Professional Documents
Culture Documents
2. Nhận thức được sự phát triển của khoa học marketing qua các giai đoạn khác nhau
trong lịch sử môn học;
3. Hiểu được vai trò của marketing trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp;
4. Nhận thức được hệ thống các công cụ của marketing hỗn hợp được sử dụng để
thỏa mãn nhu cầu của những nhóm khách hàng cụ thể;
5. Phân loại marketing.
Có nhiều người trong chúng ta cho rằng, marketing là một môn học mới và họ
đang băn khoăn liệu nó có giúp gì cho sự nghiệp của họ sau này. Vì thế, họ có thể sẽ ngạc
nhiên khi biết rằng, nền kinh tế thị trường đầy sôi động đã sản sinh ra khoa học marketing
và giờ đây nó đã trở thành công tác quản lý quan trọng nhất ở thế kỷ 21. Mỗi giám đốc,
mỗi nhân viên cần phải thấm nhuần những nguyên tắc của marketing nếu như họ muốn
có được một tương lai tốt đẹp hơn.
Đến đây, chúng ta bắt đầu đi tìm hiểu về môn khoa học thú vị này bằng định nghĩa
về marketing.
1.1. Định nghĩa marketing
1.1.1. Marketing là gì?
Marketing bắt nguồn từ một thuật ngữ tiếng Anh. Nghĩa đen của nó là “làm thị
trường”. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1902 trên giảng đường trường
Đại học Tổng hợp Michigan ở Mỹ.
Qua một thời gian dài phát triển, các chuyên gia marketing đưa ra một số định
nghĩa marketing khác nhau.
Theo Hiệp hội Marketing Mỹ (The American Marketing Association – AMA)
(1948), marketing là thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm hướng vào dòng vận
chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người sản xuất tới người tiêu thụ hoặc người sử dụng.
Theo J.J Lambin, marketing là quảng cáo, là kích động, là bán hàng bằng gây sức
ép, tức là toàn bộ những phương tiện bán hàng đôi khi mang tính chất tấn công, được sử
dụng để chiếm thị trường hiện có. Marketing cũng là toàn bộ những công cụ phân tích,
phương pháp dự đoán và nghiên cứu thị trường được sử dụng nhằm phát triển cách tiếp
cận những nhu cầu và yêu cầu.
Cho đến nay vẫn có nhiều người nhầm lẫn marketing với bán hàng và kích thích
tiêu thụ. Thực ra, các khía cạnh này là chỉ một trong các chức năng của marketing và
thường nó không phải là chức năng quan trọng nhất. Chúng chỉ là phần nổi của núi băng
trôi marketing còn phần công việc lớn hơn của marketing lại là phần diễn ra ở mặt ngầm
dưới nước của núi băng. Đó là các công việc như tìm hiểu nhu cầu tiêu thụ, sản xuất ra
những mặt hàng phù hợp với nhu cầu, xác định giá cả thích hợp cho các sản phẩm đó,
thiết kế hệ thống phân phối hàng hóa và kích thích tiêu thụ có hiệu quả… Nhờ đó mà
hàng hóa chắc chắn sẽ được bán hết.
Ông Peter Drukker, một trong những nhà lý luận chủ chốt về các vấn đề quản lý
đã nói về vấn đề này như sau: “Mục đích của marketing không cần thiết là đẩy mạnh tiêu
thụ. Mục đích của nó là nhận biết và hiểu khách hàng kỹ đến mức độ hàng hóa hay dịch
vụ sẽ đáp ứng đúng thị hiếu của khách và tự nó được tiêu thụ”.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rõ rằng điều này không có nghĩa là việc đẩy mạnh tiêu
thụ không còn ý nghĩa nữa. Nói một cách đúng đắn hơn chúng sẽ trở thành một bộ phận
của “marketing - mix” đồ sộ hơn, tức là một bộ phận của tập hợp những công cụ
marketing mà chúng ta cần thiết phải kết hợp chúng lại một cách hài hòa để đạt được tác
động mạnh nhất đến thị trường.
Marketing đã chỉ ra cách giúp các doanh nghiệp có thể bán được hàng bằng một
chuỗi các nỗ lực chứ không chỉ đơn giản là kích thích tiêu thụ. Do đó, marketing chính là
một phương thức hoạt động giúp con người có thể đạt được mục tiêu đã định.
Marketing hiện đại được Philip Kotler, chuyên gia hàng đầu về marketing, định
nghĩa như sau:
MARKETING là một dạng hoạt động của con người nhằm thoả mãn những nhu
cầu và ước muốn của họ thông qua trao đổi.
Khái niệm marketing hiện đại cho thấy:
- Marketing có thể được sử dụng cho cả các tổ chức và các cá nhân hoạt động vì
mục đích lợi nhuận và phi lợi nhuận.
- Marketing là phương thức hoạt động của con người để đạt mục tiêu cuối cùng.
- Marketing trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình thực hiện
các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu của một tổ chức, thông qua việc dự đoán các
nhu cầu của khách hàng và người tiêu thụ để điều khiển các dòng hàng hoá và dịch vụ
thoả mãn các nhu cầu từ nhà sản xuất tới khách hàng và người tiêu thụ.
Vậy, bản chất của Marketing là sự liên kết chặt chẽ hệ thống, có tính chiến lược
giữa mục tiêu, dự đoán và điều khiển hoạt động kinh doanh.
- Marketing thực hiện việc thoả mãn nhu cầu và mong muốn thông qua hoạt động
trao đổi.
- Thông thường người ta cho rằng marketing là công việc của người bán, nhưng
hiểu một cách đầy đủ thì cả người mua cũng phải làm marketing. Trên thị trường, bên nào
nỗ lực, tích cực hơn tìm kiếm hoạt động trao đổi với bên kia thì bên đó phải làm
marketing.
1.1.2. Nhu cầu
Nhu cầu chi phối mọi hoạt động của con người là nguồn gốc của mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội. Đối với Marketing nhu cầu là nguồn gốc sâu xa nhất nảy sinh ra
hoạt động marketing và cũng chính nhu cầu chứ không phải yếu tố nào khác tạo ra cơ
hội kinh doanh cho tất cả mọi người. Nhu cầu được định nghĩa như sau:
NHU CẦU là một cảm giác về sự thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận
được
Ví dụ: nhu cầu ăn uống, đi lại, học hành, nghỉ ngơi, giải trí,….
Nhu cầu là cái vốn có của con người, tồn tại như một bộ phận cấu thành của cơ
thể. Vì vậy, không ai tạo ra được nhu cầu, kể cả xã hội và marketing. Tuy nhiên người
làm marketing đôi khi có thể can thiệp làm nảy sinh những nhu cầu (biện pháp kích cầu).
1.1.3. Mong muốn/ ước muốn
Nền tảng tiếp theo của marketing là khái niệm mong muốn.
MONG MUỐN là những nhu cầu tồn tại dưới một hình thái cụ thể, là nhu cầu có
dạng đặc thù, tương ứng với trình độ văn hoá và tính cách cá nhân của mỗi người.
Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu cầu
sâu xa. Mong muốn của con người không ngừng phát triển và được định hình bởi các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… như nhà thờ, trường học, gia đình, tập thể và các
doanh nghiệp kinh doanh. Mong muốn đa dạng hơn nhu cầu rất nhiều. Một nhu cầu có
thể có nhiều mong muốn. Các doanh nghiệp thông qua hoạt động marketing có thể đáp
ứng các mong muốn của khách hàng những sản phẩm hấp dẫn.
1.1.4. Nhu cầu có khả năng thanh toán/Cầu/Yêu cầu
Mong muốn của con người là vô hạn trong khi ngân sách thường bị giới hạn. Vì
vậy, những nhà làm marketing cần quan tâm đến khái niệm cầu.
CẦU là ước muốn những được đảm bảo bằng sức mua/ khả năng thanh toán.
Các nhà kinh doanh có thể phát hiện ra nhu cầu và mong muốn của con người. Họ
có thể chế tạo ra đủ loại hàng hoá với những tính năng hoàn hảo nhưng rút cục lại họ
cũng chẳng bán được bao nhiêu nếu chi phí sản xuất là quá lớn, giá bán lại cao đến mức
khách hàng không thể mua được mặc dù họ rất thích dùng những hàng hoá đó. Khi đó,
nhu cầu và mong muốn không thể biến thành nhu cầu có khả năng thanh toán - cầu thị
trường.
1.1.5. Trao đổi
Trao đổi là cơ sở hay tiền đề của hoạt động marketing. Marketing chỉ xuất hiện
thông qua hoạt động trao đổi, không có trao đổi thì không có marketing.
TRAO ĐỔI là hoạt động đem một vật có giá trị này để đổi lấy một vật có giá trị
khác.
Cần lưu ý rằng “vật trao đổi” ở đây được quan niệm rất rộng. Nó không chỉ là các
sản phẩm vật chất mà còn là các sản phẩm dịch vụ như tư vấn, quảng cáo, đào tạo, tinh
thần, tình cảm hay các ý tưởng…
Để một cuộc trao đổi được diễn ra cần có các điều kiện:
- Ít nhất phải có hai bên,
- Mỗi bên phải có một thứ gì đó có thể có giá trị đối với bên kia,
- Mỗi bên đều có khả năng giao dịch và chuyển giao những thứ mình có,
- Cả hai bên cùng tự nguyện và cảm thấy trao đổi là có lợi.
Tuy nhiên, các điều kiện trên chỉ tạo tiền đề cho trao đổi. Để trao đổi tiềm ẩn trở
thành hiện thực phải có quá trình thương lượng, thoả thuận những điều kiện trao đổi, có
lợi cho cả hai bên so với trước khi trao đổi. Với ý nghĩa đó, trao đổi được xem là một quá
trình tạo ra giá trị, nghĩa là trao đổi thường làm cho cả hai bên có lợi hơn trước khi trao
đổi. Đối với marketing, trao đổi là một quá trình dài. Nó bắt đầu từ việc tìm kiếm nhu
cầu, ước muốn và không chỉ dừng lại khi mua bán, trao đổi một lần mà còn tính đến
nhiều lần lặp lại.
Một khi các bên tham gia trao đổi đạt được một thoả thuận thì có nghĩa là giao
dịch đã diễn ra.
GIAO DỊCH là một vụ mua bán những giá trị giữa hai bên. Kết quả của giao dịch
là hai vật có giá trị được trao đổi với nhau.
Giao dịch đòi hỏi phải có một số yếu tố:
- Ít nhất có hai vật có giá trị,
- Những điều kiện thực hiện giao dịch đã thoả thuận xong,
- Thời gian thực hiện đã thỏa thuận xong,
- Địa điểm thực hiện đã thoả thuận xong.
Hoạt động giao dịch luôn luôn lấy pháp luật làm hậu thuẫn để buộc các bên tham
gia giao dịch phải thực hiện đúng phần cam kết của mình.
Marketing đề cao kết quả của giao dịch. Vì kết quả của trao đổi phụ thuộc vào kết
quả của những lần giao dịch. Vậy làm thế nào để các bên tham gia giao dịch có thể đạt
được hiệu quả của từng lần giao dịch? Với ý nghĩa đó đòi hỏi họ phải làm marketing giao
dịch. Nội dung của marketing giao dịch chỉ ra rằng những người làm marketing phải tìm
kiếm được nhu cầu và ước muốn của đối tác, đồng thời cũng phải xác định rõ mục tiêu
của doanh nghiệp để tìm cách thương lượng với đối tác dựa trên nguyên tắc hai bên cùng
có lợi.
Nếu phân tích một cách sâu sắc hơn, bản chất của trao đổi và giao dịch là quan hệ.
Hơn nữa, muốn có trao đổi, giao dịch đạt kết quả cao, doanh nghiệp không chỉ quan hệ
tốt với khách hàng mà họ cần phải thiết lập cả một mạng lưới quan hệ với những lực
lượng có ảnh hưởng đến kết quả của trao đổi và giao dịch. Các lực lượng đó có thể là
khách hàng, những nhà cung ứng đầu vào, lực lượng trung gian, giới tài chính, chính
quyền và mọi giới công chúng. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần phải quan tâm
tới một ý tưởng lớn hơn marketing giao dịch là marketing quan hệ.
MARKETING QUAN HỆ (Marketing Relasionship) thực chất là doanh nghiệp
phải thiết lập được mối quan hệ tin cậy, lâu dài, cùng có lợi với tất cả các yếu tố, những
lực lượng ảnh hưởng đến quá trình trao đổi.
Có như vậy, marketing quan hệ có thể giảm được chi phí và thời gian giao dịch,
giao dịch có thể chuyển từ chỗ phải thương lượng từng lần một sang chỗ trở thành thông
lệ. Marketing ngày càng có xu hướng chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa lợi nhuận trong
từng thương vụ giao dịch sang chỗ tăng tối đa những mối quan hệ đôi bên cùng có lợi với
các đối tác.
Như vậy, marketing hiện đại không chỉ quan tâm đến quá trình trao đổi
(Exchange) mà quan tâm đến việc xây dựng các mối quan hệ, mạng lưới dài hạn.
1.1.6. Thị trường
Mỗi môn học tiếp cận khái niệm thị trường theo một góc độ khác nhau. Định nghĩa
thị trường theo góc độ marketing được phát biểu như sau:
THỊ TRƯỜNG là tập hợp tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu
hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu
và mong muốn đó.
Như vậy, theo khái niệm này quy mô thị trường tương ứng với quy mô khách
hàng và tuỳ thuộc vào số người có nhu cầu và ước muốn và lượng thu nhập mà họ sẵn
sàng bỏ ra để mua sắm hàng hoá thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Quy mô thị trường
không phụ thuộc vào số người đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có
nhu cầu và mong muốn khác nhau.
Mặc dù tham gia thị trường phải có cả người mua và người bán nhưng theo quan
điểm marketing, người bán tạo thành ngành sản xuất – cung ứng, còn người mua, khách
hàng tạo thành thị trường.
1.2. Quản trị marketing
1.2.1. Quản trị marketing là gì?
Như trên đã chỉ ra, để thực hiện được những quá trình trao đổi đòi hỏi phải tốn rất
nhiều công sức và phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Công việc của những người
làm marketing cần phải được diễn ra theo một trình tự khoa học và sự suy tính kỹ lưỡng.
Điều đó liên quan đến hoạt động quản trị marketing. Dưới đây là khái niệm quản trị
marketing đã được Hiệp hội marketing Mỹ chấp nhận năm 1985:
QUẢN TRỊ MARKETING (MARKETING) là quá trình lập kế hoạch và thực hiện
kế hoạch đó, định giá, khuyến mãi và phân phối hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng để tạo ra
sự trao đổi với các nhóm mục tiêu, thỏa mãn những mục tiêu của khách hàng và tổ chức.
Khái niệm này thừa nhận quản trị marketing là một quá trình bao gồm việc phân
tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát với mục đích là tạo ra sự thỏa mãn cho các bên
hữu quan.
1.2.2. Lịch sử phát triển quản trị marketing
Sau khi bạn biết marketing là gì, chắc bạn sẽ
quan tâm đến lịch sử phát triển của marketing (quản
trị marketing).
Marketing có lịch sử hình thành và phát triển
khá khiêm tốn so với các ngành khoa học khác như
kinh tế học, tâm lý học. Tuy nhiên, nền tảng của lý Hình 1.1. Marketing - công cụ đắc
thuyết này khá vững chắc. lực của hoạt động kinh doanh.
Lịch sử phát triển của marketing được chia làm năm giai đoạn, đó là: (1) sản xuất,
(2) sản phẩm, (3) bán hàng, (4) marketing và (5) marketing xã hội. Qua mỗi giai đoạn thì
quan niệm về marketing cũng thay đổi và phát triển do tiến bộ kỹ thuật, cải tiến năng
suất, cạnh tranh tăng lên, nhu cầu mở rộng thị trường, quản lý ngày càng phức tạp, các
giá trị xã hội thay đổi và các yếu tố khác nữa. Năm giai đoạn kể trên là:
1920-1930
vậy công ty luôn làm việc theo suy nghĩ: “Hãy phục vụ khách hàng như chúng ta
đang phục vụ cho chính bản thân chúng ta” và “Lấy sự hài lòng của khách hàng
làm niềm hạnh phúc của chúng ta”
Như vậy, thông qua quá trình phát triển sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị
trường, vai trò Marketing ngày càng được thừa nhận và khẳng định. Với tư cách là một
công cụ hết sức lợi hại, Marketing đã được các nhà kinh doanh ở thời đại ngày nay sử
dụng và khai thác triệt để nhằm phục vụ đắc lực cho chiến lược kinh doanh của mình.
Trong thời đại ngày nay, Marketing hiện đại và quản trị kinh doanh theo triết lý
marketing là phương pháp cốt yếu và phổ biến trong quản trị kinh doanh của các doanh
nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm mới nhất hiện nay được nhiều người chấp nhận là “khách hàng là
yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp”, còn marketing đóng vai trò cực kỳ
quan trọng làm chức năng điều hoà, phối hợp để các chức năng khác như tài chính, nhân
sự, sản xuất hướng vào khách hàng (xem hình 1.4).
Lý lẽ của các chuyên gia Marketing thể hiện quan điểm trong hình 1.5 như sau:
- Tài sản của doanh nghiệp sẽ không có nhiều giá trị khi không có khách hàng.
- Nhiệm vụ then chốt của doanh nghiệp là phải thu hút vào khách hàng. Khách
hàng bị thu hút bằng những hàng hoá có ưu thế cạnh tranh và bị giữ chân bằng cách làm
cho họ hài lòng.
Sản
xuất
Market
ing
Khá
Tài ch
chí Nh
hàn ân
nh g sự
Hình 1.4. Quá trình phát triển các quan điểm
- Nhiệm vụ của marketing là phát triển những hàng hoá tốt hơn và làm hài lòng
khách hàng.
- Kết quả công tác của các bộ phận khác đều có ảnh hưởng đến mức độ thoả mãn
của khách hàng. Những nhà quản lý marketing cần tác động đến bộ phận khác cùng hợp
tác để làm hài lòng khách hàng.
Hoạt động marketing càng có vai trò quan trọng khi giữa người sản xuất và người
tiêu dùng có các cách ly:
- Cách ly về không gian: giữa người sản xuất và người tiêu dùng có khoảng cách
về không gian. Sản xuất thường tập trung ở một vài nơi, nhưng người tiêu dùng lại ở
phân tán ở khắp mọi nơi, với những yêu cầu muôn vẻ đòi hỏi người sản xuất phải đáp
ứng.
- Cách ly về thời gian: do có sự cách ly về không gian, cho nên một sản phẩm
hoặc dịch vụ từ khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng phải trải qua một khoảng thời gian
nhất định. Cũng có trường hợp sản xuất gần nơi tiêu thụ, nhưng thời gian sản xuất ra sản
phẩm và thời gian người tiêu dùng có nhu cầu mua sản phẩm lại khác nhau. Các doanh
nghiệp cần tính toán như thế nào để tổ chức đưa hàng đến với người tiêu dùng đúng lúc
người ta cần. Đó là một trong những điểm quan trọng, nhất là đối với các sản phẩm có
thời gian tồn tại ngắn (sản phẩm thực phẩm tươi sống, hoa tươi, nước đá, kem).
- Cách ly về thông tin: do có sự xa cách về địa lý, nếu không tiến hành các nghiên
cứu và tạo lập các mối quan hệ thì nhà sản xuất sẽ không biết được ai cần gì, ở đâu, khi
nào cần và với giá trị nào. Ngược lại, người tiêu dùng không biết được trên thị trường có
loại hàng gì, của hãng nào sản xuất, bán ở đâu, khi nào bán và bán với giá bao nhiêu, địa
điểm bảo hành, các dịch vụ bán hàng.
Sự ra đời của các hoạt động marketing là làm cho cung hiểu được cầu và làm cho
cung và cầu ăn khớp với nhau, làm giảm bớt những cách ly về không gian, về thời gian
và về thông tin. Những nhà người là công tác Marketing trước khi đưa ra quyết định
phải cân nhắc và kết hợp ba loại lợi ích: lợi ích của công ty, lợi ích của khách hàng
vàlợiíchcủaxãhội.
