tội; những hành vi công khai để
thực hiện… không phải là yếu tố thiết yếu và không cần phải được biện hộ hoặc
chứng minh..." [125]. Ngoài ra, chính tình thế "tiến thoái lưỡng nan" của các bên
tham gia thỏa thuận là cơ sở để các nhà lập pháp xây dựng các cơ chế phá vỡ
TTHCCT như miễn trừ hay khoan hồng.
2.2.1.2. Kết cấu và nội dung chủ yếu của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh
Từ cơ sở kinh tế - pháp lý như trên, pháp luật về kiểm soát TTHCCT thường
được xây dựng theo kết cấu hành vi-cấm-xử lý vi phạm-miễn trừ/khoan hồng,
chủ yếu gồm các nội dung sau:
- Quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
44

Trong phần này, pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải làm rõ được thế nào
là hành vi TTHCCT. Hành vi TTHCCT là hành vi mang tính kết hợp của ít nhất
là hai chủ thể kinh doanh trên thị trường được thực hiện bởi sự dàn xếp. Chính vì
thế, quy định về hành vi TTHCCT đều phải thể hiện được "tính tập thể" và "tính
dàn xếp" khi quy định về hành vi TTHCCT. Ngoài ra, hành vi mang "tính tập
thể" và "tính dàn xếp" đó diễn ra trong hoạt động kinh doanh, thương mại và gây
ra "hạn chế thương mại" [89] hoặc là "hạn chế cạnh tranh" [87] trên thị trường.
Những hành vi TTHCCT thường liên quan đến giá cả, thị phần trên thị
trường, đấu thầu… như là thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp, thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối
lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ, thoả thuận tẩy chay doanh nghiệp
khác, thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
- Các quy định cấm.
Các quy định cấm thể hiện mức độ kiểm soát của nhà nước đối với hành vi
TTHCCT. Cấm TTHCT ở mức độ nào tùy thuộc vào quan điểm của mỗi nhà
nước về mức độ nguy hiểm của hành vi TTHCCT. Pháp luật về kiểm soát
TTHCCT thông thường quy định cấm hành vi TTHCCT theo hai mức độ: cấm
tuyệt đối và cấm có điều kiện.
+ Quy định về cấm tuyệt đối đối với TTHCCT nghĩa là các chủ thể tuyệt
đối không được thực hiện hành vi TTHCCT đó. Nhiều quốc gia xây dựng quy
định cấm theo nguyên tắc "per-se", hay nói cách khác là cấm mặc nhiên. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chỉ cần xác định có hành vi TTHCCT là xác định vi
phạm pháp luật mà không cần điều tra gì thêm. Pháp luật kiểm soát TTHCCT Hoa
Kỳ có nguyên tắc "per-se" hay nguyên tắc xác định TTHCCT có "bản chất hạn chế
cạnh tranh" của EU chính là thể hiện nội dung quy định cấm tuyệt đối này.
+ Quy định cấm có điều kiện thường được áp dụng cho các hành vi
TTHCCT không nằm trong nhóm bị cấm tuyệt đối. Pháp luật nêu lên các điều
kiện cụ thể và chỉ cấm khi TTHCCT rơi vào điều kiện này. Một số hệ thống
45

pháp luật sử dụng điều kiện đánh giá tác động của TTHCCT bằng cách cân nhắc
giữa lợi ích tích cực và tác động hạn chế cạnh tranh mà chúng mang lại, ví dụ
như Nhật Bản xem xét "tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể" [25, tr.210], cơ quan
quản lý cạnh tranh cân nhắc giữa lợi ích tích cực và tác động tiêu cực mà hành vi
đó mang lại để xác định TTHCCT đó có vi phạm pháp luật hay không.
- Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT có
thể phải gánh chịu các chế tài hành chính, dân sự và kể cả hình sự. Các hình thức
xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT thường là: Phạt tiền; Thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề…; Các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc cải chính công
khai, buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp đã mua nhưng không sử dụng, buộc loại bỏ những biện pháp ngăn cản,
kìm hãm doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh…;
Một số quốc gia còn quy định phạt tù đối với các cá nhân có hành vi vi phạm
pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
- Quy định về miễn trừ đối với TTHCCT vi phạm pháp luật.
Miễn trừ là một nội dung đặc biệt của pháp luật về kiểm soát TTHCCT vì quy
định miễn trách nhiệm pháp lý cho các TTHCCT vi phạm pháp luật. Miễn trừ là
"ngoại lệ" bởi vì theo quy định của pháp luật, đã vi phạm pháp luật thì phải gánh
chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng nhưng với các trường hợp miễn trừ, nhà nước
vẫn cho phép hành vi vốn là bị cấm có thể được tiếp tục thực hiện, không áp dụng
các biện pháp pháp lý để xử lý và cũng không áp dụng chế tài đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật.
Điều kiện để hưởng miễn trừ thường hướng tới các giá trị như "thỏa thuận
này phải mang đến những hiệu quả tích cực, như là góp phần nâng cao sản xuất,
phân phối sản phẩm hoặc góp phần thúc đẩy những tiến bộ kỹ thuật, tiến bộ kinh tế"
[87], hay là "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng …
- Ngoài ra, pháp luật về kiểm soát TTHCCT cũng quy định về những điều
kiện để giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt cho các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật
46

về kiểm soát TTHCCT đã tố cáo vụ việc TTHCCT đến các cơ quan thẩm quyền
trước hoặc ngay khi các cơ quan này phát hiện vi phạm. Đó là "chính sách khoan
hồng" trong nội dung pháp luật về kiểm soát TTHCCT của nhiều quốc gia.
2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là cách thức hoạt
động có ý thức, có chủ định của các chủ thể pháp luật để đưa các quy định của
pháp luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn cuộc sống trở thành những hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật. Theo Lý luận về Nhà nước và pháp luật,
căn cứ vào tính chất của các hoạt động thực hiện pháp luật có thể chia thành bốn
hình thức thực hiện pháp luật: Tuân thủ pháp luật; chấp hành pháp luật; sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật. Từ phương diện lý luận chung, hình thức thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thể hiện như sau:
2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó, các chủ thể pháp luật tự kiềm chế để không thực hiện những hành vi,
hoạt động mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT nghiêm cấm thực hiện.
Các chủ thể kiểm chế để không thực hiện những hành vi mà pháp luật về
kiểm soát TTHCCT quy định cấm như thực hiện các hành vi TTHCCT bị cấm,
thực hiện những hành vi mang tính cản trở cạnh tranh trên thị trường, tổ chức, ép
buộc, yêu cầu, khuyến nghị các thành viên liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh
tranh trên thị trường...
2.2.2.2. Thi hành pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thi hành pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của
mình bằng các hành động tích cực. Hình thức thi hành pháp luật được thực hiện
đối với những điều luật quy định về nguyên tắc và trách nhiệm thực hiện về kiểm
soát TTHCCT.
Đối với chủ thể doanh nghiệp và hiệp hội, đó là chấp hành nguyên tắc việc
cạnh tranh phải trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích
47

công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và
phải tuân theo các quy định của pháp luật cạnh tranh, đó là tích cực thực hiện các
nghĩa vụ trong tố tụng cạnh tranh, tích cực khắc phục hậu quả do hành vi
TTHCCT vi phạm pháp luật gây ra.
Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ngoài việc chấp hành nguyên tắc
tôn trọng quyền cạnh tranh theo pháp luật của doanh nghiệp, hình thức thi hành
pháp luật được thực hiện đối với các điều luật quy định về trách nhiệm của các
chủ thể trong việc quản lý nhà nước về cạnh tranh nói chung, kiểm soát
TTHCCT nói riêng.
Pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính chất của luật công bởi đây là
công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện lý thuyết "bàn tay hữu hình", can thiệp
và điều tiết thị trường. Vì thế trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh mang ý
nghĩa quan trọng, khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt chấp hành
pháp luật về kiểm soát TTHCCT, việc kiểm soát TTHCCT được thực hiện một
cách chủ động, tích cực cũng sẽ góp phần giảm thiểu các TTHCCT vi phạm pháp
luật, bớt đi các TTHCCT ngầm, cạnh tranh tự do và bình đẳng được bảo đảm.
2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Sử dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hình thức thực hiện pháp luật,
theo đó, các chủ thể pháp luật thực hiện quyền của mình một cách tự giác và tích
cực, nghĩa là thực hiện các hành vi mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT cho phép.
Tuy pháp luật về kiểm soát TTHCCT tiếp cận từ khía cạnh "kiểm soát" với
những quy định về cho phép, cấm, xử lý vi phạm nhưng vẫn trao cho các chủ thể
nhiều loại quyền, trong đó cơ bản nhất là quyền tự do cạnh tranh, tự do kinh
doanh, tự do thiết lập những thỏa thuận giữa các đối thủ kinh doanh với nhau, trừ
những TTHCCT bị cấm. Các quyền được trao là nền tảng để các doanh nghiệp
tích cực thực hiện các hành vi kinh doanh, tạo ra, vận hành và phát triển thị
trường, đóng góp cho xã hội và cũng là cơ sở để các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau, tạo nên động lực phát triển. Các chủ thể còn có các quyền cụ thể trong quá
trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT như Quyền đề nghị hưởng miễn
trừ, Quyền khiếu nại hành vi TTHCCT của các chủ thể khác khi cho rằng quyền
48

và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, Quyền tự nguyện khai báo về hành vi
vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện, tự nguyện ngăn chặn, làm
giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi
thường thiệt hại, tự nguyện cung cấp chứng cứ để được giảm nhẹ hình phạt…
Khi doanh nghiệp sử dụng những quyền trên là đã thể hiện ý chí, quan điểm
của mình một cách chủ động, thể hiện được quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh trong nền KTTT, thể hiện được sự bình đẳng giữa Nhà nước và các chủ thể
khác trong nhà nước pháp quyền cùng hướng tới mục tiêu cuối cùng là tạo lập và
giữ gìn môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng. Đây cũng là tiêu chí quan
trọng để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thực hiện hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT.
2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Áp dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một hình thức thực hiện pháp
luật đặc biệt, theo đó, cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật
thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm soát TTHCCT hoặc tự mình căn cứ
vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực kiểm soát
TTHCCT theo những thủ tục, trình tự luật định. Áp dụng pháp luật là hoạt động
mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức được Nhà
nước trao quyền nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ
thể đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
Để tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật
về kiểm soát TTHCCT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các hoạt
động trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cụ thể như sau: Hướng dẫn,
kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đã được phê duyệt về kiểm soát TTHCCT;
Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên quan đến
kiểm soát TTHCCT; Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp;
Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc
49

