You are on page 1of 25

31

Chương 2.
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời kỳ hội nhập kinh tế

* Tình hình đào tạo nhân lực du lịch tại các cơ sở đào tạo
Hiện Thành phố có khoảng hơn 60 cơ sở đào tạo về du lịch hoặc các
khoa đào tạo du lịch của các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố.
Đối với hệ thống các trường ĐH, CĐ và Trung học chuyên nghiệp, tại thành
phố Hồ Chí Minh chưa có trường Đại học chuyên về đào tạo du lịch mà chỉ
có khoa du lịch trong các trường Đại học. Trong đó, theo khảo sát của tác
giả có 17 trường đại học có khoa du lịch, 10 trường cao đẳng, 25 trường
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có đào tạo về du lịch.
Ví dụ: Khoa Du Lịch - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Du lịch - Khách sạn trường Đại học Ngoại
ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Du lịch - Trường Đại học Văn
hóa thành phố Hồ Chí Minh.
- Về chương trình học:
Theo khảo sát của Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các
trường đều có cập nhật những giáo trình, chương trình mới trong và ngoài
nước về du lịch, đã có sự quan tâm đến chất lượng đào tạo và đầu ra của sinh
viên thông qua việc liên kết với các trường trong và ngoài nước về đạo tạo
du lịch, cũng như các doanh nghiệp du lịch tại Thành phố.
Ngoài ra, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã đưa ra bộ “Tiêu chuẩn kỹ
năng nghề du lịch Việt Nam” làm tài liệu chuẩn phục vụ việc giảng dạy tại
các cơ sở đào tạo du lịch của Tổng cục, nhờ đó, học viên đã nắm bắt kịp với
32

sự phát triển của ngành du lịch trong nước và ngoài nước, từ đó nâng cao tay
nghề và trình độ nhằm mang đến chất lượng dịch vụ tốt nhất cho du khách.
Trong thời gian qua, các đơn vị giáo dục các chuyên ngành du lịch
như trường nghề, cao đẳng, đại học, … tại Thành phố đã đào tạo ra một số
lượng lao động nhất định có chất lượng đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển
của ngành du lịch. Tuy nhiên, danh mục ngành nghề đào tạo còn quá ít so
với yêu cầu sử dụng, nội dung, chương trình chậm được sửa đổi, bổ sung,
chương trình đào tạo chưa đi đôi với yêu cầu thực tế. Cụ thể, chương trình
học còn tập trung vào lý thuyết nhiều, chưa có nhiều buổi thực hành tại các
doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch. Chưa có sự đầu tư đúng mức về
ngoại ngữ. Do đó, phần lớn sinh viên ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu
tuyển dụng của doanh nghiệp.
- Về giảng viên:
Qua khảo sát của Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn đội
ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo về du lịch trên địa bàn Thành phố có
bằng cấp chuyên môn tương đối cao như thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư, ... nhưng
chuyên ngành được đào tạo lại không phải là du lịch, ngoài ra giảng viên cơ
hữu của một số trường còn ít chủ yếu là giảng viên thỉnh giảng. Đội ngũ
giảng viên dạy còn thiếu kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn về du lịch, vì
vậy chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của các thị trường. Hiện
nay, các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch tại Thành phố đã mời giảng viên
nước ngoài về giảng dạy theo hệ thống VTOS - thống đánh giá trình độ tay
nghề tương về du lịch đối chặt chẽ và khá chính xác.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo, phần lớn các cơ sở đào tạo
đều trang bị các phương tiện giảng dạy tương đối hiện đại như overhead,
projector, LCD projector, video, VCD, phòng Lab... Tuy nhiên, địa điểm tổ
chức lớp học còn chưa ổn định do một số trường còn thuê, mướn cơ sở để
33

giảng dạy nên điều kiện và phương tiện giảng dạy còn hạn chế, các trường
thiếu cơ sở thực hành để sinh viên có điều kiện thực tập thực tế như một nhân
viên thực thụ. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch với các cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực du lịch tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên đi thực tập
còn ít và mang tính tự phát, thiếu tính liên kết chặt chẽ và lâu dài.
Bảng 2.1. Số lượng học viên ngành du lịch được đào tạo trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020
Hệ đào tạo Số lượng học viên Số tốt nghiệp
Đại học 3675 1257
Cao đẳng 7333 2859
TCCN 7447 4573
Liên thông 775 265
Bồi dưỡng, ngắn hạn 2055 2055
Tổng cộng: 21.285 11.009

Nguồn: Hiệp hội Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Trong thời gian qua, Sở du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức
các buổi đào tạo nghiệp vụ ngắn và dài hạn cho đội ngũ lao động ngành du
lịch bao gồm khách sạn từ 1-2 sao, hướng dẫn viên, thuyết minh viên, …
nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Thành phố.
Đối với cán bộ quản lý du lịch, một số cán bộ của Sở Du lịch đã được
cử đi học theo chương trình đào tạo thạc sĩ, lớp Quản lý nhà nước, trung cấp
chính trị, lớp kĩ năng giao tiếp, ... Thông qua các lớp đào tạo bồi dưỡng ngắn
hạn do Sở Du lịch phối hợp với các cơ sở đào tạo du lịch tổ chức, đã nâng
cao nghiệp vụ cho đội ngũ lao động phục vụ cho ngành du lịch của Thành
phố.
34

