You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA BẤT ĐỘNG SẢN & KINH TẾ TÀI NGUYÊN

BÀI TẬP CÁ NHÂN


PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG SẢN VIỆT NAM

Môn: Tổ chức và phân tích NHNS

Giảng viên: Nguyễn Hà Hưng

Sinh viên thực hiện: Trần Ngọc Linh

Mã sinh viên: 11223792

Hà Nội, năm 2024


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................2
NỘI DUNG.....................................................................................................................3
I. Khái niệm, đặc điểm chuỗi cung ứng nông sản........................................................3
1. Khái niệm..............................................................................................................3
2. Vai trò của chuỗi cung ứng nông sản....................................................................3
3. Các chủ thể tham gia chuỗi cung ứng...................................................................4
II. Thực trạng chuỗi cung ứng nông sản ở Việt Nam......................................................4
1. Tổng quan..............................................................................................................4
1.1 Chuỗi cung ứng nông sản còn rời rạc, thiếu liên kết, vận hành kém hiệu quả...6
1.2. Tỉ lệ tổn thất nông sản cao bởi thiếu hạ tầng công nghệ...................................7
1.3. Điểm mạnh và cơ hội phát triển chuỗi cung ứng...............................................8
2. Các tác nhân tham gia chuỗi cung ứng....................................................................8
2.1. Đơn vị cung cấp nguyên liệu đầu vào...............................................................8
2.2. Đơn vị sản xuất, chế biến nông sản.................................................................10
2.3. Đơn vị phân phối.............................................................................................12
2.4. Khách hàng......................................................................................................13
2.5. Các tác nhân dịch vụ gián tiếp.........................................................................14
3.1. Mối liên kết giữa nhà sản xuất và công ty chế biến........................................15
3.2. Mối liên kết giữa công ty chế biến và nhà bán buôn, bán lẻ...........................15
4. Thực trạng thực hiện các chức năng của các tác nhân........................................19
5. Mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường.......................................................................22
5.1 Nhu cầu của người tiêu dùng............................................................................22
5.2 Nhu cầu của mạng lưới thu mua.......................................................................24
III, Giải pháp cải thiện chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam....................................25
1. Xây dựng hệ thống logistics................................................................................25
2. Tăng cường hợp tác giữa các đối tác trong chuỗi cung ứng...............................26
3. Đầu tư nghiên cứu, khoa học công nghệ.............................................................26
4. Tăng cường quản trị chuỗi cung ứng..................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................29

1
LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp với nhiều
lợi thế về khí hậu, đất đai, điều kiện sinh thái đa dạng. Nông sản đóng một vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước và là nhóm hàng xuất khẩu
chủ đạo, nổi bật như điều, cà phê, hồ tiêu. Chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia và là một lĩnh vực đa dạng, liên kết
các bên liên quan từ sản xuất đến tiêu thụ. Nông sản, bao gồm các loại cây trồng, thực
phẩm và thủy hải sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu và cung cấp thực phẩm cho dân số
đông đảo của Việt Nam. Tuy nhiên, chuỗi cung ứng nông sản cũng đối mặt với một số
thách thức và thực trạng cần được phân tích để cải thiện hiệu quả và bền vững của
ngành nông nghiệp.
Trong phân tích này, chúng ta sẽ xem xét thực trạng của chuỗi cung ứng nông sản
tại Việt Nam, tập trung vào các yếu tố quan trọng như sản xuất, chế biến, phân phối và
tiêu thụ. Chúng ta sẽ đi sâu vào các vấn đề như sự liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi
cung ứng, tình hình đầu tư và công nghệ, quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm,
cũng như các yếu tố ảnh hưởng từ môi trường và thị trường nội địa và quốc tế.
Mục tiêu của phân tích này là nhìn vào những thực trạng và vấn đề hiện tại để đề
xuất các giải pháp cải thiện và phát triển chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam. Bằng
cách tìm hiểu sâu hơn về từng chủ thể trong liên kết chuỗi , chúng ta có thể thúc đẩy
sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp, tăng cường giá trị gia tăng và nâng cao
đời sống của người nông dân và cả cộng đồng.

2
NỘI DUNG

I. Khái niệm, đặc điểm chuỗi cung ứng nông sản

1. Khái niệm

Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối nhằm thực
hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu thành bán sản phẩm
và thành phẩm, phân phối chúng cho khách hàng.
Chuỗi cung ứng nông sản là một hệ thống bao gồm tổ chức, con người, thông tin,
hoạt động và các nguồn lực liên quan đến quá trình chuyển đổi nông sản từ trang trại
nuôi trồng cho đến tay người tiêu dùng. Một chuỗi cung ứng gồm tối thiểu 3 yếu tố là
nhà cung cấp, đơn vị sản xuất và khách hàng. Nhà cung cấp đầu vào có thể là các hộ
nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, thương lái, sau đó nguyên liệu được đưa đến các
cơ sở chế biến và cuối cùng đến tay khách hàng qua các chợ, siêu thị, kênh bán hàng
và công ty thương mại xuất nhập khẩu.

Mô hình chuỗi cung ứng nông sản

2. Vai trò của chuỗi cung ứng nông sản

 Cung - Cầu được ăn khớp với nhau từ đó đảm bảo được đầu ra và đầu vào của
hàng hóa
 Giúp kết nối các giai đoạn từ sản xuất, chế biến, đóng gói, vận chuyển đến tiêu
thụ từ đó giúp đảm bảo thông tin và sản phẩm di chuyển một cách liên tục để đến tay
khách hàng nhanh nhất.
 Giúp tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu và lợi nhuận của các chủ thể trong chuỗi

3
 Giúp doanh nghiệp nói riêng và ngành hàng nông sản của nước ta nói chung đạt
được lợi thế cạnh tranh, tạo vị thế trên thị trường, mở rộng chiến lược, tăng giá trị xuất
khẩu đến các quốc gia trên thế giới.

3. Các chủ thể tham gia chuỗi cung ứng

 Đơn vị cung cấp: giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực
vật,máy móc thiệt bị nông nghiệp.
 Đơn vị sản xuất, chế biến nông sản: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, công ty nước ngoài, liên doanh, hợp tác xã..
 Đơn vị phân phối: đại lí, nhà bán buôn, nhà bán lẻ.
 Khách hàng trong và ngoài nước.
 Các đơn vị gián tiếp: nghiên cứu, phát triển, đơn vị vận chuyển, các tổ chức tín
dụng bảo hiểm,...

II. Thực trạng chuỗi cung ứng nông sản ở Việt Nam

1. Tổng quan

Việt Nam có đặc điểm địa lí đa dạng với khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm và nguôn
lực thiên nhiên phong phú. Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan
trọng của Việt Nam, tích cực đóng góp vào kim ngạch chung của cả nước. Năm 2020
và đầu 2021 là khoảng thời gian đầy khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và thế giới do
ảnh hưởng của đại dịch covid-19 thế nhưng tổng trị giá xuất khẩu nông sản năm 2020
vẫn đạt 7761,2 triệu USD và 8897,7 triệu USD. Hàng nông sản, thủy sản trong năm
2022 khá tích cực với 7/9 mặt hàng ghi nhận sự tăng trưởng so với năm trước. Trong
đó: thủy sản đạt 10,92 tỷ USD, tăng 23%; cà phê đạt 1,78 triệu tấn, kim ngạch đạt hơn
4 tỷ USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 32% về trị giá; gạo đạt 7,1 triệu tấn, kim ngạch

4
đạt 3,46 tỷ USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 5,1% về trị giá; hạt tiêu đạt 229 nghìn

Bảng 1: Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tăng trưởng liên
tục và ở mức cao (Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Nguồn: Tổng cục thống kê