TTHCCT; Áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính, các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp
luật; Xử lý vi phạm pháp luật về TTHCCT; Giải quyết khiếu nại đối với các
quyết định xử lý vụ việc TTHCCT; Theo dõi việc thi hành các Quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh.
Bên cạnh việc tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT, cơ quan quản lý cạnh tranh áp dụng pháp luật để xử lý các
TTHCCT vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại liên quan đến xử lý vụ việc
TTHCCT. Ngoài ra, cơ quan quản lý cạnh tranh còn tham gia ý kiến đối với các
văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch ngành, lĩnh vực, văn bản
hành chính có liên quan; Xây dựng cơ sở dữ liệu, tài liệu liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; Hợp tác quốc tế về kiểm soát TTHCCT.
2.2.3. Chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hoạt động được tiến hành bởi
nhiều chủ thể, mỗi chủ thể có vị trí pháp lý khác nhau.
2.2.3.1. Chủ thể nhà nước
Thực hiện kiểm soát TTHCCT là chức năng của nhà nước trong nền
KTTT, để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, nhà nước thiết lập cơ
quan quản lý cạnh tranh để thực thi pháp luật cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Do tính chất của hoạt động kiểm soát TTHCCT, cơ quan quản lý cạnh
tranh vừa thực hiện các hoạt động hành chính như quản lý, hướng dẫn, cho
phép, kiểm tra, giám sát… vừa thực hiện các hoạt động như điều tra, xét xử và
áp dụng các biện pháp chế tài đối với các bên có hành vi vi phạm pháp luật. Sự
kết hợp hai đặc tính "hành chính" và "tư pháp" là để cơ quan quản lý cạnh tranh
có thể đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Do tính chất hành
chính bán tư pháp của cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ quan này cần có sự độc
lập, cần được đảm bảo để các yếu tố chính trị hay các yếu tố kinh tế không tác
động đến hoạt động thực hiện pháp luật của mình, cần có địa vị pháp lý độc lập
để không chịu chi phối hay can thiệp bởi các cơ quan khác trong quá trình kiểm
50

soát hoạt động cạnh tranh trên thị trường, để đảm bảo độc lập, khách quan, công
bằng trong quá trình điều tra, xét xử và áp dụng chế tài, cần có quyền hạn để
yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan có liên quan trong quá trình thực
thi nhiệm vụ.
Ở Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cạnh tranh, Bộ
Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về
cạnh tranh và các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh. Cơ
quan nhà nước trực tiếp tham gia thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT
gồm có Cục quản lý Cạnh tranh (hiện đổi tên là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người
tiêu dùng - Cục CT&BVNTD) và Hội đồng Cạnh tranh. Hai cơ quan này đều có
tính "lưỡng tính", Cục CT&BVNTD là một cơ quan thuộc Bộ Công thương
nhưng lại có chức năng điều tra và đưa vụ việc ra trước Hội đồng Cạnh tranh để
Hội đồng cạnh tranh xử lý, Hội đồng Cạnh tranh là một cơ quan hành chính
nhưng lại có chức năng "xét xử" độc lập, là một cơ quan tài phán vì có thẩm
quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết và tuân theo thủ tục tố tụng cạnh
tranh. Quyết định của Hội đồng Cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ thống toà án.
2.2.3.2. Chủ thể doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT. Doanh nghiệp là tên gọi chung cho các thực thể kinh doanh, có thể là
tổ chức kinh doanh hay cá nhân kinh doanh, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất,
cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành,
lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài… không phân biệt sở hữu, cơ cấu tổ chức hay là lĩnh vực kinh doanh.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang (các-ten) chỉ diễn ra cho
các doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thị trường, hay nói cách khác, đây là
các đối thủ cạnh tranh. Một số quốc gia không những xem xét các đối thủ cạnh
tranh hiện hữu mà còn xem xét cả các đối thủ cạnh tranh tiềm năng [89, tr.2],
một đối thủ cạnh tranh tiềm năng là một đối thủ hiện chưa gia nhập nhưng có
khả năng và "khi mà chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ nhưng thường xuyên về giá
51

cả trong thị trường, chủ thể này sẵn sàng thực hiện ngay những sự đầu tư cần
thiết hoặc điều chỉnh giá cả cần thiết để gia nhập vào thị trường liên quan mà chủ
thể kinh doanh kia đang hoạt động" [87]. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam quy
định cấm các TTHCCT giữa các doanh nghiệp "trên cùng thị trường liên quan",
do đó để trở thành chỉ có các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh hiện hữu mới
trở thành chủ thể của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.
Chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải là các thực thể kinh
tế độc lập, có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự cho mình và có lợi ích riêng
biệt, bởi chỉ khi là các thực thể kinh tế độc lập thì doanh nghiệp mới có quyền
quyết định về hành vi mà mình thực hiện, mới có thể trở thành một bên tham gia
thỏa thuận. Vì thế đối với những trường hợp như công ty con thực hiện
TTHCCT do công ty mẹ lập, các công ty con của cùng một công ty mẹ thực hiện
TTHCCT do quyết định của công ty mẹ, quyết định thống nhất ấn định giá hay
phân chia thị trường trong một liên doanh, thỏa thuận giữa doanh nghiệp với các
nhà lãnh đạo hay nhân viên của mình... các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần
xem xét từng trường hợp cụ thể xem các bên tham gia TTHCCT có được quyền
quyết định, độc lập trong hành động và có lợi ích kinh tế riêng biệt hay không để
xác định chủ thể của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
2.2.3.3. Chủ thể hiệp hội
Các hiệp hội đều không phải là cá nhân, tổ chức kinh doanh nên không phải
là một bên tham gia TTHCCT. Tuy nhiên hiệp hội là một tổ chức được thành lập
vì lợi ích chung của các thành viên, có thể phối hợp hoạt động giữa các thành viên,
rất thuận lợi cho những hoạt động hợp tác, có lẽ vì thế mà "một số lượng lớn các
trường hợp TTHCCT được xử lý bởi cơ quan cạnh tranh trên thế giới trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến một hiệp hội thương mại" [117, tr.15]. Do đó, hiệp hội có
vai trò rất đặc biệt trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Chính vì ràng buộc với nhau bằng sự tự nguyện trên cơ sở lợi ích chung,
hiệp hội có nhiều điều kiện thuận lợi để liên kết các doanh nghiệp trong cùng
ngành, lĩnh vực, đại diện cho các thành viên trong hiệp hội và tuy hiệp hội không
có sức mạnh thị trường, nhưng có khả năng liên kết các doanh nghiệp để có sức
mạnh thị trường tổng hợp. Các hiệp hội cũng có khả năng đưa ra các quy định
52

mang tính nội quy để ràng buộc các thành viên của mình. Trong thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT, ở hướng tích cực, hiệp hội có thể đưa ra các nội quy
nêu rõ tiêu chí tuân thủ các quy định pháp luật về kiểm soát TTHCCT, yêu cầu các
thành viên không tham gia vào TTHCCT, yêu cầu các thành viên chấp hành pháp
luật nghiêm chỉnh, đại diện cho các thành viên của mình để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của thành viên. Ở hướng ngược lại, hiệp hội có thể là người điều phối
hoặc là tạo điều kiện cho những thành viên của mình, vốn là các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường liên quan tham gia và thực hiện TTHCCT, kinh nghiệm của EU cho
thấy "Một quyết định đưa ra bởi hiệp hội của các doanh nghiệp: thay thế thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội, phù hợp cam kết chung của hiệp hội
đó" [5, tr.14] chính là một TTHCCT. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng xác định
hiệp hội là chủ thể đặc biệt của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Tóm lại, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được tiến hành bởi
nhiều chủ thể theo từng nội dung pháp luật và dưới các hình thức: Tuân thủ pháp
luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy trong thực
tiễn sự phân định bốn hình thực thực hiện pháp luật chỉ mang tính tương đối
nhưng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT luôn trên cơ sở nguyên tắc
pháp chế XHCN, đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, góp phần
đảm bảo kỷ cương thị trường theo đúng định hướng xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.
2.3. VAI TRÒ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.3.1. Vai trò của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
2.3.1.1. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh góp
phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng nền KTTT định hướng XHCN
Việt Nam, ở đó "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt
động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật" [29, tr.41].
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp tự quyết gia nhập thị trường và cạnh
tranh với nhau, doanh nghiệp thất bại phải gánh chịu tổn thất, thậm chí là phải
53

rời bỏ thị trường. Các TTHCCT phá vỡ nguyên tắc này, tạo ra "vòng an toàn"
cho các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, tạo lập môi trường kinh doanh bất
bình đẳng. Do đó thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là sự vào cuộc của
Nhà nước để bảo vệ nguyên tắc chọn lọc tự nhiên của thị trường, chỉ những
doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, tuân thủ pháp luật, có văn hóa kinh doanh văn
minh mới có thể tồn tại trong thị trường, đây là những nhân tố góp phần xây
dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh.
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là kiểm soát các thỏa thuận
hợp tác của các chủ thể kinh doanh, xử lý và trừng phạt các hành vi TTHCCT
vi phạm pháp luật, bảo vệ các chủ thể kinh doanh khác trước những chiêu
thức kinh doanh "bẩn", đảm bảo quyền gia nhập thị trường của các chủ thể
kinh doanh mới, bảo vệ cơ chế thị trường, trật tự thị trường. Đảm bảo thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là kiểm soát tình trạng độc quyền hóa
thị trường, kể cả độc quyền từ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, đảm
bảo quyền bình đẳng kinh doanh và bình đẳng gia nhập thị trường của các chủ
thể kinh doanh bất kể hình thức sở hữu. Điều này rất quan trọng trong xây
dựng nền KTTT bởi về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở
hữu trong nền KTTT phải độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và
trong hoạt động kinh doanh.
2.3.1.2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, của
người tiêu dùng, của xã hội
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần hiện thực hóa các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích công cộng trong nền KTTT
định hướng XHCN Việt Nam.
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính "kiểm soát", bao gồm
những quy định cho phép, cấm, xử lý vi phạm... tưởng như không đem lại lợi ích
cho các doanh nghiệp, nhưng với mục tiêu bảo vệ cạnh tranh tự do trên thị trường,
bảo vệ trật tự thị trường và môi trường kinh doanh bình đẳng, thực hiện pháp luật về
54

kiểm soát TTHCCT đem lại lợi ích cho mọi chủ thể kinh doanh chân chính, luôn sử
dụng, thi hành và tuân thủ pháp luật. Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật về kiểm soát TTHCCT là để lập lại trật tự thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp
của các doanh nghiệp trước những hành vi bất chính. Thực hiện pháp luật về kiểm
soát TTHCCT cũng góp phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về hành vi kinh
doanh đúng pháp luật, thái độ kinh doanh hiện đại, khích lệ sự năng động, tự chủ,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.
Đối với người tiêu dùng, một số TTHCCT thoạt tiên có vẻ đem lại lợi ích cho
người tiêu dùng, chẳng hạn như "Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp" ban đầu thường là ấn định giá thấp để loại bỏ các
doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận, và người tiêu dùng được hưởng lợi ngắn
hạn, tuy nhiên, không lâu sau đó, khi đã kiểm soát được thị trường, giá sẽ được ấn
định cao mà người tiêu dùng thì buộc phải chấp nhận vì không còn lựa chọn khác.
Tất cả các TTHCCT đều tương tự, kết quả cuối cùng luôn là hạn chế hoặc triệt
tiêu quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Quyền lợi của người tiêu dùng thể hiện ở
việc được lựa chọn hàng hoá và dịch vụ có chất lượng, phù hợp với nhu cầu và túi
tiền của mình, quyền lựa chọn đem lại cho người tiêu dùng vị trí trung tâm, bất cứ
doanh nghiệp nào cũng phải hết sức "chiều chuộng" quyền lựa chọn của người
tiêu dùng để tồn tại và phát triển. Thế nhưng, khi thị trường xuất hiện TTHCCT và
bị chi phối bởi "quyền lực độc quyền nhóm", người tiêu dùng bị mất hoặc hạn chế
khả năng lựa chọn, cũng bị hạn chế quyền được đáp ứng nhu cầu của mình. Thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có vai trò bảo vệ người tiêu dùng thông qua
việc kiểm soát những thỏa thuận có thể tạo ra quyền lực độc quyền trên thị trường,
bảo vệ quyền lựa chọn của người tiêu dùng, khuyến khích đối với những
TTHCCT có tác dụng tích cực, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần bảo vệ lợi ích xã hội
thông qua việc tăng cường hiệu quả của nền kinh tế. Thực hiện pháp luật về
kiểm soát TTHCCT góp phần bảo vệ cạnh tranh, chính là động lực cho sự đổi
mới và phát triển. Kiểm soát TTHCCT hữu hiệu trong thực tế là bảo vệ tự do
cạnh tranh, giúp nền kinh tế phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực, tận dụng tối đa
55

nguồn lực để phát triển, tránh tình trạng trì trệ, lãng phí mà kết quả cuối cùng là
tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT cũng cho phép các TTHCCT được miễn trừ khi "Thúc đẩy tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; Tăng cường sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; Tăng cường sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế..." (Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004) sẽ
giúp bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh
tế. Việc góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, văn minh cũng là
góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
2.3.1.3. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
góp phần hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa
Trên thế giới, các nước có nền KTTT phát triển đã ban hành và thực thi
pháp luật về kiểm soát TTHCCT từ rất sớm và hiện nay trên thế giới đã có hơn
120 quốc gia ban hành và thực thi pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Hội nhập
kinh tế quốc tế đòi hỏi các nền kinh tế phải chấp nhận "luật chơi chung" trong
sân chơi thế giới và phải có cách hành xử tương đồng. Việt Nam trong giai đoạn
đầu gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), từ trước khi gia nhập và cho
tới bây giờ, việc xây dựng và đảm bảo thực hiện các thiết chế pháp lý của nền
KTTT là cần thiết và bắt buộc.
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy sự hình thành nên nhiều vùng thị
trường khu vực và thế giới rộng lớn và cũng làm bùng nổ các TTHCCT xuyên
quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam rất dễ gặp trường hợp các thế lực kinh tế quốc tế dùng sức mạnh
tài chính, dùng kinh nghiệm kinh doanh... để thao túng thị trường và chiếm đoạt
thị phần của các doanh nghiệp nội địa. Trong bối cảnh đó, đảm bảo thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT vừa góp phần giúp Việt Nam hội nhập với
"cách chơi chung trên sân chơi chung", vừa góp phần loại bỏ các TTHCCT vi
phạm pháp luật để bảo vệ nền kinh tế nội địa theo đúng pháp luật quốc tế. Những
hiệu quả này góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và tiến trình toàn cầu
hoá diễn ra nhanh chóng, hiệu quả hơn.
56