* Các chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các cơ
sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch
- Tại các cơ sở đào tạo: Qua nghiên cứu và khảo sát của tác giả, trong
thời gian qua, các cơ sở đào tạo đã từng bước xây dựng các chương trình đào
tạo và xây dựng cơ sở vật chất tốt hơn, đồng thời nâng cao kỹ năng thực hành
cho sinh viên. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo cũng đã tăng cường việc nghiên
cứu sâu rộng về du lịch để nâng cao hiệu quả đào tạo du lịch cho sinh viên.
Tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề dành giúp cho doanh nghiệp du lịch và
sinh viên gặp gỡ và trao đổi để nắm bắt nhu cầu tuyển dụng của doanh
nghiệp. Qua đó, các cơ sở đào tạo cũng nắm bắt được yêu cầu của doanh
nghiệp và xây dựng chương trình đào tạo dựa trên các yêu cầu đó. Đồng thời,
các cơ sở đào tạo về du lịch còn tổ chức giao lưu và trao đổi sinh viên với
các trường quốc tế về đào tạo du lịch.
Ví dụ: Trường Đại học Hutech phối hợp cùng Đất Việt Tour tổ chức
Hội Thảo “Khách Hàng & Dịch Vụ Khách Hàng” cho Sinh viên Ngành Lữ
Hành; Khoa Du lịch Trường Đại học Văn Lang tổ chức Hội thảo khoa học
chuyên đề “Tiếp cận định tính trong nghiên cứu du lịch ở Việt Nam: Câu
chuyện từ các trường hợp nghiên cứu”.
- Tại các đơn vị kinh doanh du lịch:
Đối với các doanh nghiệp lữ hành: nhận thức được sự cần thiết của
việc cải thiện trình độ nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ, … của người lao động,
các doanh nghiệp lữ hành cũng đã tiến hành tổ chức các buổi huấn luyện
nghiệp vụ như kỹ năng của một hướng dẫn viên, kỹ năng giao tiếp với khách
hàng, … Ngoài ra, việc tổ chức các hội thi kèm giải thưởng hấp dẫn cũng tạo
động lực học hỏi và nâng cao nghiệp vụ của người lao động. Tuy nhiên, thực
trạng trên chỉ diễn ra ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, còn tại các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, người lao động hầu như không có cơ hội được tham gia
35

vào các lớp bồi dưỡng dẫn đến nhiều hạn chế về cả nghiệp vụ lẫn thông tin
thị trường du lịch.
Ví dụ: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Trường Cao
đẳng Nghề Du lịch Sài Gòn và Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
khoá tập huấn bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng
nghề và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho hướng dẫn viên, thuyết minh
viên và điều hành tour du lịch trên toàn quốc, tại Hội trường Hoa Sứ 2, Khách
sạn Đệ Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa tập huấn diễn ra từ ngày 18-
22/9/2017, với sự tham dự của 150 đại biểu là cán bộ phòng quản lý du lịch,
trung tâm thông tin xúc tiến du lịch thuộc các Sở Du lịch, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch; hướng dẫn viên, thuyết minh viên và quản lý, điều hành tour
du lịch thuộc công ty du lịch, lữ hành và các giảng viên, giáo viên giảng dạy
nghiệp vụ lữ hành, nghiệp vụ hướng dẫn tại các cơ sở đào tạo du lịch đến từ
30 tỉnh, thành phố từ Lào Cai đến Cà Mau.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực nhà hàng, khách sạn:
Tại các khách sạn, nhà hàng từ 3-5 sao, công tác bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho nhân viên rất được chú trọng. Hằng năm, các doanh nghiệp
này đều có kế hoạch và chương trình bồi dưỡng riêng dành cho nhân viên ở
các bộ phận khác nhau trong khách sạn như quản lý khách sạn, lễ tân, buồng,
bếp, … bằng cách tổ chức các buổi chuyên đề du lịch. Các khách sạn vừa và
nhỏ do quy mô kinh doanh nhỏ và đa số là cá thể, tiểu chủ nên không chú
trọng và không có kinh phí để tổ chức các buổi đào tạo nghiệp vụ.
Ví dụ: Hiệp hội Đào tạo Du lịch Việt Nam đã tổ chức cuộc thi Tay
nghề du lịch Việt Nam vào năm 2017, với mục đích nhằm góp phần nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, từng bước tiến tới chuẩn hóa tay nghề
nguồn nhân lực du lịch. Hội thi chọn ra 06 tay nghề tổ chức, bao gồm: Phục
vụ bàn, pha chế, bếp, lễ tân, phục vụ buồng/ phòng, hướng dẫn viên. Đối
36

tượng dự thi là giảng viên, chuyên gia công tác tại các cơ sở đào tạo du lịch;
người lao động tại các doanh nghiệp lữ hành, nhà hàng, khách sạn, khu du
lịch, …; thí sinh tự do có chứng chỉ nghiệp vụ du lịch phù hợp và xác nhận
của đơn vị đã và đang làm việc trong nước.
* Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho hướng dẫn viên, thuyết minh
viên du lịch:
Đối với lực lượng hướng dẫn viên: Nhằm củng cố các kiến thức về
văn hóa, lịch sử, ngoại ngữ, … và bổ sung những kiến thức mới. Trong thời
gian qua, Sở Du lịch Thành phố đã tổ chức các hội thi hướng dẫn viên giỏi
tại Thành phố để các hướng dẫn viên học hỏi lẫn nhau, chia sẻ các kinh
nghiệm trong công việc. Ngoài ra, Sở Du lịch thành phố còn tổ chức bồi
dưỡng kiến thức định kỳ để cấp lại thẻ cho hướng dẫn viên, thông qua các
khóa bồi dưỡng hướng dẫn viên đã được cập nhật và nâng cao những kiến
thức và kỹ năng mình còn thiếu sót để phục vụ cho công việc của mình.
Ví dụ: "Hội thi Hướng dẫn viên du lịch giỏi Thành phố Hồ Chí Minh
mở rộng" là một trong những sự kiện thường niên nổi bật do Sở Du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Hiệp hội Du lịch Thành phố tổ chức
dành cho tất cả hướng dẫn viên, sinh viên ngành du lịch. Là sân chơi nghề
nghiệp vô cùng hữu ích, nhằm tăng cường sự học hỏi kinh nghiệm nghiệp
vụ, kiến thức của đội ngũ hướng dẫn viên trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh
Đối với thuyết minh viên du lịch: Trong thời gian qua, Sở Du lịch đã
phối hợp với trường Cao đẳng Nghề Du lịch Sài Gòn tổ chức các khóa trau
dồi thêm nghiệp vụ du lịch cho thuyết minh viên tại các các khu du lịch, bảo
tàng, khu vui chơi - giải trí, khu di tích - lịch sử, ... nhằm nâng cao kiến thức
và kỹ năng cho thuyết minh viên.
37