Ví dụ: Công ty Kymdan là một trong những công ty kết hợp được cả 3 lợi ích nói
trên. Sản phẩm nệm Kymdan là một trong những sản phẩm đem lại thương hiệu
cho công ty. Nệm Kymdan có 14 đặc tính ưu việt, trong đó phải kể đến độ cứng tối
ưu giúp nâng đỡ cột sống người nằm; hoàn toàn không tồn tại chất nitrosamine
trong sản phẩm, an toàn cho người sử dụng; được làm từ 100% cao su thiên nhiên
nên sau khi hết tuổi thọ sản phẩm có thể tự phân hủy, bảo vệ môi trường sống
không bị ô nhiễm…Chính 14 đặc tính ưu việt tạo nên cho sản phẩm Kymdan một
chất lượng độc đáo, là yếu tố giúp cho doanh số hàng năm của Công ty Kymdan
tăng trưởng liên tục
P4 – Promotion
P1 – Product Xúc tiến bán hàng
Sản phẩm
P2 – Price P3 – Place
Giá cả Phân phối
2. Định nghĩa được hệ thống thông tin marketing và các bộ phận cấu thành của hệ
thống;
3. Hiểu bản chất của quy trình và các bước tiến hành nghiên cứu marketing;
Để có thể đưa ra các phản ứng linh hoạt và phù hợp doanh nghiệp cần có các
thông tin chính xác, kịp thời và hiệu quả cao. Do vậy xây dựng hệ thống thông tin
marketing là vấn đề quan trọng và cần thiết đối với doanh nghiệp. Chương này sẽ tập
trung nghiên cứu và làm rõ hệ thống thông tin và nghiên cứu marketing của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Hệ thống thông tin marketing
2.1.1.Tầm quan trọng của thông tin với hoạt động marketing
Trong lịch sự tồn tại và phát triển của mình, con người thường xuyên cần đến
thông tin. Hiện nay, thông tin đã trở thành một trong những nhu cầu sống còn của con
người và khái niệm "thông tin" đang trở thành khái niệm cơ bản, chung của nhiều ngành
khoa học, cả khoa học tự nhiên và xã hội. Chúng ta có thể hiểu “Thông tin là một tập hợp
dữ liệu nhận được làm tăng sự hiểu biết của đối tượng nhận tin về một vấn đề cụ thể - là
sự biểu hiện mối liên hệ giữa các sự kiện, các hiện tượng hay quá trình nào đó”. Từ đó
chúng ta có thể hiểu thông tin kinh doanh là bất kỳ những diễn biến của thị trường có liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Marketing luôn coi thông tin và quản trị thông tin là nội dung then chốt, là cơ sở
đầu tiên để tìm kiếm cơ hội thị trường, đề xuất các quyết định marketing, tổ chức thực
hiện các quyết định marketing để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Thông tin
marketing là một yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo marketing có hiệu quả như một kết
quả của xu hướng marketing toàn quốc và quốc tế, chuyển từ nhu cầu của người mua
sang mong muốn của người mua, và chuyển từ cạnh tranh bằng giá cả sang cạnh tranh
phi giá cả.
Nói về tầm quan trọng của thông tin, Marion Harper đã khẳng định “Để quản trị
tốt doanh nghiệp, phải quản trị được tương lai của nó, mà muốn quản trị tương lai tốt đó
thì phải quản trị thông tin”.
2.1.2. Hệ thống thông tin marketing (MIS)
Trong quá trình quản trị marketing, rất ít các nhà quản trị thỏa mãn với những
thông tin hiện có hàng ngày. Họ luôn cần các thông tin được cập nhật và phải đối mặt với
rất nhiều vấn đề chẳng hạn thiếu thông tin cần thiết, hữu ích trong “một núi” thông tin
hoặc chưa có hệ thống truyền đạt, thu thập thông tin thích hợp trong doanh nghiệp.
Theo Philip Kotler (1997), hệ thống thông tin marketing (Marketing Information
System - MIS) là một hệ thống liên hệ qua lại giữa con người, thiết bị và các phương
pháp, các hoạt động thường xuyên để thu thập, phân loại, phân tích, đánh giá, phân phối
những thông tin cần thiết, kịp thời và chính xác cho những người quản lý.
Hình 2.1. Hệ thống thông tin Marketing
Cấu trúc của hệ thống thông tin được mô tả trong hình 2.1. Bên phải hình là các
yếu tố thuộc môi trường marketing vĩ mô cần xem xét và là nguồn của các dữ liệu, các
thông tin của hệ thống. Bên phải hình mô tả các yếu tố liên quan đến xuất phát điểm và
đích đến của các nguồn thông tin đó chính là các nhà quản lý cần thông tin để ra các
quyết định. Thông tin được thu thập từ 3 nguồn: ghi chép nội bộ, hệ thống tình báo
marketing và hệ thống nghiên cứu marketing. Những thông tin này sẽ được chắt lọc
thông qua hệ thống phân tích thông tin và chuyển tới các nhà quản trị marketing để đưa ra
quyết định và kiểm soát. Chúng ta cũng nhận thấy, hệ thống nghiên cứu marketing là một
bộ phận của hệ thống thông tin marketing hay nói cách khác MIS rộng hơn so với nghiên
cứu marketing. Sự khác nhau giữa chúng là nghiên cứu marketing đượcthực hiện trong
thời gian nhất định để phân tích một vấn đề cụ thể còn MIS thu thập và chuyển giao
thông tin một cách liên tục.
MIS được tổ chức bởi 3 yếu tố cơ bản: con người, phương tiện và phương pháp.
Đây là mối quan hệ tương tác, trong đó con người là chủ thể. Nhiệm vụ của hệ thống
thông tin là thu nhập, phân tích và phân phối thông tin cho những người quản trị
marketing nhằm mục đích ra quyết định marketing kịp thời, chính xác.
Yêu cầu của MIS là cung cấp các thông tin có giá trị tức là đúng thời điểm (tính
thời sự, cập nhật và nhanh); đáng tiền (hiệu quả cao); chính xác và tin cậy.
a) Hệ thống ghi chép nội bộ
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào cũng cần xây dựng và duy trì hệ
thống ghi chép nội bộ. Hoạt động của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các sự kiện,
các giao dịch và những hoạt động tác nghiệp. Những con số do hệ thống này cung cấp
luôn là nguồn thông tin phong phú và đa dạng. Chúng được thể hiện dưới dạng những
báo cáo về sản lượng, số lượng hợp đồng đã ký kết, những hóa đơn, lượng tiền nhập quỹ,
những cuộc gặp của những đại diện bán, hàng hóa bị trả lại, chi phí phúc lợi xã hội,…
Hệ thống này bao gồm những thông tin chủ yếu:
- So sánh doanh số trong kỳ nghiên cứu với kỳ kế hoạch.
- Lỗ và lãi.
- Hiệu quả các hoạt động và chương trình marketing.
- Phân tích hiệu quả công việc của lực lượng bán hàng thể hiện qua sản lượng bán
theo số lần tiếp xúc với khách hàng.
Đây là hệ thống cung cấp thông tin về kết quả kinh doanh và các kết quả về hoạt
động marketing trong việc thực hiện mục tiêu doanh nghiệp, về những sự việc đã qua. Nó
cho biết mặt mạnh, mặt yếu của các chương trình marketing đã được soạn thảo và thực
hiện. Do đó, đây là cơ sở ban đầu để những người quản trị marketing tìm được giải pháp
mới, thích hợp hơn trong tình huống marketing mà doanh nghiệp phải giải quyết.
Những thông tin trên thường được lưu trữ trong ngân hàng dữ liệu của MIS và
được xử lý, phân tích và thể hiện dưới dạng các bảng biểu.
b) Hệ thống tình báo marketing
Hệ thống ghi chép nội bộ phải được hoàn thiện bằng những thông tin về môi
trường và cạnh tranh. Đây là nhiệm vụ của hệ thống tình báo marketing.
Hệ thống tình báo marketing (Marketing Intelligence System) cung cấp các thông
tin có tính chất cập nhật về những sự kiện đang xảy ra trong môi trường kinh doanh và dự
báo những gì có thể sẽ xảy ra trong môi trường kinh doanh.
Thông tin về môi trường rất phong phú và đa dạng, nhà quản trị có thể tìm thấy
trong sách báo, tạp chí, các ấn phẩm thương mại, các báo cáo chuyên đề hoặc những ý
kiến được tổng hợp, phân tích bởi các chuyên gia. Chẳng hạn, ở Việt Nam hiện nay có rất
nhiều loại sách tham khảo cho các doanh nhân, nhiều báo và tạp chí về kinh tế, kinh
doanh (Thời báo kinh tế Việt Nam, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn tiếp thị), báo mạng
như Vietnamnet.vn, vnexpress.net,…, các báo cáo thống kê của Tổng cục thống kê,
Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo cáo đánh giá VNR,… Các nhà
quản trị cũng có thể tham gia các hội chợ triển lãm, các hội thảo, tiếp xúc với các đối thủ
cạnh tranh, các nhà cung ứng, nhà phân phối và các chính quyền; cho nhân viên giả làm
khách hàng tới thăm dò các đối thủ cạnh tranh;
Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn huấn luyện và động viên lực lượng bán hàng ghi
chép và cung cấp thông tin về các sự kiện đang xảy ra hoặc thông tin về nhu cầu, mong
muốn của khách hàng. Cương vị công tác của họ rất thuận lợi cho việc thu lượm những
thông tin mà các phương tiện khác đã bỏ sót.
Doanh nghiệp cũng có thể mua thông tin của những người cung cấp ở bên ngoài
hoặc thuê các hãng, các tổ chức điều tra cung cấp thông tin. Ở Việt Nam hiện nay có
nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nghiên cứu thị trường như: AC Nielson, TNS
(Taylor Nelson Sofres), Investconsult, Galaxy, Guideline,…
c) Hệ thống nghiên cứu marketing
Nghiên cứu marketing là việc xác định một cách có hệ thống những thông tin cần
thiết về hoàn cảnh marketing đứng trước doanh nghiệp: là thu nhập, phân tích và báo
cáo kết quả về các thông tin đó.
Theo Zalman và Burger, nghiên cứu marketing là sự chẩn đoán những nhu cầu
thông tin và sự lựa chọn những biến số thích hợp để những thông tin để thu thập, ghi
chép và phân tích những thông tin có giá trị và hữu dụng.
Có ba loại hình nghiên cứu marketing chủ yếu là nghiên cứu mô tả, nghiên cứu
thăm dò và nghiên cứu nhân quả. Nghiên cứu thăm dò là loại hình nghiên cứu không
chính thức thường được tiến hành về vấn đề cụ thể nào đó và cần biết thêm những thông
tin đặc biệt là những thông tin mới hơn so với những gì hiện có. Nghiên cứu mô tả giúp
hình dung và hiểu rõ các biến số marketing bằng cách trả lời các câu hỏi: ai, cái gì, tại sao
và như thế nào? Nghiên cứu nhân quả giúp chúng ta chia tách các nguyên nhân quan
trọng ảnh hưởng tới một kết quả nào đó. Chẳng hạn doanh số bị sụt giảm có thể do sự
cạnh tranh gay gắt, chương trình quảng cáo, chất lượng, nhu cầu thay đổi,…
Những nghiên cứu có thể là toàn bộ hoặc một khía cạnh của:
- Môi trường marketing vĩ mô.
- Môi trường marketing vi mô.
- Thị trường – khách hàng
- Các yếu tố marketing hỗn hợp của doanh nghiệp hoặc của đối thủ cạnh tranh.
d) Hệ thống phân tích thông tin marketing
Hệ thống phân tích thông tin marketing là tập hợp các phương pháp phân tích,
hoàn thiện tài liệu và các vấn đề marketing được thực hiện. Nó bao gồm ngân hàng
thống kê, ngân hàng mô hình.
Ngân hàng thống kê là tập hợp những phương pháp hiện đại xử lý thông tin thống
kê các thông tin cho phép phát hiện đầy đủ nhất mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong
khuôn khổ lựa chọn số liệu và xác định mức độ tin cậy thống kê của chúng. Chúng giúp
các nhà quản trị trả lời các câu hỏi như:
Những biến số chủ yếu đến tình hình tiêu thụ và tầm quan trọng của mỗi biến?
Điều gì sẽ diễn ra nếu giá tăng 10% và chi phí quảng cáo tăng 5%?
Đâu là tiêu thức phân đoạn thị trường phù hợp nhất đối với sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp?...
Ngân hàng mô hình là tập hợp các mô hình toán học giúp các nhà kinh doanh
thông qua các quyết định marketing tối ưu hơn. Mỗi mô hình bao gồm tập hợp các biến
liên hệ qua lại với nhau, biểu diễn một hệ thống tồn tại thực sự, một quá trình có thực.
Những mô hình này giúp doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: “còn gì, nếu?, và “cái gì tốt
hơn”. Hiện nay chúng ta có rất nhiều mô hình nhằm giúp các nhà quản trị marketing có
thể đưa ra quyết định về địa bàn tiêu thụ, các kế hoạch chào hàng, lựa chọn điểm bán lẻ,
phương tiện quảng cáo….
2.2. Quá trình nghiên cứu marketing
Phát hiện vấn Lập kế Thu thập Phân tích Báo cáo kết
đề và mục hoạch thông tin thông tin quả nghiên
tiêu NC nghiên cứu cứu
Vấn đề quản trị chưa rõ ràng Vấn đề quản trị chính xác
Làm thế nào đẩy mạnh lượng bán? Việc tung ra sản phẩm TV LCD mới sẽ
cho phép tăng doanh số không?
DN nên thực hiện chương trình quảng Doanh nghiệp quảng cáo nào sẽ hỗ trợ
cáo nào? DN để tăng uy tín thương hiệu?
Những hướng truyền thông nào được
chọn để tăng nhận thức về thương hiệu
trong tâm trí khách hàng mục tiêu?
Việc tung ra sản phẩm TV LCD mới sẽ 1. Hiểu những động cơ và phanh hãm
cho phép tăng doanh số không? trong việc chấp nhận TV LCD.
2. Mô tả những đoạn TT thuận lợi cho
TV LCD?
3. Dự báo lượng bán của sản phẩm mới
Doanh nghiệp quảng cáo nào sẽ hỗ trợ 1. Ai thực sự là khách hàng mục tiêu?
DN để tăng uy tín thương hiệu? 2. Khách hàng mục tiêu thường sử dụng
phương tiện quảng cáo nào?
3. Giá cả, tần suất và mức bao phủ của
mỗi chương trình?
Những hướng truyền thông nào được
chọn để tăng nhận thức về thương hiệu
trong tâm trí khách hàng mục tiêu?
Ví dụ, với cuộc nghiên cứu của doanh nghiệp TT, chủ đích hay mục tiêu của cuộc
nghiên cứu đó là: “Phân tích thực trạng của hệ thống kênh phân phối và nhu cầu khách
hàng” còn mục đích là “tìm hiểu thực trạng, ưu nhược điểm của kênh phân phối để đưa ra
các giải pháp phù hợp; tìm hiểu nhu cầu mới phát sinh của khách hàng để đưa ra những
sản phẩm phù hợp”.
Nhiệm vụ và nội dung chủ yếu của bước này là:
- Những người nghiên cứu marketing phải kết hợp chặt chẽ với người lãnh đạo để
phát hiện ra vấn đề và mục tiêu nghiên cứu theo yêu cầu của quản trị marketing.
- Phải hoạch định cụ thể các mục tiêu, đòi hỏi người nghiên cứu và người lãnh đạo
lập được danh mục các mục tiêu cần phải nghiên cứu.
- Xác định giới hạn hoặc phạm vi nghiên cứu.
- Xác định các giả thiết phục vụ cho việc nghiên cứu.
2.2.2. Lập kế hoạch nghiên cứu
Lập kế hoạch nghiên cứu là xây dựng một bản kế hoạch tổng thể nhằm triển khai
công việc nghiên cứu một cách hệ thống và có tổ chức. Bản kế hoạch cho phép hình dung
toàn bộ nội dung một cách tổng quát cơ bản, cốt lõi của toàn bộ tiến trình nghiên cứu.
Nội dung của bản kế hoạch nghiên cứu bao gồm:
- Xác định rõ nguồn dữ liệu nghiên cứu (thông tin từ nguồn sơ cấp, thứ cấp hay cả
hai nguồn).
Thông tin thứ cấp là những thông tin đã có sẵn, đã được sử dụng cho những mục
đích khác nhưng có liên quan một phần tới vấn đề nghiên cứu của chúng ta. Ưu điểm của
thông tin sơ cấp là dễ tìm kiếm và tìm kiếm nhanh, chi phí sử dụng ít hơn so với thu thu
dữ liệu sơ cấp, tính sẵn sàng và thích hợp, làm tăng giá trị của dữ liệu sơ cấp.
Thông tin sơ cấp là những thông tin chưa có sẵn mà chúng ta phải tổ chức điều tra
thu thập. Ưu điểm của nguồn thông tin này là sát với mục tiêu và vấn đề của cuộc nghiên
cứu. Tuy nhiên nhược điểm của chúng là tốn thời gian và chi phí cao.
- Xác định phương pháp thu nhập thông tin và công cụ sẽ được sử dụng.
Phương pháp thu thập gồm: quan sát, phỏng vấn điều tra (qua thư, trực tiếp, nhóm,
điện thoại, Internet) và thực nghiệm.
Quan sát là phương pháp mà các nhà nghiên cứu thực hiện sự theo dõi (quan sát
mọi người và hoàn cảnh). Trong trường hợp này người nghiên cứu có thể ở đâu đó nghe,
xem mọi người nói về doanh nghiệp mình, về hàng hóa của mình, hàng hóa cạnh tranh.
Các dạng nghiên cứu quan sát: quan sát trong môi trường bình thường và có điều kiện;
quan sát bằng người và bằng máy; quan sát mở và quan sát ngụy trang; quan sát có tổ
chức và không có tổ chức.
Phỏng vấn điều tra là phương pháp mà những người nghiên cứu đặt câu hỏi cho
các đối tượng điều tra và thông qua sự trả lời của họ để nhận được những thông tin mong
muốn. Chúng ta có các dạng phỏng vấn điều tra là qua điện thoại, qua thư tín, trực tiếp cá
nhân, nhóm tập trung.
Thực nghiệm là phương pháp đòi hỏi chọn lọc, các nhóm chủ thể có thể so sánh
được với nhau. Mục tiêu của sự nghiên cứu là khám phá mối quan hệ nhân quả bằng cách
tuyển chọn những giải thích đối lập nhau của các kết quả theo dõi. Ví dụ có thể giảm giá
bán được không?
Công cụ thu nhập thông tin bao gồm: bảng câu hỏi và các phương tiện máy móc.
Bảng câu hỏi (phiếu điều tra) là một công cụ rất linh hoạt, những câu hỏi có thể
đặt ra với nhiều phương thức. Có hai dạng câu hỏi là câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Bảng
câu hỏi cần được soạn thảo cẩn thận về nội dung và hình thức.
Phương tiện máy móc được dùng trong nghiên cứu marketing bao gồm máy ảnh,
máy ghi âm, camera, điện thoại… dùng để đo lường cường độ quan tâm, tình cảm, cử chỉ
phi ngôn ngữ của người được hỏi khi tiếp xúc với thông điệp hoặc hình ảnh quảng cáo
hoặc khi dùng thử hàng hóa.
- Dự kiến về nguồn lực, thời gian, tiến độ, ngân sách phục vụ cho nghiên cứu.
- Kế hoạch xử lý thông tin thu nhập: các phương pháp, kỹ thuật xử lý được áp
dụng, nguồn lực, thời gian, chi phí cho việc phân tích xử lý thông tin.
2.2.3. Thu thập thông tin
Trong giai đoạn này, những người nghiên cứu marketing phải thu thập tất cả các
thông tin mà họ đã vạch ra trong bản kế hoạch. Phần lớn các thông tin đó là thông tin sơ
cấp. Vì vậy, giai đoạn này được xem là giai đoạn quan trọng nhất, tốn kém nhất nhưng
đồng thời cũng dễ phát sinh những sai sót nhất của việc nghiên cứu. Mục tiêu là phải thu
thập được lượng thông tin nhiều nhất và giảm thiết được những sai sót phát sinh. Thông
thường chúng ta sẽ gặp bốn vấn đề phát sinh. Một số người cần hỏi không có mặt ở nơi
hẹn và người nghiên cứu sẽ phải tiếp xúc vào lần khác. Một số từ chối không tham gia trả
lời. Một số có thể trả lời không thành thật. Cuối cùng bản thân người chủ trì, người
nghiên cứu có thể thiên vị và hướng vào những câu trả lời theo ý kiến chủ quan của mình.
Để giảm thiểu những sai sót có thể xảy ra, những người nghiên cứu thường phải
tập trung vào việc giải quyết các vấn đề sau:
- Kỹ thuật và nghệ thuật thu nhập số liệu vì những thông tin liên quan đến tâm lý,
sinh hoạt cá nhân… của người được điều tra không dễ được thu thập.
- Những sai số do chủ quan cũng như khách quan và biện pháp khắc phục.
- Các phương pháp quản lý, kiểm tra, làm sạch và đánh giá số liệu
2.2.4. Phân tích thông tin
Giai đoạn này nhằm tập hợp thông tin có được ở giai đoạn ba để phân tích, chắt
lọc rút ra kết luận. Người nghiên cứu tổng hợp các số liệu thu thập được thành các bảng
biểu. Hiện nay khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, các doanh nghiệp thường dùng
Excel hoặc các phần mềm chuyên dụng như SPSS, Minitab, SAS, STATA.
Kết luận có thể là những tư liệu, kết quả về đối tượng nghiên cứu, phục vụ cho
việc ra quyết định marketing.
Những công việc chính trong giai đoạn này bao gồm:
- Lựa chọn các phương pháp hiệu chỉnh, mã hoá, nhập dữ liệu và phương tiện để
chuẩn bị cho việc phân tích.
- Lựa chọn các mô hình để mô tả các đối tượng nghiên cứu theo yêu cầu
2.2.5. Báo cáo kết quả nghiên cứu
Đây là giai đoạn những người làm nghiên cứu marketing bàn giao lại những sản
phẩm nghiên cứu đảm bảo chất lượng theo đúng yêu cầu và mục tiêu của cuộc điều tra
thông qua một bản báo cáo đầy đủ chi tiết với những thông tin chính xác, đã được phân
tích, chắt lọc. Tuỳ vào quy mô điều tra mà có cách báo cáo kết quả khác nhau. Tuy nhiên,
trong bản báo cáo phải thể hiện được hai vấn đề sau:
- Toàn bộ kết quả nghiên cứu theo nhu cầu và mục tiêu nghiên cứu.
- Đề xuất những ý tưởng mang tính khả thi liên quan đến những giải pháp quản trị.
Câu hỏi ôn tập
1. Hãy cho biết tầm quan trọng thông tin và quản trị thông tin đối với hoạt động
marketing; cho ví dụ minh họa?
2. Hãy trình bày khái niệm thông tin và cho ví dụ minh họa?
3. Hệ thống thông tin marketing là gì? Nó bao gồm các bộ phận nào? Trong các bộ
phân đó, hãy cho biết bộ phận nào phải được người làm marketing thu thập
thường xuyên?