2.3.1.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
góp phần rèn luyện năng lực, kỹ năng kinh doanh văn minh, hiện đại cho
doanh nghiệp và năng lực, kỹ năng quản lý nền kinh tế thị trường trong bối
cảnh hội nhập quốc tế cho cơ quan quản lý nhà nước
Nền KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng bắt đầu từ tinh
thần đổi mới của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tuy đã có thời gian hơn 30 năm
nhưng các vấn đề về KTTT vẫn còn nhiều điều mới mẻ đòi hỏi chúng ta không
ngừng học hỏi tri thức, nắm bắt quy luật, rèn luyện kỹ năng.
Do điều kiện lịch sử nước ta, trước đó trong xã hội đã có tầng lớp tư sản và
các yếu tố sơ khai của nền KTTT nhưng chưa đáng kể, có thể nói ý thức, năng
lực, kỹ năng kinh doanh văn minh, hiện đại của các chủ thể kinh doanh hiện vẫn
còn nhiều hạn chế. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam ra đời muộn so với
pháp luật về doanh nghiệp hay pháp luật về hợp đồng, tuy nhiên đã thể chế hoá
quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, kiểm soát các hành vi TTHCCT
theo hướng tiệm cận với pháp luật kiểm soát TTHCCT trên thế giới. Thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần rèn luyện kỹ năng kinh doanh văn minh,
hiện đại cho chủ thể kinh doanh để có thể tham gia vào sân chơi chung quốc tế, thực
hiện chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là con đường để Nhà nước
"kiểm nghiệm" pháp luật trong thực tiễn, giúp cho Đảng, Nhà nước có cơ sở
thực tiễn để hoạch định đường lối chính sách, hoàn thiện pháp luật, cũng góp
phần để các cơ quan quản lý nhà nước rèn luyện kỹ năng quản lý nền KTTT.
Quản lý nền KTTT vẫn là khá mới đối với các cơ quan quản lý nhà nước của
Việt Nam và quản lý nhà nước về cạnh tranh còn mới hơn thế, việc trau dồi
nâng cao kỹ năng quản lý nền KTTT là cấp thiết. Đảm bảo thực thi và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần trau dồi kỹ
năng cho các cán bộ, công chức, các cơ quan quản lý nhà nước, triển khai
thực hiện tốt chủ trương "Nâng cao nhận thức và năng lực pháp lý, đặc biệt là
luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế, trước hết là của cán bộ chủ chốt các
ngành và chính quyền các cấp, doanh nghiệp, cán bộ làm công tác tố tụng, đội
57

ngũ luật sư và những người trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế"
của Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng
khóa XII "Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới".
2.3.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh
2.3.2.1. Các bảo đảm về chính trị
Bảo đảm về chính trị là sự bảo đảm về định hướng chính trị của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Pháp luật về kiểm soát TTHCCT ra đời và phát triển trong nền KTTT và thực
hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là thực thi những quy định pháp luật trong
thực tiễn với mục tiêu bảo vệ trật tự thị trường. Vì thế bảo đảm về chính trị đối
với thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thể hiện qua chủ trương, đường
lối chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay. Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thể
hiện qua quyết tâm hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền KTTT định hướng
XHCN, quản lý nền kinh tế bằng công cụ pháp luật "tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh" [29, tr.28].
Các quan điểm của Đảng về những vấn đề đó được thể hiện trong các văn
kiện của Đảng trong từng thời kỳ phát triển của đất nước, mức độ đề cập theo
từng thời kỳ có thể đậm nhạt khác nhau nhưng luôn nhất quán. Kể từ những
bước đổi mới tư duy của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nền
KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
58

thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho
các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. Thể chế hóa chủ trương,
đường lối của Đảng, các văn bản luật đã được ban hành, trở thành công cụ quản
lý hữu hiệu nền KTTT định hướng XHCN, trong đó có Luật Cạnh tranh được
ban hành năm 2004. Định hướng chính trị của Đảng tiếp tục được thể hiện nhất
quán qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI và XII về phát triển nền
KTTT định hướng XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định "Tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc
quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh"
[29, tr.41]. Định hướng chính trị của Đảng về xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là cơ sở để
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh nói chung, là đảm bảo về mặt
chính trị để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thực tế.
Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với pháp luật và
thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT luôn nhất quán, xuyên suốt. Tuy
nhiên, kết quả còn phụ thuộc vào nhận thức và hành động của của các cấp ủy
Đảng trong các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật
cạnh tranh, của cấp ủy Đảng trong các cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá
trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, sự gương mẫu, thực hiện
nghiêm minh pháp luật về kiểm soát TTHCCT của các doanh nghiệp nhà nước,
các tổng công ty, tập đoàn nhà nước và sự ủng hộ của toàn xã hội.
2.3.2.2. Các bảo đảm về kinh tế
Cùng với bảo đảm về chính trị, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT
cần được bảo đảm về kinh tế. Đó là bảo đảm về xây dựng các thiết chế kinh tế và
bảo đảm về cơ sở vật chất, kinh phí và hạ tầng kỹ thuật cho các hoạt động triển
khai pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thực tiễn cuộc sống.
Để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần xây dựng các
thiết chế về tài chính, về thuế, về thống kê…. Nếu thiếu các thiết chế về thuế, tài
chính và thống kê, cơ quan quản lý cạnh tranh rất khó khăn khi muốn kiểm soát thị
59

trường, phân tích thị trường nhằm phát hiện hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật.
Sau khi phát hiện hành vi vi phạm, để phục vụ điều tra, xử lý vụ việc TTHCCT
các điều tra viên cần phân tích kinh tế về thị phần, tỷ lệ phần trăm (%) tổng thị phần
các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan, doanh thu... nếu các thiết chế
về tài chính, về thuế, về thống kê... thiếu và yếu không chỉ là rào cản cho công tác
của các cơ quan quản lý cạnh tranh mà còn gây trở ngại cho việc kiểm soát từ phía
người tiêu dùng trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một nội dung pháp luật mới ở Việt
Nam. Để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, cần thực hiện nhiều hoạt
động cung cấp các thông tin nhận diện TTHCCT, phổ biến các quy định của
pháp luật về kiểm soát TTHCCT đồng thời hướng dẫn thực hiện pháp luật và
việc phát hành tài liệu hướng dẫn, tổ chức các hội thảo, hội nghị, các khóa tập
huấn... đều cần có các điều kiện đảm bảo về kinh tế. Đối với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm soát TTHCCT cũng
cần được nghiên cứu, học tập, tập huấn qua các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ, các
lớp tập huấn ngắn hạn và dài hạn, tham gia các hội thảo trong nước và quốc tế để
có cơ hội chia sẻ, trao đổi và học tập kinh nghiệm trong việc phát hiện, điều tra
và xử lý các hành vi TTHCCT. Việt Nam cũng cần tham dự vào các diễn đàn
quốc tế như Mạng lưới cạnh tranh ICN... Những hạn chế về cơ sở vật chất và
nguồn kinh phí có thể khiến công tác tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp và cộng đồng cũng như việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công
tác kiểm soát TTHCCT bị gián đoạn, thiếu toàn diện.
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cũng sẽ được bảo đảm khi mà
các chủ thể kinh doanh có điều kiện kinh tế để tiếp cận thông tin, tự trang bị kiến
thức và mở rộng phạm vi kinh doanh từ nội địa ra thị trường quốc tế, tích lũy
kinh nghiệm, kiến thức kinh doanh... là những điều kiện để nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
2.3.2.3. Các bảo đảm về văn hoá - xã hội
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT còn chịu sự tác động của yếu tố
về văn hóa - xã hội. Trình độ nhận thức của các chủ thể kinh doanh, đạo đức
60

kinh doanh, văn hoá kinh doanh cũng như tập quán, quan niệm xã hội đều có tác
động không nhỏ đến thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Từ sau công cuộc đổi mới đất nước, cùng với phát triển nền KTTT, văn hoá
kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân được khơi dậy, phát huy, hướng đến
các chuẩn mực tốt đẹp như: Kinh doanh đúng pháp luật, tạo được uy tín đối với
khách hàng, tạo việc làm cho người lao động... những chuẩn mực văn hóa kinh
doanh tốt đẹp đó là cơ sở để doanh nghiệp tuân thủ, chấp hành pháp luật. Trình
độ nhận thức của các chủ thể kinh doanh được nâng cao, có khả năng sử dụng
các quyền mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT quy định, từ đó không chỉ bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình mà còn góp phần bảo vệ lợi ích công cộng thông
qua việc cùng tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng.
Song cũng phải nhìn nhận ở một bộ phận đạo đức kinh doanh, văn hoá kinh
doanh còn thấp, những cách kinh doanh trái pháp luật như thông thầu, thông đồng để
ngăn chặn doanh nghiệp mới gia nhập thị trường, thông đồng để ép giá... vẫn tồn tại
khá phổ biến, bất chấp kỷ cương, xâm phạm những chuẩn mực kinh doanh truyền
thống. Ngoài ra, những quan niệm xã hội, tập quán lâu đời như "buôn có bạn, bán có
phường" có thể khiến chủ thể kinh doanh vô tình có những thỏa thuận, những hành
động phối hợp kinh doanh phản cạnh tranh vi phạm pháp luật. Tất cả những hạn chế
đó đều làm giảm hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Vì vậy, cần đẩy mạnh việc xây dựng môi trường văn hoá - xã hội, bồi dưỡng
đạo đức kinh doanh, tạo cho các chủ thể kinh doanh và toàn xã hội có quan niệm
đúng về văn hoá kinh doanh, nâng cao trình độ, nhận thức của các chủ thể về pháp
luật về kiểm soát TTHCCT, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Việc
học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hoá kinh doanh của các dân tộc trên thế giới như tôn
trọng luật lệ, sự cam kết, tầm nhìn xa trông rộng, phương pháp, năng lực tổ chức,
quản lý hiện đại là rất cần thiết, đặc biệt là pháp luật và tập quán kinh doanh, ý thức
cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng khách hàng và ý thức trách nhiệm xã hội.
2.3.2.4. Các bảo đảm về pháp luật
Để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thực sự đạt hiệu quả, bên
cạnh bảo đảm các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, các đảm bảo
61