Sau khi thu hoạch, nông sản được chuyển đến các cơ sở chế biến để gia công và
đóng gói. Các hoạt động chế biến nông sản bao gồm sơ chế, tách hạt, sấy khô, ướp
muối, đóng gói và đóng thùng. Việc chế biến nông sản nhằm tăng giá trị gia công, gia
tăng thời gian bảo quản và đáp ứng yêu cầu của thị trường. Sau khi chế biến, nông sản
được vận chuyển từ các cơ sở chế biến đến các địa điểm tiêu thụ hoặc các cảng để xuất
khẩu. Việc vận chuyển bao gồm sử dụng đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng
không. Đồng thời, các kho bãi và cơ sở lưu trữ có vai trò quan trọng trong việc bảo
quản nông sản và duy trì chất lượng sản phẩm. Nông sản được tiêu thụ trong nước
5
thông qua các kênh phân phối từ nhà bán lẻ, chợ đầu mối, siêu thị, nhà hàng, khách
sạn, cơ sở chế biến thực phẩm và ngành công nghiệp thực phẩm. Việt Nam có một thị
trường tiêu thụ nông sản lớn do sự gia tăng của dân số và thu nhập, tăng cường nhận
thức về sức khỏe và an toàn thực phẩm.
Tuy nhiên các cơ sở, nhà máy chế biến này hầu hết vẫn dừng ở quy mô nhỏ, công
nghệ đơn giản, thực hiện chế biến nông sản chủ yếu mới dừng ở dạng sơ chế giản đơn,
số doanh nghiệp có công nghệ chế biến hiện đại, chế biến sâu rất ít. Theo đánh giá của
Viện Công nghệ sau thu hoạch và một số cơ quan chức năng, do trình độ phát triển và
chi phí đầu tư cho công nghiệp chế biến còn thấp nên tỷ lệ sản phẩm nông sản chế biến
đạt chất lượng quốc tế mới chỉ đạt khoảng 5% và số doanh nghiệp chế biến nông sản
đăng ký chất lượng sản phẩm hiện mới dừng ở tỷ lệ khoảng 15%. Kết quả của thực tế
này là nhiều sản phẩm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng rất lớn. Tỷ
lệ nông sản hao hụt từ khi thu hoạch đến tay người tiêu dùng hiện nay rất cao, do từ
lúc nông dân thu hoạch đến thương lái mua gom, vận chuyển, bán sỉ, bán lẻ đến tay
người tiêu dùng, mỗi khâu đều góp phần làm giảm chất lượng do bầm dập, trầy xước...
Để mặt hàng nông sản được an toàn và chất lượng, phải chú ý ngay từ khâu giống,
nước tưới, quá trình chăm sóc. Hiện chúng ta đang quan tâm nhiều đến khâu thu
hoạch, nhưng công đoạn quan trọng nhất lại chưa được chú ý là vấn đề bảo quản sau
thu hoạch. Chính vì vậy, để hình thành chuỗi cung ứng nhằm giữ chất lượng, nâng cao
giá trị ở mỗi công đoạn, từ khâu chọn giống đến sau thu hoạch đều phải có cách tiếp
cận và tuân thủ theo những quy định cụ thể.
Ngoài ra, chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam còn đối mặt với một số thách
thức như cơ sở hạ tầng vận chuyển chưa hoàn thiện, quy trình chế biến chưa đạt chuẩn,
khả năng quản lý chất lượng còn hạn chế và khó khăn trong việc tiếp cận các thị
trường khó tính. Để nâng cao hiệu quả của chuỗicung ứng nông sản, cần có sự đầu tư
vào cơ sở hạ tầng, công nghệ chế biến và quản lý chất lượng. Đồng thời, cần thúc đẩy
hợp tác giữa các bên liên quan trong chuỗi cung ứng, tăng cường công nghệ thông tin
và quản lý dữ liệu để cải thiện khả năng theo dõi và quản lý chuỗi cung ứng.

1.1 Chuỗi cung ứng nông sản còn rời rạc, thiếu liên kết, vận hành kém hiệu
quả

6
Chuỗi cung ứng này bao gồm quá nhiều bên trung gian, chủ yếu là các thương lái
địa phương, có đầy đủ phương tiện vận tải và hệ thống kho vận. Thương lái có vai trò
thu mua và vận chuyển nông sản, nhưng lại trở thành những người bán nông sản cho
doanh nghiệp. Điều này dẫn đến khả năng thao túng giá và nguồn cung của thương lái.
Xuất hiện tình trạng nhiều nông dân coi thương lái là nguồn thông tin duy nhất về thị
trường và đồng thời là nơi duy nhất để bán nông sản. Điều này khiến doanh nghiệp
không thể tương tác trực tiếp với nông dân và không có thông tin đầy đủ về nguồn
cung. Kết quả là doanh nghiệp không thể dự báo và lập kế hoạch cung ứng hiệu quả.
Việc doanh nghiệp không thể kiểm soát kế hoạch đầu ra cũng ảnh hưởng xấu đến toàn
bộ chuỗi cung ứng. Tình trạng này làm chậm dòng chảy hàng hóa, gây tắc nghẽn và
thiếu minh bạch thông tin về giá cả và thị trường.

1.2. Tỉ lệ tổn thất nông sản cao bởi thiếu hạ tầng công nghệ

Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), ông Nguyễn Thanh Bình, nhận
xét cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản ở Việt Nam còn
thiếu, dẫn đến hao hụt đáng kể. Tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch hiện đạt mức 30-35%, một
con số đáng lo ngại đối với thực trạng chuỗi cung ứng tại Việt Nam mặt hàng nông
sản. Có thể thấy, tốc độ ra thị trường càng nhanh thì các mặt hàng tươi như rau củ quả,
trái cây mới giữ được chất lượng cũng như giúp quay vòng vốn nhanh hơn. Tuy nhiên,
hiện nay tốc độ ra thị trường của nông sản hiện tại vẫn còn rất chậm do thương lái
kiểm soát trực tiếp việc thu mua, ảnh hưởng đến nguồn cung và giá thu mua nông sản
đối với các doanh nghiệp. Nhiều trường hợp, thương lái đã “giam” hàng và đẩy giá lên
cao, khiến hàng hóa bị tồn lưu ở khâu trung gian trong thời gian dài, gặp khó khăn và
tổn thất.
Ngoài ra, hệ thống cung ứng lạnh, công nghệ kĩ thuật chưa được áp dụng nhiều,
thiếu sơ chế sau thu hoạch cũng là nguyên nhân đáng quan tâm. Các khaonr đầu tư lớn
hiện nay chủ yếu được ưu tiên cho dây chuyền sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu,
tuy điều này giúp tăng kim ngạch của nước ta, tạo vị thế cho mặt hàng nông sản chất
lượng cao của nước ta nhưng cũng làm gián đoạn chuỗi cung ứng trong nước. Ví dụ
như hàng thực phẩm tươi sống không được bảo quản lạnh mà phơi nắng nóng ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, việc sơ chế thủ công còn thủ công, thiếp
đầu tư công nghệ máy móc.
7
1.3. Điểm mạnh và cơ hội phát triển chuỗi cung ứng

Nước ta sở hữu lực lượng lao động dồi dào cùng với cơ sở hạ tầng đáng được cải
thiện với sự đầu tư của chính phủ vào hệ thống đường xá, kho bãi, cơ sở chế biến để
hỗ trợ chuỗi cung ứng. Hơn thế, Việt Nam đang tích cực hội nhập quốc tế với các hiệp
định thương mại tự do (FTA) ví dụ như hiệp định mới được kí kết CPTPP tạo cơ hội
để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo ra thị trường lớn về
thương mại Việt Nam, do hiện nay các nước CPTPP đang chiếm tỷ trọng khoảng
15,7% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 16% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam (thời
điểm cuối năm 2017), các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như đầu tư
gián tiếp, hoạt động mua cổ phần, mua bán sáp nhập… tại Việt Nam sẽ có nhiều cơ
hội hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện trao đổi về kinh
nghiệm quản trị điều hành, chuyển giao công nghệ. CHính phủ cũng đang đẩy mạnh
các chính sách hỗ trợ chuỗi cung ứng nông sản như khuyến khích đầu tư, đổi mới và
phát triển thị trường.

