Professional Documents
Culture Documents
Kiem-Tra-Y-Hoc TDTT
Kiem-Tra-Y-Hoc TDTT
1. Tên chương: Phương pháp kiểm tra y học trong thể dục thể thao.
2. Tên giảng viên: GVC-TS Nguyễn Thái Sinh - Bộ môn Điền kinh, thể dục và lý
luận – Khoa Giáo dục Thể chất – ĐH Huế.
3. Mục tiêu:
- Cung cấp cho sinh viên kiến thức về phương pháp kiểm tra y học trong thể dục thể
thao.
- Trang bị cho sinh viên các test trong y học, đánh giá trình độ thể lực, sức khỏe của
người tập.
- Giúp sinh viên biết vận dụng phương pháp này trong quá trình nghiên cứu khoa
học.
4. Số tiết: 3 tiết.
Phương pháp kiểm tra y học là một trong các phương pháp nghiên cứu khoa học
được sử dụng rộng rãi trong y học để nghiên cứu các mặt về cấu tạo và chức năng cơ thể
con người với các cấp độ khác nhau, từ cơ thể, hệ cơ quan, cơ quan riêng lẻ cho đến từng
tế bào. Các phương pháp y học được chia thành các phương pháp : phương pháp phỏng
vấn, phương pháp quan sát, phương pháp kiểm tra và các phương pháp thực nghiệm
trong y học.
Nội dung kiểm tra y học trong thể dục thể thao thường bao gồm :
Phương pháp thẩm vấn còn được gọi là phương pháp hỏi - đáp, là một trong
những phương pháp quan trọng của kiểm tra y học. Bằng phương pháp thẩm vấn có thể
xác định được các nguyên nhân gây bệnh, tính chất phát triển của bệnh, các dấuhiệu cơ
bản của bệnh và những đặc điểm của đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ
với môi trường xung quanh. Phương pháp thẩm vấn thường được tiến hành theo các
trình tự nội dung sau :
- Tiểu sử chung.
Là phương pháp sử dụng thị giác để đánh giá dấu hiệu bên ngoài về cấu tạo
cũng như chức năng của các cơ quan và toàn bộ cơ thể.
Muốn quan sát được tốt cần phải đảm bảo các yêu cầu sau :
- Nơi quan sát phải có đầy đủ ánh sáng (giảm tới mức tối đa cho phép).
- Người được kiểm tra mặc ít quần áo (giảm tới mức cho phép).
- Quan sát từ trên xuống dưới, từ to đến nhỏ, từ trái sang phải. Không bỏ
sót bộ phận nào của cơ thể.
Là phương pháp dùng xúc giác da bàn tay của người kiểm tra để xác định
trạng thái da, độ lớn của các tuyến dịch, trạng thái của cơ quan vận động, các điểm
đau. Bằng sờ nắn có thể xác định được vị trí của các cơ quan, những vị trí bị chấn
thương trước đó và xác định một số chỉ tiêu sinh lý như mạch, tần số hô hấp...
Phương pháp gõ trong kiểm tra y học được tiến hành bằng cách dùng ngón
của bàn tay này gõ lên ngón của bàn tay kia khi ngón tay đó được đặt lên những vị
trí nhất định của người được kiểm tra. Các âm thanh khác nhau phát ra từ cơ quan,
tổ chức cho phép ta có thể xác định được vị trí, giới hạn và trạng thái của chúng.
Thông thường phương pháp gõ dùng để xác định vị trí hình thái các cơ quan
nội tạng như tim, gan, phổi...
Âm thanh có thể nghe thấy được và thông qua chúng có thể đánh giá về
trạng thái chức năng và bệnh lý của cơ quan.
Trong kiểm tra y học phương pháp nghe chủ yếu được sử dụng để nghe tim,
phổi, dạ dày, ruột...
Các phương pháp đo người cần phải tiến hành vào cùng một thời gian trong ngày,
tốt nhất là vào buổi sáng, theo một phương pháp tiêu chuẩn nhất định. Dụng cụ đo cũng
phải là những dụng cụ chuyên môn đúng tiêu chuẩn, đã được kiểm tra độ chính xác .
Người được kiểm tra phải mặc quần áo lót ngắn để không làm ảnh hưởng đến độ chính
xác của phép đo.
- Chiều cao đứng và ngồi: Được đo bằng thước đo chiều cao, có độ chuẩn tới 0,5cm.
Chiều cao đứng được đo từ mặt đất tới đỉnh đầu. Người được đo đứng ở tư thế đứng
nghiêm, lưng quay về phía thước đo và tiếp xúc với thước ở 3 điểm: gót chân, mông và
lưng. Khi đo chiều cao ngồi người được đo ngồi ngay ngắn trên ghế có chiều cao vừa đủ
để khi ngồi bàn chân chạm đất, cẳng chân vuông góc với đùi, lưng và mông tiếp xúc với
thước đo. Chiều cao ngồi được tính từ mặt ghế tới đỉnh đầu, chiều cao đứng trừ đi chiều
cao ngồi có thể cho ta số đo chiều dài chi dưới.
Khi đó chiều cao cần lưu ý rằng: Chiều cao của cơ thể có thể thay đổi trong ngày, buổi
chiều tối, chiều cao có thể giảm đi 3 – 5 cm
- Cân nặng (trọng lượng cơ thể): Có ý nghĩa quan trọng để đánh giá sự phát triển
thể lực và tình trạng sức khoẻ của người tập. Trọng lượng cơ thể là chỉ số quyết định thi
đấu của vận động viên.