về pháp luật rất quan trọng. Thực hiện pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống,
điều kiện đầu tiên cần có là một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Chất lượng của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT là một trong những cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện
pháp luật đạt được kết quả, đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa
các quy định pháp luật này trong thực tiễn. Đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ
thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT dựa vào các tiêu chí cơ bản, đó là: tính toàn
diện, tính thống nhất đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý.
Tính toàn diện thể hiện ở chỗ pháp luật về kiểm soát TTHCCT có cấu trúc
chặt chẽ, có đủ các chế định cần thiết, mỗi chế định có đủ quy phạm pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kiểm soát TTHCCT,
không có khoảng trống. Tính toàn diện cũng được thể hiện qua việc ban hành
đầy đủ các văn bản hướng dẫn chi tiết cho văn bản luật để khi văn bản luật cạnh
tranh có hiệu lực thì cũng có đủ các điều kiện để có thể được tổ chức thực hiện.
Tính toàn điện đòi hỏi bất cứ một quan hệ xã hội nào phát sinh trong lĩnh vực
kiểm soát TTHCCT đều phải được điều chỉnh bởi pháp luật, tuy thế bản thân
pháp luật dù hoàn thiện đến mấy cũng không thể dự liệu được tất cả các tình
huống xảy ra trong thực tiễn, vì vậy đòi hỏi pháp luật về kiểm soát TTHCCT
phải có tính bao quát trên nền tảng các nguyên tắc cơ bản để có thể áp dụng cho
những trường hợp thực tiễn chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Tính đồng bộ thể hiện ở chỗ các bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật về kiểm
soát TTHCCT không được có sự trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn với nhau;
đồng thời các bộ phận này phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể
thống nhất. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải được thực hiện thống nhất trong
cả nước, không có sự phân biệt vùng, miền, phù hợp với các quy định của Bộ luật
dân sự và Hiến pháp 2013. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải có tính ổn định
tương đối, không sửa đổi liên tục, không thay thế bất ngờ nhằm góp phần tạo sự
thống nhất, ổn định cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Tính phù hợp thể hiện ở chỗ pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải phản
ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội, pháp luật về kiểm soát TTHCCT
62

chỉ ra đời và phát triển khi nền KTTT Việt Nam hình thành với các thành phần
kinh tế đa dạng và quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh được Nhà nước
bảo hộ. Các quy phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT không mâu thuẫn với
truyền thống kinh doanh, quy phạm đạo đức tốt đẹp của dân tộc cũng như các
quy phạm xã hội khác.
Hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải bảo đảm tính hiện đại, phù
hợp với trình độ pháp lý của khu vực và quốc tế, đồng thời phải được xây dựng ở
một trình độ kỹ thuật pháp lý cao, ngôn ngữ pháp lý phải chính xác, thống nhất
cách diễn đạt, rõ ràng, dễ hiểu, không chung chung, không quy định lại nội dung
đã quy định ở văn bản quy phạm pháp luật khác.
Hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT toàn diện, đồng bộ, phù hợp, và
được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao là cơ sở đảm bảo thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT được triệt để, thông suốt và hiệu quả.
2.4. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN
CHẾ CẠNH TRANH TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO
CHO VIỆT NAM
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm soát TTHCCT, các quốc gia đã ban
hành và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT như là một phương thức hữu hiệu
để bảo vệ thị trường. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật cạnh tranh ghi nhận
Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT với Đạo luật Sherman (Sherman Act) vào năm 1890 và cho tới hiện nay,
Hoa Kỳ vẫn được coi là quốc gia đi đầu trong cuộc chiến chống lại các-ten [112, tr.4].
Pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Liên minh châu Âu (EU) ra đời muộn hơn, bắt
đầu bằng sự hình thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Hiệp ước Roma 1957,
trong đó Điều 85 (sau đó là Điều 81 và hiện nay là Điều 101TFEU) quy định về kiểm
soát các TTHCCT và kể từ đó cho đến nay, EU đã có những bước tiến mạnh mẽ
trong việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, chỉ đứng sau Hoa Kỳ về thành
tích xử lý TTHCCT ngang vi phạm pháp luật [112, tr.21-22-23].
Do đó nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ
và EU là cần thiết để học hỏi kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.
63

2.4.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ


Điều 1 Đạo luật Sherman (1890) quy định rằng mọi hợp đồng, mọi sự kết
hợp dưới hình thức tổ chức kinh doanh độc quyền hoặc hình thức khác, hoặc sự
thông đồng, nhằm hạn chế buôn bán hoặc thương mại giữa các Bang khác nhau,
hoặc với nước ngoài, bị tuyên bố là bất hợp pháp. Điều 1 đã được chỉnh sửa
nhiều lần, chủ yếu là phần quy định về hình phạt theo hướng tăng nặng thêm (15
U.S.C §1) và trở thành quốc gia nghiêm khắc nhất đối với hành vi TTHCCT khi
kết hợp các biện pháp trách nhiệm dân sự với biện pháp phạt tù. Án lệ cũng là
một trong những cơ sở pháp lý quan trọng tại Hoa Kỳ.
Mục tiêu của Hoa Kỳ trong xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT là "duy trì và thúc đẩy cạnh tranh, đây là nguyên tắc cốt lõi để tổ chức
nền KTTT tự do của chúng ta" [120, tr.2]. Cơ quan thực thi pháp luật về kiểm
soát TTHCCT là Ủy ban chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp (DOJ) và Hội đồng
thương mại liên bang (FTC). DOJ ban hành ra Đạo luật Sherman và tổ chức thực
thi luật, sử dụng các thủ tục tư pháp để điều tra, xác định có hay không có vi
phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT, chọn hình phạt áp dụng và đưa vụ việc
ra truy tố tại Tòa án. FTC điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT với các thủ tục
hành chính và quyết định thông qua thảo luận tập thể. Hai cơ quan này thường
hợp tác trong quá trình thực thi pháp luật hơn là "giẫm chân lên nhau" nhưng
cũng có những vụ việc cơ quan này từ chối thụ lý nhưng cơ quan kia lại điều tra,
và vì thế các nguyên đơn có thêm lựa chọn [36, tr.659-660].
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ có những điểm nổi
bật như sau:
Thứ nhất, yêu cầu tuân thủ nghiêm pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Quan điểm của Hoa Kỳ là cấm và chống các-ten, vì thế yêu cầu tuân thủ
pháp luật rất cao. Để đảm bảo cho sự tuân thủ, pháp luật Hoa Kỳ quy định
những hình phạt nghiêm khắc, bao gồm phạt tiền, phạt tù (có thể cả hai) cùng
với bồi thường thiệt hại lên tới mức gấp ba lần số thiệt hại cho nguyên đơn kèm
khoản tiền chi phí luật sư thỏa đáng. Tuy nhiên, mức độ tuân thủ có khác nhau
cho các TTHCCT. Hoa Kỳ chia TTHCCT thành hai nhóm: 1) Nhóm TTHCCT
nghiêm trọng, đó là những thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định
64

giá, hạn chế sản lượng, thông thầu hay phân chia thị trường, được coi hiển nhiên
là hạn chế cạnh tranh và áp dụng nguyên tắc vi phạm pháp luật mặc nhiên
(nguyên tắc per-se). Đối với nhóm này, yêu cầu tuân thủ pháp luật tuyệt đối bởi
khi phát hiện có TTHCCT là cơ quan có thẩm quyền tuyên vi phạm pháp luật và
áp dụng trách nhiệm pháp lý mà không cần xem xét gì thêm. 2) Nhóm còn lại là
các TTHCCT được đánh giá tác động hợp lý (nguyên tắc rule of reason), mức
độ tuân thủ có thể ít nghiêm ngặt hơn vì sẽ được xem xét mức độ gây hại và có
lợi của thỏa thuận để xét mức độ vi phạm [89, tr.3-4].
Để việc tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT đạt hiệu quả, cả DOJ và
FTC đều khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng chương trình tuân thủ pháp
luật cho doanh nghiệp nhằm kiểm soát doanh nghiệp và nhân viên của mình, coi
đây là một trong những biện pháp cần thiết để kiểm soát TTHCCT từ gốc và tạo
điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào các chương trình khoan hồng "Các
chương trình tuân thủ giúp ngăn ngừa các công ty phạm tội từ ban đầu. Ngay cả
khi không làm được như vậy, phần thành công của chương trình tuân thủ là
cũng có thể giúp các công ty đủ điều kiện cho việc khoan hồng" [83, tr.3]. Tuy
rất khuyến khích doanh nghiệp xây dựng chương trình tuân thủ pháp luật, Hoa
Kỳ xác định việc tuân thủ pháp luật là trách nhiệm của doanh nghiệp, không coi
là yếu tố giảm nhẹ khi xử lý vụ việc TTHCCT [82, tr.7].
Áp dụng pháp luật của cơ quan thẩm quyền có tác dụng rất lớn đối với việc
tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức "Tuân thủ là đặc biệt quan trọng bởi vì
nguy cơ bị phát hiện và trừng phạt chưa bao giờ cao hơn" [83, tr.2].
Thứ hai, khuyến khích sử dụng quyền xin hưởng khoan hồng.
Chính sách khoan hồng là chính sách mà nhà nước dành quyền miễn trừ
khỏi các chế tài "cho các thành viên tham gia TTHCCT chủ động khai báo, cung
cấp tài liệu chứng cứ chứng minh sự tồn tại của TTHCCT và hợp tác với cơ quan
điều tra" [68, tr.6]. Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới có chính sách khoan
hồng cho doanh nghiệp vào năm 1978 và được sửa đổi vào năm 1993, sau đó,
vào năm 1994 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ tiếp tục ban hành chính sách khoan hồng
dành cho cá nhân (giám đốc, lãnh đạo và những người lao động trong doanh
nghiệp) tham gia TTHCCT, chính sách khoan hồng đã được sửa đổi nhiều lần để
65

khuyến khích sự chủ động khai báo, cung cấp tài liệu chứng cứ cho cơ quan điều
tra. Không chỉ doanh nghiệp mà các thành viên Ban giám đốc, nhân viên, người
làm thuê của doanh nghiệp đều có thể sử dụng quyền khoan hồng. Nếu trước kia
chỉ được quyền xin hưởng miễn trừ khi cơ quan có thẩm quyền chưa phát hiện ra
TTHCCT thì hiện nay pháp luật đã được sửa đổi rất nhiều để có thể xin miễn trừ
ngay khi DOJ đã thu thập được thông tin cho thấy sự tồn tại của TTHCCT. Từ
đó, "tỷ lệ đơn xin hưởng khoan hồng của doanh nghiệp tăng từ mức một đơn mỗi
năm theo theo quy định ban đầu lên con số xấp xỉ một đơn mỗi tháng theo quy
định mới" [58, tr.88].
Khi doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo, nhân viên, người làm thuê của doanh
nghiệp sử dụng quyền đề nghị khoan hồng, những thông tin và chứng cứ được
cung cấp đã hỗ trợ rất đắc lực cho các cơ quan cạnh tranh trong thực thi pháp
luật, đặc biệt khi tình trạng "ngầm hóa" TTHCCT đang diễn ra ngày một tinh vi
hơn "Hơn chín mươi phần trăm số tiền phạt áp dụng cho hành vi vi phạm Đạo
luật Sherman kể từ năm 1996 bắt nguồn từ các cuộc điều tra được khởi nguồn từ
đơn xin khoan hồng..." [91, tr.14]. Có thể thấy việc khuyến khích hình thức sử
dụng pháp luật này đã tác động rất nhiều đến hiệu quả áp dụng pháp luật của cơ
quan quản lý cạnh tranh Hoa Kỳ.
Thứ ba, áp dụng pháp luật với tất cả các công cụ pháp lý.
Hoa Kỳ cam kết thực thi pháp luật về kiểm soát TTHCCT với tất cả công
cụ pháp lý để đạt hiệu quả cao nhất, trong đó ba trụ cột là: Tăng các biện pháp
trừng phạt, thúc đẩy chương trình khoan hồng và khuyến khích chương trình
tuân thủ được sử dụng đồng thời.
- Tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt, đặc biệt là xử phạt tù với cá
nhân: Nguyên đơn có thể yêu cầu mức bồi thường thiệt hại lên đến gấp ba lần thiệt
hại thực tế xảy ra cùng với phí luật sư, như trong vụ việc Mitsubishi Motors Corp.
v. Soler Chrysler-Plymouth, Inc (1985), tòa án nhận định rằng "Điều khoản bồi
thường thiệt hại do nguyên đơn là một công cụ chính trong chương trình thực thi
pháp luật chống độc quyền, tạo ra một sự cản trở cần thiết cho những kẻ vi phạm
tiềm năng". Về mặt hình sự, ngoài việc phạt tiền các công ty, DOJ còn truy tố cá
nhân có lỗi với hình phạt tù ngày càng tăng, giai đoạn 2000-2010 số cá nhân bị truy
66