2. Các tác nhân tham gia chuỗi cung ứng

2.1. Đơn vị cung cấp nguyên liệu đầu vào

Đây là các đơn vị, cá nhân, doanh nghiệp cung cấp giống, phân bón, thức ăn chăn
nuôi, thuốc bảo vệ thực vật,... Hiện nay, tại nước ta, tuy có nhiều các đơn vị cung cấp,
đa dạng từ chủng loại, chất lượng đến giá cả nhưng còn hạn chế là chưa đảm bảo,
nhiều sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, gây nhiều lo ngại đến vấn đề an toàn
thực phẩm, gây hại đến sức khỏe cũng như không thể xuất khẩu. Hơn thế, nhiều sản
phẩm phải nhập khẩu với chi phí cao, gây áp lực lên người nông dân.
Ví dụ về đơn vị cung cấp đầu vào của chuỗi cung ứng thịt lợn
Trong nghành chăn nuôi gia súc, gia cầm như lợn thì chi phí thức ăn chăn nuôi
chiếm 60-70% chi phí chăn nuôi. Trong năm 2022, giá của nguyên liệu thức ăn chăn
nuôi có giá nhập khẩu tăng từ 10% đến 20% như khô đậu tương, khô dầu lạc, bột thịt
xương, bột gia cầm, bột cá, cám ngô,... Thậm chí có các mặt hàng giá nhập khẩu tăng
trên 20% là cám gạo, cám mì, bột huyết tương. Achetina là nước cung cấp thức ăn vật
nuôi lớn nhất cho Việt Nam trong năm 2022, chiếm 29,2% về lượng và tỉ trọng 30,4%
trong tổng nhập khẩu
8
Sang đến năm 2023, giá thức ăn chăn nuôi đã hạ nhiệt , giúp người chăn nuôi có
lãi và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đang tìm kiếm nguồn thay thế, cố
gắng tự chủ được sản xuất, giảm sự phụ thuộc nguồn nguyên liệu. Một số nhà cung
cấp thức ăn lớn như công ty cổ phần CP Việt Nam, Proconco, Tập đoàn Dabaco Việt
Nam. Nhà cung cấp giống: là nơi chăn nuôi và cung cấp heo giống cho các hộ chăn
nuôi và trang trại với đa dạng các loại giống như lợn cỏ, lợn Móng Cái. Nhà cung cấp
thuốc thú ý cung cấp các loại thuốc thú y đã đưuọc kiểm định an toàn nhằm phòng
bệnh, chẩn đoán và điều trị, đảm bảo cho heo được phát triển một các khỏe mạnh, an
toàn, chống được các bệnh như lở mồm long móng.
Ví dụ nhà cung cấp tham gia chuỗi cung ứng gạo
Các đơn vị chuyên nghiên cứu, khảo nghiệm giống cây trồng, họ tiến hành lưu trữ
và bảo tồn nguồn gen giống cây trồng. Đồng thời tổ chức sản xuất và kinh doanh
giống cây trồng, kinh doanh vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất giống.
Các doanh nghiệp, đơn vị nghiên cứu sản xuất và cung cấp giống tư nhân cung
cấp giống lúa dựa trên các hợp đồng liên kết hoặc đặt hàng với ngành nông nghiệp của
các tỉnh nhằm đảm bảo cung cấp đúng chất lượng, chủng loại giống và đáp ứng nhu
cầu gieo giống lúa gạo trên địa bàn các tỉnh. Các hộ nông dân chủ động lưu trữ lại
giống để tạo ra giống lúa mới cho mùa sau. Tuy nhiên, giống lúa được cung ứng theo
hình thức này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chất lượng không cao.
Nhà cung cấp phân bón và thuốc bảo vệ thực vật: Các doanh nghiệp này tương đối
đông đảo, phân bón và thuốc có chất lượng, góp phần giảm lượng phân bón nhập khẩu,
giúp cơ quan chức năng kiểm soát được chất lượng, bình ổn giá phân bón, giảm chi
phí vận chuyển, bảo đảm phù hợp với chủ trương phát triển nông nghiệp bền vững.
Tuy nhiên, do nhận thức của người dân còn nhiều hạn chế, kinh tế còn khó khăn nên

9
nhiều nông dân sản xuất vẫn sử dụng các loại thuốc giá rẻ nhập lậu, không có nguồn
gốc.

2.2. Đơn vị sản xuất, chế biến nông sản

Nhà sản xuất, chế biến là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và khối
lượng sản phẩm của chuỗi cung ứng. Hiện nay, tại Việt Nam đơn vị sản xuất chủ yếu
là hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, trang trại chăn nuôi, hợp tác xã chăn nuôi, Hội chăn nuôi
tập thể và các doanh nghiệp chăn nuôi. Trong đó, ở Việt Nam hiện nay, các hộ chăn
nuôi quy mô nhỏ vẫn chiếm một tỷ lệ lớn. Các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ chủ yếu tận
dụng lao động gia đình dư thừa, đất đai tự có và hệ thống chuồng trại đơn sơ, mức độ
đầu tư thấp. Trong khi đó, các hộ chăn nuôi quy mô trang trại có sự đầu tư cho công
nghệ sản xuất hiện đại hơn, dễ dàng tiếp cận được với các dịch vụ khuyến nông và thú
ý với ý thức về phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường cao hơn. Nhiều trang trại
chăn nuôi quy mô lớn có sự liên kết với các công ty lớn trong ngành chăn nuôi và chế
biến thực phẩm theo hình thức chăn nuôi gia công hoặc bao tiêu sản phẩm. Theo số
liệu của tổng cục thống kê năm 2016, cả nước có 5.416 trang trại có liên kết sản xuất
với các đơn vị khác, chiếm 73,9% tổng số trang trại trong ngành nông nghiệp có liên
kết (Theo Tổng cục Thống kê: Báo cáo tóm tắt Kết quả chính thức Tổng điều tra Nông
thôn năm 2017)

Điểm giết mổ thủ công nhỏ, giết mô thủ công tập trung, giết mổ công nghiệp và
bán công nghiệp. Trong đó: các điểm/hộ GM nhỏ, lẻ nằm rải rác trong các khu dân cư,
các chợ cùng với các lò/cơ sở GM thủ công tập trung được quy hoạch ở các tỉnh, thành
phố cung ứng một lượng thịt lớn ra thị trường nhưng thường không đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chỉ một lượng thịt
GSGC nhất định được GM tại các nhà máy/cơ sở GM công nghiệp, bán công nghiệp,
được đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất khá hiện đại theo hình thực giết mổ treo
với hệ thống công nghệ giết mổ, bảo quản hiện đại. Đây là những cơ sở giết mổ hiện

10
đại được đầu tư bởi các doanh nghiệp tư nhân và một số DN lớn trong ngành chăn
nuôi và chế biến thực phẩm
Ví dụ chuỗi cung ứng thịt lợn
Hiện nay, các tập đoàn lớn đang dần chiếm lĩnh thị trường để phù hợp với nhu cầu
của khách hàng về truy xuất nguồn gốc, vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong đó phải kể
đến tập đoàn Masan và cụ thể là MEATLife. Công ty hiện sở hữu trang trại chăn nuôi
lợn kĩ thuật cao tại Nghệ An với tổng diện tích trên 223ha, vốn đầu tư lên đến 1400 tỉ
đồng, có khả năng cung cấp 250.000 con mỗi năm, từ con giống đến nguồn thức ăn
được các chuyên gia giàu kinh nghiệm theo sát quản lí chất lượng đến từng cá thể lợn.
Cùng với đó, MML đầu tư hơn 2000 tỉ đồng xây dựng hai Tổ hợp chế biến thịt MEAT
Hà Nam và MEATDeli Sài Gòn - nơi chế biến ra sản phẩm thịt mát MEATDeli và các
sản phẩm thịt chế biến. Hai tổ hợp có tổng công suất chế biến 2,8 triệu con/năm.
Nguồn lợn khỏe cung ứng cho MEAT Hà Nam và MEATDeli Sài Gòn phải trải qua 3
tuyến kiểm dịch nghiêm ngặt. Đây chính là điểm mạnh của Masan khi đưa trực tiếp
sản phẩm đến được bữa cơm của gia đình Việt qua các sản phẩm đã sơ chế hoặc chế
biến sẵn như mọc sống, nem, chả, thịt kho,... thông qua lợi thế tận dụng mặt bằng kinh
doanh siêu thị, giống như Masan gọi là "phát huy sức mạnh cộng hưởng".

Ví dụ về nhà máy chế biến gạo A An của Tập đoàn Tân Long
Nhà máy gạo Hạnh Phúc được đầu tư xây dựng với quy mô lớn nhất châu Á có
diện tích 161.000m2 tại xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Công suất
sấy đạt 4.800 tấn lúa tươi/ngày, hệ thống 80 silo chứa lúa (bảo ôn) 240.000 tấn, công
suất xay xát chế biến 1.600 tấn/ngày (lúa khô), nâng tổng công suất gạo thành phẩm
đạt 1.000 tấn/ngày. Nhà máy vận hành 100% giải pháp công nghệ được nhập khẩu từ
châu Âu như: hệ thống tiếp nhận, làm sạch, sấy và silo chứa lúa của Tập đoàn
SKIOLD (Đan Mạch); hệ thống xay xát lúa gạo từ BUHLER (Thụy Sỹ); các trang
thiết bị đi kèm đều nhập khẩu và đồng bộ theo tiêu chuẩn EU từ Ý, Đức, Ba Lan…
Đây đều là những đối tác công nghệ hàng đầu châu Âu với kinh nghiệm hoạt động từ
hàng chục đến hàng trăm năm; đáp ứng chuẩn mực các yêu cầu khắt khe nhất của thế
giới về an toàn thực phẩm, an toàn vận hành và thân thiện với môi trường. Việc xây
dựng nhà máy với công nghệ hiện đại, công suất lớn giúp tăng sản lượng đầu ra, đảm
bảo chất lượng sản phẩm cùng với đó là giảm thiểu tác động xấu tới môi trường.