4 Nghiên cứu marketing là gì? Hãy phân biệt nghiên cứu marketing và nghiên cứu
thị trường.
5 Quá trình nghiên cứu marketing gồm mấy giai đoạn? Hay nêu những nội dung
chính của mỗi giai đoạn của quá trình nghiên cứu marketing.
6 Hãy phân biệt sự khác nhau giữa thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp? Cho ví dụ
minh họa.
Chương 3. Môi trường marketing
MỤC ĐÍCH
Sau khi đọc xong chương này, sinh viên có khả năng:
1. Liệt kê và phân tích được những ảnh hưởng của môi trường vi mô tới các quyết
định marketing;
2. Liệt kê và phân tích được những ảnh hưởng của môi trường vĩ mô tới các quyết
định marketing.
2. Lý giải được điều gì dẫn đến những đặc trưng về hành vi mua của người tiêu
dùng;
3. Hiểu được những đặc trưng về hành vi mua của người tiêu dùng được bộc lộ trong
quá trình mua như thế nào;
4. Đưa ra những gợi ý về hoạt động marketing nhằm xây dựng, duy trì mối quan hệ
có hiệu quả đối với khách hàng;
5. Trình bày được đặc điểm thị trường và đặc điểm về hành vi mua của thị trường
các tổ chức.
6. So sánh thị trường người tiêu dùng và thị trường các tổ chức.
Vì sao khách hàng lại cư xử theo cách như vậy? Đây là câu hỏi mà tất cả những ai
liên quan đến marketing cần phải trả lời. Nếu hiểu được hành vi có tính quy luật của
khách hàng, doanh ngiệp có thể ứng xử phù hợp hơn với nhu cầu khách hàng.
Chương này sẽ giải thích hành vi của khách hàng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn
hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý, đồng thời phân tích sự hình thành và chuyển tiếp giữa các
giai đoạn trong quá trình mua.
4.1. Thị trường người tiêu dùng và hành vi mua của họ
4.1.1. Khái quát về thị trường người tiêu dùng
a) Khái niệm
NGƯỜI TIÊU DÙNG là người mua sắm và tiêu dùng những sản phẩm hoặc dịch
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu và ước muốn cá nhân. Họ là người tiêu dùng cuối cùng sản
phẩm do quá trình sản xuất tạo ra. Theo các nhà kinh tế học, việc tiêu dùng của họ một
mặt được xem như là việc sử dụng hoặc huỷ bỏ một tài sản kinh tế; mặt khác, cũng là
cách họ tự thể hiện mình. Người tiêu dùng có thể là một các nhân, một hộ gia đình
hoặc một nhóm người.
THỊ TRƯỜNG NGƯỜI TIÊU DÙNG bao gồm tất cả các cá nhân, các hộ gia đình
và các nhóm người hiện có và tiềm ẩn mua sắm hàng hoá hoặc dịch vụ cho mục đích
thoả mãn nhu cầu cá nhân.
b) Đặc trưng cơ bản của thị trường người tiêu dùng
- Quy mô thị trường này lớn nhất nếu đứng ở khía cạnh số lượng khách hàng. Quy
mô thị trường xấp xỉ quy mô dân số và thường xuyên gia tăng.
- Cơ cấu và tính chất: Phong phú, đa dạng, và phức tạp vì phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, vào đặc điểm của từng cá nhân
- Sự thay đổi: đây là thị trường thường xuyên thay đổi tương ứng với môi trường
sống của con người luôn thay đổi.
4.1.2. Hành vi mua của người tiêu dùng
a) Khái niệm hành vi mua của người tiêu dùng
HÀNH VI MUA CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG là cung cách mà người tiêu dùng chọn
lựa, sử dụng, đánh giá sau khi mua hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu.
Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng không chỉ riêng có khoa học marketing
mà có rất nhiều các ngành khoa học khác nhau. Các ngành này đều coi đây là đối tượng
nghiên cứu của mình.
- Dưới góc độ “Kinh tế học”, người ta coi hành vi của người tiêu dùng là hành
động ý chí. Hành vi chủ đạo của con người là họ luôn tìm cách để đạt sự thỏa mãn tối đa.
Trong tiêu dùng, họ lựa chọn sử dụng hàng hóa có lợi ích biên cao nhất để thay thế cho
sản phẩm có lợi ích biên nhỏ hơn. Vì vậy, hành vi lựa chọn và mua sắm của người tiêu
dùng cần được hỗ trợ tích cực của thông tin.
- Theo “Tâm lý học hành vi”, hành vi của con người là những phản xạ có điều
kiện. Con người chịu ảnh hưởng rất lớn của những tác nhân kích thích trong đó có các
kich thích có giá trị của marketing như quảng cáo, kiểu dáng sản phẩm... giúp thu hút
khách hàng và giữ khách hàng.
Sự lặp đi lặp lại trong hành động mua và sử dụng hàng hóa của con người sẽ hình
thành nên thói quen. Việc xóa bỏ những thói quen rất khó khăn.
- Tiếp cận của ngành “Phân tâm học”, người ta cho rằng con người là sinh vật duy
lý có giới hạn... Hành động của con người không phải lúc nào cũng có lý chí. Phân tâm
học (Psychoanalysis) tìm hiểu những mối quan hệ vô thức của con người qua tiến trình
liên tưởng. Phần vô thức của con người có thể giải thích được những hành vi phi lý chí
trong mua sắm và tiêu dùng.
- Ngành “Xã hội học” lại đề cao những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài đến hành vi.
Bất luận thế nào, con người chỉ là thành viên của xã hội, chứa đựng một phiên bản của xã
hội. Cách tiếp cận này có thể giải thích được hiện tượng “phi quy luật” mà kinh tế học
đưa ra.
- Cách tiếp cận của “Nhân chủng học” cho rằng: Trong hành vi của con người, họ
luôn tìm kiếm những biểu tượng và đề cao tầm quan trọng của văn hóa. Vì vậy, nó sẽ chi
phối đến hành vi của họ. Việc tiêu dùng sản phẩm thường vượt quá những quan niệm
hiện hữu về sản phẩm. Việc tiêu dùng sản phẩm không chỉ thỏa mãn một nhu cầu nhận
biết được mà nó còn tìm đến những ý nghĩa mang tính biểu tượng.
- Cách tiếp cận của “Thần kinh học” cho rằng hành vi của con người là sản phẩm
của hoạt động thần kinh.
- Dưới góc độ của marketing, con người là một cá thể chứa đựng những tính cách
riêng biệt nhưng nó là sản phẩm của sinh học, của xã hội và tâm lý học. Hành vi của họ
phải chịu ảnh hưởng của quy luật sinh học, quy luật tâm lý và quy luật xã hội. Vì vậy, để
giải thích hành vi cua con người và những biến đổi trong hành vi của họ, chúng ta phải
thừa hưởng kết quả nghiên cứu của ngành sinh học, tâm lý học, xã hội học và kinh tế học.
b) Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng
Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng sẽ giúp chúng ta trả lời được câu hỏi ở
đầu chương này. Người tiêu dùng phản ứng như thế nào với những thủ thuật kích thích
của marketing mà doanh nghiệp có thể vận dụng? Doanh nghiệp sau khi thực sự hiểu rõ
những người tiêu dùng phản ứng như thế nào với các tính năng khác nhau của sản phẩm,
giá cả… sẽ ưu thế to lớn trước các đối thủ cạnh tranh. Chính vì thế mà các doanh nghiệp
và các nhà khoa học đã tốn nhiều công sức để nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố
kích thích của marketing và phản ứng đáp lại của người tiêu dùng. Mô hình đơn giản
trong hình 4.1 của Philip Kotler cho thấy các yếu tố kích thích của marketing và những
tác nhân kích thích khác xâm nhập vào “hộp đen” ý thức của người mua và gây ra những
phản ứng đáp lại nhất định. Vì vậy, mô hình này còn được gọi là mô hình " kích thích và
đáp lại".
Hình 4.1: Mô hình đơn giản hành vi mua của người tiêu dùng
Mô hình này được Philip Kotler trình bày chi tiết trong hình 4.2. Trong ô chữ bên
trái là những yếu tố kích thích. Chúng được chia làm hai nhóm chính:
- Nhóm 1: Các tác nhân kích thích của marketing bao gồm: sản phẩm, giá bán,
phân phối và các hoạt động xúc tiến. Các tác nhân này nằm trong khả năng kiểm soát của
doanh nghiệp.
- Nhóm 2: Các tác nhân kích thích khác bao gồm những lực lượng cơ bản và sự
kiện môi trường xung quanh người mua: môi trường kinh tế, khoa học, kỹ thuật, chính trị,
văn hoá, xã hội… Các tác nhân kích thích này không thuộc quyền kiểm soát tuyệt đối của
các doanh nghiệp.
Đi qua “hộp đen” ý thức của người mua, các tác nhân kích thích này gây ra một
loạt những phản ứng của người mua có thể quan sát được (ô chữ nhật bên phải của mô
hình): lựa chọn hàng hóa, lựa chọn nhãn hiệu, lựa chọn người bán, lựa chọn địa điểm,
thời gian mua và khối lượng mua.
Các yếu tố Các tác nhân “Hộp đen” ý Những phản ứng
kích thích kích thích thức của đáp lại của người
của khác người mua mua
marketing
- Sản phẩm -Môi trường Các Quá - Lựa chọn hàng hóa
- Giá cả kinh tế đặc trình - Lựa chọn nhãn
- Phân phối -Khoa học kỹ tính quyết hiệu
thuật của định - Lựa chọn người
- Khuyến mãi
-Chính trị người mua bán
mua hàng
-Văn hóa - Lựa chọn khối
Hình 4.2: Mô hình chi tiết hành vi mua của người tiêu dùng
Nhiệm vụ của những người làm marketing là hiểu được cái gì xảy ra trong “hộp
đen” ý thức của người tiêu dùng giữa lúc tác nhân kích thích đi vào. Bản thân “hộp đen”
ý thức bao gồm hai phần. Phần thứ nhất là các đặc tính của người tiêu dùng, có ảnh
hưởng cơ bản đến việc người tiêu dùng tiếp nhận các kích thích và phản ứng đáp lại đối
với các tác nhân đó như thế nào? Phần thứ hai là quá trình quyết định mua và kết quả của
việc mua sắm hàng hoá sẽ phụ thuộc vào những quyết định này.
4.1.3. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới hành vi của người tiêu dùng
Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hành vi của người mua được tập hợp thành bốn
nhóm chính: những nhân tố văn hoá, những nhân tố mang tín xã hội, những nhân tố cá
nhân và những nhân tố tâm lý.
Phần lớn các nhân tố này không chịu sự kiểm soát của marketing. Nhiệm vụ của
marketing là phải nghiên cứu và theo dõi chúng để hiểu biết về các đặc tính trong hành vi
của người tiêu dùng.
Người tiêu
dùng
Cá nhân Tâm lý
Tuổi đời Động cơ
Nghề nghiệp Nhận thức
Hoàn cảnh kinh tế Kinh nghiệm
Cá tính Niềm tin và thái độ
Hình 4.3: Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới hành vi người tiêu dùng
a) Những nhân tố thuộc về văn hoá
Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu rộng nhất tới hành vi của người tiêu dùng. Ta sẽ
xem xét nền văn hóa và nhánh văn hóa có vai trò như thế nào?
- Ảnh hưởng của nền văn hoá đến hành vi người tiêu dùng:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred
Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn
hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Giáo trình này in giới thiệu một số khái niệm
cũng như cách tiếp cận về văn hóa được cho là gần gui nhất với người tiêu dùng và có ý
nghĩa với các nhà hoạt động marketing.
Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trường,
quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một trong những cách
định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 - 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại
học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự của ông là:
Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính
là văn hóa, hay văn minh... Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết
hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa.
Hồ Chí Minh định nghĩa:
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi sinh
tồn.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau:
Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như
thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh...Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là
cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong
cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...Vì thế chúng ta
nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.
Với mỗi cá nhân, văn hoá được hấp thụ ngay từ thời khắc đầu tiên của đời sống
con người và đeo bám họ suốt cuộc đời. Văn hóa là nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất
quyết định nhu cầu, ước muốn, những quan niệm về giá trị, những đặc điểm về hành vi.
Như vậy, ở những nền văn hóa khác nhau, quan niệm về giá trị, sự thỏa mãn, sự ưa
chuộng, tiêu chuẩn đạo đức… là khác nhau. Văn hóa gắn liền với tập quán , phong tục và
hình thành nên thói quen có tính chất đặc thù trong tiêu dùng, trong lựa chọn và mua sắm.
Đặc biệt, văn hóa là những giá trị cốt lõi, là những thứ không nên tranh cãi. Vì vậy, khi đề
xuất các giải pháp marketing, chúng ta không nên chỉ trích các nền văn hóa mà cần cố
gắng tìm ra các giải pháp phù hợp với từng nền văn hóa đó.
- Ảnh hưởng của nhánh văn hoá đến hành vi người tiêu dùng:
Trong một nền văn hóa, sự khác biệt về độ tuổi, điều kiện sống, giai cấp xã hội,...
đã làm hình thành nên những mẫu văn hóa khác với văn hóa thống trị, hay còn gọi là
nhánh văn hóa.
Nhánh văn hoá là văn hóa của các cộng đồng xã hội mà có những sắc thái khác với
nền văn hóa chung của toàn xã hội. Người ta thường hay nhắc đến nhánh văn hoá của
thanh niên, của một dân tộc ít người nào đó hay nhánh văn hóa của một cộng đồng người
dân sinh sống lâu đời ở một nước, v.v... Thực chất, nhánh văn hóa vẫn là một bộ phận của
nền văn hóa chung; nó chỉ có những nét khác biệt khá rõ so với nền văn hóa chung, song
không đối lập với nền văn hóa chung đó.
Nhánh văn hoá thể hiện tính đồng nhất, đặc trưng trong hành vi của người ở một
phạm vi nhỏ hơn của nền văn hoá. Điều đó có nghĩa là sở thích, cách đánh giá về giá trị,
cách thức mua sắm, sử dụng sản phẩm ở những người thuộc nhánh văn hoá khác nhau là
khác nhau. Người nông thôn có thể cho người thành phố là "giả dối" trong khi họ lại bị
người thành phố coi là "người nhà quê". Những thanh niên mê nhạc Hip Hop cũng có lối
sống và quan niệm khác hẳn những giáo sư đứng tuổi. Trong hầu hết những xã hội hiện
đại, đều tồn tại những nhánh văn hóa cấu thành dựa trên sắc tộc. Xã hội Việt nam được
cấu thành bởi các tiểu văn hóa của trên 50 sắc tộc. Tính đa dạng về văn hóa đôi khi gây ra
sự mâu thuẫn.
Trong trường hợp một nhánh văn hóa có sự khác biệt với văn hóa thống trị ở một
mức độ đáng kể thì trong xã hội học người ta gọi là văn hóa nghịch dòng hay phản văn
hóa. Khi văn hóa nghịch dòng xuất hiện thì sẽ xuất hiện vấn đề xem xét lại tiêu chuẩn,
đạo đức của văn hóa thống trị và do vậy xã hội có các biện pháp kiểm soát văn hóa từ đưa
tin một cách tiêu cực trên các phương tiện truyền thông đến can thiệp bằng luật pháp.
Nhiều trào trào lưu văn hóa nghịch dòng được xuất phát từ giới trẻ như phong trào hippie
ở Mỹ những năm 1960 hoặc làn sóng đầu trọc hiện nay.
- Sự hội nhập và biến đổi văn hoá
Các nền văn hoá, nhánh văn hoá luôn tìm cách bảo tồn bản sắc văn hoá của mình,
song nó không có nghĩa là các thành viên của họ không chịu ảnh hưởng của các nền văn
hoá khác.
Sự hội nhập văn hoá
Quá trình mà mỗi một các nhân tiếp thu các văn hoá khác để làm phong phú thêm
văn hoá của mình và cũng chính trong quá trình đó, khẳng định giá trị văn hoá cốt lõi
của họ được gọi là quá trình "hội nhập văn hoá"
Bên cạnh những ngày lễ trọng đại của dân tộc như Tết nguyên đán, ngày giỗ Tổ
Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 Âm lịch), ngày Quốc khánh (ngày 2 tháng 9), ngày giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước (ngày 30 tháng 4), Tết nguyên tiêu (ngày 15 tháng
1 Âm lịch), Tết trung thu (ngày 15 tháng 8 Âm lịch)..., giới trẻ ở Việt Nam hiện nay còn
tiếp thu thêm nhiều ngày lễ từ những nền văn hóa khác. Trong đó phải kể đến là ngày của
Cha – Father’s Day (ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng 6), ngày của Mẹ - Mother's Day
(ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5), ngày lễ Tình yêu (ngày 14 tháng 2)... Qua đó, họ có
nhiều cơ hội hơn để thể hiện tình cảm tốt đẹp đối với những người thân yêu của mình.
Hình 4.4. Ngày Hiền Mẫu hay
Ngày của Mẹ ở Việt Nam. Ngày
này có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, để
tôn vinh những người mẹ hiền, đặc
biệt là trong khung cảnh của mái
ấm gia đình.
Các ý tưởng về sự tiến bộ, sự hướng thiện, vươn tới vẻ đẹp hoàn mỹ là những biến
số can thiệp tích cực vào quá trình hội nhập này.
Sự biến đổi văn hoá
Văn hóa liên tục biến đổi. Sự biến đổi văn hoá là không tránh khỏi và cũng là cần
thiết.
Sự biến đổi văn hoá chính là cách thức tồn tại của một nền văn hoá trong sự biến
đổi không ngừng của môi trường tự nhiên và xã hội.
Có hai nguyên nhân tạo ra sự biến đổi văn hoá:
Thứ nhất, sự biến đổi văn hóa bắt nguồn từ biến đổi nội tại đồng nghĩa với sự hình
thành một tư tưởng mới, quan niệm mới, chuẩn mực mới trong lối sống, trong phong
cách sống thay thế những gì không còn là phù hợp với những biến đổi của môi trường tự
nhiên, xã hội, chính trị,… mà nền văn hoá phải vận động trong đó
Thứ hai, quá trình thay đổi văn hoá bắt nguồn từ bên ngoài là "sản phẩm" của sự
giao lưu, tiếp xúc của các nền văn hoá với nhau. Sự tiếp xúc này là vì nhiều lý do: mở
rộng thương mại, du lịch, chiến tranh, hoạt động truyền thông… Nguồn từ bên ngoài sẽ
bổ sung vào nền văn hoá truyền thống những quan niệm, lối sống, mới mẻ, hình thành
những mong muốn - thậm chí khác lạ, xung đột với văn hoá truyền thống như nhạc jazz
của người da đen cũng lan tỏa sang những nền văn hóa khác, phong trào hippie từ Mỹ
nhanh chóng lan truyền sang châu Âu, Canada, Úc, những cửa hàng McDonald có ở khắp
nơi trên thế giới. Qua quá trình chọn lọc văn hoá, một số được chấp nhận, một số khác bị
tẩy chay.
b) Những nhân tố mang tính xã hội
Hành vi người tiêu dùng còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố mang tính xa hội như
giai tầng xã hội, nhóm tham khảo, giai đình, vai trò và địa vị cá nhân.
* Giai tầng xã hội
Những nhóm người trong xã hội được sắp xếp, đánh giá bởi các thành viên khác
vào những vị trí cao hay thấp, sản sinh ra những thang bậc của sự tôn kính và uy tín. Điều
này ám chỉ một vấn đề hiện hữu trong mọi xã hội đó là sự tồn tại của giai tầng xã hội.
Giai tầng xã hội được định nghĩa như sau:
GIAI TẦNG XÃ HỘI là những nhóm tương đối ổn định trong khuôn khổ xã hội,
được sắp xếp theo thứ bậc đẳng cấp và được đặc trưng bởi những quan điểm giá trị, lợi
ích và hành vi đạo đức giống nhau ở các thành viên.
Sự phân chia xã hội thành các giai tầng khác nhau là một vấn đề khách quan. Sự
hình thành đẳng cấp xã hội không chỉ phụ thuộc vào một yếu tố duy nhất là kinh tế (của
cải, thu nhập, nghề nghiệp) mà còn là sự kết hợp của uy tín cá nhân, sự giao du, quyền
lực, ý thức hệ tư tưởng và những yếu tố khác.
Một cá nhân cụ thể có thể có sự chuyển đổi giai tầng xã hội cao hơn hay xuống
giai tầng xã hội thấp hơn.
Điều có ý nghĩa với marketing là những người thuộc cùng một giai tầng xã hội
quan niệm, đặc điểm hành vi có tính chất giống nhau. Điều này cũng có nghĩa là, những
người không cùng một giai tầng xã hội, họ có những sở thích về hàng hoá, nhãn hiệu sản
phẩm, lựa chọn địa điểm bán hàng … khác nhau. Sự khác biệt này bộc lộ rõ nét đối với
các loại hàng hoá như quần áo, đồ nội thất, xe hơi, hoạt động vui chơi giải trí. Vì vậy,
marketing coi đây là một căn cứ để phân đoạn thị trường, định vị thị trường và thiết kế
các chương trình marketing – mix.
* Nhóm tham khảo
Nhóm tham khảo là những nhóm mà một cá nhân xem xét (như một sự tham khảo)
khi hình thành thái độ và quan điểm của người đó.