Ví dụ: Tháng 11/2018, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức


lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ dành riêng cho đối tượng là hướng dẫn
viên du lịch và hướng dẫn viên tại điểm, thuyết minh viên tại di tích. Lớp bồi
dưỡng được tổ chức với mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng
thời, đáp ứng phần nào trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông
tin, tác động của cách mạng công nghiệp 4.0.
2.1.1. Về cơ cấu lao động ngành Du lịch
Về số lượng nguồn nhân lực ngành du lịch
Trong những năm qua, cùng với sự gia tăng nhanh của khách du lịch,
cơ sở lưu trú và các doanh nghiệp lữ hành cũng vì thế mà tăng thêm tạo ra
nhiều cơ hội việc làm và thu hút một số lượng lớn người lao động. Năm
2014, có 81.000 lao động hoạt động trong ngành du lịch, năm 2015 tăng lên
94.560 người, năm 2016 là 107.300 người, năm 2017 là 122.000 người, đến
năm 2018 con số này đã tăng lên 140.350 người và đến năm 2019 là 161.400
người. Như vậy có thể thấy trong những năm gần đây số lượng lao động
ngành du lịch đã co sự gia tăng đáng kể trước sự phát triển nhanh chóng của
ngành du lịch [70].
Bảng 2.2. Số lượng nguồn nhân lực ngành du lịch Thành phố
Hồ Chí Minh Giai đoạn 2014 – 2019

Lĩnh vực 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Lữ hành 24,425 28.800 31,680 36,500 42,000 48,300


Khách sạn 43,075 49,560 56,990 64,000 73,600 84,600
Khác 13,500 16,200 18,630 21,500 24,750 28,500
Tổng cộng 81,000 94,560 107,300 122,000 140,350 161,400
Nguồn: Hiệp hội Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
38

Tuy có sự phát triển nhanh nhưng số lượng lao động hiện tại chỉ mới
đáp ứng được 60% nhu cầu thực tế, nhiều doanh nghiệp lữ hành phải sử dụng
các lao động thuộc ngành nghề khác, chính vì thế dẫn đến việc thiếu trình độ
chuyên môn của người lao động. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực ngành
du lịch Thành phố cũng chưa đáp ứng được nhu cầu, kiến thức, kỹ năng và
trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Nhiều sinh viên
ngành du lịch dù đã trải qua đào tạo và tốt nghiệp nhưng trong quá trình làm
việc cần phải đào tạo lại, đây là những bất cập mà ngành du lịch Thành phố
phải khắc phục trong thời gian tới.
Hiện nay, do tác động của dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp trong
lĩnh vực du lịch sau thời gian cầm cự đã phải giải thể, phá sản, tương ứng
với điều đó là người lao động trong ngành du lịch thất nghiệp, số ít còn lại
sau thời gian cầm cự với mức lương tối thiểu không đảm bảo thu nhập, chính
vì thế khoảng 1/4 nguồn lao động ngành du lịch đã phải chấp nhận chuyển
nghề để duy trì cuộc sống. Tính riêng năm 2020, trước những ảnh hưởng tiêu
cực mà dịch Covid-19 mang lại, đã có gần 400 doanh nghiệp lữ hành quốc
tế xin thu hồi cấp giấy phép, ngành du lịch Việt Nam đang chịu những tổn
thất nặng nề và có thể mất hơn một thập kỷ mới có thể khôi phục lại được
[69].
Về chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch của Thành phố
Thứ nhất, về thể lực. Có thể nói, một yếu tố không thể thiếu đối với
nguồn nhân lực chất lượng cao đó chính là sức khỏe. Sức khỏe ngày nay
không chỉ được hiểu là người đang trong trạng thái không có bệnh tật, mà
còn là sự hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần. Người lao động có sức
khỏe tốt có thể mang lại năng suất lao động cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai. Không
phải chỉ có người lao động chân tay mới cần có một sức khỏe tốt, mà ngay
39

cả người lao động trí óc cũng cần có một sức khỏe tốt vì sức khỏe tốt là nền
tảng để phát triển trí óc.
Nền kinh tế phát triển đồng nghĩa với việc mức sống của người dân
cũng tăng theo, nên tầm vóc và thể lực của lao động Việt Nam nói chung và
lao động du lịch thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã được nâng lên. Tuy
nhiên, chiều cao và thể lực của người Việt Nam vần còn thua kém xa các
nước trong khu vực. Ngoài ra, do ít vận động nên thể lực, đặc biệt là sức bền,
sức dẻo dai và sức mạnh của thanh niên Việt được xếp vào mức kém so với
chuẩn quốc tế. Đây là vấn đề có tác động không tốt đến thể lực người lao
động nói riêng và chất lượng nguồn lao động nói chung.
Đối với ngành du lịch, sức khỏe là điều kiện đầu tiên mà người làm
nghề phải có vì ngành du lịch là ngành dịch vụ, cường độ làm việc dày đặc,
thời gian làm việc nhiều, có những mùa cao điểm, người làm nghề phải làm
việc liên lục mấy ngày, mấy tuần, mấy tháng để đáp ứng nhu cầu du lịch cao
của du khách như ẩm thực, vui chơi giải trí, hướng dẫn, lưu trú, …
Thứ hai, về trí lực. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng số lượng du
khách và những đòi hỏi cao về chất lượng dịch vụ, đã đặt ra yêu cầu về chất
lượng lao động trong ngành du lịch phải được nâng cao. Đặc biệt khi hội
nhập về du lịch của Việt Nam với thế giới ngày càng tăng
Theo thống kê năm 2012, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 41.448
lao động, trong đó, trình độ trên đại học và đại học, cao đẳng chiếm 14,5%,
trung cấp chiếm 51%, sơ cấp chiếm 24% và chưa qua đào tạo chiếm 10,5%.
Trong giai đoạn 2015 – 2019 cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng,
trình độ của người lao động ngành du lịch cũng có xu hướng thay đổi tích
cực, theo đó số lượng lao động có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp tăng
nhanh, còn lao động chưa qua đào tạo hay chỉ qua đào tạo sơ cấp giảm dần,
điều này chứng tỏ chất lượng nguồn nhân lực của ngành du lịch Thành phố
40