11
Đơn vị: ha

Biểu đồ diện tích trồng lúa các huyện gần nhà máy Hạnh phúc (2023)

2.3. Đơn vị phân phối

Đó là các đại lí, nhà bán buôn, bán lẻ. Thông thường, tại Việt Nam, nông sản từ
nới sản xuất sẽ thông qua thương lái để vận chuyển đến các nơi bán buôn, bán lẻ.

Nhà bán lẻ: Các cửa hàng, siêu thị và chợ đầu mối là đơn vị phân phối quan trọng
trong việc tiếp cận và cung cấp nông sản trực tiếp cho người tiêu dùng cuối. Chúng
thường mua hàng từ các đơn vị chế biến, nhà sản xuất hoặc các nhà buôn và đảm bảo
tính tươi sống và chất lượng của các sản phẩm. Các nhà bán lẻ cung cấp trực tiếp cho
khách hàng, thường qua các chợ truyền thống.

12
Nhà buôn: Nhà buôn nông sản chịu trách nhiệm mua hàng từ các nhà sản xuất,
đơn vị chế biến hoặc các trung gian khác và sau đó bán lại cho các đại lý bán lẻ hoặc
các công ty chế biến lớn. Nhà buôn thường có khả năng mua hàng theo số lượng lớn
và có mạng lưới phân phối rộng, giúp nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các đối tượng tham gia bán buôn thường là các công
ty, nhà phân phối hoặc các đại lí thực phẩm để cung cấp cho các cửa hàng, siêu thị,
nhà hàng, khách sạn.
Các đại lý xuất khẩu: Đối với các nông sản xuất khẩu, các công ty xuất khẩu nông
sản hoặc các đại lý xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận, xử lý và
xuất khẩu các sản phẩm ra thị trường quốc tế. Họ có kiến thức về các quy định xuất
khẩu, thị trường quốc tế và quy trình vận chuyển.
Các cơ quan chính phủ: Các cơ quan chính phủ như Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Cục Chế biến và Phát triển nông nghiệp, Cục Thương mại... có vai trò quan
trọng trong việc điều phối và quản lý chuỗi cung ứng nông sản. Chính phủ cung cấp
chính sách hỗ trợ, quy định và quản lý để đảm bảo an toàn thực phẩm, chất lượng sản
phẩm và khuyến khích phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.
Kênh phân phối gạo tập đoàn Tân Long
Gạo được phân phối trực tiếp từ nhà máy ra các cửa hàng và điểm bán. Hiện nay,
Gạo A An đã có hơn 40 cửa hàng, hơn 2.000 điểm bán và kho trung chuyển trên toàn
quốc, luôn mở cửa cả những ngày lễ, giao hàng nhanh trong vòng 30 phút kể từ khi có
đơn đặt hàng. Ngoài các hệ thống cửa hàng trực thuộc, gạo A An còn được phân phối
tại các siêu thị và các đại lí khác.

2.4. Khách hàng

Là người tiêu thụ sản phẩm, bao gồm trong nước và ngoài nước, chủ yếu là các cá
nhân, hộ gia đình. Đối với khách hàng ngoài nước, nông sản xuất khẩu phải đáp ứng
các tiêu chuẩn cụ thể với từng quốc gia ví dụ như nguồn gốc xuất xứ, đảm bảo các tiêu
chuẩn an toàn thực phẩm như Vietgap, GlobalGap và không dư lượng thuốc trừ sâu
hay thuốc bảo vệ thực vật.
Khách hàng mục tiêu của MeatDeli chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình với nhu
cầu sử dụng thịt heo thường xuyên, tiếp đó là các cơ sở sản xuất thực phẩm chế biến
sẵn từ thịt heo sạch.
13
2.5. Các tác nhân dịch vụ gián tiếp

Các tác nhân này bao gồm các dịch vụ logistic, các dịch vụ thương mại, marketing
bán sản phẩm, các cơ sở nghiên cứu đào tạo và phát triển giống, nguyên liệu đầu vào,
công nghệ hỗ trợ nông nghiệp. Cùng với đó là các ngân hàng và tổ chức tín dụng
nhằm cung cấp tài chính cho nông dân, nhà chế biến và nhà bán lẻ với các công ty bảo
hiểm bảo vệ nông dân và doanh nghiệp khỏi rủi ro như thiên tai và mất mùa. Các công
ty phần mềm, thiết bị cung cấp máy móc và thiết bị cho nông dân và nhà chế biến.

3. Mối liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng
Liên kết kinh tế là hình thức phối hợp hoạt động giữa các chủ thể nhằm tạo ra mối
quan hệ kinh tế ổn định, khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia, nhằm bảo
vệ lợi ích của nhau, cùng giúp nhau để có khoản thu nhập cao nhất. Chuỗi nông sản
hình thành với sự kết hợp cả liên kết ngang và liên kết dọc, trong đó liên kết ngang
giữa nông dân - nông dân, HTX - HTX, doanh nghiệp - doanh nghiệp và liên kết dọc
giữa nông dân - HTX - doanh nghiệp và còn nhiều mô hình khác. Liên kết chuỗi cung
ứng của nước ta dù bước đầu đã có những điểm sáng từ những tập đoàn lớn nhưng vẫn
còn rất lỏng lẻo, thiếu liên kết
Hiện nay, Việt Nam hiện là một trong các nước đứng đầu thế giới về sản xuất và
xuất khẩu nông sản. Trên thực tế, nhiều nơi và lĩnh vực đã hình thành nhiều chuỗi giá
trị đồng bộ từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, theo các hình thức liên kết khác
nhau, như liên kết tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra; liên kết góp vốn đầu tư sản xuất,
theo ba cấp độ: Sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm cấp tỉnh và sản phẩm địa
phương... với sự tham gia của doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, nông dân trong các
ngành hàng nông, lâm, thủy sản, mang lại lợi ích cho hàng chục nghìn hộ. Hơn nữa,
một số chuỗi cung ứng nông sản ứng dụng thành công công nghệ mới như công nghệ
thông tin, công nghệ chuỗi khối (Blockchain) để kết nối sản xuất và tiêu dùng, truy
xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá trị.

14
3.1. Mối liên kết giữa nhà sản xuất và công ty chế biến

Các công ty chế biến thực phẩm hoặc công ty chế biến nông sản nhận hàng từ nhà
sản xuất, nhà buôn hoặc thương lái và tiến hành các công đoạn chế biến như sấy khô,
đóng gói, chế biến thực phẩm và sản xuất đồ uống. Công ty chế biến đảm bảo chất
lượng và tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm. Hiện nay, sự liên kết giữa hai
chủ thể này còn vô cùng lỏng lẻo bởi chủ yếu còn phụ thuộc vào trung gian là thương
lái ở giữa. Tuy nhiên, có những vấn đề từ hoạt động của thương lái, đó là sự thiếu bình
đẳng trong thỏa thuận giá cả và nguy cơ đổ bể do hợp đồng miệng và hợp đồng tay.
Thông thường giá do thương lái ấn định, vì vậy vẫn có tình trạng ép giá đối với nông
dân. Hơn nữa, tính lỏng lẻo của giao dịch có thể dẫn đến việc “bẻ kèo” của cả hai phía.
Đây là một thực tế “không nói thì ai cũng biết”.

3.2. Mối liên kết giữa công ty chế biến và nhà bán buôn, bán lẻ

Công ty chế biến cung cấp hàng hóa cho nhà bán buôn để đáp ứng nhu cầu của họ.
Các sản phẩm có thể được chế biến, đóng gói và chuẩn bị theo yêu cầu của nhà bán
buôn. Giữa hai bên thường duy trì một quan hệ cung ứng liên tục và dài hạn. Các công
ty chế biến thường điều chỉnh sản lượng và sản xuất theo yêu cầu của nhà bán buôn để
đảm bảo sự cung ứng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công ty chế biến phải đảm bảo
chất lượng sản phẩm và tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm. Nhà bán buôn
15
thường yêu cầu các tiêu chuẩn chất lượng cụ thể và đảm bảo rằng công ty chế biến
tuân thủ các yêu cầu này.
Công ty chế biến cung cấp các sản phẩm chế biến hoàn thiện cho nhà bán lẻ. Các
sản phẩm đã được đóng gói và chuẩn bị sẵn sàng để bán cho người tiêu dùng cuối
cùng.
Ngoài ra có thể hỗ trợ quảng cáo và tiếp thị sản phẩm để nhà bán lẻ có thể quảng
bá và bán hàng tốt hơn bằng cách cung cấp tài liệu quảng cáo, hình ảnh sản phẩm và
thông tin về tính năng, lợi ích và giá trị của sản phẩm. Công ty chế biến có thể cung
cấp hỗ trợ kỹ thuật đối với nhà bán lẻ trong việc sử dụng và bán sản phẩm. Điều này
có thể bao gồm cung cấp hướng dẫn sử dụng, hướng dẫn bảo quản và hỗ trợ kỹ thuật
khi cần thiết.
Ví dụ chuỗi cung ứng thịt sạch MeatDeli
Mô hình MeatDeli của tập đoàn Masan đã tận dụng lợi thế tiềm lực vốn lớn xây
dựng chuỗi giá trị khép kín từ con giống, sản xuất thức ăn tới tổ chức chăn nuôi cùng
với dây chuyền sản xuất chế biến hiện đại.