Các nhóm tham khảo ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thái độ, suy nghĩ và
cách nhìn nhận giá trị của một cá nhân. Nhóm tham khảo của một cá nhân có thể nhóm
bạn bè, có thể là láng giềng, đồng nghiệp, cũng có thể là hình ảnh của các nhân vật nỏi
tiếng như ca sĩ, cầu thủ, chính khách…
Nhóm tham khảo ảnh hưởng đến sự nhận thức về giá trị, những đặc điểm về hành
vi và quan niệm về cái đẹp. Vì vậy khi phân tích ảnh hưởng của nhóm tham khảo, những
người làm marketing cần phát hiện được nhóm ảnh hưởng và xác định mức độ ảnh hưởng
của nhóm trong mối quan hệ với đặc điểm của sản phẩm, nhãn hiệu.
* Gia đình
Gia đình là lực lượng xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp nhất tới hành vi
người tiêu dùng bởi vì các lý do sau:
Thứ nhất, sự biến động của nhu cầu hàng hóa luôn gắn với sự hình thành và biến
động của gia đình.
Thứ hai, những quyết định mua sắm của cá nhân luôn chịu ảnh hưởng của các cá
nhân trong gia đình.
Khi nghiên cứu về gia đình, người ta thường chia gia đình thành hai loại:
- Gia đình truyền thống: là gia đình mà mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình là mối quan hệ huyết thống. Gia đình truyền thống được chia thành hai loại: gia đình
định hướng và gia đình kết hôn.
+ Gia đình định hướng: là loại gia đình mà ở đó tồn tại nhiều thế hệ cùng chung
sống. Gia đình này ảnh hưởng đến thiên hướng về tôn giáo, chính trị, xã hội và hoài bão
của mỗi cá nhân. Do đó hành vi của mỗi cá nhân trong gia đình chịu ảnh hưởng sâu sắc
từ cá nhân khác. Với người Việt Nam, ảnh hưởng của nề nếp gia phong tới hành vi của cá
nhân là rất đáng kể.
+ Gia đình kết hôn (gia đình hôn phối): bao gồm vợ, chồng và con cái của họ.
Ngày nay, kiểu gia đình này mang tính phổ biến và có xu hướng phổ biến nhất trong
tương lai. Gia đình kết hôn được coi là một “trung tâm mua”. Nó đang thu hút sự nghiên
cứu của rộng rãi các nhà khoa học và những người làm marketing vì sự ảnh hưởng trực
tiếp của nó tới hành vi mua sắm hàng ngày nói riêng.
Trong gia đình kết hôn, người ta thường chú ý đến vai trò ảnh hưởng tương đối
của người vợ, người chồng, con cái trong việc mua sắm các loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể.
Theo Philip Kotler, mỗi người tiêu dùng có thể đảm nhiệm một trong năm vai trò sau:
+ Người khởi xướng: người đầu tiên nêu ý tưởng mua một sản phẩm và dịch vụ cụ
thể.
+ Người gây ảnh hưởng: người có ý kiến ảnh hưởng đến quyết định mua.
+Người quyết định mua: người quyết định mọi mọi yếu tố trong quyết định mua
sắm như có nên mua không, mua cái gì, mua như thế nào hay mua ở đâu.
+ Người mua: người thực hiện việc mua sắm thực tế.
+ Người sử dụng: người tiêu dùng hay sử dụng sản phẩm.
Chẳng hạn, trong trường hợp mua xe máy của một gia đình mà con cái đã trưởng
thành. Ý tưởng về một chiếc xe máy có thể xuất phát từ đứa con đang học đại học. Bạn
bè có thể đưa ra lời khuyên về loại xe nên mua. Ông bố có thể chọn kiểu xe. Người mẹ
và con cái có thể lựa chọn nhãn hiệu, màu sắc và tính năng. Người mẹ có thể đảm bảo về
tài chính và con cái có thể sử dụng xe máy mới nhiều hơn.
Việc nghiên cứu kỹ lưỡng các vai trò này giúp các nhà hoạt động thị trường có thể
thiết kế sản phẩm, thiết kế thông điệp truyền thông và các chương trình marketing có hiệu
quả. Trong trường hợp trên, người hoạt động thị trường có thể thiết kế kiểu dáng xe máy
theo phong cách trẻ trung, mẫu mã đẹp. Thông tin đầy đủ về các đặc tính kỹ thuật của xe
cho người bố còn các chương trình khuyến mại, hỗ trợ về tài chính… nên trình bày một
cách rõ ràng với người mẹ để đảm bảo rằng quyết định mua có hàng thể được đưa ra.
Vai trò của người vợ và người chồng có sự khác biệt đối với những chủng loại
hàng hoá khác nhau. Chủng loại gắn chặt với khả năng về giới tính và vấn đề chuyên
môn hoá theo giới. Cùng với sự tiến bộ của xã hội, đặc biệt là vai trò của phụ nữ cho nên
có sự biến đổi về quyền quyết định mua hàng hóa giữa người vợ và người chồng. Xu thế
biến đổi với hàng hoá có giá trị lớn, quan trọng, có sự bình đẳng trong việc ra quyết định
mua sắm giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn mua, vai trò của người vợ và
người chồng cũng có tầm quan trọng khác nhau.
Việt Nam có đặc trưng là người phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng với tư cách là
người chủ gia đình. Trong nhiều trường hợp, họ vừa là người kiếm tiền, vừa là người
quản lý tiền.
- Gia đình phi truyền thống: là gia đình mà các thành viên trong gia đình không có
mối quan hệ huyết thống, bao gồm hai loại: những người sống độc thân và những người
tự nguyện sống như gia đình nhưng không phải gia đình truyền thống (làng trẻ em SOS).
Vì vậy, sự tồn tại của loại gia đình này không có tính lâu dài.
* Vai trò và địa vị cá nhân
Bất kỳ cá nhân nào cũng tham gia cùng một lúc vào nhiều nhóm trong xã hội. vị
trí của họ trong từng nhóm được xác định theo vai trò và địa vị của họ trong nhóm. Với
gia đình, một cá nhân có thể đóng vai trò là một người con, một người chồng. Trong
doanh nghiệp, anh ta lại có thể có cương vị một quản đốc phân xưởng hay một giám đốc
điều hành.
Vai trò quy định những hoạt động của mỗi cá nhân để thực hiện tốt chính vai trò
đó như vai trò làm con, làm chồng, làm quản đốc, làm giám đốc… Mỗi vai trò có một địa
vị nhất định phản ánh sự kính trọng của xã hội, sự ưu đãi và uy tín với người khác phù
hợp với vai trò đó. Chẳng hạn, một giám đốc điều hành sẽ có địa vị cao hơn một công
nhân và một quản đốc phân xưởng.
Để thể hiện vai trò và địa vị xã hội trong nhóm, các cá nhân phải thông qua các
hoạt động trong đó có hoạt động lựa chọn và tiêu dùng hàng hoá. Một trong những xu
hướng của việc lựa chọn và tiêu dùng hàng hoá để thể hiện vai trò và địa vị của mình là
các cá nhân thường lựa chọn những hàng hóa nào mà thể hiện được vai trò và địa vị mà
cá nhân đó cho là quan trọng nhất. Chính vì vậy, công cụ quảng cáo của doanh nghiệp
cần thể hiện được hàng hoá của họ giúp cho một cá nhân định hướng tôn vinh những vai
trò và địa vị nào.
c) Những nhân tố mang tính cá nhân
Khi nghiên cứu những nhân tố mang tính cá nhân ảnh hưởng đến hành vi, người ta
phải quan tâm tới những thành phần cơ bản của yếu tố này là tuổi đời, nghề nghiệp, hoàn
cảnh kinh tế, lối sống, cá tính…
- Tuổi tác và đường đời đóng vai trò định hình, vừa là nguyên nhân gây nên những
thay đổi về cầu, về thị hiếu, về cơ cấu chi tiêu cho những hàng hoá và dịch vụ. Hàng hoá
và dịch vụ mà người tiêu dùng mua sẽ thay đổi theo đặc trưng tuổi tác và đặc trưng của
từng giai đoạn sống của họ.
- Nghề nghiệp có ảnh hưởng nhất định đến tính chất của hàng hoá và dịch vụ được
lựa chọn. Sự lựa chọn hàng hoá và dịch vụ của những người thuộc các nhóm nghề nghiệp
khác nhau là khác nhau. Chẳng hạn như khi chọn điện thoại di động, các doanh nhân
thường quan tâm đến các tính năng ứng dụng văn phòng, Email, quản lý tập tin nén, chức
năng định vị GPS… trong khi các sinh viên thường ít quan tâm đến các tính năng này.
- Hoàn cảnh kinh tế bao gồm thu nhập, cơ cấu chi tiêu, khả năng đi vay và những
quan điểm về chi tiêu/ tích luỹ ảnh hưởng rất lớn đến loại hàng hoá và số lượng hàng hoá
mà họ lựa chọn, mua sắm.
Các nhà kinh tế học nhận thấy sự nhạy cảm về giá của các loại hàng hoá khác
nhau phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập. Nhìn chung, người nghèo có mức độ nhạy cảm về
giá của các sản phẩm cao hơn người giàu. Trong các sản phẩm, loại hàng hoá mang tính
chất thiết yếu thường có sự nhạy cảm về thu nhập thấp hơn loại hàng hoá xa xỉ.
- Lối sống của một con người được thể hiện qua hành động (Activities), sự quan
tâm (Interests) và quan điểm (Opinions) của người đó về những gì thuộc môi trường xung
quanh. Vì vậy, dựa vào mô hình AIO (Activities, Interests, Opinions) có thể phác họa
được lối sống của người tiêu dùng.
- Đi du lịch nước ngoài, chơi golf, tennis…
Activities - Làm tự thiện
- Mua sắm hàng hiệu, hàng đặt…
- Gia đình: quan tâm đến giáo dục và định hướng cho con cái
Interests - Nhà ở: quan tâm đến việc thể hiện đẳng cấp như vị trí, tiện
nghi…
Khách hàng - Các tổ chức, các doanh nghiệp - Các cá nhân/người tiêu
- Số lượng khách ít hơn dùng
- Khách hàng tập trung hơn về mặt - Số lượng khách hàng lớn
địa lý - Khách hàng tản mạn hơn
Mục tiêu mua - Mua để sản xuất ra các hàng hoá và - Mua cho tiêu dùng cá nhân
dịch vụ khác
Các yếu tố - Rất nhiều yếu tố phức tạp - Đơn giản hơn
ảnh hưởng - Quyết định mua thường bị ảnh - Ít người tham gia vào
đến quyết hưởng của nhiều thành viên của tổ quyết định mua hàng hơn.
định mua chức
Cách mua Chuyên nghiệp và chính thống theo Không chuyên nghiệp, tuỳ
hàng các chính sách và thủ tục định sẵn thuộc từng cá nhân.
Quan hệ giữa - Quan hệ rất chặt chẽ - Quan hệ lỏng lẻo hơn
khách hàng - Khách hàng thường mua hàng của nhiều
và người những nhà cung cấp mua những sản
cung cấp phẩm của họ.
Vai trò của - Các đặc tính về sản phẩm như đặc - Các hoạt động như nghiên
các phối thức tính kỹ thuật, các dịch vụ hỗ trợ (lắp cứu thị trường, xúc tiến bán
marketing đặt, bảo hành, bảo trì, sửa chữa) đóng hàng, phân phối, chính sách
vai trò đặc biệt quan trọng. giá đóng vai trò quan trọng.
- Bán hàng cá nhân và giao hàng
đúng hẹn đóng vai trò quyết định
trong các hoạt động marketing.
Chương 5. Lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị thị trường
MỤC ĐÍCH
Sau khi đọc xong chương này, sinh viên có khả năng:
1. Lý giải được tầm quan trọng của việc lựa chọn thị trường mục tiêu;
2. Nhận thức được mối quan hệ có tính logic của phân đoạn thị trường, lựa chọn thị
trường mục tiêu và định vị hàng hóa;
3. Trình bày được bản chất của phân đoạn thị trường và cơ sở để phân đoạn thị
trường;
4. Định nghĩa được thị trường mục tiêu, các phương án lựa chọn thị trường mục tiêu;
5. Trình bày được định vị thị trường là gì và trọng tâm của chiến lược định vị trong
doanh nghiệp.
Địa lý
Vùng Vùng Thái Bình Dương, Tây Bắc, Đông Nam, Đại Tây Dương,
…
Tỉnh/thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng…
Khí hậu Nhiệt đới gió mùa, ôn đới, hàn đới…
Nhân khẩu
Lứa tuổi Dưới 6 tuổi, từ 7-15 tuổi, từ 16-25 tuổi, từ 25-40 tuổi…
Giới tính Nam, nữ
Thu nhập Dưới 500.000đ, từ 500.000đ-1 triệu đ, từ 1 triệu đ -2 triệu đ …
Nghề nghiệp Công nhân kỹ thuật, giáo viên, bác sỹ, nông dân, nội trợ…
Học vấn Không biết chữ, cấp 1, cấp 2, cấp 3, đại học, trên đại học…
Tôn giáo Hồi giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo…
Tâm lý
Tầng lớp xã hội Hạ lưu, trung lưu, thượng lưu…
Lối sống Truyền thống, tân tiến, cổ hủ, lạc quan…
Nhân cách Đam mê, ngao du, độc đoán, tham vọng…
Hành vi
Lý do mua hàng Mua thường xuyên, mua dịp đặc biệt, mua dùng, mua tặng…
Lợi ích tìm kiếm Chất lượng, dịch vụ, kinh tế, tốc độ…
Tình trạng sử dụng Sử dụng rồi, chưa sử dụng, dùng ít, dùng nhiều…
Mức độ trung thành Cao, thấp hay dao động
}} Nguồn: Giáo trình marketing cẳn bản - Trường Đại học Kinh tế quốc dân HN.
Bảng 5.1. Các cơ sở và tiêu thức dùng để phân đoạn thị trường
* Phân đoạn theo địa lý
Việc phân đoạn thị trường theo tiêu chuẩn địa lý đòi hỏi phải chia cắt thị trường
thành những đơn vị địa lý khác nhau. Doanh nghiệp có thể thông qua quyết định hoạt
động:
- Trong một hay nhiều vùng địa lý
- Trong tất cả các vùng nhưng có chú ý đến những điểm khác biệt về nhu cầu và
sở thích do vùng địa lý quyết định.
Đây là cơ sở phân đoạn được áp dụng phổ biến vì sự khác biệt về nhu cầu thường
gắn với yếu tố địa lý. Ví dụ: ăn sáng của người miền Bắc thường là các loại bánh, bún,
phở… Người miền Nam: cà phê – bánh ngọt. Người miền Bắc ít ăn cay; ngược lại vị
ngọt, cay lại là sở thích của người miền Trung và Nam.
* Phân đoạn theo nhân khẩu học
Nhóm tiêu thức thuộc loại này bao gồm: giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, thu nhập,
trình độ văn hoá, quy mô gia đình, tình trạng hôn nhân, giai tầng xã hội, tín ngưỡng, dân
tộc, sắc tộc… Các biến nhân khẩu học là những yếu tố phổ biến nhất làm cơ sở để phân
biệt các nhóm người tiêu dùng. Bởi hai lý do: thứ nhất, chúng là cơ sở chính tạo ra sự
khác biệt về nhu cầu và hành vi mua; thứ hai, các đặc điểm xã hội học dễ đo lường, các
tiêu thức thuộc loại này thường có sẵn số liệu vì chúng được sử dụng vào nhiều mục đích
khác nhau. Xu hướng chung người ta thường sử dụng kết hợp nhiều tiêu thức thuộc loại
này trong phân đoạn vì các tiêu thức đó luôn có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại với nhau.
Tuổi tác và giai đoạn của chu kỳ gia đình: nhu cầu và khả năng của người mua
thay đổi theo tuổi tác.
Giới tính: việc phân chia thị trường theo giới tính đã được thực hiện từ rất lâu với
nhiều mặt hàng khác nhau.
Mức thu nhập: mức thu nhập quyết định đến khả năng mua hàng của người tiêu
dùng.
* Phân đoạn theo tâm lý.
Khi phân đoạn thị trường theo nguyên tắc tâm lý học thì người mua được phân
thành các nhóm theo các đặc điểm giai tầng xã hội, lối sống và tính cách. Khi phân đoạn,
các tiêu thức thuộc nhóm này thường được sử dụng hỗ trợ cho các tiêu thức theo xã hội
học. Trong một số trường hợp nó cũng được coi là nhóm phân đoạn chính.
Giai tầng xã hội: nguồn gốc của giai tầng xã hội có ảnh hưởng mạnh đến sở thích
của con người đối với xe hơi, quần áo, đồ dùng gia đình, cách nghỉ ngơi, thói quen đọc
sách báo, cách lựa chọn cá điểm bán lẻ… Nhiều doanh nghiệp đã thiết kế hàng hoá, dịch
vụ của mình nhằm vào khách hàng thuộc một giai tầng xã hội cụ thể, tính đưa vào những
tính chất và đặc tính hay làm vừa lòng chính những người mua này.
Lối sống: lối sống có ảnh hưởng đến sự quan tâm của con người đối với những
hàng hoá nhất định. Những người bán hàng đặc hiệu và thông thường ngày càng hay sử
dụng cách phân khúc thị trường theo đặc điểm lối sống của người tiêu dùng. Ví dụ những
người sản xuất quần Jeans muốn thiết kế mẫu quần Jeans cho một nhóm nam giới cụ thẻ
như “những người hiếu động, những người ham mê vui thú, những người cổ hủ thích
ngồi nhà, những thích đi chơi trong số công nhân, chủ doanh nghiệp hay những người
thành đạt. Đối với mỗi nhóm người này cần có những chiếc quần Jeans cắt theo kiểu
riêng, giá cả khác nhau, chào hàng bằng những nội dung quảng cáo khác nhau, thông qua
những doanh nghiệp thương mại khác nhau… Nếu như doanh nghiệp không giới thiệu
loại hàng này được sử dụng cho những người có lối sống nào thì có thể những chiếc quần
Jeans của họ không gây ra một sự quan tâm đặc biệt cho một nhóm nam giới nào.
Tính cách: những biến đặc tính nhân cách cũng được người bán hàng sử dụng làm
cơ sở để phân chia thị trường. Những người sản xuất tạo cho hàng hoá của mình những
đặt tính nhân cách tương ứng với tính cách cá nhân của người tiêu dùng.
* Phân đoạn theo hành vi
Khi phân đoạn thị trường trên cơ sở những đặc điểm hành vi người mua được chia
thành nhóm tuỳ theo kiến thức, thái độ của họ, tính chất sử dụng hàng và phản ứng đối
với món hàng đó. Khi lựa chọn các tiêu thức phân đoạn, những tiêu thức thuộc nhóm này
đã được nhiều nhà làm Marketing cho rằng các đặc tính về hành vi là khởi điểm tốt nhất
để hình thành các đoạn thị trường.
Lý do mua hàng: có thể phân loại người mua dựa theo lý do nảy sinh ý tưởng mua
hàng hay sử dụng hàng. Ví dụ lý do để đi máy bay có thể là liên quan đến hoạt động kinh
doanh, việc nghỉ phép, chuyện gia đình. Doanh nghiệp hàng không có thể chuyên về việc
phục vụ những người hay có một trong những lý do đó.
Việc phân đoạn thị trường trên cơ sở các lý do có thể giúp các doanh nghiệp nâng
cao mức sử dụng hàng hoá. Ví dụ như nước cam thường được dùng trong bữa ăn sáng,
doanh nghiệp sản xuất có thể quảng cáo là loại nước này thích hợp cho cả bữa ăn trưa.
Vào những ngày lễ người ta có thể tuyên truyền để tăng khối lượng tiêu thụ kẹo và hoa.
Những lợi ích đang tìm kiếm: một trong những hình thức phân đoạn thị trường đã
được áp dụng là phân loại người mua dựa trên cơ sở những ích lợi mà họ đang tìm kiếm ở
hàng hoá. Việc phân đoạn thị trường dựa vào những lợi ích mà khách hàng tìm kiếm đòi
hỏi phải phát hiện được những lợi ích chính mà người mua đang trông đợi ở những hàng
hoá thuộc phẩm cấp cụ thể, những dạng người mua đang tìm kiếm từng loại lợi ích đó và
những nhãn hiệu chủ yếu mà trong một chừng mực nào đó đã có sẵn những lợi ích đó.
Tình trạng người sử dụng: nhiều thị trường có thể phân chia thành những khúc thị
trường của người không sử dụng hàng hoá, những người đã sử dụng, những người sử
dụng thường xuyên. Những doanh nghiệp lớn cố gắng giàng cho mình một thị phần lớn.
Họ rất quan tâm đến việc thu hút những người sử dụng tiềm năng, còn những doanh
nghiệp nhỏ hơn thì cố gắng giành cho nhãn hiệu của mình những người sử dụng thường
xuyên. Những người sử dụng tiềm năng và những người sử dụng thường xuyên đòi hỏi
những biện pháp Marketing khác nhau.
Cường độ tiêu thụ: thị trường cũng có thể được phân đoạn theo nhóm những người
tiêu dùng ít, vừa phải và nhiều. Những người tiêu dùng nhiều thường chiếm một phần
nhỏ của thị trường nhưng tỷ lệ phần trăm khối lượng hàng tiêu thụ của họ lại lớn.
Mức độ trung thành: việc phân khúc thị trường có thể thực hịên theo mức độ trung
thành của người tiêu dùng đối với hàng hoá. Người tiêu dùng có thể trung thành với các
nhãn hiệu hàng hoá, các của hàng và những đối tượng độc lập khác. Tuỳ theo sự trung
thành với các mặt hàng này có thể chia người tiêu dùng ra thành bốn nhóm:
- Trung thành vô điều kiện: đó là những người tiêu dùng luôn luôn mua hàng cùng
một nhãn hiệu.