tố án tù hai năm đã tăng gấp đôi giai đoạn 1990-1999 [91, tr.11-12]. Hoa Kỳ cho
rằng thậm chí nếu các doanh nghiệp không e ngại khoản tiền phạt thì mối đe dọa
của án tù sẽ làm chùn chân các cá nhân, do đó việc ngăn chặn TTHCCT vẫn có thể
thành công. Việc tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt dân sự và hình sự
sẽ hỗ trợ cho nhau, tác động ngăn chặn của các biện pháp dân sự sẽ bị giảm sút rất
nhiều nếu không có sự trợ giúp của thực thi hình sự.
- Áp dụng chương trình khoan hồng với nhiều mục đích: Tại Hoa Kỳ,
chương trình khoan hồng được coi là công cụ điều tra hữu hiệu nhất của cơ quan
cạnh tranh và cũng là biện pháp ngăn ngừa các hành vi TTHCCT vi phạm pháp
luật. Trong các vụ truy tố thành công của cơ quan cạnh tranh có trên 90% được
phát hiện từ đơn xin hưởng khoan hồng và có những lợi thế điều tra đáng kể nhờ
các thông tin do người xin hưởng khoan hồng cung cấp [122]. Khi cơ quan cạnh
tranh khuyến khích và phát triển chương trình khoan hồng, những ai có ý định
tham gia vào một TTHCCT đều biết rằng một trong những người đồng mưu
hoặc những nhân viên, người lao động của họ có thể dễ dàng nộp đơn xin khoan
hồng [91, tr.15], nên chương trình khoan hồng còn tạo ra tác dụng ngăn ngừa
TTHCCT một cách hữu hiệu. Hiệu quả của chương trình khoan hồng được tăng
cường khi kết hợp với các biện pháp hình phạt nghiêm khắc bởi Hoa Kỳ cho
rằng trước nguy cơ phải chịu một hình thức xử phạt nặng trong trường hợp bị
phát hiện đã thúc đẩy các doanh nghiệp và cá nhân khai báo với cơ quan cạnh
tranh để được hưởng khoan hồng.
- Áp dụng các công cụ điều tra đa dạng: Điểm nổi bật trong điều tra các vụ
việc TTHCCT của Hoa Kỳ là pháp luật cho phép cơ quan cạnh tranh được thực
hiện quyền khám xét và thu giữ các tài liệu liên quan để tránh khả năng bị hủy tài
liệu và để xử lý các trường hợp doanh nghiệp không tuân thủ giấy triệu tập làm
việc. Các cuộc điều tra của DOJ được trợ giúp rất nhiều bằng cách ghi lại âm thanh
hoặc video của các cuộc thảo luận TTHCCT nếu được một trong các bên tham gia
thỏa thuận đồng ý và không cần xin lệnh từ tòa án; nếu có lệnh tòa, Ủy ban có thể
ghi lại các cuộc đối thoại mà không cần sự đồng ý. Ủy ban cũng được quyền quy
tội hình sự cho các cá nhân, tổ chức khai báo trái phép, sai lệch và quy tội cho các
hành vi nhằm can thiệp vào một cuộc điều tra hình sự của Ủy ban [91, tr.13].
67

Ngoài ra, cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ tích cực tuyên truyền pháp luật và công
tác thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT bằng nhiều hoạt động như phát hành
các báo cáo chi tiết về chính sách chống độc quyền của Hoa Kỳ, đại diện của cơ
quan cạnh tranh Hoa Kỳ tham gia hội thảo để giải thích về thực thi pháp luật, xuất
bản những cuốn hướng dẫn kỹ năng điều tra xử lý vụ việc dựa trên sự tổng hợp
kinh nghiệm quốc tế. Các báo cáo, tham luận đều công khai trên trang web của cơ
quan này. Với những nỗ lực trên, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT tại
Hoa Kỳ đã đạt được nhiều thành tựu, trong giai đoạn 10 năm từ 2007 đến 2016, Bộ
Tư pháp Hoa Kỳ đã truy tố 575 doanh nghiệp và 199 cá nhân ra tòa vì tham gia
TTHCCT vi phạm pháp luật. Số tiền phạt năm 2015 cao tới mức kỷ lục là 3,5 tỷ đô
la và năm 2016 là 399 triệu đô la Mỹ. Mức phạt tù trung bình đối với cá nhân vi
phạm trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây dao động từ 1 đến 2 năm [124].
2.4.2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
của Liên minh Châu Âu
Mục tiêu hàng đầu của pháp luật về kiểm soát TTHCCT EU là đảm bảo tự
do thương mại, đảm bảo cạnh tranh trên toàn khu vực thị trường chung không bị
hạn chế, bóp méo. Cơ quan thực thi pháp luật kiểm soát TTHCCT của EU là Ủy
ban châu Âu, "hệ thống thực thi của EU là một hệ thống hành chính, được xây
dựng dựa trên các biện pháp trừng phạt tài chính đối với các doanh nghiệp chứ
không phải (trừng phạt) cá nhân" [80, tr.2]. Mối liên hệ giữa Ủy ban Châu Âu và
các cơ quan cạnh tranh ở các nước thành viên dựa trên nguyên tắc: Cả Ủy ban và
các quốc gia thành viên có thể phạt các doanh nghiệp, nhưng các quốc gia thành
viên vẫn được tự do thiết lập các biện pháp trừng phạt khác để chống lại hành vi
hạn chế cạnh tranh.
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU có một số đặc điểm nổi
bật như sau:
Thứ nhất, yêu cầu cao về tuân thủ pháp luật.
Điều 85 Hiệp ước Rome 1957, nay là Điều 101 TFEU cấm tất cả các thỏa
thuận giữa các bên, các quyết định của hiệp hội và các hành động phối hợp gây
ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục tiêu hoặc hiệu
ứng ngăn chặn, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh trên thị trường nội khối.
68

Doanh nghiệp phải tuân thủ tuyệt đối, không được tham gia vào những
TTHCCT "có mục đích là gây hạn chế cạnh tranh" như thỏa thuận ấn định giá,
thỏa thuận kiểm soát hoặc hạn chế sản lượng, thỏa thuận phân chia thị trường và
thông thầu bởi vì một khi Ủy ban xác định thỏa thuận có mục đích là gây hạn
chế cạnh tranh sẽ coi đó là vi phạm pháp luật mà không cần thiết phải xem xét
tác động thực tế hoặc tiềm năng của thỏa thuận đó trên thị trường [87] Đối với
các TTHCCT còn lại, mức độ tuân thủ của doanh nghiệp có thể bớt nghiêm ngặt
hơn vì có thể đó là những thỏa thuận "có tác dụng gây hạn chế cạnh tranh" [87],
Ủy ban có thể cân nhắc giữa mức độ có lợi và gây hại của thỏa thuận để xác định
biện pháp xử lý, thậm chí có thể được hưởng ngoại lệ hợp pháp theo Khoản 3
của Điều 101 TFEU.
EU cho rằng tuân thủ pháp luật có vai trò quan trọng, ngày càng nhiều
doanh nghiệp thiết lập và thực hiện chương trình tuân thủ như một phần của một
chiến lược có ý thức để hạn chế nguy cơ vi phạm, về phía doanh nghiệp cũng
nhận thấy rằng các cơ quan công quyền "ở vị trí lý tưởng" để khuyến khích và
tạo điều kiện tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp... và điều này có lợi cho cả
doanh nghiệp và cơ quan công quyền [80, tr.6]. Tuy cơ quan cạnh tranh không
giảm tiền phạt cho các doanh nghiệp có chương trình tuân thủ, nhưng việc tuân
thủ pháp luật luôn đem lại lợi ích, đó là có thể giúp doanh nghiệp tránh được
việc tham gia vào một TTHCCT, hoặc giúp phát hiện ra một TTHCCT sớm và
do đó có thể xin khoan hồng. EU cho rằng đây là một động lực rất mạnh mẽ để
doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.
Thứ hai, sử dụng rộng rãi quyền miễn trừ trong chính sách khoan hồng và
lựa chọn điều đình.
Doanh nghiệp được quyền xin hưởng miễn trừ khi tố cáo với Ủy ban và cung
cấp bằng chứng về việc tham gia TTHCCT. Để có được toàn bộ quyền miễn trừ
theo chính sách khoan hồng, doanh nghiệp phải là người đầu tiên thông báo cho Ủy
ban về TTHCCT và cung cấp đầy đủ thông tin để Ủy ban có thể khởi động điều tra
vụ việc TTHCCT, nếu vụ việc đã bị Ủy ban phát giác, doanh nghiệp phải cung cấp
bằng chứng để Ủy ban chứng minh được TTHCCT vi phạm pháp luật đồng thời
chấm dứt ngay vi phạm và hợp tác đầy đủ với Ủy ban trong suốt quá trình giải
69

quyết vụ việc. Nếu không phải là doanh nghiệp đầu tiên tố giác, doanh nghiệp vẫn
có thể sử dụng quyền xin miễn trừ một phần bằng cách cung cấp các bằng chứng có
giá trị cho Ủy ban và chấm dứt sự tham gia vào TTHCCT. Sử dụng quyền miễn trừ
trong chính sách khoan hồng hay không là quyền của doanh nghiệp, tuy nhiên khi
doanh nghiệp lựa chọn quyền này đã đem lại nhiều lợi ích: Doanh nghiệp được
miễn giảm tiền phạt, công tác thực thi pháp luật của Ủy ban thuận lợi do có công cụ
để khám phá ra các TTHCCT ngầm, đồng thời cũng hạn chế việc hình thành các
TTHCCT vì gây nghi ngờ giữa các bên tham gia thỏa thuận.
Trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, doanh nghiệp
có thể sử dụng điều đình - một quyền rất đặc biệt trong thủ tục tố tụng, đó là khi
Ủy ban đã kết thúc giai đoạn điều tra ban đầu và quyết định xử lý vụ việc
TTHCCT, doanh nghiệp tham gia thỏa thuận đề nghị điều đình, theo đó doanh
nghiệp thừa nhận sự tham gia của mình vào TTHCCT trước khi Ủy ban kết luận
vụ việc, kết quả là thủ tục nhanh hơn và doanh nghiệp được giảm đến 10% số
tiền phạt. Sử dụng quyền này cũng giúp cho việc áp dụng pháp luật của Ủy ban
nhanh hơn, hợp lý hơn và phân bổ các nguồn lực cho các trường hợp khác.
Thứ ba, phối hợp áp dụng pháp luật về tiền phạt với áp dụng chính sách
khoan hồng để tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật.
Trừng phạt tài chính với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật gồm tiền phạt
và tiền bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân. Việc bồi thường thiệt hại được
dựa trên nguyên tắc bồi thường đầy đủ, đã được thừa nhận trong luật pháp và
được thực hiện theo thủ tục dân sự tại Tòa án. Kể từ năm 2006, EU áp dụng mức
tiền phạt dựa trên tính toán một số yếu tố: giá trị doanh thu có liên quan liên
quan đến hành vi vi phạm, và mức độ nghiêm trọng và thời gian vi phạm, và từ
đó mức phạt đã tăng lên nhiều. Tuy nghiêm khắc, nhưng nếu mức phạt tiền cao
đến mức doanh nghiệp phải phá sản, các doanh nghiệp có thể xin giảm tiền phạt,
như trong vụ việc thỏa thuận ấn định giá bị phạt tổng cộng 86 triệu euro (Case
COMP/39.452 - Mountings for windows and window doors), Ủy ban đã giảm
45% tiền phạt cho một công ty.
Quan điểm của EU là không phải là mức phạt quá lớn hay quá nhỏ, mà
quan trọng là khả năng ngăn chặn hành vi vi phạm của hình phạt. Tuy nhiên EU
70