Việc xây dựng một mô hình chuỗi khép kín từ khâu đầu vào đến đầu ra giúp đảm
bảo sự liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng, giúp đảm bảo được việc truy
xuất nguồn gốc, phù hợp với nhu cầu, mong muốn của khách hàng hiện nay. Trên góc
độ doanh nghiệp thì sẽ giảm được chi phí , xây dựng được chuỗi cung ứng bền vững, ít
phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài cùng với đó là niềm tin và tệp khách hàng trung
thành.
Tuy nhiên, đây chỉ là điểm sáng nhỏ trong chuỗi cung ứng nông sản của nước ta,
sự phát triển của chuỗi nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu về phát triển ngành
nông nghiệp hiện đại trong cơ chế thị trường cạnh tranh; chưa khai thác hết tiềm năng
16
trong liên kết. Chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chưa phát triển, nông dân chỉ tham gia
khâu duy nhất là sản xuất ở quy mô nông hộ, nhỏ lẻ, giá thành sản xuất cao, tổn thất
sau thu hoạch cao, và còn nhiều hạn chế khác về bảo đảm chất lượng giá trị gia tăng,
bảo vệ tài nguyên nông nghiệp và môi trường. Hình thức giao dịch nông sản phổ biến
hiện nay là mua, bán tự do, giao hàng tại chỗ (kể cả tại ruộng), hiếm có hợp đồng giữa
người sản xuất với người thu gom và với doanh nghiệp; việc giao dịch qua chợ đầu
mối hay các trung tâm giao dịch nông sản chưa phổ biến. Hầu hết các HTX, tổ hợp tác
có quy mô nhỏ, thiếu các nguồn lực và khả năng để đóng vai trò như doanh nghiệp sản
xuất theo chuỗi giá trị. Các doanh nghiệp mới chủ yếu tập trung vào thu mua, sơ chế
và xuất khẩu hàng hóa nông sản thô, chưa qua chế biến, không có thương hiệu, nên giá
trị thấp. Không có nhiều doanh nghiệp, HTX đầu tư vào sản xuất, bảo quản, chế biến
và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm.
Ví dụ về chuỗi cung ứng lúa gạo
Hiện nay chỉ một vài doanh nghiệp lớn mới đầu tư hầu hết các khâu trong chuỗi
giá trị lúa gạo. Việc liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất chưa bền vững do
chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, rủi ro, chủ yếu vẫn liên kết theo hình thức thương
thảo thuận mua vừa bán. Tình trạng tiêu thụ sản phẩm vẫn còn qua nhiều khâu trung
gian phân phối, nên giá bán thực tế cao hơn nhiều so với giá thu mua tại cơ sở sản
xuất, sức cạnh tranh chưa cao, chưa chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Công
tác tuyên truyền, quảng bá, marketing giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp còn yếu.

Ví dụ như tình trạng tranh mua, “bẻ cọc, bẻ kèo”, loạn giá, tranh mua lúa gạo gây
khó cho xuất khẩu. Chủ một doanh nghiệp xuất khẩu gạo tại Cần Thơ, cho biết từ đầu
vụ lúa, doanh nghiệp ký kết mua 50.000 tấn lúa với giá 6.500 đồng/kg, đã ứng trước
17
cho nông dân 500.000 đồng/tấn. Thế nhưng, gần đến ngày thu hoạch, nông dân yêu
cầu phải tăng giá mua thêm 1.000-1.300 đồng/kg, nếu không tăng giá sẽ trả lại tiền đặt
cọc và bán lúa cho thương lái trả giá cao hơn, do đó, không còn cách nào khác phải
thỏa thuận lại giá, tăng lên với lúa thường từ 7.500 -7.800 đồng/kg. Như vậy, khả năng
doanh nghiệp sẽ lỗ nặng vì hợp đồng đã ký với đối tác nước ngoài không thể đàm phán
tăng giá. Cánh đồng vài trăm ha có cả chục “cò” mua lúa giành giật với nhau. Nông
dân nào đền tiền cọc là có “cò” khác nhảy vào mua giá mới cao hơn. Đền tiền cọc
nhưng bán cho người khác được giá cao hơn, lãi nhiều hơn, khiến nông dân sẵn sàng
bỏ cọc, các thương lái nhảy vào đồng ruộng, hỏi mua lúa với giá cao ngất ngưởng, sau
đó họ bán cho doanh nghiệp với giá cao hơn để xuất khẩu. Tình trạng này đã đẩy giá
lúa trên các đồng ruộng tại Đồng bằng sông Cửu Long tăng quá cao, vượt xa so với giá
gạo xuất khẩu, đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu vào tình thế khó khăn. Xảy ra tình
trạng giành giật mua lúa non là do đa số doanh nghiệp xuất khẩu không xây dựng được
vùng nguyên liệu, phụ thuộc thương lái, môi giới trung gian. Đây chính là biểu hiện
của chuỗi cung ứng lỏng lẻo, rời rạc, thiếu liên kết giữa các chủ thể.

Thống kê của ngành nông nghiệp cho thấy hiện 50% sản lượng lúa doanh nghiệp
thu mua qua thương lái, hơn 12% người dân bán trực tiếp và trên 37% còn lại qua các
hợp tác xã. Có thể thấy, thương lái đóng vai trò quan trong trọng trong chuỗi cung ứng
nông sản tại nước ta nhưng lại hoạt động tự phát, đôi khi chèn ép nông dân để mua với
giá thấp, bán lại với giá rất cao cho doanh nghiệp. Có đến 93% lúa gạo được thu gom
bởi các thương lái. Sau đó, các thương lái sẽ bán đứt khoảng 13% lúa cho các nhà máy
xay xát; 69% sẽ được họ mang đi xay xát rồi bán cho các nhà máy lau bóng, XK; 11%
số lúa được thương lái bán cho các nhà bán buôn bán lẻ trong nước, sau khi đã được
xay xát.

18
4. Thực trạng thực hiện các chức năng của các tác nhân

Các chức năng của tác nhân hay chủ thể trong chuỗi cung ứng đặt ra nhiều thách
thức và cơ hội. Đầu tiên có thể nhận thấy sự tương tác thiếu hụt giữa doanh nghiệp và
nông dân, sự thiếu thông tin giữa các chủ thể dẫn đến khó khăn trong việc xử lí, bảo
quản và lập kế hoạch quản lí chuỗi cung ứng. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả phân
phối và xuất khẩu nông sản. Lái buôn thương nhân cũng tạo rào cản giữa nông dân và
doanh nghiệp, bởi nông dân thường ko có được thông tin từ doanh nghiệp mà chủ yếu
nhận thông tin từ thương lái, gây nên tình trạng ép giá, đẩy giá nông sản. Sau quá trình
thu mua từ thương lái, nông sản được gửi đến các cơ sở chế biến, trong quá trình này,
nông sản bị tổn thất, hao hụt cao bởi chưa đạt tiêu chuẩn hay hư hỏng trong quá trình
vận chuyển.
Chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chưa phát triển, nông dân chỉ tham gia khâu duy
nhất là sản xuất ở quy mô nông hộ, nhỏ lẻ, giá thành sản xuất cao, tổn thất sau thu
hoạch cao, và còn nhiều hạn chế khác về bảo đảm chất lượng giá trị gia tăng, bảo vệ
tài nguyên nông nghiệp và môi trường. Hình thức giao dịch nông sản phổ biến hiện
nay là mua, bán tự do, giao hàng tại chỗ (kể cả tại ruộng), hiếm có hợp đồng giữa
người sản xuất với người thu gom và với doanh nghiệp; việc giao dịch qua chợ đầu
mối hay các trung tâm giao dịch nông sản chưa phổ biến. Hầu hết các HTX, tổ hợp tác
có quy mô nhỏ, thiếu các nguồn lực và khả năng để đóng vai trò như doanh nghiệp sản
xuất theo chuỗi giá trị. Các doanh nghiệp mới chủ yếu tập trung vào thu mua, sơ chế
và xuất khẩu hàng hóa nông sản thô, chưa qua chế biến, không có thương hiệu, nên giá