- Trung thành tương đối: đó là những người tiêu dùng trung thành với hai, ba nhãn
hiệu hàng hoá.
- Trung thành không cố đinh: đó là những người tiêu dùng thay đổi sở thích của
mình từ nhãn hiệu này sang nhãn hiệu hàng hoá khác.
- Không trung thành: đó là những người tiêu dùng không thể hiện sự trung thành
với một nhãn hiệu hàng hoá nào.
Mức độ sẵn sàng chấp nhận hàng hoá của người mua: tại bất kỳ thời điểm nhất
định nào con người cũng ở mức độ sẵn sàng mua hàng khác nhau. Có một số người hoàn
toàn không am hiểu về hàng hóa, có người rất am hiểu, có người mới được thông tin, có
người quan tâm, có người muốn có và có người có ý định mua. Tỷ lệ người tiêu dùng
thuộc các nhóm khác nhau có ảnh hưởng lớn đến tính chất của chương trình Marketing
đang soạn thảo.
Thái độ đối với hàng hoá: đối với hàng hoá người tiêu dùng có thể có thái độ vui
mừng, tốt, bàng quan, xấu hay thù ghét.
Bài đọc thêm: ICP và dầu gội X-men
Giới thiệu công ty:
Tháng 9/2001, công ty Hàng Gia dụng Quốc tế ICP được thành lập chuyên
sản xuất và tiếp thị sản phẩm hóa mỹ phẩm chất lượng cao. Năm 2002, ICP giới thiệu sản
phẩm đầu tiên là nước rửa rau quả Vegy và đã thành công. Không lâu sau đó, ICP tiếp tục
tung ra nhóm sản phẩm tẩy rửa OCleen, cũng đạt được những thành công nhất định.
Nhưng thành công về phát triển thương hiệu mà ICP có được hiện nay là khi tung ra sản
phẩm X-men – dòng sản phẩm chăm sóc cá nhân cho nam. Chỉ trong vòng một năm sau
khi ra đời, X-men đã trở thành thương hiệu số 1 trong phân khúc thị trường dầu gội dành
cho nam. Mô hình marketing của X-men được hội đồng tuyển chọn của chương trình “Đi
tìm giải pháp marketing tốt nhất Việt Nam” đánh giá là một trong hai mô hình triển vọng
nhất Việt Nam 2007.
Chiến lược phân khúc thị trường của X-men:
Từ giữa thập kỉ 90 của TK XX, khi kinh doanh tại Việt Nam, các thương hiệu lớn
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng tiêu dùng như Unilever, P&G, Kao, Colgate
Palmolive đều tập trung phát triển kinh doanh ngành hàng dầu gội đầu và các sản phẩm
chăm sóc tóc. Tuy nhiên, tất cả các sản phẩm hóa mĩ phẩm này được sản xuất ra chỉ để
dành cho phụ nữ, hoàn toàn không có một thương hiệu sản phẩm “đặc trưng” nào dành
riêng cho đàn ông. Các hình ảnh bao bì hay quảng cáo trên truyền hình, đài báo cũng đều
là nữ. Suốt gần 10 năm, thị trường dầu gội dành riêng cho nam giới vẫn không được các
nhà sản xuất để ý tới và trên thị trường nam và nữ cùng dung chung một loại dầu gội. Tuy
nhiên, càng ngày, các ông lớn đã nhìn ra khe hở trong thị trường của mình, một vài
thương hiệu thử định vị mình là sản phẩm dành cho nam. Công ty Unza đưa ra sản phẩm
dầu gội thơm dành riêng cho đàn ông là Romano. P&G cũng có một dòng sản phẩm Head
& Shoulders dành cho nam giới trong một thời gian với các quảng cáo gắn liền với ca sĩ
Lam Trường hay danh thủ bóng đá Hồng Sơn. Nhưng các đại gia này lại đang bị cuốn
trong các đại dương đỏ - thị trường dầu gội dành cho nữ với những cạnh tranh khốc liệt,
nên không một thương hiệu nào đầu tư đúng mức cho các sản phẩm dành cho nam của
mình hoặc không dám mạo hiểm xâm nhập một thị trường mới. Head & Shoulders phải
cạnh tranh rất căng thẳng trong mảng dầu gội trị gàu là Clear nên đã bỏ tham vọng định
vị mình là loại dầu gội dành cho đàn ông. Unza cũng có sản phẩm chủ lực là Enchanteur
nên không đầu tư đúng mức để xây dựng Romano thành lựa chọn số một của đàn ông về
dầu gội đầu. Bện cạnh đó, nam giới Việt Nam chiếm khoảng 50% dân số vẫn còn tỏ ra
khá thờ ơ trong việc chọn lựa sản phẩm cho chính mình. Cung ít dẫn đến cầu ít, các sản
phẩm dành cho nam trên thị trường lúc đó không tạo được một xu hướng tiêu dùng mới
cho nam giới. Khi tung ra Romano, Unza dù quảng cáo, khuyến mãi rầm rộ nhưng cũng
phải tương đối chật vật mới được người tiêu dùng biết đến, nhà sản xuất đã phải tặng kèm
sản phẩm Romano với một loạt các sản phẩm của Enchanteur, làm cho hình ảnh sản
phẩm dành cho nam càng thêm lu mờ. Cuối cùng, đại dương xanh màu mỡ, thị trường
dầu gội dành cho nam giới vẫn hoàn toàn bỏ ngỏ.
Phân khúc dẩu gội đầu dành riêng cho phái mạnh thực sự là một đại dương xanh
tuyệt vời cho ICP tung hoành. Nhìn ra điều đó, lại tận dụng lợi thế Unza chưa coi trọng
Romano, năm 2003, ICP đã xâm nhập thị trường một cách vô củng ngoạn mục, tung ra
dầu gội đầu X-men với định vị “Đàn ông đích thực” với chiến dịch có tên là “Mặt trận
phía Đông” để phân biệt với mặt trận phía Tây của Unza. X-men không chỉ nhắm đến
đàn ông mà còn tiếp cận phụ nữ - người mua sản phẩm. Với slogan “Đàn ông đích thực”,
X-men đã làm bừng tỉnh khách hàng nam giới, cộng với chiến dịch marketing rầm rộ, X-
men đã đánh vào tâm lí người phụ nữ, đồng thời đánh vào sỹ diện người đàn ông, khơi
dậy thị trường tiềm năng này, X-men đã từng bước, từng bước lớn mạnh, chỉ sau 3-4
năm, X-men đã vượt qua Romano độc chiếm thị trường dầu gội này với 60% thị phần, là
đối trọng trực tiếp với các đại gia như Unilever và P&G.
Khi ra đời, X-men chỉ đưa ra một loại sản phẩm dầu gội đầu dành cho nam giới từ
18-45 tuổi, có thu nhập trung bình khá trở lên. Đây là một nhóm khách hàng tương đối
lớn, những người có nhu cầu thể hiện bản lĩnh đàn ông cao nhất. Chọn một khoảng tuổi
rộng như thế để phục vụ, sự chuyên biệt của sản phẩm sẽ không cao nhưng lại rất hợp lí.
Vì đây là một thị trường mới, việc trước hết là phải đánh thức ý thức tiêu dùng của khách
hàng, với chiến lược marketing của mình, ICP đã làm rất tốt việc này. Kết hợp với những
thông điệp như “Đàn ông đích thực”, “Nếu là nam nhi hãy dùng dầu gội dầu riêng”. X-
men đã đánh vào sỹ diện của nam giới, tạo nên khách hàng cho sản phẩm của mình.
X-men có sự tăng trưởng vượt bậc trên thị trường dầu gội, tới năm 2007 đã đạt tới
7.5% thị phần của toàn thị trường. Điều này khiến các thương hiệu lớn “giật mình”, nhận
ra sai lầm khi bỏ quên thị trường này. Chiếc bánh ngày càng hấp dẫn, điều tất yếu là
nhiều người muốn được chia phần. Hàng loạt các sản phẩm dành cho nam của các thương
hiệu lớn lần lượt ra đời. Head & Shoulders dành cho nam của P&G, Biore với sữa rửa
mặt Biore for men, Nivea với đầy đủ sản phẩm từ vệ sinh cơ thể đến làm đẹp, Rexona với
sản phẩm khử mùi,… Trong đó, những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của X-men phải nói
đến Romano của Unza và Clear men của Unilever. Khi X-men mở chiến dịch quảng cáo
rầm rộ thì Unza mới thực sự hoảng hốt và lúc này họ mới tập trung vào chiến dịch tiếp thị
cho Romano và với thương hiệu đã được khẳng định từ lâu đối với nam giới, Romano
thực sự là một đối thủ mạnh của X-men. Nhận ra sai lầm của mình, Unilever cũng đã cho
ra đời một sản phẩm không kém phần hoành tráng so với X-men là Clear men, Clear men
đã được ưu đãi tuyệt đối bằng những khoản chi cho các chiến dịch marketing khổng lồ,
với chiến dịch “Quà tặng yêu thương” và đại sứ thương hiệu là Bi Rain, Clear men đang
đuổi sát X-men về thị phần dầu gội.
Áp lực cạnh tranh ngày càng tăng. Đây là lúc X-men áp dụng triệt để chiến lược
phân khúc. ICP đã chia nhỏ đồng thời mở rộng thị trường ban đầu của mình. Không chỉ
có một loại dầu gội X-men cho nam từ 18-45 tuổi như ban đầu, hiện nay, ICP đã có hàng
lọat các sản phẩm khác trên thị trường dầu gội với những tên tuổi hoàn toàn khác nhau.
Dầu gội trị gàu chuyên biệt cho nam Dr.men, 2 In 1 cho người thích sự tiện lợi, Hatrick
nhắm đến người chơi và yêu thích thể thao, cụ thể là bóng đá, Teen-X dành cho học sinh
nam cấp 2,3, X-men For Boss nhắm đến khách hàng có thu nhập cao, những người thành
đạt. Mỗi thương hiệu nhắm đến một phân khúc khác nhau với từng đối tượng cụ thể. Đây
là cách giúp tăng thị phần, doanh số và quan trọng hơn là che chắn, bảo vệ cũng như làm
giảm áp lực cho X-men. Những sản phẩm này tuy không tạo được sự chú ý như X-men
nhưng việc chia nhỏ thị trường, mỗi sản phẩm phục vụ ở những phân khúc nhỏ hơn sẽ
làm đa dạng sản phẩm, tính chuyên biệt của sản phẩm cao hơn, tạo sự hài lòng, thỏa mãn
cao hơn với từng đối tượng khách hàng, giúp X-men có thể giữ vững thị trường.
Phân khúc theo đối tượng khách hàng như X-men cũng là một chiến lược phân
khúc mới lạ trên thị trường dầu gội. Với dầu gội dành cho nữ, hầu hết các sản phẩm được
chia theo tính chất từng loại tóc hoặc lợi ích mà khách hàng mong đợi như dầu gội dành
cho tóc khô xơ, tóc chẻ ngọn, dầu gội ngăn rụng tóc, dầu gội suôn mượt, dầu gội làm tóc
đen nhánh, ... hoàn toàn không có sự phân chia theo dầu gội cho người thành đạt, cho các
bạn tuổi teen, … Sự khác biệt này là do tính chất của đối tượng khách hàng, sự mong đợi
của nam và nữ đối với dầu gội là khác nhau. Nữ giới chăm sóc tóc vì mục đích làm đẹp là
chủ yếu và rất khác nhau về các loại tóc. Trong khi đó nam giới lại không khác nhau
nhiều về loại tóc, và bên cạnh đó đặc điểm phổ biến là muốn thể hiện mình, nhưng ở các
mức độ khác nhau. Các bạn tuổi teen thích chứng tỏ sự cá tính, trong khi những người
lớn tuổi hơn lại muốn chứng tỏ sự thành đạt của mình, … Điều đó giúp việc chia đối
tượng để phục vụ như X-men đã đánh trúng tâm lý của khách hàng, thể hiện được sự am
hiểu khách hàng trên thị trường của ICP.
Không dừng lại ở đó ICP còn mở rộng ra khỏi thị trường dầu gội, giới thiệu nhiều
sản phẩm dành cho nam khác như sữa tắm, nước hoa, gel vuốt tóc, xà bông diệt khuẩn,
… đã làm cho người tiêu dùng ngày càng quen thuộc nhãn hiệu X-men, đưa X-men được
biết đến như một giải pháp làm đẹp toàn diện cho nam. Đây cũng là cách ICP tìm một đại
dương xanh khác khi đại dương xanh mà nó khai phá đang dần nhuốm đỏ.
Tóm lại, việc xâm nhập vào thị trường dầu gội dành cho nam cũng như xác định
đối tượng khách hàng mục tiêu khi tung ra sản phẩm X-men của ICP đều là những quyết
định táo bạo, nhưng thực tế đã chứng minh đó là những quyết định đúng đắn thể hiện bản
lĩnh của thương hiệu Việt, biết nhìn nhận và nắm bắt cơ hội. Sau đó, chiến lược phân
khúc cũng như mở rộng thị trường khi chịu áp lực từ các đối thủ cạnh tranh cũng đã thu
được những kết quả nhất định, giúp X-men củng cố thương hiệu, đứng vững trên thị
trường.
5.1.3. Lựa chọn thị trường mục tiêu
5.1.3.1. Đánh giá các đoạn thị trường
Mục đích của việc đánh giá các đoạn thị trường là nhận dạng được mức độ hấp
dẫn của chúng trong việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Khi đánh giá các đoạn thị trường, người ta dựa vào ba tiêu chuẩn cơ bản:
- Quy mô và mức tăng trưởng của đoạn thị trường:
Một đoạn thị trường gọi là có hiệu quả khi nó phải đủ tầm cỡ để bù đắp lại những
nỗ lực Marketing không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp lớn thường hướng đến các đoạn thị trường có tầm cỡ lớn, bỏ qua các đoạn
thị trường nhỏ. Ngược lại các doanh nghiệp nhỏ bước đầu thường tiếp cận với các đoạn
thị trường còn bị bỏ ngỏ và không đòi hỏi qúa nhiều tài lực của họ.
Để đánh giá tầm cỡ và sự tăng trưởng, các doanh nghiệp phải thu thập và phân tích
các chỉ tiêu cần thiết bao gồm: doanh số bán, sự thay đổi của doanh số bán, mức lãi và tỉ
lệ thay đổi của mức lãi, các tác nhân tác động đến nhu cầu.
- Mức độ hấp dẫn của thị trường:
Một doanh nghiệp ít khi là người bán duy nhất trên thị trường. Họ thường xuyên
phải đối phó với các áp lực cạnh tranh và sự đòi hỏi của khách hàng. Mỗi đoạn thị trường
sẽ trở nên không hấp dẫn nếu mức độ cạnh tranh diễn ra trong đoạn đó quá gay gắt.
Michael Porter đã phát hiện ra năm lực lượng cạnh tranh chính quyết định
mức độ hấp dẫn của một đoạn thị trường (xem hình 5.1).
Đe doạ từ sự gia
nhập và rút lui
P1 P1 P1
P2 P2 P2
P3 P3 P3
M1 M2 M3 M1 M2 M3
P1 P1
P2 P2
P3 P3
Chú thích: P - đặc tính sản phẩm M - đặc tính thị trường
Hình 5.3. Các phương án lựa chọn thị trường mục tiêu
(a) Tập trung vào một đoạn thị trường
Trong trường hợp đơn giản nhất, doanh nghiệp lựa chọn một đoạn thị trường.
Thông qua marketing tập trung doanh nghiệp sẽ dành được một vị trí vững chắc trong
đoạn thị trường nhờ hiểu biết rõ hơn nhu cầu của đoạn thị trường đó và danh tiếng đặc
biệt mà doanh nghiệp đó có được. Hơn nữa, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được trong hoạt
động nhờ chuyên môn hóa sản xuất, phân phối và khuyến mãi. Nếu doanh nghiệp giành
được vị trí dẫn đầu trong đoạn thị trường thì nó có thể đạt được tỷ suất lợi nhuận trên vốn
đầu tư cao. Tuy nhiên, marketing tập trung gắn liền với rủi ro lớn hơn bình thường. Đoạn
thị trường cụ thể có thể trở nên tồi tệ khi nhu cầu của khách hàng thay đổi, hoặc có đối
thủ cạnh trang nào đó xâm chiếm đoạn thị trường này. Vì những lý do này mà nhiều
doanh nghiệp thích hoạt động trong nhiều khúc thị trường hơn.
(b) Chuyên môn hoá tuyển chọn
Theo phương án này, doanh nghiệp có thể chọn một số đoạn thị trường riêng biệt
làm thị trường mục tiêu. Mỗi đoạn thị trường được chọn có sự hấp dẫn, phù hợp với mục
đích và khả năng riêng có của doanh nghiệp. So với phương án (a), phương án này ít rủi
ro kinh doanh hơn.
(c) Chuyên môn hoá theo thị trường.
Doanh nghiệp tập trung vào việc phục vụ nhiều nhu cầu cùng một nhóm khách
hàng cụ thể. Doanh nghiệp giành được tiếng tăm rộng khắp vì chuyên môn hóa vào việc
phục vụ khách hàng này và trở thành kênh cho tất cả các sản phẩm mới mà khách hàng
thuộc nhóm này có thể cần dùng đến. Rủi ro sẽ xảy ra nếu như người mua gặp khó khăn
về vấn đề tài chính hoặc giảm số lượng mua.
(d) Chuyên môn hoá theo sản phẩm.
Theo phương án này, doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm nhất định để bán
cho một số đoạn thị trường. Thông qua chiến lược này công ty tạo dựng được danh tiếng
rộng khắp trong lĩnh vực sản phẩm chuyên dụng. Rủi ro sẽ xuất hiện khi có sản phẩm
thay thế xuất hiện.
(e) Bao phủ toàn bộ thị trường.
Với phương án này, mọi khách hàng đều là thị trường mục tiêu của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sẽ đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng về những chủng loại sản phẩm họ
cần. Thường chỉ có doanh nghiệp lớn mới có khả năng áp dụng phương án này. Ví dụ
IBM (thị trường máy tính); Coca – Cola (thị trường đồ uống).
5.2. Định vị thị trường
5.2.1. Định vị thị trường là gì?
a) Khái niệm
Định vị thị trường còn được gọi là “xác định vị thế trên thị trường mục tiêu”. Đối
với marketing, định vị thị trường được coi là chiến lược chung quan trọng nhất. Nó chi
phối mọi chương trình marketing được áp dụng ở thị trường mục tiêu.
Định vị thị trường là thiết kế sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm chiếm
được một vị trí đặc biệt và có giá trị trong tâm trí khách hàng mục tiêu.
Ví dụ, đồng hồ Timex được gắn với hình ảnh đồng hồ giá rẻ. Electrolux luôn được
người tiêu dùng đánh giá là có độ bền cao. Piaggio gắn với tốc độ, sự sang trọng, sự hấp
dẫn.
Thực chất của định vị thị trường là xác định cho sản phẩm và doanh nghiệp một vị
trí xác định trên thị trường mục tiêu sao cho nó có một hình ảnh riêng trong tâm trí của
khách hàng và có khả năng cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường
mục tiêu.
b) Lý do phải định vị thị trường
- Do khả năng nhận thức và ghi nhớ thông tin của con người là có giới hạn. Bộ não
của con người được sử dụng để làm nhiệm vụ chọn lọc các hình ảnh về thế giới xung
quanh và bỏ lại những thông tin không cần thiết. Vì vậy, cần phải có những thông điệp rõ
ràng, xúc tích, gây ấn tượng cùng với việc chào bán các sản phẩm, dịch vụ có vị thế tốt
mới có khả năng thâm nhập vào nhận thức của khách hàng.
- Do yêu cầu tất yếu của cạnh tranh. Xác định vị thế là một phương pháp được sử
dụng nhằm tạo ra cho sản phẩm một hình ảnh độc đáo, khác biệt so với sản phẩm của đối
thủ cạnh tranh.
- Do dung lượng quá lớn của các thông điệp quảng cáo làm cho khách hàng khó
lòng tiếp nhận được tất cả những gì họ đã xem, nghe hay nhìn, đọc. Để thu hút sự chú ý
của khách hàng khi họ bị ngập trong sự hỗn loạn của những quảng cáo thương mại, cách
tốt nhất chỉ có thể là định vị hiệu quả.
5.2.2. Chiến lược tạo sự khác biệt
Để thực hiện chiến lược định vị các doanh nghiệp sử dụng các kỹ thuật tạo ra sự
khác biệt.
Tạo ra sự khác biệt là việc thiết kế một tập hợp những khác biệt có ý nghĩa để
phân biệt sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh.
Để tạo ra sự khác biệt sản phẩm của mình so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh,
các doanh nghiệp có thể tạo ra sự khác biệt dựa trên bốn yếu tố cơ bản: sản phẩm, dịch
vụ, nhân sự và hình ảnh.
Các công ty có thể tạo được một ưu thế cạnh tranh mạnh thông qua sự khác biệt về
con người – thuê mướn và đào tạo con người tốt hơn là các công ty đối thủ. Nhân viên
của Disney được biết đến vì tính thân thiện và lạc quan. Singapore Airlines có được một
danh tiếng tuyệt vời đa phần bởi vì sự duyên dáng của các tiếp viên hàng không của hãng
này. IBM cung cấp những con người mà đảm bảo rằng giải pháp mà khách hàng muốn là
giải pháp mà họ sẽ có: “Con Người Muốn Có Điều Đó. Con Người Làm Cho Điều Đó
Được Thực Hiện”.