đang có xu hướng ngày càng tăng. Số lao động đã qua đào tạo, có trình độ
của ngành du lịch chủ yếu làm việc tại các doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp nhà nước và các công ty du lịch tương đối lớn [37].
Bảng 2.3. Trình độ nguồn nhân lực ngành du lịch thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2005 – 2019
Trên Cao Trung Chưa qua
Năm Đại học Sơ cấp
đại học đẳng cấp đào tạo

2005 18 274 486 3.080 7.069 13.148

2011 42 822 4.275 19.586 8.702 4.775

2012 100 881 4.623 21.152 10.299 4.393

2015 698 10.565 21.852 34.854 20.637 6.954

2016 813 11.424 25.768 37.857 23.565 7.873

2017 826 13.652 27.534 38.687 24.854 7.645

2019 910 23310 30.621 50.079 40.350 16.140

Nguồn: Hiệp hội Du lịch thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021

Từ nghiên cứu thực tiễn của tác giả cũng như sự đánh giá từ các
chuyên gia ngành du lịch, đa số các lãnh đạo bao gồm giám đốc, tổng giám
đốc, … chưa qua đào tạo chuyên ngành du lịch mà đã qua đào tạo các chuyên
ngành kinh tế khác, sau khi đào tạo chuyển sang làm việc trong ngành du
lịch và sử dụng kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình làm việc để quản
lý doanh nghiệp. Còn bộ phận người lao động làm việc ở các nhà hàng, khách
sạn, … được đào tạo nghiệp vụ khá tốt, có chuyên môn nghiệp vụ, khả năng
ngoại ngữ tốt, … tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định.
41

Như đã đề cập ở trên, yêu cầu của du khách khi đi du lịch ngày càng
cao, chính vì thế đội ngũ hướng dẫn viên hiện tại vẫn chưa thay đổi kịp thời,
hướng dẫn viên giỏi ngoại ngữ, giỏi chuyên môn nghiệp vụ và có tâm huyết
với nghề còn ít. Ngoài ra, lực lượng thuyết minh viên tại các bảo tàng, điểm
tham quan du lịch, các khu vui chơi giải trí tại thành phố Hồ Chí Minh, …
cũng còn nhiều hạn chế. Hiện mới chỉ có khoảng 2/3 Thuyết minh viên tham
gia lớp đào tạo thêm nghiệp vụ chuyên ngành du lịch, còn lại 1/3 vẫn chưa
tham gia lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch.

Trình độ ngoại ngữ của nguồn nhân lực ngành du lịch Thành phố:
Ngoài những yếu kém khác, nguồn nhân lực ngành du lịch thành phố Hồ Chí
Minh đa số thiếu trình độ ngoại ngữ, việc đẩy mạnh phát triển du lịch phục
vụ cho các du khách nước ngoài đem lại nguồn thu du lịch lớn và số lượng
du khách nước ngoài đến Thành phố tham quan có xu hướng ngày một gia
tăng, tuy nhiên việc thiếu hướng dẫn viên thành thạo ngoại ngữ gây khó khăn
cho phát triển du lịch Thành phố và chất lượng dịch vụ.

Theo số liệu thống kê của ngành du lịch, vì tiêu chuẩn ngoại ngữ đầu
ra của các trường đào tạo ngành du lịch còn thấp và mang tính đối phó nên
hầu hết các sinh viên ra trường đề đều không đạt yêu cầu về trình độ ngoại
ngữ, cụ thể có tới 30%-45% hướng dẫn viên, điều hành và 70%-80% lễ tân
nhà hàng, khách sạn không đạt chuẩn ngoại ngữ, các con số quá cao và đáng
báo động. Đặc biệt hơn nữa, hiện tại Thành phố có hơn 3.146 hướng dẫn viên
quốc tế nhưng ngôn ngữ chính mà họ biết là tiếng Anh, còn các ngôn ngữ
khác thì thiếu hụt hướng dẫn viên trầm trọng.

Bên cạnh đó, hiện nay nhân lực ngành du lịch tại Thành phố Hồ Chí
Minh chưa được tiếp cận toàn diện đối với sự bùng nổ của cuộc cách mạng
Khoa học công nghệ lần thứ 4. Cuộc cách mạng công nghiệp này đặt ra yêu
42

cầu phải đổi mới hệ thống đạo tạo nhân lực ngành du lịch đề bắt kịp xu hướng
thế giới.

Trước thách thức mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra,
một số các vị trí vốn có trong ngành du lịch như bảo vệ, nhân viên an ninh,
nhân viên soát vé, … có thể bị thay thế bằng các ứng dụng khoa học công
nghệ cho ngành du lịch. Thậm chí, một số vị trí như lễ tân hay phục vụ bàn
cũng có thể được thay thế bằng những con robot công nghệ cao.

Thứ ba, về tâm lực. Do yếu tố con người đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong việc tạo ra sản phẩm dịch vụ chất lượng nên phẩm chất đạo đức
của người lao động phục vụ ngành du lịch là vô cùng quan trọng.

Trong thời gian qua, nước ta đã nhận không ít những lời khen về thái
độ phục vụ lịch sự, vui vẻ, chuyên nghiệp của hướng dẫn viên, phục vụ bàn,
… đây chính là những đánh giá thực tế nhất đến từ các du khách tham quan
tại Thành phố. Để có được thành quả này phải kể đến sự đóng góp của các
lớp đào tạo về kỹ năng giao tiếp. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số vấn
nạn làm xấu đi hình ảnh du lịch Việt Nam, du lịch tại Thành phố như chèo
kéo du khách, đòi tiền hoa hồng, chặt chém du khách, …. làm du khách
không hài lòng, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của ngành du lịch.