19
trị thấp. Không có nhiều doanh nghiệp, HTX đầu tư vào sản xuất, bảo quản, chế biến
và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Các hợp tác xã cần nâng cao vai trò của bản
thân, mô hình này hiện tại của nước ta còn nhiều bất cập, năng suất kém. Do mô hình
phát triển trên cơ chế bình đẳng, việc thu hút thành viên đóng góp nhiều vốn tham gia
thường gặp khó khăn cùng với nhiều thành viên dẫn đến khó khăn trong việc quản lí
và đưa ra quyết định. Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhiều ưu điểm giúp tạo công ăn
việc làm cho người dân, có quyền lực đàm phán, giao dịch với các đối tác, doanh
nghiệp, kí được các hợp đồng giá trị, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, không thông qua
trung gian giúp thu về lợi nhuận cao hơn. Chỉ một vài doanh nghiệp lớn mới đầu tư
hầu hết các khâu trong chuỗi giá trị lúa gạo. Việc liên kết giữa doanh nghiệp và người
sản xuất chưa bền vững do chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, rủi ro, chủ yếu vẫn liên
kết theo hình thức thương thảo thuận mua vừa bán. Tình trạng tiêu thụ sản phẩm vẫn
còn qua nhiều khâu trung gian phân phối, nên giá bán thực tế cao hơn nhiều so với giá
thu mua tại cơ sở sản xuất, sức cạnh tranh chưa cao, chưa chiếm được lòng tin của
người tiêu dùng. Công tác tuyên truyền, quảng bá, marketing giới thiệu sản phẩm của
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn yếu. Trong chuỗi liên kết,
vai trò của người sản xuất rất quan trọng để bảo đảm sản xuất theo quy chuẩn đáp ứng
yêu cầu của thị trường. Trong khi đó, hầu hết hộ nông dân hiện có quy mô quá nhỏ,
tính tự phát tiểu nông và cảm tính thị trường còn cao, sản xuất phân tán, chưa chú ý tới
liên kết nhóm hộ mà vẫn mạnh ai người đó làm, chưa tuân thủ quy trình sản xuất, chưa
tạo ra sản phẩm an toàn chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng và chưa tạo
được vùng sản xuất tập trung, dòng sản phẩm đủ lớn và ổn định. Tình trạng người sản
xuất phá vỡ liên kết khi giá sản phẩm gia tăng đột biến, tự ý bán phá giá cho các
thương lái khác khi giá bán cao hơn thường xuyên xảy ra do nhận thức của người dân
nhiều nơi còn thấp, thiếu thông tin thị trường, một số bộ phận còn chạy theo lợi ích
trước mắt…
Một vấn đề rất cần được quan tâm đó chính là các tác nhân gián tiếp chưa thực sự
kết nối vào chuỗi cung ứng khiến khâu vận chuyển còn chậm, hệ thống logistic chưa
phát triển, chi phí cao. Một số sản phẩm có giá cao tới 25% giá trị hàng hóa, theo báo
cáo của hiệp hội nông nghiệp số Việt Nam tỉ lệ chi phí cho logistics khá cao ví dụ như
vải thiều chiếm từ 30-45%, phân bón từ 12-25%, chuối lên tới 30% và gạo cũng gần
20%. Hiện nước ta vẫn chưa xây dựng được hệ thống vận chuyển liên kết, chủ yếu còn

20
theo diện nhỏ lẻ, tự phát. Vấn đề chi phí logistics cao là do quy mô không đủ để giảm
chi phí logistics, vấn đề này bao gồm các bên liên quan, đặc biệt là cơ sở hạ tầng của
logistics. Các vấn đề liên quan đến chi phí logistic nông sản gồm năng lực lưu kho,
chuỗi cung ứng lạnh hạn chế, chuỗi dịch vụ cung ứng dịch vụ logistic đều có quy mô
nhỏ. Dịch vụ logistic chỉ mới phát triển tại các thành phố lớn, còn các địa chỉ khác còn
nhỏ chưa đủ mạnh để giảm chi phí. Kênh phân phối nông sản chưa được đồng đều như
phân phối qua siêu thi chiếm phần nhỏ, kênh qua chợ dân sinh, chợ đầu mối chiếm
70%, phương thức bán hàng online mới bắt đầu thực hiện chưa phát triển mạnh. Trung
tâm phân phối còn nhỏ chi phí kho bãi do đặc thù của hàng nông sản, chẳng hạn về
yêu cầu bảo quản ở nhiệt độ khác nhau đối với từng loại trái cây do đó doanh nghiệp
nông sản có đủ năng lực tài chính sẽ chủ động đầu tư kho phục vụ cho phù hợp nhu
cầu hàng hóa của doanh nghiệp.
Các nhà khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo “đầu vào” có chất lượng
cao, giảm giá thành nhờ công nghệ… nhưng hiện nay, việc liên kết với các “nhà” còn
lại khá lúng túng và hiệu quả chưa cao. Nhất là việc liên kết với người nông dân để
“xã hội hóa” các công nghệ hiệu quả.
Ngân hàng là một trong những tác nhân tham gia vào chuỗi nông sản. Ngân hàng
có vai trò hỗ trợ ngày càng quan trọng trong việc gia tăng giá trị và hiệu quả của chuỗi.
Khi ngân hàng tham gia vào chuỗi giá trị sẽ giúp giảm thiểu rủi ro thị trường, rủi ro
người vay, rủi ro thời tiết, dịch bệnh; tiết kiệm chi phí…
Người tiêu dùng hiện nay còn thiếu thông tin về sản phẩm, chưa biết cách nhận
diện sản phẩm an toàn chất lượng cao, chưa nắm được địa chỉ cơ sở sản xuất uy tín,
bên cạnh đó, một bộ phận người tiêu dùng thích các sản phẩm giá rẻ. Công tác thông
tin truyền thông định hướng sản phẩm theo khách hàng của doanh nghiệp còn hạn chế.
Hậu quả là, người tiêu dùng phải sử dụng hàng hóa kém chất lượng, ảnh hưởng đến
sức khỏe và mất lòng tin với người sản xuất; đồng thời, kéo dài tình trạng “được mùa
mất giá, ít thiếu nhiều thừa”, hiệu quả kinh tế không cao, chưa tạo lập và củng cố các
chuỗi bền vững trong sản xuất nông nghiệp.
Trên thực tế còn tồn tại nhiều hạn chế của chuỗi giá trị nông nghiệp, như nhiều
tầng nấc, manh mún, phân tán, hạn chế cả về số lượng chuỗi, độ hoàn chỉnh, quy mô
của chuỗi, mức độ chặt chẽ, chất lượng và hiệu quả sản phẩm, dịch vụ của các liên kết
trong chuỗi cả về đầu vào và đầu ra; về mức độ áp dụng công nghệ trong khâu sau thu

21
hoạch và bảo quản; về chi phí logistics và về công tác xây dựng thương hiệu, cung cấp
thông tin và dự báo về thị trường sản phẩm nông nghiệp.
Công tác thông tin, truyền thông, báo chí phổ biến kiến thức người dân cũng như
các cấp quản lý là hết sức quan trọng trong thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ
và lan tỏa mô hình tốt, hiệu quả cao, liên kết hài hòa trong nông nghiệp… Tuy nhiên,
công tác này dường như còn mờ nhạt, chưa đáp ứng yêu cầu và mục tiêu kỳ vọng.
Sản xuất theo chuỗi giá trị mới góp phần khiêm tốn trong phát triển sản xuất, nâng
cao giá trị gia tăng của sản phẩm, bảo vệ thương hiệu và quyền lợi của người tiêu
dùng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và
lâu dài...

5. Mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường

5.1 Nhu cầu của người tiêu dùng

Với quy mô dân số khoảng 100 triệu người, thị trường trong nước là khu vực có
nhiều tiềm năng tiêu thụ nông sản nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho nhiều doanh
nghiệp. Hiện nay, trong các siêu thị lớn nhỏ, không khó để bắt gặp các mặt hàng nông
sản nhập khẩu và thực tế là được người tiêu dùng ưa chuộng hơn hàng trong nước bởi
đồng dều về chất lượng và mẫu mã. Còn hàng nông sản Việt thì phải lựa chọn kĩ lưỡng
vì chất lượng quả thường không đồng đều theo từng lô hàng.
Ví dụ mặt hàng phổ biến như gạo, các doanh nghiệp cũng chủ yếu tập trung nguồn
lực cho xuất khẩu, chưa chú trọng thị trường trong nước. Sản phẩm gạo đang bỏ lỡ thị
trường đầy tiềm năng trong nước. Nguyên nhân một phần là do công ty chủ yếu bán
gạo đóng túi, có nhãn hiệu, phân phối qua các kênh siêu thị cho nên chưa tiếp cận
được lượng lớn và đa dạng khách hàng. Trong khi đó, tại siêu thị, người tiêu dùng lại
có rất nhiều lựa chọn từ các nhãn hiệu gạo khác nhau, nên nếu muốn đẩy mạnh tiêu thụ
gạo của công ty mình thì đồng nghĩa với việc phải “chạy” một chiến lược quảng bá
rộng rãi, dài hơi. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực và tài chính không nhỏ, nên nếu
tính trên lợi nhuận thu lại thì nhiều công ty còn e dè. Ngoài ra, vấn đề làm đau đầu
nhiều công ty sản xuất gạo hiện nay khi phát triển thị trường trong nước chính là nạn
gạo giả tràn lan. Công ty từng nghe phản ánh từ người tiêu dùng về việc gạo của đơn
vị mình không bảo đảm chất lượng, và khi kiểm tra thì phát hiện miệng túi đã bị tháo

22
dây để “tráo gạo” khác vào bên trong. Thậm chí, sản phẩm còn bị làm giả hoàn toàn.
Thiệt hại từ những sự vụ như thế này thường rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín nên dần dần
công ty cũng “ngại” đầu tư mở rộng thị trường trong nước.

Tuy nhiên, gạo vẫn là nông sản chủ lực của nước ta với sản lượng lớn, tăng qua các
năm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và trong những năm gần đây, chất lượng
gạo ngày càng được cải thiện, nổi bật như gạo ST25 được công nhận gạo ngon nhất
thế giới (2019 và 2023), đáp ứng được các nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Ngoài đáp ứng được nhu cầu trong nước, gạo của nước ta còn là nước có sản
lượng xuất khẩu lớn, thậm chí đã vượt cả Thái Lan.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo tháng 3 của nước ta đạt kỷ lục
961.608 tấn, trị giá gần 509 triệu USD, tăng 80% về lượng và 78% về trị giá so với
tháng trước, đồng thời tăng 81% về lượng và 93,5% về trị giá so với cùng kỳ năm
ngoái. Với kết quả này, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong quý I đạt 1,85 triệu tấn,
tăng 23,4% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức cao nhất trong 12 năm qua. Đáng chú
ý, kim ngạch xuất khẩu của ngành gạo trong quý I thiết lập kỷ lục mới là 981 triệu
USD, tăng 34,3% so với quý I/2022. Ba thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt

23
Nam trong quý I là Philippines 893.254 tấn, Trung Quốc 340.385 tấn và Indonesia
148.587 tấn, tăng lần lượt 32,9%, 90,7% và 180 lần so với cùng kỳ năm ngoái.

5.2 Nhu cầu của mạng lưới thu mua

Theo ông Đào Văn Hồ, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại nông nghiệp
Việt Nam, hiện cả nước có hơn 4.000 chuỗi cung ứng nông sản, thực phẩm an toàn đã
được công nhận. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nông sản và xảy ra tình
trạng nhiều doanh nghiệp - nông dân sẵn sàng hủy hợp đồng liên kết tiêu thụ khi thị
trường bị xáo trộn
Các hộ nông dân và người tiêu dùng vẫn gặp khó khăn trong việc thông thương,
thông tin giữa doanh nghiệp và nông dân còn hạn chế, mạng lưới thu mua nông sản ở
Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thông thương giữa các hộ dân và người tiêu
dùng. Khả năng phục hồi của mạng lưới nông sản ở nông thôn Việt Nam vẫn còn kém,
trung bình, mỗi hộ gia đình không bán nông sản cho hơn hai thương lái. Đặc biệt, quan
hệ giữa nông dân và thương lái thường kéo dài trùng bình hơn mười năm, và thương
lái thường xuyên đến thăm nơi canh tác. Tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ của hộ
nông dân vẫn tồn tại. Các địa phương thiếu quy hoạch và cấp hạn ngạch cụ thể cho
từng nông hộ, trang trại, do đó dẫn đến tình trạng nông dân tự phát sản xuất khi chưa
được phê duyệt, cấp phép của chính quyền địa phương, chưa xác định đầu ra rõ ràng.
Việc chạy theo thị trường, chưa tìm được đầu ra cho sản phẩm đã đầu tư sản xuất,
thiếu sự liên kết thu mua ổn định khiến người nông dân gặp khó khăn. Vì vậy, việc sản
xuất - tiêu thụ nông sản bấp bênh, làm thiệt hại cho nông dân xảy ra với nhiều hàng
nông sản cho thấy sự “không bình thường” trong việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ
nông sản ở Việt Nam. Các nông dân vì không nắm bắt được nhu cầu thị trường, sản
xuất thiếu kế hoạch, tự phát, không theo quy hoạch, giá cả, đầu ra lại phụ thuộc vào
thương lái nên dẫn đến dư thừa hàng hóa.
Với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, người sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay chỉ
có thể sản xuất với số lượng ít, chất lượng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà
nhập khẩu. Khi cần nguồn hàng lớn, doanh nghiệp phải thu gom của nhiều hộ nông
dân mới có thể giao hàng số lượng lớn. Tuy nhiên, cách làm này khiến chi phí hàng
hóa, giá thành sản phẩm tăng lên, khó cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài khi sản
xuất quy mô lớn. Trong khi đó, nhiều trang trại, hợp tác xã có khả năng phát triển,
24
cung ứng hàng hóa số lượng lớn, chất lượng cao lại chưa được hỗ trợ thông thoáng từ
chính sách. Doanh nghiệp gặp tình trạng nông dân sẵn sàng hủy hợp đồng và bán hàng
cho các thương lái mua với giá cao hơn. Vì vậy, doanh nghiệp buộc phải đầu tư trang
trại để cung ứng nguyên liệu cho xuất khẩu. Đồng thời, đầu tư công nghệ cao trong sản
xuất để đáp ứng tiêu chuẩn của nhà nhập khẩu. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp, nguồn
vốn đầu tư rất quan trọng, tuy nhiên chính sách xét duyệt hồ sơ vay vốn thiếu đồng bộ
và nếu được xét duyệt cho vay thì số tiền không nhiều. Đơn cử như, với tổng diện tích
11 héc-ta, Công ty TNHH Tư vấn xuất nhập khẩu và Xúc tiến thương mại Toàn Cầu
chỉ vay được 700 triệu đồng không đủ để đầu tư trang thiết bị.

III, Giải pháp cải thiện chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam

1. Xây dựng hệ thống logistics

Tập trung đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống logistics nhằm đảm bảo lưu thông,
nâng cao giá trị chuỗi cung ứng nông sản. Bên cạnh chủ trương chính sách của Nhà
nước, các doanh nghiệp cần đầu tư nhiều hơn nữa để cùng người nông dân hình thành
nên hệ sinh thái từ khâu tổ chức sản xuất, khâu chế biến, khâu thương mại tạo nên nền
tảng logistics trong nông nghiệp ngày càng đầy đủ, khép kín. Tiếp tục hoàn thiện, duy
tu phát triển hạ tầng giao thông, hệ thống các bến cảng lớn, cảng nước sâu đảm bảo
cho tàu biển có tải lớn có thể hoạt động. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các bến
cảng hiện có để đảm bảo các phương tiện có thể lưu thông thuận lợi. Từ đó, rút ngắn
thời gian vận tải cũng như chi phí vận tải cho hàng hóa, nhất là hàng hóa nông sản.
Cần có quy hoạch và thu hút đầu tư xây dựng các trung tâm logistics nông sản, kho
lạnh để phân loại, bảo quản, sơ chế nhằm bảo đảm chất lượng nông sản tươi sống,
nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm. Tăng cường đầu tư hạ tầng logistics cho hàng
hóa nông sản, nhất là các vùng sản xuất nông sản chủ lực, tập trung. Trong đó, chú
trọng đầu tư vào chuỗi lạnh (kho lạnh, xe lạnh, container lạnh …). Cùng với đó, cần
hình thành các vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến quy mô lớn để phục vụ xuất
khẩu. Có phương án, chính sách và mô hình hiệu quả, kết nối chuỗi cung ứng toàn
diện cho hàng hóa nông sản từ khâu canh tác - thu hoạch - thu mua - vận chuyển - làm
sạch - lưu trữ cho đến thông quan - xuất khẩu, hướng tới tối ưu hóa chi phí logistics,
tăng lợi thế cạnh tranh cho nông sản, tạo đầu ra bền vững cho người nông dân. Thay

25
đổi tư duy làm chợ đầu mối bằng trung tâm logistics nông sản, là nơi để tập trung
nguồn hàng, đầu tư thị trường, bảo đảm được chất lượng, vệ sinh và an toàn thực phẩm
đối với hàng hóa nông sản. Xây dựng các trung tâm chiếu xạ, trung tâm kiểm định tại
các vùng nông nghiệp trọng điểm… đảm bảo các tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu quốc
tế. Cải thiện kết nối đường thủy, đường bộ, tận dụng tốt đường sắt, phát triển logistics
hàng không để phát huy sức mạnh tổng thể logistics.