cũng nhận thấy chỉ áp dụng phạt tiền không đủ sức ngăn chặn, minh chứng là
trong mười vụ việc TTHCCT, sau đó đã có mười lăm doanh nghiệp tái phạm,
một số doanh nghiệp phạm tội lần thứ ba, thậm chí có doanh nghiệp lần thứ bốn
[80, tr.4], do đó áp dụng phạt tiền chỉ đặc biệt hiệu quả khi kết hợp với chương
trình khoan hồng.
Ủy ban Châu Âu đã áp dụng chính sách khoan hồng kể từ năm 1996, chính
sách được điều chỉnh năm 2002 và 2006, theo đó doanh nghiệp đầu tiên báo cáo
Ủy ban về TTHCCT có thể nhận được miễn trừ hoàn toàn, những doanh nghiệp
sau có thể được giảm đến 50% tiền phạt, tùy thuộc vào thứ tự mà họ báo cáo về
Ủy ban. Kết quả kể từ khi sửa đổi chương trình khoan hồng năm 2002, EU đã có
tổng cộng 291 đơn xin miễn trừ và 278 đơn xin giảm tiền phạt, trung bình, Ủy
ban nhận được hai đơn xin miễn trừ và hai đơn xin khoan hồng mỗi tháng [80,
tr.5]. Theo quan điểm của EU, bản thân việc phạt tiền, dù ở mức cao vẫn không
đủ sức ngăn chặn nếu doanh nghiệp vẫn tin rằng mình đủ sức che dấu vi phạm,
khi kết hợp với chính sách khoan hồng, niềm tin này không còn nữa, vì thế có đủ
khả năng ngăn chặn hành vi vi phạm.
Kể từ khi ra quyết định đầu tiên vào năm 1969, cho đến nay Ủy ban châu
Âu đã phạt 820 doanh nghiệp với hơn 19 tỷ euro tiền phạt [80, tr.3]. EU nhận
định rằng Ủy ban, các quốc gia thành viên và các doanh nghiệp đều đóng vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại các-ten, mỗi chủ thể có vai trò khác
nhau nhưng các hình thức thực hiện pháp luật về tuân thủ, điều đình, khoan hồng và
áp dụng hình phạt có tác dụng tương tác lẫn nhau, là những nền tảng tạo nên thành
công trong việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU hiện nay.
2.4.3. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ và EU tuy thuộc
hai hệ thống khác nhau nhưng cùng một đích đến đó là kiểm soát TTHCCT để
bảo vệ môi trường cạnh tranh và cả hai đều đạt được những thành tựu to lớn. Từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho việc thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam như sau:
- Cả Hoa Kỳ và EU đều sử dụng "phương pháp cây gậy - củ cà rốt", song
song với các biện pháp chế tài là chương trình khoan hồng và điều đình (EU)
71

hoặc thương lượng miễn tố (Hoa Kỳ). Phương pháp này tạo điều kiện cho doanh
nghiệp được sử dụng quyền có lợi cho mình và chính là cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác áp dụng pháp luật của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Kinh nghiệm này có thể áp dụng ở Việt Nam. Chế tài theo pháp luật về
kiểm soát TTHCCT của Việt Nam đã đủ mạnh, chỉ cần xây dựng chương trình
khoan hồng tốt nhằm khuyến khích các bên tham gia tự mình phá vỡ TTHCCT
cũng như chủ động phối hợp với cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra giải
quyết vụ việc. Nghiên cứu kinh nghiệm này rất cần khi mà các TTHCCT ngầm,
TTHCCT xuyên biên giới đang ngày một phổ biến đe dọa nền KTTT non trẻ và
thách thức cơ quan cạnh tranh còn mới mẻ của Việt Nam.
- Trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tuân thủ nghiêm pháp
luật là rất cần thiết vì hạn chế vi phạm pháp luật ở ngay bước đầu tiên. Cả EU và
Hoa Kỳ đều khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng chương trình tuân thủ
dành cho các lãnh đạo, nhân viên và cả người làm công của mình. Việt Nam có
thể khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và vận hành chương trình tuân thủ
pháp luật về kiểm soát TTHCCT trước hết là vì lợi ích của chính mình. Kinh
nghiệm cho thấy động lực để doanh nghiệp xây dựng và vận hành chương trình
tuân thủ pháp luật chính là việc áp dụng pháp luật nghiêm minh, doanh nghiệp
nhận thức được rằng mọi hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật đều sẽ bị xử lý và
xử lý nghiêm.
- Hoa Kỳ và EU đều cho rằng cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đủ
để trừng phạt và ngăn ngừa, và thực tiễn đã áp dụng những hình phạt nặng đối
với các doanh nghiệp vi phạm. Ngoài thiệt hại là khoản tiền phạt, doanh nghiệp
còn phải chi trả khoản bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân của TTHCCT và
khoản này có thể lên đến mức gấp ba lần của thiệt hại thực tế đã xảy ra, áp dụng
bồi thường thiệt hại trở thành một công cụ chính trong kiểm soát TTHCCT, vì
thế có thể mang lại tác dụng ngăn chặn những vi phạm tiềm năng.
Kinh nghiệm cho thấy bên cạnh những quy định chung về bồi thường thiệt
hại dân sự, Việt Nam cần có những quy định bồi thường thiệt đặc biệt cho các vụ
việc TTHCCT để tăng tác dụng trừng phạt. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định
biện pháp trách nhiệm hình sự cho hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật, cần đẩy
72

mạnh áp dụng kinh nghiệm của Hoa Kỳ bởi vì: 1) Phạt tù cho cá nhân có tác
động không cần bàn cãi bởi án phạt tù thì người bị kết án phải trực tiếp chịu
"miễn là bạn chỉ nói về tiền, công ty có thể chăm sóc tôi sau... Nhưng một khi
bạn bắt đầu nói về việc lấy đi tự do của tôi, không có gì công ty có thể làm cho tôi"
[91, tr.6]; 2) Áp dụng trách nhiệm hình sự cho doanh nghiệp mang lại hiệu quả theo
nhiều cách riêng biệt: Thứ nhất, trách nhiệm hình sự cho doanh nghiệp có thể làm
"ô danh" doanh nghiệp, Thứ hai, nó hỗ trợ với bồi thường thiệt hại dân sự để tăng
tác dụng ngăn ngừa, Thứ ba, trách nhiệm hình sự tác động đến người tham gia
TTHCCT để họ tố cáo những người đồng mưu nhằm hưởng khoan hồng.
- Trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần kết hợp các hình thức
thực hiện pháp luật bởi mỗi hình thức thực hiện pháp luật đều tương tác với những
hình thức khác, kinh nghiệm cho thấy để đạt hiệu quả cao trong thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT cần phát huy vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội kết hợp với
nỗ lực của cơ quan cạnh tranh. Qua chương trình tuân thủ pháp luật của EU và Hoa
Kỳ hay qua việc sử dụng quyền đề nghị khoan hồng, điều đình của doanh nghiệp
đều cho thấy sự tương tác giữa các hình thức thực hiện pháp luật của các chủ thể
khác nhau. Việt Nam cần học tập kinh nghiệm này để xây dựng một chiến lược
đồng bộ bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT không chỉ từ sự nỗ lực
của cơ quan cạnh tranh mà còn là phát huy vai trò của doanh nghiệp, của hiệp hội,
của người tiêu dùng trong xã hội.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 của Luận án có tiêu đề: Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về
kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Phù hợp với tiêu đề trên, tại Chương 2 đã sử dụng các Lý thuyết của kinh tế học
và luật học để nghiên cứu và xây dựng khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật
về kiểm soát TTHCCT. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT thể hiện những điểm đặc thù của lĩnh vực kiểm soát TTHCCT trên nền
tảng chung của thực hiện pháp luật. Từ cơ sở kinh tế - pháp lý của pháp luật về
kiểm soát TTHCCT, luận án cũng đã xác định cơ cấu và những nội dung điều
chỉnh mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần phải có. Bốn hình thức thực hiện
pháp luật về kiểm soát TTHCCT là tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và áp
73

dụng pháp luật cũng được nghiên cứu và phân tích trên nền tảng lý luận nhà
nước và pháp luật về thực hiện pháp luật.
Các Lý thuyết của kinh tế học và luật học cũng được sử dụng để luận thuyết về
mục tiêu và vai trò kiểm soát của nhà nước đối với TTHCCT là nhằm bảo vệ cạnh
tranh tự do và bình đẳng theo pháp luật để thiết lập môi trường kinh doanh lành mạnh
trong nền KTTT, từ đó mới bảo vệ được lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu cùng và
lợi ích xã hội. Đó là cơ sở, là yêu cầu để nhà nước cần phải xây dựng pháp luật với
các nội dung điều chỉnh phù hợp với bản chất và cơ chế vận hành của một TTHCCT,
chú trọng những bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong thực hiện pháp
luật về kiểm soát TTHCCT để phát huy thuận lợi, khắc phục rào cản nhằm phát huy
vai trò của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thực tiễn xây dựng nền
KTTT định hướng XHCN Việt Nam.
Chương 2 của luận án cũng đã nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, chọn lọc những kinh nghiệm nổi bật
đó là xây dựng chương trình khoan hồng, thiết lập chương trình tuân thủ pháp luật
tại doanh nghiệp, áp dụng chế tài nghiêm minh và kết hợp nhiều phương pháp cách
thức thực hiện pháp luật, qua phân tích cho thấy những ưu điểm nổi bật và khả năng
hoàn toàn có thể áp dụng tại Việt Nam.
Những nội dung lý luận mà chương 2 nghiên cứu là cơ sở để đánh giá khách
quan, toàn diện thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT tại Việt Nam tại Chương 3, cũng là cơ sở cho việc đề xuất và luận
chứng các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được
trình bày ở Chương 4 của luận án.
74

Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN
CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Quá trình hình thành, phát triển pháp luật về kiểm soát thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh
Trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam ra đời
khá muộn. Văn bản luật đầu tiên trực tiếp ghi nhận và bảo vệ quyền tự do cạnh
tranh là Luật Thương mại năm 1997, tuy nhiên Luật Thương mại 1997 chỉ điều
chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như bán phá giá, đầu cơ, gièm
pha thương nhân khác... Luật Các tổ chức tín dụng 1997 cũng ghi nhận "Các tổ
chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp" tại Điều 16
nhưng tương tự như Luật Thương mại 1997, các hành vi luật nghiêm cấm cũng
là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thời điểm này việc kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh vẫn còn hoàn toàn xa lạ với pháp luật Việt Nam.
Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH có thể được xem là văn bản quy
phạm pháp luật đầu tiên quy định về kiểm soát TTHCCT khi cấm các tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh "Cấu kết với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
khác để liên kết độc quyền về giá, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước"
(Điều 28, Khoản 1). Đây là các hành vi thỏa thuận ấn định giá sau này đã được
Luật Cạnh tranh 2004 điều chỉnh, tuy nhiên, chỉ một điều khoản nhỏ trong Pháp
lệnh Giá chưa đủ hình thành chế định pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội, cũng là
từ yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về KTTT nhằm gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), đến năm 2003 Chính phủ chính thức giao Bộ Thương mại
chủ trì xây dựng Dự thảo Luật Cạnh tranh và ngày 03/12/2004 Quốc hội khóa XI
đã thông qua Luật Cạnh tranh 2004. Đây là văn bản luật chính thức và đầy đủ
75

nhất về pháp luật cạnh tranh, gồm cả luật nội dung và luật hình thức, điều chỉnh
hai loại hành vi: Cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh. Với sự ra
đời của Luật Cạnh tranh 2004, pháp luật về kiểm soát TTHCCT được hình thành
tương đối đầy đủ, có vị trí là luật chung. Bên cạnh đó, các văn bản luật khác như
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Đấu thầu, Luật Giá, Luật Chứng khoán… có quy định
về kiểm soát TTHCCT trong lĩnh vực mà mình điều chỉnh được coi là luật
chuyên ngành.
Năm 2015, với tinh thần cần phải quy định là tội phạm đối với những hành
vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) đã bổ sung
một điều luật mới "Tội vi phạm các quy định về cạnh tranh" với quy định hình
phạt chính là phạt tiền và phạt tù, mức phạt tiền có thể lên tới 3 tỷ đồng, mức
phạt tù có thể lên tới 05 năm cùng với các hình phạt bổ sung cho những chủ thể
trực tiếp tham gia hoặc thực hiện các hành vi TTHCCT bị cấm (Điều 217). Bộ
luật Hình sự 2015 có hiệu lực thi hành đánh dấu mốc lần đầu tiên Việt Nam áp
dụng biện pháp hình sự cho hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo
kiểm soát TTHCCT.
Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam thời gian qua đã có nhiều thay đổi,
đặc biệt khi hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế thế giới. Tình hình đó đã
khiến một số nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp. Do vậy, Quốc
hội khóa XIV đã quyết định sửa đổi Luật Cạnh tranh 2004, tại kỳ họp thứ 5 Dự
thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) đã được thông qua và sẽ có hiệu lực từ 01/7/2019
với nhiều nội dung liên quan đến kiểm soát TTHCCT, đưa pháp luật về kiểm
soát TTHCCT đến những bước phát triển mới.
3.1.2. Những thành tựu của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Thứ nhất, sự hình thành pháp luật về kiểm soát TTHCCT đánh dấu lần đầu
tiên Việt Nam có được một hệ thống pháp luật tương đối toàn diện gồm cả luật
nội dung và luật hình thức về kiểm soát TTHCCT. Vị thế pháp lý của Việt Nam
trong lĩnh vực này là khá cao so với các nước trong khu vực ASEAN, chỉ sau
76

Thái Lan, Indonesia (năm 1999) và cùng thời điểm với Singapore. Pháp luật về
kiểm soát TTHCCT của Việt Nam đã thể hiện được tinh thần bảo vệ cạnh tranh
tự do và công bằng, về cơ bản tương đồng với pháp luật cạnh tranh của nhiều
quốc gia trên thế giới, đáp ứng phần nào yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật về kiểm soát TTHCCT được xây dựng theo cấu trúc quy
định hành vi/cấm/miễn trừ. Quy định về xử lý vi phạm và quy định về trình tự,
thủ tục điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT được thiết kế ở một chương riêng
(chương V Điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh ở Luật Cạnh tranh 2004). Đây là
một cấu trúc hợp lý, chặt chẽ, tạo điều kiện tiếp cận nội dung của pháp luật một
cách dễ dàng.
Thứ ba, pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã điều chỉnh tương đối đầy đủ
các quan hệ phát sinh từ hành vi TTHCCT:
- Xác định được các hành vi TTHCCT và bản chất của TTHCCT. Khoản 3,
Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 đã giải thích rõ ràng về "hành vi hạn chế cạnh
tranh", là hành vi của doanh nghiệp "làm giảm, làm sai lệch, cản trở cạnh tranh
trên thị trường". Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng
đã định hình về một loại hành vi mới mà trước đó chưa từng được điều chỉnh, về
cơ bản đã xác định được những TTHCCT cần kiểm soát trên thị trường.
- Đã xây dựng "khung pháp lý" cơ bản về kiểm soát TTHCCT, bao gồm:
Các quy định kiểm soát TTHCCT theo hai nhóm bị cấm tuyệt đối và bị cấm có
điều kiện; quy định về xử lý vi phạm với các biện pháp xử lý đa dạng như cảnh
cáo, phạt tiền, phạt bổ sung, cùng các biện pháp khắc phục hậu quả và các tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng; các quy định về miễn trừ. Có thể thấy, khung pháp lý
này bước đầu đáp ứng yêu cầu kiểm soát TTHCCT. Trên thực tế cơ quan quản lý
cạnh tranh cũng đã áp dụng để xử lý hai vụ việc TTHCCT vào năm 2010 và năm
2013 và đánh giá các quy định pháp luật về kiểm soát hành vi TTHCCT, các quy
định về xử lý vi phạm, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc "được thực thi
khá hiệu quả" [15, tr.30].
Thứ tư, pháp luật cạnh tranh đã tạo cơ sở pháp lý để xây dựng và tổ chức
hoạt động đối với các cơ quan thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là Hội
77

đồng cạnh tranh và Cục CT&BVNTD. Trên thực tế, hoạt động của các cơ quan
này đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận.
3.1.3. Những hạn chế của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã và
đang bộc lộ những hạn chế nhất định.
Một là, các quy định về hành vi TTHCCT hiện nay vẫn chưa đầy đủ, và
chưa bao quát hết các dạng thức TTHCCT trong thực tiễn. Xác định một
TTHCCT cần phải có ít nhất hai yếu tố, một là "thỏa thuận", hai là "hạn chế cạnh
tranh". Pháp luật hiện hành đã làm rõ về "hạn chế cạnh tranh" tại Khoản 3 Điều 3
Luật Cạnh tranh 2004 nhưng yếu tố "thỏa thuận" đã bị bỏ sót. Bên cạnh đó, pháp
luật hiện hành quy định theo kiểu liệt kê cụ thể các loại TTHCCT đã làm thu hẹp
phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Cách xây dựng quy định về hành vi TTHCCT
cứng nhắc và hẹp của pháp luật Việt Nam hoàn toàn không theo kịp thực tiễn, có
thể bỏ sót những TTHCCT gây tác dụng tiêu cực, cũng như gây khó khăn cho cơ
quan thực thi pháp luật khi nhận thấy có biểu hiện TTHCCT nhưng không có
công cụ pháp lý để điều tra và xử lý vi phạm.
Hai là, các quy định về cấm TTHCCT còn nhiều hạn chế, quy định về
nhóm TTHCCT bị cấm có điều kiện sử dụng thị phần là cơ sở duy nhất để xác
định điều kiện cấm chưa hợp lý, quy định về nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối
bất cập và không tương thích với pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới.
Pháp luật kiểm soát TTHCCT của Việt Nam chia thành hai nhóm: Nhóm
TTHCCT bị cấm tuyệt đối và nhóm TTHCCT bị cấm có điều kiện. Quy định
như vậy là phù hợp, bởi lẽ tuy cùng là TTHCCT nhưng mức độ tác động hạn chế
cạnh tranh là khác nhau.
Những TTHCCT bị cấm tuyệt đối là những thỏa thuận mang bản chất hạn
chế cạnh tranh, thường áp dụng với các TTHCCT nghiêm trọng như thỏa thuận
ấn định giá hàng hóa một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thỏa thuận hạn chế hoặc
kiểm soát sản lượng, thỏa thuận phân chia thị trường, khu vực, khách hàng và
thông đồng đấu thầu [15, tr.13]. Trong các TTHCCT thuộc nhóm bị cấm tuyệt
78

đối theo Luật Cạnh tranh 2004 không có thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn
chế sản lượng hoặc hạn ngạch, thỏa thuận phân chia thị trường. Thay vào đó,
thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh và thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh
nghiệp, không phải là các bên của thỏa thuận được xem là TTHCCT nghiêm
trọng. Trong điều kiện riêng của nền KTTT Việt Nam, những thỏa thuận ngăn
cản, kìm hãm, loại bỏ mang lại tác hại nghiêm trọng nên cần cấm tuyệt đối,
nhưng cũng cần xem xét đánh giá những TTHCCT mà nhiều quốc gia xếp vào
nhóm TTHCCT nghiêm trọng, chẳng hạn thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh
về giá là một trong những TTHCCT nghiêm trọng "Sở dĩ như vậy vì giá cả là
một trong những yếu tố cơ bản của thị trường" [38, tr.55], ngoài gây tác hại
nghiêm trọng cho nền kinh tế còn tác hại lớn đến người tiêu dùng "Hoa Kỳ cho
rằng giá đã tăng lên đến 60 -70% do thỏa thuận ấn định giá" [115, tr.25]. Nếu
không cấm tuyệt đối với những TTHCCT này, pháp luật về kiểm soát TTHCCT
Việt Nam sẽ thiếu tương đồng với thế giới, gây bất cập trong thực thi đối với
những thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn chế sản lượng hoặc hạn ngạch,
thỏa thuận phân chia thị trường xuyên biên giới hiện đang rất phổ biến.
Đối với nhóm bị cấm có điều kiện, Luật Cạnh tranh 2004 quy định điều
kiện để xem xét duy nhất là mức thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ
30% trở lên của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, trong khi nhiều quốc
gia khác xem xét trên cơ sở đánh giá, cân nhắc giữa các tác động tích cực và tiêu
cực của hành vi. Lý thuyết kinh tế đã xác định rằng tác hại của một TTHCCT
phụ thuộc vào sức mạnh thị trường của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
[38, tr.224]. Sức mạnh thị trường được xác định dựa trên nhiều yếu tố như cấu
trúc thị trường, thị phần, tỷ lệ tập trung, rào cản gia nhập thị trường... trong đó
mức thị phần kết hợp trên thị trường liên quan chỉ là một trong những yếu tố
phản ánh khả năng chi phối thị trường của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận, không đánh giá hoàn toàn được khả năng gây hạn chế cạnh tranh. Ngoài
ra, trong nền kinh tế, mỗi một ngành lại có đặc điểm thị trường riêng, có thể có
những thị trường mà ngưỡng thị phần kết hợp tới 30% vẫn chưa đủ tạo hệ quả
79

tác động đến thị trường. Do đó, chỉ sử dụng thị phần là cơ sở duy nhất và quy
định chung về một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các
ngành nghề, lĩnh vực là bất cập của pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.
Ba là, quy định về xử lý vi phạm pháp luật chưa phân định rõ hình thức xử
lý đối với từng nhóm TTHCCT bị cấm, căn cứ để xác định mức phạt chưa chính
xác và những quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chưa đầy đủ.
Mặc dù pháp luật quy định hai nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối và bị cấm
có điều kiện nhưng lại quy định cùng các hình thức xử lý khi vi phạm pháp luật.
Hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, trong đó phạt tiền được xác định theo
mức "đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi
vi phạm" đối với từng doanh nghiệp tham gia TTHCCT.
Tuy nhiên, pháp luật chỉ quy định về tổng doanh thu một cách chung chung
chứ không quy định rõ tổng doanh thu để xác định mức phạt phải là doanh thu
trên thị trường liên quan, trong khi "một trong những ý nghĩa quan trọng của
việc xác định thị trường liên quan là nhằm xác định mức độ, phạm vi tác động,
gây hạn chế cạnh tranh của hành vi thỏa thuận" [15, tr.42].
Các quy định về xử lý vi phạm đối với TTHCCT quy định mức phạt tiền tối
đa đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm, nhưng lại không quy định về mức phạt tiền tối thiểu.
Tuy có quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng nhưng pháp luật
chưa có quy định về giảm nhẹ cho những người vô tình tham gia hoặc những
người đã ngưng ngay hành vi TTHCCT khi cơ quan quản lý cạnh tranh can thiệp
cũng như chưa có tình tiết tăng nặng cho những người khởi xướng, những người
tổ chức, những người đóng vai trò chủ chốt trong một TTHCCT.
Bốn là, các quy định về miễn trừ thiếu bao quát, cách tiếp cận về các điều
kiện miễn trừ còn đơn giản chưa thực sự đi vào bản chất của TTHCCT.
Luật Cạnh tranh 2004 qui định chỉ áp dụng miễn trừ đối với các TTHCCT
bị cấm có điều kiện. Trường hợp được xem xét miễn trừ có thời hạn phải đáp
ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu
dùng: hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
80