Sự khác biệt về con người đòi hỏi rằng một công ty chọn lựa nhân viên tiếp xúc
khách hàng của mình một cách cẩn thận và huấn luyện họ kỹ lưỡng. Ví dụ, Disney huấn
luyện các nhân viên cho công viên chủ đề của mình để đảm bảo rằng họ có khả năng, lịch
sự và thân thiện - từ nhân viên làm thủ tục nhận phòng tại khách sạn, đến người lái xe
điện, cho đến người phục vụ chuyến đi, và đến những người quét dọn Main Street USA.
Mỗi nhân viên được đào tạo cẩn thận để hiểu được khách hàng và “làm cho con người
hạnh phúc”.
Ngay cả khi những sự cung cấp sản phẩm cạnh tranh có vẻ giống nhau thì người
mua có thể nhận thức được một sự khác biệt dựa trên sự khác biệt về hình ảnh của công
ty hay nhãn hiệu. Một hình ảnh công ty hay nhãn hiệu phải chuyển tải những ích lợi và sự
định vị riêng biệt của sản phẩm. Việc phát triển một hình ảnh mạnh mẽ và riêng biệt yêu
cầu tính sáng tạo và lao động cật lực. Một công ty không thể phát triển một hình ảnh
trong tâm trí công chúng chỉ qua một đêm bằng cách sử dụng mọi thứ mà công ty đó nói
và làm.
Những biểu tượng – ví dụ như các vòm màu vàng của McDonald’s, tảng đá của
Prudential, tiếng kêu sột soạt của giày Nike, hay logo nhiều màu sắc của Google – có thể
tạo ra một sự nhận thức mạnh mẽ về công ty hay nhãn hiệu và một sự khác biệt về hình
ảnh.
Công ty có thể xây dựng một nhãn hiệu xung quanh một người nổi tiếng, như Nike
đã làm với giày bóng rổ Air Jordan và sản phẩm chơi golf Tiger. Một số công ty thậm chí
còn trở nên gắn liền với màu sắc, như IBM (màu xanh) hay UPS (màu nâu). Các biểu
tượng, nhân vật, hay yếu tố hình ảnh khác được chọn lựa phải được truyền đi thông qua
quảng cáo mà chuyển tải cá tính của công ty hay nhãn hiệu.
Bầu không khí
Không gian vật lý trong đó sản xuất hay cung ứng sản phẩm và dịch vụ của mình
cũng là một yếu tố tạo hình ảnh rất công hiệu. Các khách sạn Hyatt Regency tạo nên một
hình ảnh khác biệt bằng các gian tiền sảnh của nó. Một ngân hàng muốn trông có vẻ hiếu
khách phải chọn một thiết kế phù hợp với toà nhà, thiết kế nội thất, cách bố trí mặt bằng,
màu sắc, vật liệu và đồ đạc cho thích hợp.
Một thương hiệu mạnh luôn gắn liền với những hình ảnh, biểu tượng đặc trưng –
tạo nên sự khác biệt và tạo ấn tượng mạnh về thương hiệu. Chàng Cowboy của Marlboro,
chú sư tử của kem Wall, chàng hề Ronan của McDonald’s, chuột Mickey của Walt
Disney là những hình ảnh tạo nên những thương hiệu nổi tiếng và được người tiêu dùng
nhắc nhở đầu tiên khi nói đến sản phẩm hay nhãn hiệu của doanh nghiệp.
Có nhiều cách để tạo đặc điểm khác biệt cho doanh nghiệp và nhãn hiệu của nó.
Nhưng không phải tất cả các đặc điểm khác biệt của nhãn hiệu đều có ý nghĩa hay có giá
trị. Mỗi đặc điểm khác biệt đều có thể gây ra chi phí cho doanh nghiệp và lợi ích cho
khách hàng. Vì thế doanh nghiệp cần chọn lựa thận trọng để làm cho mình khác biệt với
đối thủ cạnh tranh khi thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
- Quan trọng: Điểm khác biệt đó phải có giá trị cao với khách hàng
- Đặc biệt: Điểm khác biệt đó chưa có ai tạo ra hay được doanh nghiệp tạo ra một
cách đặc biệt.
- Vượt trội: Điểm khác biệt đó là cách tốt hơn so với những cách khác để đạt được
lợi ích như nhau.
- Dễ truyền đạt: Điểm khác biệt đó dễ truyền đạt và đập vào mắt khách hàng.
- Đi trước: Điểm khác biệt đó không thể dễ dàng bị đối thủ cạnh tranh sao chép.
- Vừa túi tiền: Khách hàng có thể có đủ tiền để trả cho điểm khác biệt đó.
- Có lời: Doanh nghiệp thấy rằng tạo điểm khác biệt đó là có lời
Cùng là dầu gội dành cho nam giới nhưng mỗi thương hiệu lại có một cách tạo dấu
ấn khác biệt trong phong cách sản phẩm để gây ấn tượng trong tâm trí đối tượng khách
hàng mục tiêu họ hướng tới. Romano của Unza được định vị theo phong cách Ý, có mùi
hương lãng mạn của những chàng trai xứ Italia. Trong khi đó, X-Men của ICP với slogan
“Đàn ông đích thực” lựa chọn phong cách hành động kiểu Mỹ được các bạn tuổi teen rất
ưa chuộng. Chiến lược định vị này đã góp phần giúp X-men nhanh chóng xâm chiếm thị
trường tiềm năng này. Từ khi X-men ra đời, dường như cánh mày râu ý thức hơn về giới
tính khi xài dầu gội. Trong các gia đình đã xuất hiện đủ các loại sản phẩm dành riêng cho
nam như nước hoa, xà bông rửa mặt, lăn khử mùi…
Người tiêu dùng điển hình chọn lựa các sản phẩm và dịch vụ mà mang lại cho họ
giá trị lớn nhất. Do đó, các nhà tiếp thị muốn định vị các nhãn hiệu của mình trên những
ích lợi chủ yếu mà họ cung cấp so với các nhãn hiệu cạnh tranh.
Việc định vị đầy đủ của một nhãn hiệu được gọi là sự xác định giá trị của nhãn
hiệu - sự kết hợp đầy đủ giữa các lợi ích mà qua đó nhãn hiệu này được định vị. Đây
chính là câu trả lời cho câu hỏi của khách hàng, “Tại sao tôi nên mua nhãn hiệu của
bạn?”
Sự xác nhận giá trị của Volvo xoay quanh sự an toàn nhưng cũng bao gồm sự tin
cậy, sự rộng rãi và phong cách, tất cả với một mức giá cao hơn trung bình nhưng tỏ ra
hợp lý cho sự kết hợp của các lợi ích này.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều công ty đã tạo ra những điểm khác biệt không thoả
mãn được một hay nhiều tiêu chuẩn trong số này. Khách sạn Westin Stamford ở
Singapore quảng cáo rằng nó là khách sạn cao nhất thế giới, thực ra thì điều này không
quan trọng đối với nhiều khách du lịch và trên thực tế còn đẩy nhiều khách đi.
Giá rẻ
A
Chưa có sản phẩm nào
C
Giá đắt
F
2. “STP” là gì? Hãy cho biết mối quan hệ của phân đoạn thị trường, lựa chọn thị
trường mục tiêu và định vị hàng hóa;
3. Phân đoạn thị trường là gì? Cho ví dụ minh họa.
4. Hãy chọn các tiêu thức mà anh (chị) cho là quan trọng nhất để phân đoạn các thị
trường sau:
- Thị trường quần áo may sẵn
- Thị trường điện thoại di động
- Thị trường xe máy
- Thị trường sách.
5. Thị trường mục tiêu là gì? Hãy nêu những căn cứ để lựa chọn thị trường mục tiêu
cho các doanh nghiệp.
6 Có mấy phương án lựa chọn thị trường mục tiêu? Các phương án lựa chọn thị
trường mục tiêu được áp dụng trong những trường hợp nào? Cho ví dụ minh họa.
7 Định vị hàng hóa là gì? Cho ví dụ minh họa.
8 Chiến lược tạo sự khác biệt là gì? Cho ví dụ minh họa.
Hình 6.1. Bột giặt Suft ngát hương xuân (600 gam)
của công ty Unilever Việt Nam.
cafe Bài hát, tiếng Bình thở Váy cưới, máy bay, Máy bay,
anh cho oxy chỗ ngồi xem pháo
người đi làm hoa, đồ ăn nhanh
Việc gắn nhãn cho hàng hoá có ưu điểm là thể hiện được lòng tin của khách hàng
đối với nhà sản xuất khi họ dám khẳng định sự hiện diện của mình trên thị trường qua
nhãn hiệu, làm căn cứ cho việc lựa chọn của khách hàng và đặc biệt ở nước ta hiện nay,
nó làm cơ sở cho việc quản lý chống làm hàng giả.
- Ai là người chủ nhãn hiệu hàng hoá? Người chủ nhãn hiệu hàng hoá là người
chịu trách nhiệm chính về nhãn hiệu được lựa chọn. Có thể có các phương án sau để trả
lời cho câu hỏi này.
Thứ nhất là, tung sản phẩm ra thị trường dưới nhãn hiệu của chính nhà sản xuất.
Các doanh nghiệp IBM, đã bán tất cả những thứ họ sản xuất dưới tên hiệu của mình.
Thông thường, tất cả các doanh nghiệp đều muốn theo đuổi phương án này song vì một
số lý do họ buộc phải chọn các phương án khác.
Thứ hai là tung sản phẩm ra thị trường dưới nhãn hiệu của nhà trung gian. Thực tế
cho thấy, các sản phẩm nông sản, thủ công mỹ nghệ của Việt Nam thường xuất khẩu qua
các trung gian và đặc biệt phải mang nhãn mác của họ nên phải chấp nhận mức giá thấp.
Thứ ba là nhà sản xuất bán một phần sản phẩm dưới nhãn hiệu của chính mình, số
còn lại mang nhãn hiệu của nhà trung gian.
Công ty cổ phẩn May 10 là doanh nghiệp
tiêu biểu ở Việt Nam chọn phương án này.
Với 8000 lao động, mỗi năm sản xuất trên 20
triệu sản phẩm chất lượng cao các loại, May
10 đã xuất khẩu 80% sản phẩm sang các thị
trường Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hồng Kông,…
dưới nhiều nhãn hiệu của các đối tác như
GAP, DKNY, Pierre Cardin, Guy Laroche,
Maxim, Jacquest Britt, Seiden Sticker,
Dornbush, C&A, Camel, Arrow… Còn 20%
sản phẩm được tiêu thụ dưới nhãn hiệu của
May 10 như Pharaon, Bigman, Chambray,
Freeland, Cleopatre, PrettyWoman, JackHot, Hình 6.7: May 10 “Đẳng cấp luôn được
MM Teen,.... khẳng định”
- Quyết định về chất lượng của sản phẩm được gắn nhãn hiệu. Nhãn hiệu được
dùng để khẳng định sự hiện diện của sản phẩm trên thị trường nhưng sự tồn tại của nó có
vững chắc hay không lại phụ thuộc vào mức độ chất lượng của sản phẩm. Theo quan
niệm của marketing, chất lượng của sản phẩm phải do khách hàng đánh giá và thừa nhận.
Vì vậy, các nhà sản xuất phải luôn luôn phát triển khái niệm chất lượng sản phẩm theo
quan niệm của khách hàng mục tiêu chứ không phải theo suy đoán chủ quan của nhà sản
xuất.
- Đặt tên cho nhãn hiệu như thế nào?
Có thể có bốn cách đặt tên cho nhãn hiệu là:
Thứ nhất, tên nhãn hiệu riêng biệt cho từng sản phẩm. Công ty Unilever Việt Nam
(bột giặt Omo, Viso, Suft, dầu gội đầu Dove, trà Lipton, kem đánh răng P/S…); tập đoàn
Trung nguyên (cà phê hòa tan G7 (hình 6.8), cà phê 777, cà phê hòa tan Passiona, cà phê
Chồn Legendee (hình 6.9)…) theo chiến lược này.
Hình 6.8. Cà phê G7 hòa tan đen nhanh chóng, Hình 6.9. Cà phê Chồn Legendee đặc biệt
tiện lợi dành cho những người không có thời của Trung Nguyên
gian.
Thứ hai, tên nhãn hiệu chung cho tất cả các sản phẩm. Công ty Philip, Sony,
Samsung, Electrolux… đang theo đuổi chính sách này.
Thứ ba, tên thương mại của doanh nghiệp đi kèm với tên riêng của sản phẩm.
Công ty Nestle Việt Nam đã ủng hộ chính sách này (hình 6.10).
Hình 6.10. Sản phẩm Nescafe và trà chanh Nestea của Nestle.
- Tên nhãn hiệu tập thể cho các họ hàng hóa
Nhưng dù lựa chọn cách nào, khi đặt tên cho nhãn hiệu hàng hoá cũng phải đảm
bảo các yêu cầu:
- Phải hàm ý về lợi ích và chất lượng của hàng hoá
- Phải dễ đọc, dễ nhận biết và dễ nhớ
- Phải khác biệt hẳn với tên khác
- Phải dễ dàng dịch được sang tiếng nước ngoài
- Có thể đăng kí và được pháp luật bảo vệ
Sau đây là cách đặt tên thương hiệu của công ty trong Fortune 500, được liệt kê
thành 5 nhóm cơ bản:
1. Đặt tên mô tả (Descriptive names) - mô tả về công ty thông qua một sản phẩm
cụ thể hay vị trí địa lý. (Bank of America, News Corp…)
2. Tên gia đình (Family names) – Đặt tên công ty theo tên của dòng họ, gia đình
hay của nhà sáng lập ra doanh nghiệp. (Ford, Boeing…)
3. Tên gợi mở (image names) – Sử dụng tên để hàm ý một chất lượng, đặc tính,
triết lý kinh doanh hoặc gợi mở một hình ảnh thông điệp nào đó. (Apple, Yahoo,
Google…)
4. Tên ghép (Coined names) – ghép nhiều từ với nhau tạo thành một tên thương
hiệu. (Micro + software = Microsoft)
5. Tên viết tắt (Initial names) – Tên được đặt dựa trên chữ cái của tên doanh
nghiệp (International Business Machine – IBM)
Tên thương hiệu của các công ty trong Fortune 500 đã thay đổi khá nhiều trong
giai đoạn từ năm 1955 – 2009. Kết quả thống kê cho thấy:
- Sụt giảm 55% của tên mô tả.
- Sụt giảm 45% của tên gia đình.
- Gia tăng 14% của tên viết tắt
- Gia tăng 45% của tên gợi mở
- Gia tăng 213% của tên ghép
Kết quả nghiên cứu cho thấy những tên thương hiệu hàm chứa địa điểm, thị trường
hoặc sản phẩm cụ thể đã dần nhường chỗ cho những cái tên khái quát hơn và không gợi
nhớ đến một địa điểm hay sản phẩm cụ thể nào.
Có thể hiểu sự thay đổi này là vì một doanh nghiệp khó đạt được quy mô đủ lớn để
lọt vào top 500 của Fortune nếu chỉ giới hạn trong một sản phẩm hay thị trường hạn hẹp,
hoặc tên thương hiệu của công ty khiến người ta lầm tưởng công ty chỉ có quy mô nhỏ
hẹp. Một bằng chứng cho điều này chính là mức doanh thu tối thiểu để được vào Fortune
500 đã tăng đáng kể.
Khi doanh nghiệp lớn mạnh, họ cần một cái tên khái quát, có thể thu hút thị trường
rộng lớn hơn nhưng vẫn đặc sắc và không dễ bị chiếm dụng. Chính vì vậy, các công ty đã
dần chuyển sang tên gợi mở, tên ghép hoặc viết tắt. Các tên loại này thường khiến người
khác phải tò mò tự hỏi họ hoạt động trong lĩnh vực nào và ở đâu.
Bên cạnh đó, các loại tên trên không thể hiện một sự gắn kết với một cộng đồng,
sản phẩm, dịch vụ hay cá nhân cụ thể nào, và do đó doanh nghiệp không bị giới hạn vào
một phạm vi, lĩnh vực nhất định và dễ được bảo hộ hơn. Tuy nhiên, loại tên này đòi hỏi
mức độ đầu tư cao hơn để đạt tạo được ý nghĩa đáng nhớ và liên hệ tình cảm với khách
hàng.
Có nên mở rộng giới hạn sử dụng tên nhãn hiệu hay không? Mở rộng giới hạn sử
dụng tên nhãn hiệu là việc sử dụng một tên nhãn hiệu thành công gắn cho một mặt hàng
cải tiến hay một hàng hoá mới để đưa chúng ra thị trường. Việc làm này có ưu điểm là
tiết kiệm được chi phí để tuyên truyền quảng cáo so với đặt tên nhãn hiệu khác cho sản
phẩm mới và sản phẩm cải tiến, đồng thời đảm bảo cho hàng hoá được khách hàng nhận
biết nhanh hơn thông qua nhãn hiệu đã quen thuộc. Nhưng nếu như sản phẩm mới không
được ưa thích thì lại có thể làm giảm uy tín của bản thân nhãn hiệu đó cho tất cả các hàng
hoá.
Sử dụng một hay nhiều nhãn hiệu cho các sản phẩm có những đặc tính khác nhau
của cùng một mặt hàng?
Trường hợp sử dụng nhiều nhãn hiệu có các ưu điểm sau:
- Tạo cho nhà sản xuất khả năng nhận thêm mặt bằng trong gian hàng của
các trung gian.
- Khi khách hàng không trung thành tuyệt đối với bất kỳ một nhãn hiệu nào
thì trường hợp tung ra nhiều nhãn hiệu đã tạo điều kiện cho khách hàng một
khoảng lựa chọn rộng lớn hơn.
- Kích thích tính sáng tạo và nâng cao hiệu suất công tác của các nhân viên
trong đơn vị.
- Mỗi nhãn hiệu có thể thu hút một nhóm khách hàng riêng.
X-men ra đời với một cái tên khá “Tây” và đặc biệt lúc bấy giờ cùng với bộ
hình dạng sản phẩm cũng khá “Tây”. Cái tên X-men đặc biệt vì vào thời điểm đó,
bộ phim X-men II nổi tiếng đang được ra mắt tại Hollywood. Mặt khác, theo ông
Phan Quốc Công – Tổng Giám đốc của ICP, chữ “X” được suy ra từ “Next
Generation” (thế hệ kế tiếp), X-men là thế hệ nam giới mới, lịch lãm và sành điệu.
Ông muốn mang sản phẩm này đến với nam giới toàn cầu chứ không chỉ riêng ở
Việt Nam. Cái tên thương hiệu rất Tây chính là để thể hiện chiến lược toàn cầu đó.
Vì tên gọi cũng như kiểu dáng sản phẩm, ngay khi X-men vừa ra đời không ít
khách hàng đã nhầm tưởng đây là một thương hiệu nước ngoài.
6.3. Bao bì sản phẩm
Bao bì hàng hoá là một yếu tố
không thể thiếu trong tiêu thụ hàng hoá.
Đối với một số loại hàng hoá, bao bì lại
đóng vai trò quyết định trong việc tiêu thụ
và đồng thời nó cũng thể hiện chất lượng
của hàng hoá. Một lọ nước hoa hoặc một
chai rượu cao cấp phải có bao bì đặc biệt,
nó không thể chứa đựng trong chai nhựa.
Bao bì được định nghĩa là: Hình 6.7. Kiểu chai độc đáo của nước hoa
Glow của công ty Jennifer Lopez được bán
rất chạy và được mọi người yêu thích.
- Chức năng bảo quản, vận chuyển, tránh những tác động xấu của môi trường làm
biến dạng sản phẩm.
- Ngày nay, bao gói trở thành công cụ đắc lực của hoạt động marketing.
Bao bì đóng một vai trò quyết định trong sự lựa chọn của khách hàng. Nhưng lâu
nay, các doanh nghiệp Việt Nam thường quá chú trọng đến quảng cáo và các phương
thức tiếp thị khác mà quên đi yếu tố bao bì. Bao bì là công cụ để truyền tải thông tin và
tính cách của một sản phẩm. Nó được thể hiện thông qua màu sắc, kiểu dáng, hình ảnh và
ngôn ngữ.
“Trong hệ thống phân phối hiện đại, khi mà siêu thị và các cửa hàng tiện nghi
đang dần thay cho những tiệm tạp hóa và chợ hiện nay, bao bì đóng một vai trò quan
trọng đối với quyết định chọn lựa sản phẩm của người tiêu dùng trong hàng trăm loại
hàng hóa cùng loại trên kệ trưng bày”, ông Triplett nhấn mạnh.
Lâu nay, không ít doanh nghiệp đã sai lầm khi đánh giá thấp vai trò của bao bì. Người
tiêu dùng yêu thích một sản phẩm nào đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng bao bì là
yếu tố quan trọng và sống lâu nhất với sản phẩm.
Các quyết định về bao gói:
- Xây dựng quan niệm về bao gói nghĩa là xác định bao bì phải tuân theo nguyên
tắc nào và nó đóng vai trò như thế nào đối với một mặt hàng cụ thể; chức năng chủ yếu
của bao bì là gì?
- Quyết định về các khía cạnh: kích thước, hình dáng, vật liệu, màu săc, nội dung,
trình bày, có gắn nhãn hay không?
- Quyết định về thông tin ghi trên bao bì: về hàng hoá, ngày, người sản xuất, nơi
sản xuất, đặc tính của sản phẩm, kỹ thuật hướng dẫn sử dụng, mã số, mã vạch.
6.4. Quyết định về chủng loại và danh mục sản phẩm
Chủng loại sản phẩm là một nhóm sản phẩm có liên quan chặt chẽ với nhau do
giống nhau về chức năng hay do bán chung cho cùng một nhóm khách hàng hay thông
qua cùng những kiểu trung gian thương mại hay trong khuôn khổ cùng một dãy giá.