Cân nặng là chỉ số tương đối dễ biến đổi và chụi tác dụng của cá yếu tố khác
nhau. Sau một buổi tặp nặngcó thể giảm tới 2 – 3kg. Cân nặng được đo bằng cân y tế với
độ chính xác là 50kg.
+ Vòng cổ: được đo ngang sụn giáp trạng thái của thanh quản, sát đáy chữ V của
sụn giáp trạng.
+ Vòng ngực: được đo ở 3 trạng thái : vòng ngực bình thường, vòng ngực khi hít
vào hết sức và vòng ngực khi thở ra hết sức. Thước dây được đặt trên lồng ngực khi thở
ra hết sức.Thước dây được đặt trên lồng ngực phía lưng ngang dưới của xương bả vai,
phía ngực ngang qua mũi ức của xương ức.
+ Vòng cánh tay: thước dây được đặt ở phần lớn nhất của cánh tay, khi tay co ở
khớp khuỷu, bàn tay nứm chặt. Sau đó vẫn ở vị trí ấy đo vòng cánh taykhi cơ thả lỏng
+ Vòng cẳng tay: đo ở phần cẳng tay lớn nhất khi cơ thả lỏng.
+ Vòng đùi và vòng cẳng chân: đo khi người được đo đứng ở tư thế chân rộng
bằng vai, trọng lượng cơ thể phân bố đều lên hai chân, cơ thể thả lỏng. Vòng đo ngay
dưới nếp lằn mông. Vòng cẳng chân đo ngay phần to nhất của cẳng chân.
- Chiều rộng vai: đo bằng cách đặt hai đầu compa vào hai điểm xa nhất của đầu
vai.
- Chiều rộng hông: đo ở hai điểm xa nhất ngang hông. Khi đo chiều rộng hai đầu
compa phải cùng nằm rên một mặt phẳng nằm ngang.
- Dung tích sống của phổi: được đo bằng một dụng cụ đặc biệt goi là phế dung kế.
Trước khi đo, người được kiểm tra hít thở 3 – 4 lần, sau đó hít thật sâu rồi thở ra hết sức
vào ống của máy đo, có hể dùng tay để bịt mũi khi thở ra. Thường thường người ta đo
dung tích sống ba lần rồi lấy kết quả cao nhất.
- Lực bóp tay: đo bằng lực kế tay. Người được đo đứng ở tư thế bình thường, tay
duỗi ra thẳng. Lòng bàn tay cầm đồng hồ đo hướng ra phía trước, bóp hết sức với cường
độ tăng dần đều. Mỗi tay bóp ba lần, lấy kết quả cao nhất.
- Lực kéo tay: đưọa đo bằng lực kế lưng, khi đo người được kiểm tra dẫm hai
chân lên đầu chân của lực kế, hai tay nắm vào đầu tay của lực kế đã được điều chỉnh sao
cho tay nắm ở ngang đầu gối. Người được kiểm tra phải kéo bằng cách ưỡn thân người
với lực tăng dần, trong khi tay chân vẫn giữ thẳng. Trước khi đo lực kéo lưng người được
kiểm tra phải khởi động lưng, thân và vai Đào Điên
Có rất nhiều chỉ số để đánh giá thể lực, dưới đây chỉ trình bày một cách tính một
số chỉ số thể lực thường dùng duy nhất.
- Chỉ số Pinhê (pignet):
Pinhê=Cao(cm) - [cân nặng (kg) + vòng ngực trung bình (cm)]. Chỉ số này được
dùng ở các nước nói tiếng Pháp.Ở Việt Nam chỉ số Pinhê được đánh giá như sau:
-Chỉ số dung tích sống (chỉ số Deruevy) là tỷ lệ giữa dung tích sống (ml) và cân
nặng (kg).
Ở người Việt Nam trung bình chỉ này là 70ml (nam) và 68ml (nữ).
Các tác giả Việt Nam:Nguyễn Quang Quyền và Đỗ Như Cương (1969) đề nghị
chỉ số quay vòng cao như sau:
QVC = chiều cao (cm) - [vòng ngực hít vào (cm) + vòng đùi phải (cm) + vòng
cánh tay phải (cm).
Yếu 14.1-20.0
Chỉ số mạnh trung bình là 65.80% đối với nam và 48.50% đối với nữ.
- Chỉ số Ketle: Đánh giá sự pháp triển cân đối giữa cân nặng và chiều cao. Được
tính theo công thức:
Cân nặng (g)
K=
Chiều cao (cm)
Chỉ số này chủ yếu đánh giá thể trạng chung của cơ thể, được tính bằng đơn vị
g/cm.
Đánh giá kết quả:
- Nam trung bình: 350 – 400g/cm.
- Nữ trung bình: 325 – 375g/cm.
Nếu chỉ số đo dược cao hơn chỉ số Ketle trung bình chứng tỏ cơ thể béo, thừa
trọng lượng.
Nếu chỉ số thu được thấp hơn chỉ số Ketle trunng bình chứng tỏ cơ thể gầy, thiếu
trọng lượng.
- Chỉ số BroCa:
- Chỉ số Quetelet
Ngoài ra trong thực tế còn có thể sử dụng một số chỉ số khác như sau:
- Chỉ số Kaup:
- Chỉ số Robeer:
- Chỉ số Livi
20 - 27 bình thường
<20 - gầy
Thường thường với trạng thái chức năng của các cơ quan tương ứng với hình thể
bên ngoài của cơ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp tầm vóc có thể phát triển tốt
nhưng tình trạng chức năng của các cơ quan lại có thể không tốt.
+ Đo tần số hô hấp
+ Đo lực cơ hô hấp
- Thử nghiệm nín thở sau khi hít thở vào (Test Stange)
- Khái niệm
- Phương pháp gõ