doanh; thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch
vụ; thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm; thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng,
thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; tăng cường sức
cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa và tăng cường sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Như vậy, quy định để được miễn trừ
bao gồm hai điều kiện: 1) Phải đáp ứng một trong sáu điều kiện cụ thể luật định,
2) Phải đạt được mục đích cuối cùng là hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng.
Quy định về miễn trừ được xây dựng theo phương thức liệt kê nên có kết cấu
khép kín. Ưu điểm của liệt kê là cụ thể, rõ ràng nhưng nhược điểm chính là khả
năng bỏ sót những trường hợp TTHCCT có thể "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu
dùng" nhưng không chứng minh được là thuộc một trong sáu điều kiện xác định
trên. Luật Cạnh tranh 2018 (sửa đổi) vẫn tiếp tục theo phương thức liệt kê này.
Về tiêu chí, "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng" là các tiêu chí tích
cực, nhưng tích cực đến mức nào đi nữa cũng không bù lại được tác hại của một
TTHCCT có thể gây ra, bởi bản chất của TTHCCT là luôn làm hạn chế cạnh
tranh trên thị trường, khi đó hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng chỉ là lợi
ích ngắn hạn, về lâu dài khi thị trường bị hạn chế cạnh tranh thì chính người tiêu
dùng sẽ phải chịu tác hại từ giá độc quyền. Pháp luật cạnh tranh của Liên minh
Châu Âu (EU) về miễn trừ cũng đề cao yếu tố "chia sẻ lợi ích cho người tiêu
dùng", nhưng đó chỉ là "điều kiện cần", để được hưởng miễn trừ phải kèm theo
"điều kiện đủ", đó là những điều khoản về hạn chế trong thỏa thuận phải là
những điều khoản cần thiết, không thể thiếu được để đạt được những hiệu quả
tích cực trên và thỏa thuận phải không loại bỏ cạnh tranh trên thị trường liên
quan [64, tr.48]. Kinh nghiệm của EU có thể là bài học để Việt Nam tham khảo
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về miễn trừ đối với TTHCCT.
Năm là, một số nội dung quan trọng chưa được pháp luật điều chỉnh, dẫn
đến pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam thiếu hoàn thiện. Cụ thể như sau:
- Chính sách khoan hồng là nội dung phổ biến trong pháp luật về kiểm soát
TTHCCT của nhiều nước, được sử dụng như một công cụ quan trọng trong cuộc
81

chiến chống các-ten, nhưng vắng bóng ở Việt Nam. Luật Cạnh tranh 2018 (sửa
đổi) đã khắc phục thiếu sót này, nhưng Luật chưa có hiệu lực thi hành.
- Thiếu các quy định về trách nhiệm pháp lý cho các cá nhân là quản lý,
lãnh đạo doanh nghiệp tham gia TTHCCT và trách nhiệm pháp lý cho hiệp hội.
Theo quy định tại Luật Cạnh tranh 2004, đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật
về kiểm soát TTHCCT là các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất,
cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành,
lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt
Nam. Tuy Bộ luật Hình sự đã quy định hình phạt cho cá nhân tham gia TTHCCT vi
phạm nhưng pháp luật cạnh tranh chưa cụ thể hóa về biện pháp xử phạt dành riêng
cho lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp để có tác dụng ngăn chặn cao hơn.
Luật Cạnh tranh 2004 quy định hiệp hội ngành nghề bao gồm hiệp hội
ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp, là đối tượng áp dụng của Luật, tuy nhiên
hiện quy định về xử lý vi phạm đối với TTHCCT chưa xem xét chế tài đối với
đối tượng hiệp hội ngành nghề. Bộ luật Hình sự 2015 cũng chỉ áp dụng cho đối
tượng cá nhân và pháp nhân thương mại. Do đó, chủ thể đặc biệt hiệp hội đã bị
bỏ sót trong các quy định về chế tài của pháp luật về kiểm soát TTHCCT.
- Quy định về bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT quá chung
chung, không đủ cơ sở pháp lý để thực hiện.
Tại Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 về các hình thức xử phạt vi phạm pháp
luật về cạnh tranh và các biện pháp khắc phục hậu quả có quy định rằng "Tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải
bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật" và Nghị định số 71/2014/NĐ-
CP cũng quy định việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các quy định của
pháp luật về dân sự. Tuy nhiên bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT có
điểm khác biệt so với bồi thường thiệt hại của pháp luật dân sự, đó là bồi thường
thiệt hại không phải cho các bên tham gia thỏa thuận, mà cho bên thứ ba bị thiệt
hại, có thể là người tiêu dùng, các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận,
khách hàng và thậm chí là nhà nước; xác định thiệt hại để yêu cầu bồi thường
82

trong vụ việc TTHCCT rất khó vì đòi hỏi phải có phân tích thực tế và kinh tế
phức tạp... nên nếu chỉ trên cơ sở các quy định của pháp luật về dân sự thì không
đủ để có thể áp dụng bồi thường thiệt hại trong thực tế, hay nói cách khác, hiện
đang thiếu một quy định về bồi thường thiệt hại mang tính "chuyên ngành" khi
áp dụng bồi trường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT.
Tóm lại, pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam chỉ mới hình thành
và phát triển trong hơn một thập kỷ qua, nhưng đã có được những kết quả bước
đầu trong việc tạo dựng hành lang pháp lý để góp phần bảo vệ môi trường cạnh
tranh công bằng, lành mạnh, bảo vệ quyền cạnh tranh tự do bình đẳng, quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể hoạt động trên thị trường. Những phân tích về
các hạn chế, bất cập sẽ là cơ sở để góp phần hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
TTHCCT Việt Nam. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là quá trình
đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn. Những thành tựu, những hạn
chế của pháp luật về kiểm soát TTHCCT như trên đều có những tác động tích
cực và tiêu cực đến thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt
Tải bản FULL (182 trang): https://bit.ly/3hfzpwm
Nam hiện nay. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA
THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được đánh giá thông
qua việc thực hiện các nội dung pháp luật với các hình thức thực hiện đa dạng như
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
3.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
3.2.1.1. Thực trạng triển khai thực hiện các quy định về hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
- Về phía cơ quan quản lý cạnh tranh:
Kể từ khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành, cơ quan quản lý cạnh
tranh đã có nhiều nỗ lực để đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT đi vào thực tiễn
và tăng cường sự tiếp cận của cộng đồng và doanh nghiệp với các quy định về
hành vi TTHCCT và những TTHCCT bị cấm. Chính các chủ thể kinh doanh
83

"cũng đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan thực thi pháp luật về cạnh tranh, mà
cụ thể là Bộ Công Thương và Cục CT&BVNTD, trong việc đưa các quy định
luật vào đời sống doanh nghiệp" [50, tr.43].
+ Trong bối cảnh pháp luật về kiểm soát TTHCCT là lĩnh vực hoàn toàn
mới mẻ ở Việt Nam, cơ quan quản lý cạnh tranh đã đặc biệt chú trọng đến công
tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nhằm tăng cường sự tiếp cận của cộng đồng
Tải bản FULL (182 trang): https://bit.ly/3hfzpwm
và doanh nghiệp. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Cơ quan quản lý cạnh tranh đã phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước ở
địa phương, với các tổ chức khác để tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị và các khóa
tập huấn với chủ đề đa dạng, phong phú nhằm trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh
nghiệm về pháp luật cạnh tranh cho cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản
lý nhà nước khác. Các hội thảo, tập huấn này không chỉ được tổ chức ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn được tổ chức ở nhiều địa phương khác như Thanh
Hóa, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Đặc biệt, cơ quan quản lý cạnh
tranh đã có sáng kiến thực thi những hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật tập
trung hướng tới những doanh nghiệp trong ngành nhất định, đó là các hội thảo về
thực thi pháp luật cạnh tranh trong ngành xây dựng (ba hội thảo năm 2012), ngành
dược phẩm (2012, 2013), vận tải biển (2013), truyền hình trả tiền (2013), ngành vật
liệu xây dựng (2014) và hai hội thảo với chủ đề "10 năm thực thi Luật Cạnh tranh -
Góc nhìn từ phía doanh nghiệp" tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào tháng
11/2015 đều được nhiều doanh nghiệp quan tâm tham dự. Những hội thảo theo từng
chuyên đề để đóng góp cho việc sửa đổi Luật Cạnh tranh 2004 được cơ quan quản
lý cạnh tranh tích cực triển khai đã trở thành vấn đề thời sự đối với các nhà nghiên
cứu, các hiệp hội và doanh nghiệp thời gian qua.
Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng rất chú trọng việc thông tin trên trang
web. Trang web của Cục CT&BVNTD ra đời từ tháng 4/2007, thông tin rất đa
dạng và phong phú, từ phổ biến pháp luật cơ bản, nghiên cứu nâng cao, thông tin
hợp tác quốc tế... đến các chuyên đề chuyên sâu về các-ten, các hành vi thông
đồng đấu thầu, kỹ năng điều tra và kinh nghiệm xử lý TTHCCT vi phạm pháp
luật và đã được doanh nghiệp đánh giá rằng "Trang web của Cục CT&BVNTD,
với kết cấu hợp lý và lượng thông tin đa dạng, thực sự là một nguồn tư liệu hữu
84

ích cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh và thực tiễn
thi hành pháp luật" [50, tr.43].
Ngoài ra, các ấn phẩm cũng là công cụ tuyên truyền phổ biến về pháp luật
cạnh tranh hữu hiệu của cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh
đã rất nỗ lực để mà trong bối cảnh một số quy định của luật vẫn còn chưa được
quy định cụ thể hóa, thì "các báo cáo thường niên về thực thi luật cạnh tranh... và
gần đây nhất là báo cáo rà soát các quy định của luật cạnh tranh của Cục
CT&BVNTD đã cung cấp các thông tin bổ ích, và quan trọng cho doanh nghiệp
trong việc định hướng và theo dõi các thể chế luật cạnh tranh" [67, tr.16]. Một số
ấn phẩm chuyên sâu về kiểm soát TTHCCT như Bộ tài liệu đào tạo "Kỹ năng
điều tra cạnh tranh", Sổ tay hướng dẫn quy trình điều tra vụ việc hạn chế cạnh
tranh, Báo cáo "Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi phản cạnh tranh trong hệ
thống Dược phẩm tại thị trường Việt Nam"... chứa đựng nhiều thông tin bổ ích.
Bản tin cạnh tranh cũng "dần dần đã được cộng đồng độc giả đánh giá cao, mang
tính thiết thực trong việc phổ biến pháp luật và chính sách cạnh tranh tới các cơ
quan quản lý và cộng đồng xã hội" [68, tr.106].
+ Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng tích cực thực thi trách nhiệm của mình
trong hoạt động tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp. Về hoạt động tư vấn, hỗ trợ gián
tiếp, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tiến hành nghiên cứu và công bố rất nhiều
báo cáo có giá trị tham vấn, như báo cáo tình hình cạnh tranh trong các ngành,
lĩnh vực kinh tế năm 2010-2015, các báo cáo rà soát Luật Cạnh tranh các năm
2011, 2012, báo cáo rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành
năm 2014... Những báo cáo đánh giá này cung cấp cho các chủ thể kinh doanh
bức tranh tổng quan về các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, về cấu trúc thị
trường, thực tiễn cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, khung pháp lý,
từ đó có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp trong xây dựng và thực hiện chiến lược
kinh doanh của mình. Hoạt động tư vấn, hỗ trợ trực tiếp đã được Cục
CT&BVNTD tích cực triển khai, tuy nhiên do phía doanh nghiệp chưa chú trọng
sử dụng quyền của mình nên cơ quan quản lý cạnh tranh hiện chủ yếu thực hiện
tham vấn, tư vấn cho các lĩnh vực cạnh tranh khác.

5629514

You might also like