2. Tăng cường hợp tác giữa các đối tác trong chuỗi cung ứng

Cần hình thành các liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân từ khâu sản xuất cho đến
khâu tiêu thụ, đảm bảo cân bằng giữa cung và cầu. Điều quan trọng là xây dựng một
môi trường hợp tác mạnh mẽ và đáng tin cậy giữa các chủ thể. Điều này đòi hỏi sự
thấu hiểu, tôn trọng và sự cam kết lâu dài từ tất cả các bên liên quan. Các hợp đồng và
thỏa thuận cung cấp rõ ràng các điều khoản và điều kiện hợp tác. Để đảm bảo sự liên
kết và tương tác hiệu quả, các chủ thể trong chuỗi cung ứng cần chia sẻ thông tin quan
trọng như dự báo nhu cầu, lịch trình sản xuất, thông tin về chất lượng và an toàn thực
phẩm. Việc chia sẻ thông tin này giúp tất cả các bên cùng hiểu và đáp ứng nhu cầu của
nhau một cách chính xác và kịp thời.

3. Đầu tư nghiên cứu, khoa học công nghệ

Trong Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 -
2030, tầm nhìn đến năm 2050 mới được phê duyệt, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và
chuyển giao công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được những
mục tiêu đề ra. Chiến lược nêu rõ, tăng nguồn vốn đầu tư công, phấn đấu đạt 5% tổng
đầu tư cho nông nghiệp; ưu tiên đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu
khoa học, ứng dụng công nghệ và phát triển nguồn nhân lực; đầu tư một số viện,
trường nghiên cứu cơ bản trở thành các đơn vị ngang tầm các nước trong vùng; có cơ
chế, chính sách phù hợp để xã hội hóa, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào
KH&CN trong nông nghiệp. Để sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư, Chiến lược cũng
nhấn mạnh đến việc đổi mới hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập theo hướng
tự chủ; đẩy mạnh cơ chế đặt hàng và đấu thầu nhiệm vụ KH&CN; có chính sách
khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và nông
dân tham gia đổi mới sáng tạo; cải thiện cơ chế quản lý kinh phí nhà nước cấp cho
26
nghiên cứu, bao gồm cơ chế khoán sản phẩm; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
KH&CN, trọng dụng nhân lực nghiên cứu, tránh tình trạng chảy máu chất xám trong
các đơn vị công lập

4. Tăng cường quản trị chuỗi cung ứng

Điều này bao gồm cải thiện quản lí nguồn vốn, nhân lực, sản xuất và hiệu suất
chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp cần từng bước thúc đẩy cơ cấu lại hoạt động sản
xuất công nghiệp, đặc biệt công nghiệp hỗ trợ nhằm tự chủ nguồn nguyên phụ, vật liệu
trong nước phục vụ cho phát triển bền vững. Ngành công nghiệp hỗ trợ được định
hướng là một trong những ngành ưu tiên phát triển và được ưu đãi đầu tư. Số lượng và
chất lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đang ngày càng được cải
thiện. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phần nào đáp ứng được nhu cầu trong nước và
xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Một số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
tích cực sử dụng các công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, đáp ứng được các tiêu
chuẩn quốc tế, trở thành nhà cung cấp lớn cho các công ty đa quốc gia. Số lượng nhà
cung ứng cấp 1 của Công ty Samsung tăng từ 35 doanh nghiệp (năm 2018) lên 42
doanh nghiệp (năm 2021). Số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng tăng từ 157 doanh
nghiệp (năm 2018) lên 170 doanh nghiệp (năm 2021). Bên cạnh đó, tính đến tháng 4-
2021, đã có thêm ba doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng của Tập
đoàn Toyota(7).
Khi các hoạt động giao thương trực tiếp gặp nhiều khó khăn, hệ thống cơ sở dữ
liệu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp hỗ trợ chính thức được triển
khai, là dấu mốc quan trọng nhằm giải quyết nhu cầu hình thành mạng lưới kết nối
doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) trong và ngoài nước, giúp các doanh nghiệp,
nhà đầu tư tìm kiếm thông tin nhanh chóng, chính xác, đáp ứng nhu cầu kết nối đầu tư,
tăng cường cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài để dần đưa sản phẩm tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi
giá trị toàn cầu.

27
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, chuỗi cung ứng nông sản của nước ta đang phát triển nhưng cũng có
những điểm yếu cần khắc phục như thiếu tính liên kết, tỉ lệ nông sản thất thoát cao,
chuỗi còn nhiều trung gian gây gián đoạn việc vận chuyển, khiến sản phẩm đến tay
khách hàng không còn tươi mới mà giá thành lại cao. Một trong những vấn đề quan
trọng là sự thiếu liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng. Việc thiếu
thông tin chính xác và kịp thời, sự không đồng nhất về tiêu chuẩn chất lượng và quy
trình sản xuất, cùng với việc thiếu quy trình giao tiếp và đáp ứng nhanh chóng, đã gây
ra sự gián đoạn và mất cơ hội trong chuỗi cung ứng. Ngoài ra, còn có các thách thức
về công nghệ và quản lý. Việc thiếu đầu tư trong công nghệ và hệ thống thông tin hiện
đại đã làm giảm tính hiệu quả và minh bạch trong chuỗi cung ứng. Hơn nữa, quản lý
chất lượng và an toàn thực phẩm cũng còn đòi hỏi sự nâng cao để đáp ứng yêu cầu của
thị trường nội địa và quốc tế. Tuy nhiên, cũng có những cơ hội và giải pháp để cải
thiện và phát triển chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam. Đầu tiên, việc xây dựng mối
quan hệ đối tác đáng tin cậy và lòng tin giữa các chủ thể là cơ sở để tăng cường hợp
tác. Việc chia sẻ thông tin và thông tin trong chuỗi cung ứng, cùng với việc đầu tư vào
công nghệ và hệ thống thông tin hiện đại, cũng có thể cải thiện tương tác và giao tiếp
giữa các bên. Ngoài ra, việc xây dựng quy trình liên kết chặt chẽ và thúc đẩy quyền lợi
chung trong chuỗi cung ứng sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi cho tăng trưởng và
phát triển chung. Các chủ thể cần thúc đẩy quyền lợi chung và chia sẻ lợi ích để tạo ra
sự đồng lòng và tương tác tích cực. Trong tổng thể, việc tăng cường hợp tác giữa các
chủ thể trong chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam là một yếu tố quan trọng để đảm
bảo hiệu quả và bền vững của ngành nông nghiệp. Bằng cách thực hiện các biện pháp
như xây dựng lòng tin, chia sẻ thông tin, đầu tư vào công nghệ và xây dựng quy trình
liên kết chặt chẽ, chúng ta có thể thúc đẩy phát triển của chuỗi cung ứng nông sản, tạo
ra giá trị gia tăng và nâng cao đời sống của người dân nông thôn và cả cộng đồng.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng, H. T. (n.d.). Quản trị chất lượng trong chuỗi cung ứng Việt Nam.
https://tmu.edu.vn/upload/tmu_old/saudaihoc/news/2019_10/luan-an-dang-thu-
huong.pdf
2. An, N. T. (n.d.). Nông sản Việt Nam nhìn từ góc độ chuỗi cung ứng.
3. Bùi, T. V. (n.d.). Phân tích chuỗi cung ứng ngành hàng gạo trê trên tỉnh Vĩnh
Long. Tạp chí khoa học đại học Cửu Long.
4. Đặng, K. (n.d.). Mô hình chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng thịt heo sạch – an
toàn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn, T. T. (n.d.). Chuỗi cung ứng sản xuất nông nghiệp Việt Nam.
6. THÔNG CÁO BÁO CHÍ VỀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG
NGHIỆP GIỮA KỲ NĂM 2020. (n.d.).

29

You might also like