Danh mục sản phẩm là một tập hợp tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng mà
một người bán cụ thể đưa ra để bán cho người mua
Danh mục sản phẩm được phản ánh qua các chỉ tiêu: chiều rộng, chiều dài, chiều
sâu và mật độ.
- Chiều rộng của danh mục sản phẩm là tổng số chủng loại sản phẩm do doanh
nghiệp sản xuất.
- Chiều dài của danh mục sản phẩm là tổng số những mặt hàng trong danh mục.
- Chiều sâu của danh mục sản phẩm được đo lường bằng số phương án của từng
mặt hàng riêng của một chủng loại.
- Mật độ của danh mục sản phẩm cho biết mối quan hệ chặt chẽ hay không chặt
chẽ giữa các chủng loại và giữa các mặt hàng xét theo góc độ mục đích sử dụng cuối
cùng hoặc những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân phối hay một tiêu chuẩn nào
đó. Ví dụ về danh mục sản phẩm của công ty Unilever Việt Nam (xem bảng 6.1).
Chiều rộng của danh mục là 7 (7 chủng loại);
Chiều dài của danh mục là 22;
Chiều sâu của danh mục đối với mặt hàng bột giặt Omo là 12 (4 công thức x 3 cỡ)
Mật độ của danh mục: các chủng loại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do cùng
phục vụ trong ngành hàng tiêu dùng và được bán qua cùng một kênh phân phối.
Bảng 6.1. Danh mục sản phẩm của công ty Unilever Việt Nam.
Kem đánh Dầu gội Sữa tắm Mỹ phẩm Bột giặt Chất tẩy Thực
răng đầu rửa phẩm
Hình 7.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định giá cả
7.2.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
a) Các mục tiêu Marketing
Các mục tiêu Marketing đóng vai trò định hướng trong việc xác định vai trò và nhiệm vụ
của giá cả. Mỗi mục tiêu đòi hỏi các quyết định về giá cả riêng.
1. Mục tiêu dẫn đầu về chất lượng: 6,7
2. Mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận;5,9,12
3. Dẫn đầu thị phần: 1,3,11
4. Đản bảo sống xót;2,8,10
Mục tiêu “Tối đa hóa lợi nhuận hiện hành”
Khi nhận thấy rằng môi trường kinh doanh thuận lợi, doanh nghiệp sẽ đưa ra mức
giá cả thích hợp nhằm đem lại doanh thu và lợi nhuận tối đa. Về mặt lý thuyết để tối đa
hóa lợi nhuận thì doanh nghiệp phải tăng giá bán đến mức cao nhất người mua có thể
chấp nhận. Ví dụ, các đại lý ủy quyền của Honda nhận thấy nhu cầu thị trường cao về các
sản phẩm Honda nên giá bán trên thực tế luôn cao hơn so với mức giá bán lẻ đề xuất do
Honda Việt Nam đưa ra.
Mục tiêu “Dẫn đầu về thị phần”
Nhiều doanh nghiệp muốn chiếm được thị phần lớn nhất để gặt hái lợi nhuận lâu
dài nhờ hiệu quả theo quy mô. Theo thống kê, số người có thu nhập trung bình và thấp
chiếm khoảng 75% dân cư cho nên để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp thường định
giá thấp nhất để thu hút được lực lượng khách hàng này.
Vd: DN
Mục tiêu “Dẫn đầu về chất lượng”
Nhiều doanh nghiệp lại mong muốn định vị là sản phẩm có chất lượng cao nhất
trong tâm trí khách hàng. Thông thường, với mục tiêu này, doanh nghiệp sẽ ấn định một
mức giá cao để trang trải cho những chi phí tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao
đồng thời sử dụng cặp quan hệ chất lượng – giá cả để gây ảnh hưởng tới sự cảm nhận của
khách hàng về chất lượng cao của hàng hóa. Trên thực tế hiện nay, khái niệm “chất
lượng” trong tâm trí khách hàng rất khác nhau vì có nhiều tiêu chí để “cảm nhận” chất
lượng.
Mục tiêu “Đảm bảo sống sót”
Khi đối mặt với các tình huống bất lợi trên thị trường (kinh tế suy thoái, sự cạnh
tranh trở nên gay gắt quyết liệt, nhu cầu thị trường thay đổi đột ngột,…) thì mục tiêu của
các doanh nghiệp đưa ra là tồn tại và vượt qua những khó khăn trước mắt đó. Thông
thường mức giá doanh nghiệp đưa ra sẽ chỉ bù đắp được phần chi phí biến đổi tính trên
đơn vị sản phẩm mà thôi. Đây là giải pháp tình thế, được sử dụng trong một khoảng thời
gian ngắn.
Các mục tiêu khác
Ngoài ra, giá cả còn có thể chịu sự chi phối bởi một số mục tiêu khác của doanh
nghiệp. Chẳng hạn, định giá thấp để bảo vệ thị trường, thu hút khách hàng khi cung ứng
sản phẩm mới, xâm nhập vào thị trường mới; định giá bán ngang bằng với đối thủ cạnh
tranh để ổn định thị trường; định giá ưu đãi để tìm kiếm sự ủng hộ và hợp tác của lực
lượng trung gian…
b) Chiến lược marketing hỗn hợp
Để thực hiện mục tiêu và chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp phải sử dụng đồng
bộ cả bốn công cụ marketing hỗn hợp là sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp.
Có nghĩa là khi đưa ra quyết định về giá cả doanh nghiệp phải xuất phát từ mục tiêu và
chiến lược định vị, đồng thời phải đặt giá cả trong mối quan hệ đồng bộ, thống nhất,
tương hỗ với các công cụ khác để tạo được sức mạnh tổng hợp lớn nhất tác động vào thị
trường mục tiêu.
c) Chi phí sản xuất
Chí phí sản xuất là toàn bộ chi phí mà người cung ứng phải bỏ ra để cung ứng sản
phẩm để trao đổi. Chi phí sản xuất sẽ được hoàn lại doanh nghiệp sau khi sản phẩm được
tiêu thụ. Giá thành đơn vị sản phẩm được hiểu đơn giản là chi phí sản xuất tính chi một
đơn vị sản phẩm. Sự hiểu biết chính xác về chi phí bỏ ra để sản xuất hàng hóa hoặc dịch
vụ rất quan trọng đối với các quyết định về giá bởi ba lý do sau
Thứ nhất, tính toán được mức lợi nhuận dự kiến trên từng đơn vị sản phẩm để có
những phản ứng linh hoạt trước các tình huống. Khi mức giá bán đã được ấn định chi phí
tăng thêm một đồng thì là lợi nhuận sẽ giảm xuống một đồng, điểm hòa vốn cũng sẽ kéo
dài thêm.
Thứ hai, giá thành là mức giá thấp nhất (giá sàn) doanh nghiệp có thể bán ra trên
thị trường để đảm bảo sự phát triển. Trong một số tình huống khó khăn, doanh nghiệp có
thể ấn định giá bán thấp hơn giá thành, song đó chỉ là giải pháp tạm thời, trong ngắn hạn.
Các doanh nghiệp đều muốn ấn định mức giá cả đủ để trang trải mọi chi phí bỏ ra trong
sản xuất kinh doanh, mang lại lợi nhuận chính đáng cho những nỗ lực kinh doanh của
mình. Do đó, khi ấn định mức giá bán, giá thành được coi là căn cứ quan trọng, là bộ
phận tất yếu cấu thành nên giá bán.
Thứ ba, khi kiểm soát được giá cả và chi phí, doanh nghiệp sẽ giành được thế chủ
động trong việc thay đổi giá cả để giành được lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro trong
kinh doanh.
d) Các yếu tố khác
Ngoài những nhân tố cơ bản thuộc nội bộ doanh nghiệp như đã nêu trên, giá cả
còn chịu ảnh hưởng của những nhân tố khác. Chẳng hạn, những đặc trưng của sản phẩm,
hệ số co giãn của cung, thẩm quyền quyết định giá được xác lập trong mỗi doanh
nghiệp…
- Có nhiều đặc tính sản phẩm ảnh hưởng đến giá như: tính đồng nhất, tính dị biệt,
tính thời vụ, tính dễ hỏng… Ví dụ, đối với những sản phẩm có tính dễ hỏng (thực phẩm,
hàng nông sản…) trong nhiều trường hợp, giá bán được xác định theo chất lượng chứ
không phải chi phí bỏ ra. Đồng thời, nó phải được điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp
với chất lượng của sản phẩm bị biến đổi nhanh chóng. Với những sản phẩm đồng nhất, dễ
dàng thay thế trong sử dụng, rất khó đặt mức giá khác biệt. Ngược lại, những sản phẩm
có sự khác biệt lớn, người tiêu dùng không thích sử dụng thay thế hoặc không tìm được
hàng hóa thay thế, thường có quyền đặt mức giá cao và có mức chênh lệch lớn so với chi
phí bỏ ra.
- Quyền quyết định về giá
Quyết định về giá thường thuộc quyền của ban lãnh đạo, vì hai lí do:
+ Giá là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận. Một mức giá được
thực hiện tương ứng với một mức doanh thu và lợi nhuận nhất định.
+ Giá là thành phần duy nhất trong Marketing – mix có khoảng cách giữa thời gian
giữa quyết định và áp dụng rất ngắn. Tính chất tức thời làm cho các quyết định về giá
mang tính rủi ro lớn, vì nó có thể phá vỡ tính nhất quán của Marketing – mix. Vì vậy, ban
lãnh đạo các doanh nghiệp thường phải nhận trọng trách trong các quyết định về giá.
Có nhiều mô hình về quản lý giá cả khác nhau mà doanh nghiệp có thể lựa chọn.
Việc ứng dụng mô hình quản lý giá cả cụ thể có ảnh hưởng rất lớn tới tính linh hoạt của
việc đề xuất các mức giá và điều chỉnh giá cả.
Nếu ban lãnh đạo doanh nghiệp trực tiếp ra các quyết định về mức giá cả cụ thể
(cơ chế cứng) thì người quản trị giá cả và người bán hàng không có “khoảng tự do” về
quyền quyết định mức giá bán. Còn nếu ban lãnh đạo doanh nghiệp chỉ nắm quyền xác
định và kiểm soát giá cả thông qua các chỉ tiêu như khung giá, giá chuẩn, giá giới hạn,
(cơ chế mềm) thì người quản trị và người bán hàng có khả năng linh hoạt về giá cả tương
đối cao, song áp lực của rủi ro cũng rất lớn.
7.2.2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
a) Đặc điểm của thị trường và cầu
Trong trao đổi, giá là kết quả thỏa thuận giữa hai bên mua và bán. Khách hàng
thường là người có tiếng nói cuối cùng quyết định mức giá thực hiện.
Chi phí chỉ ra giới hạn thấp – “sàn” của giá, còn cầu thị trường quyết định giới hạn
cao – “trần” của giá. Vì vậy, trước khi ra các quyết định về giá cả những người làm
Marketing phải nắm được những đặc trưng của thị trường và cầu sản phẩm.
b) Cấu trúc cạnh tranh
Chính sách giá của doanh nghiệp phụ thuộc vào cấu trúc cạnh tranh. Các nhà kinh
tế học chia cấu trúc cạnh tranh thành bốn nhóm cơ bản:
+ Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo: bao gồm nhiều người mua và người
bán trao đổi với nhau về một thứ hàng hóa đồng nhất. Không có một người mua hay
người bán cá biệt nào có thể gây được ảnh hưởng lớn đến giá sản phẩm do thị trường
quyết định. Những quy định giá riêng của doanh nghiệp đều không có ý nghĩa.
+ Hình thái thị trường độc quyền thuần túy: chỉ có một người bán. Đường cầu của
thị trường cũng là đường cầu của ngành. Người bán độc quyền luôn giành quyền quyết
định về giá. Họ thường định giá bán để duy trì và bảo vệ vị thế độc quyền; không muốn
sự thu hút sự xâm nhập vào thị trường của các đối thủ tiềm ẩn và có thể bán sản phẩm
cho số đông các khách hàng.
+ Hình thái thị trường cạnh tranh độc quyền: bao gồm nhiều người mua và bán
giao dịch với nhau qua một khoảng giá rộng chứ không phải một giá thị trường duy nhất.
Do người bán có thể chào bán nhiều phương án hàng hóa khác nhau. Những người bán
nào tạo được cho sản phẩm của mình một sự khác biệt về chất lượng, mẫu mã, hoặc
những dịch vụ kèm theo và được khách hàng chấp nhận, có thể đặt một giá bán riêng biệt.
Tuy nhiên khả năng này là có hạn vì những hàng được trao đổi trên thị trường có khả
năng thay thế nhau rất lớn.
+ Hình thái thị trường độc quyền nhóm: bao gồm một số ít người bán rất nhạy cảm
với chính sách hình thành giá của nhau. Hàng hóa có thể giống nhau hoặc không giống
nhau. Từng người trong số họ luôn có thế mạnh để có thể gây ảnh hưởng tới giá thị
trường.
Các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền nhóm đều phải cảnh giác
trước những thay đổi đột ngột về giá của đối thủ. Vì họ có thể nhanh chóng mất đi khách
hàng thuộc phần thị trường của mình khi đối thủ cạnh tranh dùng giá để lôi kéo. Nếu
cạnh tranh qua giá trở nên quyết liệt, các doanh nghiệp hoạt động ở hình thái thị trường
này sẽ rơi vào tình trạng tổn thất nặng nề về tài chính. Khuynh hướng giảm giá bán để
cạnh tranh và hậu quả của nó đã đưa các doanh nghiệp độc quyền nhóm đến sự liên kết
hay thỏa thuận với nhau về thị trường và giá cả. Sự liên kết về giá bán của họ nếu gây
thiệt hại đến người tiêu dùng, chính phủ thường can thiệp để ngăn chặn.
Như vậy chính sách giá luôn phụ thuộc vào kiểu thị trường. Các doanh nghiệp cần
cân nhắc kỹ kiểu thị trường cho sản phẩm của mình để đưa ra mức giá hợp lý nhất.
c) Các yếu tố bên ngoài khác
Khi quyết định một mức giá, các doanh nghiệp còn phải xem xét đến những yếu tố
thuộc môi trường bên ngoài, bao gồm:
- Môi trường kinh tế,
- Thái độ (phản ứng) của Chính phủ
Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế như lạm phát, tăng trưởng hay suy thoái, lãi
xuất, thất nghiệp…đều ảnh hưởng đến các quyết định giá vì chúng ảnh hưởng trực tiếp
đến sức mua, chi phí sản xuất một sản phẩm và sự cảm nhận của khách hàng về giá trị và
giá cả của sản phẩm đó.
Phạm vi hàng hóa do Nhà nước định giá trực tiếp thường rất nhỏ, nhưng phạm vi
hàng hóa có sự điều tiết từng phần về giá của Nhà nước lại rất lớn. Cách thức điều tiết giá
của Nhà nước chủ yếu thông qua việc ban hành các luật về giá.
Những đạo luật về giá trị có tính phổ biến ở nhiều nước mà người làm giá cần
quan tâm bao gồm:
- Đạo luật liên quan đến thỏa thuận về giá trong giao dịch (ví dụ: ở Mỹ: đạo luật
chống sự dàn xếp giá cả giữa hai bên mua – bán, luật cấm cố định giá).
- Đạo luật chống các thủ đoạn định giá lừa bịp, dối trá (ví dụ: luật quảng cáo về
giá).
- Đạo luật chống các thủ đoạn cạnh tranh về giá không lành mạnh (luật phá giá;
tăng giá của các tổ chức độc quyền).
Những đạo luật về giá nhằm mục đích hạn chế những tiêu cực trong việc định giá
của các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp khi ra quyết định về giá đều phải tuân
thủ những yêu cầu có tính pháp lý này.
7.3. Một số phương pháp định giá
Những phương pháp định giá cơ bản mà marketing thường sử dụng bao gồm:
- Định giá dựa vào chi phí,
- Định giá theo giá trị cảm nhận của khách hàng,
- Định giá cạnh tranh,
- Định giá đấu thầu.
7.3.1. Phương pháp định giá dựa vào chi phí
Với phương pháp này, doanh nghiệp sẽ dựa vào chi phí sản xuất và tiêu thụ để đưa
ra mức giá bán. Đây là phương pháp cơ bản các doanh nghiệp hay áp dụng.
a) Định giá theo cách “cộng lãi vào giá thành”
Giá bán dự kiến = Giá thành sản phẩm (Z) + Lãi dự kiến
Lãi dự kiến thường được tính theo tỉ lệ % của giá thành đơn vị sản phẩm hoặc giá
bán dự kiến.
Mức lãi dự kiến tính theo giá thành đơn vị sản phẩm:
P = Z x (1 + tỷ lệ lãi trên chi phí đơn vị sản phẩm)
Ví dụ: Giả sử doanh nghiệp có chi phí và dự kiến mức tiêu thụ là:
Chi phí biến đổi: 15.000đ, Chi phí cố định: 1.000.000.000đ
Số lượng dự kiến tiêu thụ: 1.000.000 sản phẩm
Khi đó giá thành đơn vị sản phẩm là: Z = AVC + AFC
= 15.000 + 1.000.000.000/1.000.000 = 16.000đ
Nếu doanh nghiệp dự kiến tỉ lệ lãi là 25% trên giá thành sản phẩm. Khi đó:
P = 16.000 x (1 + 0,25) = 20.000đ
Mức lãi dự kiến tính theo giá bán:
Z
P =
1 - tỷ lệ lãi trên giá bán
Nếu doanh nghiệp dự kiến tỉ lệ lãi là 20% trên giá bán. Khi đó:
16.000
P = = 20.000đ
1- 0,2
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ tính toán và đảm bảo công bằng
cho cả người mua và người bán. Nhưng nhược điểm của phương pháp này là không tính
tới sự ảnh hưởng của cầu và nhận thức của khách hàng về giá.
b) Định giá theo lợi nhuận mục tiêu
Định giá theo tỷ suất lợi nhuận mục tiêu:
Lợi nhuận mong muốn
P = Z +
Q
Ví dụ: Doanh nghiệp đầu tư 1 tỷ đồng cho một tài sản cố định. Giá thành đơn vị
sản phẩm là 16.000đ. Nếu doanh nghiệp mong muốn đạt được mức lợi nhuận trên vốn
đầu tư là 20% tức là 20% x 1 tỷ = 200.000.000đ thì giá bán là:
Giá theo lợi nhuận mục tiêu của họ là:
200.000.000
P= 16.000 + = 20.000đ
50.000
Bài đọc thêm: Hãng hàng không Southwest Airlines - mô hình hàng không giá rẻ
thành công (LCA) trên thế giới.
Southwest cung cấp những dịch vụ không kiểu cách với giá vé thấp trên hơn 1.200
chuyến bay cự ly ngắn hàng ngày giữa khoảng 36 thành phố trong khoảng 1/3 số tiểu
bang. Qua nhiều năm Southwest đã đạt kỷ lục về lợi nhuận ổn định mà các hãng hàng
không Hoa Kỳ khác không thể địch lại được.
Chuyến bay đầu tiên của Southwest Airlines cất cánh năm 1971. Ban đầu, 4 chiếc
máy bay của hãng chỉ phục vụ 3 thành phố của Texas – Dallas, Houston và San Antonio.
Họ bắt đầu thực hiện dịch vụ liên bang năm 1978. Vận tải hàng không dựa trên các tuyến
địa phương cự lý ngắn, như Phoenix – Las Vegas và St. Louis – Kansas City. Nhưng
chuyến bay của hãng kéo dài trung bình 55 phút. Hãng không có các chuyến bay vượt đại
dương.
Southwest tránh cạnh tranh đối đầu với các hãng hàng không lớn nhất. Công ty tập
trung vào các thị trường mà họ đánh giá là có quá ít chuyến bay và giá vé máy bay tương
đối cao. Giá của hãng thấp hơn hẳn giá thị trường, có thể từ 50 đến 60% thấp hơn giá vé
trước đây của các đối thủ cạnh tranh trên cùng đường bay. Thông thường, sự xâm nhập
của Southwest vào một thị trường gây ra một cuộc chiến giá cả kéo dài.
Từ 100.000 hành khách năm 1971, số hành khách cơ bản của Southwest đã tăng
lên đến trên 25 triệu hàng năm. Sự thành công của hãng có thể gây ngạc nhiên khi xem
xét các loại dịch vụ mà Southwest không cung ứng cho hành khách: không có khu vực
hạng nhất, không có chỗ ngồi ấn định, không có thức ăn và không có trung chuyển hành
lý giữa các hãng hàng không. Những khoản cắt giảm này thật ra đã được hơn cả sự bù
đắp bởi những gì mà khách hàng nhận được từ Southwest: những chuyến bay thường
xuyên, đến đúng giờ, phục vụ tử tế và giá thị trường.
Theo lời của Herb Kellerher, chủ tịch Công ty, “Người ta luôn luôn muốn có dịch
vụ chất lượng cao với giá thấp, được cung cấp bởi những người vui thích công việc họ
làm”, Southwest đã là người thường xuyên thắng cuộc hàng tháng trong cái gọi là “3
vương miện” của ngành – thực hiện đúng giờ tốt nhất, tỉ lệ khách hàng khiếu nại thấp
nhất và mức độ thấp thoát hành lý thấp nhất.
Do Southwest nhấn mạnh yếu tố giá thấp, hãng phải duy trì chi phí thấp để đạt lợi
nhuận. Với tâm niệm đó, Công ty cố gắng giữ cho các máy bay hoạt động càng nhiều
càng tốt. Làm như vậy, Công ty đã sử dụng tài sản đắt tiền nhất của họ, phi đội khoảng
125 máy bay, với hiệu quả cao nhất.