Sau khi dịch bệnh Covid được kiểm soát, Việt Nam và Thành phố Hồ
Chí Minh mở cửa đón khách du lịch trở lại giúp cho ngành du lịch hồi phục
sẽ tồn tại nguy cơ thiếu nguồn lực trầm trọng trong lĩnh vực du lịch do thời
gian dịch bệnh bùng phát, nhiều người lao động đã bỏ công việc hiện tại để
chuyển sang làm trong lĩnh vực khác nhằm đảm bảo thu nhập trang trải cuộc
sống. Đây là một vấn đề hệ trọng trước mắt mà Thành phố Hồ Chí Minh cần
đề ra hướng giải quyết kịp thời tránh tình trạng khi ngành du lịch hồi phục
sẽ không có nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
43

Bên cạnh đó, nguồn thu nhập cũng là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất thái
độ, tâm huyết và trách nhiệm đối với người làm du lịch. Hiện nay, mặt bằng
chung về thu nhập đối với một số vị trí nhân sự trong lĩnh vực du lịch chưa
cao, không đảm bảo được nhu cầu cuộc sống dẫn đến nhân sự bỏ nghề để
làm công việc khác với mức lương hấp dẫn hơn. Hiện nay mức lương bình
quân đối với các vị trí nhân sự trong lĩnh vực du lịch vẫn đang ở mức thấp,
một số công việc không được trả lương cố định mà phụ thuộc vào doanh số
vì vậy dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình du lịch. Đặc biệt trong hơn một năm trở
lại đây, khi ngành du lịch chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid 19,
nhiều công ty du lịch, nhà hàng khách sạn không có khách, phải đóng cửa
hoặc tạm ngưng kinh doanh dẫn tới giảm doanh thu, lợi nhuận, thậm chí bị
thua lỗ âm vào vốn chủ sở hữu thì khả năng hỗ trợ cho nhân viên rất thấp,
thậm chí không thể trả lương, nợ lương nhân viên nhiều tháng liền. Đời sống
người lao động làm trong lĩnh vực du lịch không được đảm bảo khiến họ
phải chuyển đổi công việc sang lĩnh vực khác để giảm bớt khó khăn.

Đối với nguồn nhân lực quản lý nhà nước về du lịch và những Đảng
viên làm việc trong ngành du lịch, từ khi Luật Cán bộ, công chức được ban
hành, việc kiểm điểm phê và tự phê của Nghị quyết Trung ương 4, phẩm chất
đạo đức, chính trị của nguồn nhân lực quản lý du lịch Thành phố ngày càng
được nâng cao, đã góp phần nâng cao tâm lực của người làm du lịch [29].

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân lực Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Về chính sách nhà nước

Công tác quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực
du lịch có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan, bộ, ngành như: Bộ
GD&ĐT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, mà trực tiếp là Tổng cục Du lịch,
44

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, mà trực tiếp là Tổng cục Dạy nghề,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, ... Việc xây dựng và thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành
du lịch, được Tổng cục Du lịch cụ thể hóa cho phù hợp với ngành, như quy
chế tổ chức và hoạt động của các trường cao đẳng, trường nghề về du lịch
trực thuộc Tổng cục Du lịch; các quy định về tiêu chuẩn của người lao động
phục vụ ngành du lịch tùy theo từng vị trí, ... Tổ chức xây dựng chương trình
khung trung học, chuyên nghiệp ngành du lịch. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch có các dự án liên kết với EU nhằm xây dựng chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cho nguồn nhân lực.

Thông qua sự tài trợ của EU, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã đưa bộ
“Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam” (VTOS) vào các cơ sở đào tạo
làm tài liệu chuẩn, hướng dẫn kỹ năng nghề, kỹ năng đào tạo cho các ngành
nghề du lịch. Nhờ vào bộ tiêu chuẩn này, các sinh viên ngành du lịch sau khi
ra trường đã đáp ứng được phần nào yêu cầu của các doanh nghiệp du lịch.
Tuy nhiên, hệ thống các văn bản về đào tạo, cải thiện chất lượng nguồn nhân
lực vẫn còn thiếu và chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý ngành
với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng cục dạy nghề. Một số quy định còn có
những khác biệt chưa tạo điều kiện tốt nhất cho đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch. Ngoài ra, mỗi cơ sở đào tạo về du lịch lại chịu tác động của
nhiều cơ quan quản lý khác nhau, vì vậy nên các tiêu chí trở nên chồng chéo,
các cơ sở đào tạo không biết sử dụng bộ tiêu chí của cơ quan nào vào công
tác giảng dạy.

Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối với nguồn nhân lực ngành
du lịch của Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn
có những bất cập như: Chưa ban hành các tiêu chuẩn bắt buộc đối với các
lao động phục vụ ngành du lịch; chưa xây dựng được khung tiêu chí về
45

chuyên môn bắt buộc của lao động ngành du lịch cho các cơ sở đào tạo về
nhân lực ngành du lịch xây dựng chương trình đào tạo; trình độ nguồn nhân
lực quản lý du lịch còn nhiều hạn chế.

Nhận thức được nguồn nhân lực là một nhân tố quyết định sự tăng
trưởng cho ngành du lịch Thành phố, nên Sở Du lịch đã xây dựng “Chiến
lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020” trình Ủy ban nhân dân Thành
phố thông qua. Công tác thống kê nguồn nhân lực được Sở đặc biệt quan
tâm, bước đầu đã tổ chức điều tra thu thập thông tin về nhân lực ngành du
lịch, nhằm có giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành
du lịch của thành phố trong thời gian tới.

Về đào tạo nguồn nhân lực

Vừa qua, Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã hợp tác với các
chuyên gia nước ngoài để đào tạo cho nguồn nhân lực quản lý du lịch của
thành phố về nghiệp vụ cũng như những kỹ năng cần thiết khác; liên kết với
các cơ sở đào tạo du lịch trong và ngoài nước, đồng thời tổ chức các buổi
đào tạo ngắn hạn có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài; khuyến
khích và tạo điều kiện cho các các doanh nghiệp du lịch đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Sở đã tạo được mối liên kết chặt chẽ với các cơ
sở đào tạo du lịch trên địa bàn thành phố để tổ chức các chương trình đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh.
Để huy động nguồn lực cho cho phát triển nguồn nhân lực du lịch, Sở Du
lịch thành phố đã kêu gọi các dự án hỗ trợ từ nước ngoài, đồng thời khai thác
các nguồn vốn hỗ trợ quốc tế trong việc đào tạo và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực du lịch.

Để trao đổi thông tin, hỗ trợ công tác đào tạo, thực tập cho sinh viên
chuyên ngành du lịch, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã
46

cùng các trường có đào tạo khối ngành du lịch, thành lập hội đồng hiệu
trưởng khối ngành du lịch trên địa bàn. Hội đồng này sẽ tăng cường mối liên
kết, hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với ngành du lịch để nguồn nhân lực ngày
càng chất lượng. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch của thành phố, hiện vẫn còn nhiều bất cập
như: đội ngũ còn mỏng, biên chế công chức quản lý Nhà nước về đào tạo
nhân lực còn hạn hẹp, thiếu bộ phận chuyên trách về công tác phát triển
nguồn nhân lực ngành du lịch, vai trò của các cơ quan quản lý theo ngành
dọc về du lịch tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố hiện còn rất mờ
nhạt, ở các quận huyện không có cán bộ chuyên trách về du lịch mà thường
làm công việc kiêm nhiệm. Chưa có các chính sách có hiệu quả để huy động
các nguồn tài trợ, nguồn lực cho phát triển nhân lực ngành du lịch của thành
phố.

Về chính sách đãi ngộ cho lao động ngành du lịch

Mỗi nhân viên có một nhu cầu khác nhau, chính sách đãi ngộ của
doanh nghiệp không nên chỉ là đãi ngộ về vật chất hay chỉ đãi ngộ về tinh
thần mà phải kết hợp giữa yếu tố vật chất và tinh thần. Sự kết hợp này trên
nguyên tắc đãi ngộ vật chất là quan trọng nhất vì nó dùng để phục vụ đời
sống sinh hoạt của nhân viên. Trong nhiều trường hợp có thể xen kẽ giữa vật
chất và tinh thần với nhau. Hiện, nguồn nhân lực hoạt động trong ngành du
lịch đang hưởng lương theo 3 hệ thống đó là:

-Theo hệ số lương Nhà nước;

-Theo hệ số lương cơ bản của Nhà nước và bổ sung hệ thống lương


theo thành tích;

-Theo hệ thống lương riêng.


47

Ngoài phần lương cứng, lao động du lịch còn được cộng thêm bởi các
khoản thưởng và bồi dưỡng trong suốt quá trình làm việc. Nhìn chung, các
hệ thống lương của các lao động hoạt động trong ngành du lịch Thành phố
chưa được xây dựng thỏa đáng, yếu tố căn cứ để tính lương, tăng lương
thường dựa vào bằng cấp và thâm niên làm việc chứ không dựa vào hiệu quả
làm việc, bản chất công việc, chính vì thế chưa tạo được động lực cho người
lao động làm việc hết năng suất. Ngoài một số nghề đặc biệt có mức lương
cao, lương bình quân của khu vực du lịch tương đối thấp so với các ngành
nghề khác. Ở lĩnh vực du lịch, có nhiều công việc máy móc không thể thay
thế được con người, một số công việc phải tập trung đông người để phục vụ,
mỗi người trong một lĩnh vực như: lau chùi, tiếp tân xách hành lý… nhưng
tiền lương không cao, không tạo được động lực cho người lao động. Tuy
nhiên, nếu trả lương cao thì giá dịch vụ du lịch sẽ tăng, doanh nghiệp không
thể cạnh tranh được. Điều này làm cho tỉ lệ thuyên chuyển lao động trong
ngành du lịch sang ngành khác khá nhiều.

Bên cạnh chính sách lương còn bất cập, đa số các doanh nghiệp du
lịch cũng đã có những chính sách để bồi dưỡng kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ cho người lao động, nhiều doanh nghiệp thường tổ chức cho nhân
viên đi nghỉ mát, tổ chức khám sức khỏe cho nhân viên, … đồng thời nhiều
doanh nghiệp du lịch đã thực hiện tốt bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho
người lao động. Tuy nhiên, nhìn chung chính sách đãi ngộ của các doanh
nghiệp du lịch đối với lao động còn nhiều hạn chế, các chính sách đãi ngộ
chưa đa dạng và đãi ngộ về mặt phi vật chất chưa được chú trọng.
48

2.2. Đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân
hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực ngành du lịch
thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

Trong những năm vừa qua, tình hình phát triển nguồn nhân lực du lịch
tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có những thành công và hạn chế nhất định,
cụ thể:

Những thành công của nguồn nhân lực ngành du lịch Thành phố và
nguyên nhân

Thời gian qua, Hệ thống các chính sách phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch của Thành phố đã dần được hoàn thiện, đã tạo được những
thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực ngành.

Về công tác đào tạo: Thành phố Hồ Chí Minh đã có hệ thống đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch tương đối đa dạng từ bậc nghề cho đến trung
cấp, cao đẳng hay đại học. Cơ sở hạ tầng của các đơn vị đào tạo cũng được
đầu tư hiện đại và tiện ích. Đội ngũ giảng viên khá dồi dào, có trình độ và
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch. Hầu hết các cơ sở đào tạo về du
lịch trên địa bàn Thành phố đều cập nhật những chương trình, giáo trình mới
trong nước và quốc tế vào công tác giảng dạy, từ đó đảm bảo nguồn nhân
lực được đào tạo những kiến thức mới nhất, bắt kịp với sự thay đổi của nhu
cầu, nhờ đó đã cung cấp được một số lượng lớn lao động phục vụ cho ngành
du lịch Thành phố.

Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực tổ chức các lớp đào tạo
kĩ năng nghiệp vụ cho lực lượng lao động ngành du lịch trong thời gian vừa
qua. Về phía doanh nghiệp du lịch, các doanh nghiệp cũng đã tích cực tổ
chức các buổi giao lưu, bồi dưỡng, chia sẻ kinh nghiệm cho các nhân viên.
49

Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng, chất lượng đội ngũ lao
động ngành Du lịch, đời sống của người lao động cũng đã phần nào được cải
thiện. Tác phong làm việc, đạo đức của người lao động trong ngành du lịch
cũng ngày càng được hoàn thiện. Nguồn nhân lực được đào tạo phần nào đã
đáp ứng được những yêu cầu thực tế của doanh nghiệp kinh doanh du lịch
và yêu cầu phát triển của ngành du lich.

- Nguồn nhân lực phục vụ ngành du lịch tăng nhanh về số lượng và


cải thiện về chất lượng. Đặc biệt sự tăng nhanh về số lượng được thể hiện rõ
qua số liệu thống kê số lượng lao động ngành du lịch hàng năm.

- Nguồn nhân lực phục vụ ngành du lịch tại Thành phố hiện nay đã có
những chuyển biến tích cực cả về chuyên môn nghiệp vụ, tác phong làm
việc, …

- Lãnh đạo Thành phố đã quan tâm, ban hành các văn bản, chính sách
tạo điều kiện cho nguồn nhân lực hoạt động trong ngành du lịch phát triển
cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp, đại lý du lịch.

- Các đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp, đại lý hoạt động trong ngành du
lịch từng bước cải thiện thu nhập, chế độ đãi ngộ, chính sách việc làm, …
cho người lao động từ đó thu hút nhân lực cho ngành du lịch cũng như tạo
môi trường làm việc chuyên nghiệp, đảm bảo quyền và lợi ích cho người lao
động.

- Có nhiều nhà hàng, khách sạn quy mô lớn, vì vậy các sinh viên ngành
du lịch có cơ hội được thực tập ở những môi trường chuyên nghiệp, học hỏi
những người đi trước, trải nghiệm công việc thực tế, từ đó có thể tự tìm kiếm
cơ hội làm việc phù hợp với nhu cầu, năng lực của mình khi tốt nghiệp ra
trường.
50

- Trình độ ngoại ngữ của lao động ngành du lịch dần được cải thiện,
ngoài Tiếng Anh thì các ngôn ngữ phổ biến khác như Nga, Pháp, Trung
Quốc, … cũng đã được đưa vào chương trình đào tạo cho nhân lực du lịch
tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng khách du lịch
đến với Thành phố.

- Các kỹ năng phục vụ trong ngành du lịch đã được đào tạo và huấn
luyện chuyên sâu, nhân viên có thái độ làm việc tích cực và đạt các tiêu chuẩn
chung đối với ngành nhà hàng, khách sạn từ đó đem tới sự hài lòng cho khách
du lịch, hiệu quả cho công việc.

* Nguyên nhân của những kết quả trên

Một là, được sự ủng hộ, quan tâm của Đảng bộ và chính quyền Thành
phố cùng sự tham gia của các trường đào tạo nhân lực du lịch trên địa bàn
thành phố, vai trò quản lý và sự quan tâm của Sở Du lịch Thành phố trong
việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch.

Hai là, hệ thống đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch trên địa
bàn thành phố được đầu tư tương đối tốt, các cơ sở đào tạo đã thường xuyên
cập nhật kiến thức mới trong đào tạo, tạo mối quan hệ chặt chẽ với các doanh
nghiệp du lịch để cho sinh viên đến thực tập, gắn lý thuyết với thực tiễn, từ
đó từng bước cải thiện chất lượng nguồn nhân lực du lịch Thành phố.

Ba là, các doanh nghiệp ngành du lịch trên địa bàn thành phố đã ý thức
được vai trò của giáo dục và đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành nên đã chủ
động đặt hàng đào tạo, thực hiện đào tạo lại nhân viên giúp nâng cao chất
lượng nhân lực của doanh nghiệp.

Bốn là, cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch Thành
phố, mức thu nhập của người lao động hoạt động trong ngành ngày càng
được cải thiện. Bên cạnh đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều của nhà hàng,
51

khách sạn, khu du lịch, … đã thu hút ngày càng nhiều lao động có trình độ
tham gia hoạt động trong ngành du lịch.

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Căn cứ vào yêu cầu nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập quốc tế,
qua khảo sát và phân tích đánh giá, tác giả nhận thấy việc phát triển nguồn
nhân lực du lịch thành phố có 5 hạn chế cơ bản sau:

1. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, còn nhiều hạn chế so với Tiêu
chuẩn VTOS và “Bộ Tiêu chuẩn Năng lực chung ASEAN về Nghề Du lịch”,
thể hiện qua những hạn chế về kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp,
ngoại ngữ, thái độ làm việc, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu (kiến thức
quản lý điều hành, kiến thức hội nhập, năng lực sáng tạo, lãnh đạo, quản lý,
quản trị, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng làm việc độc lập, kỹ năng làm việc
nhóm, …). Yếu nhất là nhân lực khu vực quản lý nhà nước, kế đến lao động
trực tiếp ở các cơ sở kinh doanh khác.

2. Nguồn nhân lực hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng, chưa cân
đối về cơ cấu, tỷ lệ. Cụ thể là thường xuyên thiếu lao động lành nghề, nhân
lực làm công tác quản lý cấp phòng và cấp cao, giám sát, cán bộ quản lý nhà
nước, giáo viên, giảng viên giỏi, có kinh nghiệm, chuyên gia. Xét về ngoại
ngữ, nhân lực sử dụng thành thạo ngoại ngữ trong công việc chiếm tỷ lệ thấp,
trong đó đặc biệt thiếu lao động biết các ngoại ngữ khác Tiếng Anh, ít người
biết từ hai ngoại ngữ trở lên.

3. Chất lượng đào tạo nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập,
trình độ đào tạo chưa tương xứng với bằng cấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực du lịch chưa gắn sát với yêu cầu của thị trường lao động, có
khoảng cách giữa chất lượng đào tạo với yêu cầu nhân lực của các doanh
nghiệp du lịch, thiếu kiến thức chuyên môn, kỹ năng và thái độ chưa tốt. Sinh
52

viên tốt nghiệp không áp dụng được kiến thức học vào thực tế, không thể
làm việc ngay. Phần lớn các doanh nghiệp du lịch phải đào tạo lại trước khi
đưa vào sử dụng, kể cả người được tuyển có đủ bằng cấp.

4. Công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch còn
nhiều hạn chế, không thực hiện được công tác dự báo nhu cầu cung – cầu lao
động của ngành; không nắm được các vấn đề liên quan đến tình hình nguồn
nhân lực dẫn đến việc không có giải pháp phát triển nhân lực tự phát dẫn đến
những bất hợp lý về cơ cấu lao động trong ngành, đào tạo chưa phù hợp với
nhu cầu của thị trường.

5. Liên kết quốc tế trong đào tạo còn hạn chế, nhiều liên kết mới dừng
ở việc ký hiệp định hợp tác chung, hoạt động liên kết trong và ngoài nước về
đào tạo nguồn nhân lực du lịch của thành phố còn manh mún, tự phát.

* Nguyên nhân của những hạn chế về nguồn nhân lực ngành du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh

Một là, trong thời gian qua ngành du lịch thành phố có sự tăng trưởng
nhanh, trong khi đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải có những điều kiện và
thời gian nhất định, nên đã không theo kịp với tốc độ phát triển của ngành
du lịch.

Hai là, công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch trên địa bàn thành phố còn nhiều bất cập như: chưa có chiến
lược phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch dài hạn; hệ thống cơ chế, chính
sách, các văn bản, quy định về phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch thành
phố còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
nguồn nhân lực ngành du lịch.

Ba là, chương trình đào tạo hiện nay nặng về lý thuyết, kiến thức được
trang bị nhiều nhưng chủ yếu là kiến thức chung, thiếu chuyên sâu. Thời
53

lượng và cách thức học thực hành chưa phù hợp, chênh lệch về thời gian học
giữa lý thuyết và thực hành rất lớn.

Việc trang bị kỹ năng thực hành còn phụ thuộc vào đội ngũ giảng viên,
giáo viên và cơ sở vật chất, thiết bị. Thiết bị thực hành cần kinh phí lớn để
đầu tư nhất là lĩnh vực nhà hàng khách sạn trong khi các trường khó khăn về
kinh phí trang bị thiết bị thực hành. Đội ngũ giảng viên, giáo viên hiện nay
còn hạn chế về khả năng giảng dạy kỹ năng thực hành nghề cho sinh viên.

Trong khi đó, việc thực tập cũng chưa mang lại kết quả tốt bởi vì thiếu
ràng buộc trách nhiệm giữa đơn vị nhận người thực tập với sinh viên đến
thực tập, đơn vị thực tập không chịu trách nhiệm về kết quả thực tập của sinh
viên. Thời gian thực tập từ 2-4 tháng là không nhiều nhưng lại phụ thuộc vào
thái độ của sinh viên, thái độ của đơn vị tiếp nhận và người hướng dẫn, chỉ
cần một bên không xem trọng thì kết quả không đạt theo yêu cầu.

Bốn là, ngân sách đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch
còn hạn hẹp, dẫn đến thiếu cơ sở vật chất, thiếu kinh phí cho Giáo dục và
Đào tạo, cũng như đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch của
thành phố.

Năm là, nhận thức của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố
về tầm quan trọng của nguồn nhân lực chưa đầy đủ, dẫn đến chưa đầu tư
kinh phí thoả đáng để phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch.

Sáu là, thu nhập của người lao động trong ngành du lịch của thành phố
còn thấp hơn một số ngành nghề khác, dẫn đến sự dịch chuyển lao động từ
ngành du lịch sang các ngành nghề khác. Chế độ tiền lương, tiền thưởng và
những động lực tinh thần chưa tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích người
lao động trong ngành du lịch.
54

Bảy là, do ảnh hưởng của tính mùa vụ du lịch của du lịch, nên các doanh
nghiệp có xu hướng thuê lao động có tính chất mùa vụ, dẫn đến chất lượng
nguồn nhân lực ngành du lịch không ổn định.

2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực du lịch Thành phố Hồ
Chí Minh

Trên cơ sở những mặt được và hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực
của Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua, tác giả nhận thấy có 5 vấn đề
thành phố cần quan tâm giải quyết để nhân lực ngành du lịch thành phố đáp
ứng được yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn và hội nhập quốc
tế hiệu quả.

1- Thành phố thiếu định hướng và giải pháp về phát triển nguồn nhân
lực du lịch

2- Chưa đáp ứng đủ nhân lực về số lượng, cơ cấu và chất lượng.

3- Chất lượng đào tạo chưa cao.

4- Năng lực ngoại ngữ còn hạn chế.

5- Thiếu nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển và yêu cầu
hội nhập quốc tế.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 tác giả đã khái quát chung về hoạt động du lịch tại
thành phố Hồ Chí Minh bao gồm lượng khách du lịch, doanh thu từ hoạt
động du lịch trên địa bàn Thành phố, cùng với tác động hội nhập đối với sự
phát triển của ngành du lịch và thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch
Thành phố bao gồm cơ cấu lao động của ngành du lịch và các yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân lực ngành du lịch Thành phố. Đồng thời, tác
giả đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực về
55

sức khỏe, trí tuệ, đạo đức đối với nhân lực Thành phố. Tác giả cũng đã đánh
giá thực trạng quản lý nhà nước về du lịch, cũng như các chính sách đãi ngộ
lao động trong ngành du lịch. Qua đó, tác giả tổng kết những thành công,
hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực du
lịch Thành phố. Qua đó, trong chương tiếp theo, tác giả sẽ tập trung vào
những giải pháp cụ thể cho nguồn nhân lực ngành du lịch của Thành phố.

You might also like