Và Southwest cố giữ giờ bay của máy bay – khoảng 11 giờ mỗi ngày, so với mức
bình quân của ngành là 8 giờ. Mỗi khi máy bay của Southwest hạ cánh, nó mất trung bình
15 phút (khá hơn mức bình quân 45 phút của ngành để chuẩn bị cho chuyến bay kế tiếp.
Hơn nữa, để giảm chi phí huấn luyện nhân viên và phụ tùng tồn kho, hẵng chỉ sử dụng
một loại máy bay – Boeing 737.
Một cách khác để Southwest kiểm soát chi phí là duy trì một lực lượng làm việc
năng suất cao. Do đó hãng thường sử dụng một nhân viên gác cửa, thay vì 3, để đón
khách lên máy bay. Những chiến thuật như vậy cung cấp cho Công ty với chi phí hoạt
động thấp nhất ngành, dưới 7 cents cho mỗi đơn vị dậm chỗ ngồi có sẵn; các hãng hàng
không khác thường chi phí trong khoảng từ 9 đến 15 cents.
Không khí làm việc tại Southwest được sắp đặt bởi Kelleher, người tăng cường
văn hóa vị nhân sinh của hãng bằng cách thăm viếng các nhân viên nằm viện và mang
bánh rán đến cho các nhân viên khi họ làm việc bảo trì máy bay vào giữa đêm.
Với sự thiếu vắng các dịch vụ (thức ăn, chỗ ngồi ấn định, …), người ta có thể nghĩ
đến ít có sự trung thành với hãng. Tuy nhiên, nhiều khách hàng của Southwest rất trung
thành, ngay cả cuồng tín, trong việc ủng hộ hãng. Tại sao? Vì một điều, những lợi ích của
dịch vụ tử tế, thường xuyên, đúng giờ kết hợp với giá vé thấp biểu thị một giá trị to lớn
đối với nhiều hành khách đi máy bay. Southwest cũng đối xử với khách hàng như là
những cá nhân – bằng cách gởi thiếp mừng sinh nhật đến những hành khách đi máy bay
thường xuyên và bằng cách mời một vài người trong số họ dự các cuộc phỏng vấn những
nhân viên phi hành tương lai.
Southwest tìm kiếm – và thường đạt được – một sự hiện diện thống soát trong các
thị trường hãng phục vụ. Ví dụ, hãng vận chuyển khoảng 2/3 số hành khách đi máy bay
trong bang Texas. Và từ khi thâm nhập vào California cách đây vài năm, hãng đã đạt
được 25% thị phần trong tiểu bang.
7.3.2. Định giá theo giá trị cảm nhận
Đối với nhiều sản phẩm doanh nghiệp khó có thể tính toán được các chi phí cụ thể
hoặc sự cảm nhận về giá trị sản phẩm của từng khách hàng khác nhau thì doanh nghiệp
áp dụng phương pháp này. Khi đó doanh nghiệp cần phải xây dựng được những biến có
giá trị trong suy nghĩ của khách hàng. Điều cơ bản là doanh nghiệp phải xác định chính
xác nhận thức của thị trường về giá trị của hàng hoá để đưa ra mức giá.
7.3.3. Định giá cạnh tranh
Theo phương pháp này doanh nghiệp sẽ định giá dựa trên giá bán của đối thủ cạnh
tranh chủ yếu của mình trên thị trường. Doanh nghiệp ít quan tâm đến chi phí sản xuất
sản phẩm và cầu thị trường. Có 3 cách định giá là cao hơn, ngang bằng và thấp hơn so
với đối thủ cạnh tranh.
Đặt giá ngang bằng : Doanh nghiệp áp dụng cách này khi hoạt động trong thị
trường độc quyền nhóm hoặc doanh nghiệp tham gia vào thị trường với năng lực cạnh
tranh nhỏ bé là doanh nghiệp “theo sau” hoặc sản phẩm của doanh nghiệp về cơ bản ít có
sự khác biệt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ví dụ : các sản phẩm của Unilever
và P&G.
Đặt giá cao hơn: Doanh nghiệp áp dụng cách này khi sản phẩm của mình có sự
khác biệt có giá trị trong tâm trí khách hàng so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh (chất
lượng cao hơn, thiết kế, mẫu mã và bao bì đẹp hơn, công nghệ cao hơn,…). Tuy nhiên,
khoảng chênh lệch giá không nên quá lớn để tránh ảnh hưởng tới những khách hàng nhạy
cảm về giá, đặc biệt khi sự khác biệt về sản phẩm trong tâm trí khách hàng không rõ ràng.
Ví dụ : sản phẩm của Sony nổi tiếng với chất lượng cao nên mức giá bao giờ cũng cao
hơn so với các sản phẩm khác trong ngành.
Đặt giá thấp hơn : Doanh nghiệp áp dụng cách này khi sản phẩm mà khách hàng
có sự nhạy cảm cao về giá hay khi doanh nghiệp định vị sản phẩm của mình ở mức giá
thấp hay khi sản phẩm của doanh nghiệp không có thương hiệu mạnh bằng đối. Ví dụ :
sản phẩm của doanh nghiệp hóa mỹ phẩm Hòa Hợp bao giờ cũng thấp hơn so với
Unilever, ICP và P&G.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến nhất là trong các trường hợp như chi phí
khó xác định được, hay phản ứng cạnh tranh không chắc chắn. Các doanh nghiệp đều cho
rằng phương pháp định giá theo giá hiện hành là một giải pháp tốt.
7.3.4. Định giá đấu thầu
Doanh nghiệp định giá đấu thầu trong trường hợp đấu thầu các công trình xây
dựng hoặc theo các gọi thầu cung cấp với khối lượng lớn (bán hàng dự án). Giá đấu thầu
thuộc loại giá cạnh tranh. Các doanh nghiệp luôn phải tìm hiểu kỹ thông tin thị trường,
đối thủ cạnh tranh, người mua hàng đồng thời đề ra các phương án giá sao cho trúng thầu
và đạt được mục tiêu đề ra của mình. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp nào đưa ra mức giá
thấp nhất và chất lượng cao nhất hoặc ít nhất là ngang bằng so với các đối thủ sẽ được
trúng thầu.
7.4. Các chiến lược giá
Để có thể thích ứng với sự thay đổi của cầu, khai thác tối đa những cơ hội và
những thủ đoạn cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường doanh nghiệp cần xây dựng và
áp dụng chiến lược giá linh hoạt. Dưới đây chúng ta sẽ cùng nghiên cứu các chiến lược
giá cơ bản doanh nghiệp có thể áp dụng.
7.4.1. Chiến lược giá cho sản phẩm mới
Đây là chiến lược giá trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống sản phẩm. Khi tung một
sản phẩm mới vào thị trường, doanh nghiệp có thể chọn một trong hai kiểu giá :
a) Chiến lược giá “Hớt phần ngon”
Chiến lược giá “hớt phần ngon” có nghĩa là khi tung sản phẩm mới ra thị trường
doanh nghiệp sẽ đặt giá bán ở mức cao nhất có thể để hướng tới những khách hàng thích
cái mới và chấp nhận cái mới. Sau một thời gian doanh nghiệp sẽ giảm giá xuống để thu
hút những khách hàng nhạy cảm về giá. Mặc dù giai đoạn “hớt phần ngọn” này có thời
gian “sống” rất ngắn nhưng tỉ suất lợi nhuận thương mai lại vô cùng cao có thể gấp 2, gấp
3 hay hơn thế cho giai đoạn sau khi phải cạnh tranh với nhiều đối thủ hơn, đồng thời đối
tượng khách hàng cũng không phải là khách “sộp” như trước. Chiến lược này được áp
dụng rất thành công tại doanh nghiệp Samsung, nó được gọi là Shasimi, được khởi xướng
bởi Yun Jong – Yong.
b) Chiến lược giá “bám chắc thị trường”
Chiến lược này đối lập với chiến lược “hớt phần ngon”. Khi đó doanh nghiệp ấn
định mức giá bán sản phẩm mới thấp nhằm theo đuổi mục tiêu giành được thị phần lớn và
mong muốn sẽ giành được lợi thế theo quy mô trong dài hạn theo nguyên tắc “lợi ít lượng
nhiều”.
7.4.2. Chiến lược giá cho danh mục sản phẩm
Doanh nghiệp sẽ xây dựng một “bộ giá bán” đảm bảo được lợi nhuận tối đa trên
toàn bộ danh mục sản phẩm chứ không phải cho từng sản phẩm riêng rẽ. Việc định giá
cho danh mục sản phẩm không đơn giản bởi các mặt hàng khác nhau đều có liên quan tới
nhau về cầu, chi phí, và phải đương đầu với những mức độ cạnh tranh khác nhau.
a) Định giá cho chủng loại hàng hóa
Định giá cho chủng loại hàng hóa là định giá cho những sản phẩm có cùng chức
năng, công dụng, được bán cho cùng một nhóm khách hàng. Thực chất của việc định giá
cho chủng loại hàng hóa là tạo ra sự chênh lệch về giá với những đặc tính nổi trội của
hàng hóa đó theo mục tiêu định trước của doanh nghiệp. Chẳng hạn , doanh nghiệp chào
bán hai mặt hàng là A và B.
Mặt hàng A có chất lượng cao và giá cao.
Mặt hàng B có chất lượng trung bình và giá trung bình.
Nếu doanh nghiệp mong muốn đạt mục tiêu nâng cao mức tiêu thụ cho mặt hàng
A thì họ có thể tạo ra khoảng chênh lệch về chất lượng nhiều hơn chênh lệch về giá cả.
b) Xác định giá cho hàng hóa phụ thêm không có tính bắt buộc
Một số sản phẩm chính được chào bán cùng với sản phẩm phụ thêm. Ví dụ: bán
thêm khóa xe, giá đèo hàng…cho những người mua xe máy… Chúng là một số phụ tùng,
chi tiết hàng hóa tiêu dùng bổ sung nhưng không có tính bắt buộc.
Nguyên tắc định giá hiệu quả là nếu doanh nghiệp muốn tạo cho mình một hình
ảnh cung cấp danh mục hàng hóa hoàn chỉnh, họ có thể không lấy lãi ở sản phẩm bán
kèm và coi đó là hành động nhằm gia tăng sức hấp dẫn cho sản phẩm chính. Nếu doanh
nghiệp thấy có cơ hội thu lợi nhuận cao từ những sản phẩm bán kèm, họ có thể phải giảm
giá sản phẩm chính. Họ có thể lấy phần lợi nhuận của sản phẩm bán kèm bù cho sản
phẩm chính.
Các doanh nghiệp văn phòng phẩm cũng thường áp dụng loại định giá này. Họ
thường định giá giấy rẻ song các loại khác định giá cao song phải đảm bảo tiền doanh thu
trang trải được mọi chi phí và có lãi cho cả sản phẩm chính và phụ.
c) Xác định giá cho cả sản phẩm kèm theo bắt buộc
Một số sản phẩm khi sử dụng buộc phải có những sản phẩm khác đi kèm. Chẳng
hạn điện thoại di động phải có sim, máy in phải có mực, bàn cạo râu phải có lưỡi dao...
Các nhà cung cấp này có thể thu lợi nhuận tối đa cho cả danh mục bằng cách định giá cao
cho sản phẩm nào đem lại lợi nhuận cao cho dù sản phẩm đó là sản phẩm phụ hay sản
phẩm chính và ngược lại.
d) Định giá cho sản phẩm phụ
Một số ngành sản xuất trong quá trình sản xuất người ta đồng thời thu được cả sản
phẩm chính và một số sản phẩm phụ. Chẳng hạn, trong quá trình sản xuất gang thép
chúng ta sẽ thu được xỉ thải. Xỉ thải này nếu chúng ta biết tận dụng có thể được sử dụng
để làm phụ gia hoặc nguyên liệu sản xuất xi măng với những đặc tính ưu việt. Thường sẽ
có hai tình huống xảy ra ảnh hưởng đến việc định giá sản phẩm chính. Thứ nhất, sản
phẩm phụ không có giá trị thương mại, doanh nghiệp sẽ tốn thêm chi phí để xử lý, giá
của sản phẩm chính sẽ chịu thêm cả khoản chi phí này. Thứ hai, nếu sản phẩm phụ có giá
trị thương mại, doanh nghiệp có điều kiện giảm giá sản phẩm chính, giành lợi thế cạnh
tranh. Nhà sản xuất thường áp dụng phương pháp “loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi chi
phí sản xuất sản phẩm chính”.
7.4.3. Các chiến lược điều chỉnh mức giá cơ bản
a) Định giá 2 phần
Doanh nghiệp sẽ xác định và chia giá thành hai phần. Trong đó một phần là trả
cho những hàng hóa tối thiểu định mức, phần còn lại áp dụng cho việc tiêu dùng vượt
định mức.
Các doanh nghiệp viễn thông và doanh nghiệp dịch vụ thường áp dụng chiến lược
giá này. Mỗi tháng mỗi thuê bao (điện thoại cố định) sẽ nộp 20000 đồng tiền thuê bao và
được sử dụng 200 phút gọi nội mạng. Nếu khách hàng sử dụng quá mức đó hay khi gọi
ngoại mạng sẽ phải trả thêm tiền.
b) Định giá trọn gói
Thay vì bán sản phẩm riêng lẻ, doanh nghiệp sẽ tập hợp một số hàng hóa để bán
chúng thành “bộ” hoặc “gói”. Chẳng hạn, khi mua hàng ở siêu thị Metro thường người ta
bán theo “đơn vị Metro” sẽ có ít nhất hai sản phẩm nhưng giá sẽ rẻ hơn khi mua lẻ bên
ngoài. Hay một số trung tâm dạy tiếng Anh sẽ đưa ra mức giá hấp dẫn nếu học viên mua
cả “gói sản phẩm”.
Nguyên tắc định giá trọn gói là:
Giá bán trọn gói < Tổng tiền mua gói hàng theo phương thức bán riêng rẽ
Trên thực tế, sức hấp dẫn của giá trọn gói cũng chỉ lôi kéo một số khách hàng nào
đó. Để gia tăng doanh thu doanh nghiệp thường kết hợp cả hai phương thức: bán hàng
trọn gói và bán “phá gói”. Cũng với ví dụ trên, với một số sản phẩm có giá trị lớn Metro
cũng bán theo đơn vị là một chẳng hạn tivi, tủ lạnh,… Hay các trung tâm Anh ngữ có thể
bán từng khóa học riêng lẻ.
c) Định giá theo nguyên tắc địa lý
Nguyên tắc này có nghĩa là khách hàng ở vị trí khác nhau doanh nghiệp sẽ ấn định
các mức giá khác nhau sao cho đảm bảo được lợi nhuận dự kiến của mình.
- Xác định giá FOB/CIF
Giá FOB (Free On Board) doanh nghiệp chỉ phải giao hàng đến một địa điểm thỏa
thuận và không phải mất phí bảo hiểm hàng hóa, phí vận chuyển thường là đường biển.
Còn giá CIF, người bán sẽ phải chịu chi phí vận chuyển và chi phí bảo hiểm đến địa điểm
người mua lựa chọn. Giá CIF bao giờ cũng cao hơn giá FOB.
- Xác định giá thống nhất bao gồm cả chi phí vận chuyển
Doanh nghiệp áp dụng một mức giá bán thống nhất gồm cả chi phí vận chuyển
bình quân cho mọi người mua không phân biệt họ ở xa hay gần. Nghĩa là :
Giá gốc của Chi phí vận
Giá bán = +
hàng hóa chuyển bình quân
Phương pháp này có ưu điểm là tính toán đơn giản, hấp dẫn được người mua ở xa,
đảm bảo được giá thống nhất cho mọi khách hàng. Nhưng nó lại kém hấp dẫn với những
khách hàng gần.
- Áp dụng giá bán cho từng khu vực
Các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp này phải chia khách hàng thành các khu
vực khác nhau. Doanh nghiệp thường chỉ định giá sản phẩm mà chưa bao gồm cước vận
chuyển, tùy theo địa điểm của khách hàng sẽ có mức giá riêng. Phương pháp này vẫn có
nhược điểm là sự bất hợp lý về giá cả ở các vùng giáp ranh.
d) Chiết giá và bớt giá
Để thu hút khách hàng các doanh nghiệp có thể thực hiện việc chiết giá và bớt giá.
Chúng ta có các phương pháp sau:
- Chiết giá cho số lượng mua lớn
Đó là việc giảm giá cho những người mua mà khối lượng trong mỗi lần mua lớn
tính trong một thời gian nhất định. Mục đích là khuyến khích người mua gia tăng khối
lượng mỗi lần mua và mua nhiều lần ở một người bán.
- Chiết khấu chức năng (chiết khấu thương mại)
Chiết khấu chức năng là loại chiết giá người sản xuất áp dụng cho các thành viên
trong kênh phân phối. Phần chiết giá này phải bao gồm hai bộ phận: chi phí mà các thành
viên trong kênh phân phối phải bỏ ra để tiến hành các hoạt động phân phối hàng hóa theo
chức năng của họ và lãi.
- Chiết khấu thời vụ
Là việc giảm giá cho những khách hàng mua hàng hóa hoặc dịch vụ trái vụ. Loại
chiết khấu này cho phép người sản xuất duy trì mức sản xuất ổn định trong cả năm. Các
khách sạn, hãng hàng không, doanh nghiệp du lịch… thường áp dụng loại chiết khấu này
vào thời kỳ vắng khách.
- Chiết giá khuyến khích thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán nhanh.
Mục đích là khuyến khích khách hàng thanh toán ngay, giảm bớt chi phí thu hồi
nợ và nợ khó đòi ở người mua.
- Bớt giá
Đó là một dạng giảm giá bán so với biểu giá đã quy định. Nó được áp dụng vào
các trường hợp: bán lại hàng cũ, mua hàng mới; bớt giá để giải phóng hàng tồn kho;
thưởng cho những đại lý tham gia vào các chương trình hỗ trợ tiêu thụ…
e) Định giá khuyến mại
Định giá khuyến mại là hình thức điều chỉnh giá tạm thời, được thực hiện trong
một thời gian nhất định nhằm mục đích hỗ trợ các hoạt động xúc tiến bán.
Có một số hình thức định giá khuyến mại phổ biến như sau:
- Định giá lỗ để lôi kéo khách hàng. Ví dụ: các trung tâm điện máy mới mở
thường định giá lỗ để thu hút khách hàng và mong muốn sẽ có được khách hàng trung
thành trong tương lai.
- Định giá cho những đợt bán hàng đặc biệt. Ví dụ: vào đầu năm học mới các
doanh nghiệp văn phòng phẩm, máy tính thường giảm giá cho học sinh sinh viên.
- Giá trả góp: là hình thức tài trợ tài chính của người bán hàng cho khách hàng với
lãi xuất thấp. Khách hàng chỉ phải trả trước một khoản tiền và mỗi tháng sẽ thanh toán
một lượng tiền nhất định theo hợp đồng. Hiện nay, chúng ta có thể mua trả góp nhà, ô tô,
xe máy, máy tính, điện thoại,…
- Bán hàng theo phiếu mua hàng: Khi mua với số lượng lớn khách hàng sẽ được
tặng phiếu mua hàng và phiếu đó sẽ được sử dụng cho những lần mua tiếp theo.
f) Định giá phân biệt
Khi áp dụng giá phân biệt, doanh nghiệp sẽ bán những hàng hóa cùng loại với
những mức giá khác nhau cho các khách hàng khác nhau.
Một số hình thức phổ biến của giá phân biệt:
Định giá theo khách hàng. Mỗi loại khách hàng khác nhau sẽ áp dụng các mức giá
khác nhau. Ví dụ: sinh viên, học sinh đi xe bus sẽ được giảm giá.
Định giá theo địa điểm. Ví dụ: chỗ ngồi trong sân vận động, máy bay và khách
sạn.
Định giá theo hình ảnh. Ví dụ: người bán có thể đóng nước hoa cùng loại vào
những bao bì khác nhau mang những nhãn hiệu khác nhau để bán với giá khác nhau.
Định giá lúc cao điểm, thấp điểm: giá ở đây có sự thay đổi theo thời điểm trong
ngày, trong một tuần… Ví dụ: giá tiêu thụ điện phân biệt lúc cao điểm.
Điều kiện áp dụng định giá phân biệt:
- Thị trường có thể phân đoạn được và các đoạn thị trường đó phải có nhu cầu với
cường độ khác nhau.
- Những người mua hàng ở đoạn thị trường giá thấp không có khả năng bán lại
hafng hoá ở đoạn thị trường giá cao hơn để kiếm lời.
- Các đối thủ cạnh tranh không có khả năng bán hàng rẻ hơn ở các đoạn thị trường
giá cao.
- Chi phí cho phân đoạn thị trường và theo dõi giám sát thị trường không được
vượt quá số tiền thu them được do phân biệt giá.
- Việc định giá phân biệt không gây ra sự bất bình và khó chịu cho khách hàng.
- Các hình thức phân biệt giá cụ thể không được trái pháp luật.
Câu hỏi ôn tập
1. Nghịch lý trong nhận thức của người mua và người bán về giá là gì?
2. Hãy trình bày vai trò của chính sách giá đối với doanh nghiệp.
3. Hãy cho biết ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu đến các quyết định về giá của
một sản phẩm cụ thể.
4. Hãy trình bày các phương pháp định giá chủ yếu. Hãy cho biết phương pháp định
giá nào cho mức giá tối ưu?
5 Hãy nêu các chiến lược giá mà doanh nghiệp có thể áp dụng? Nêu ví dụ minh
họa?
Kênh A
Kênh D
Hình 8.1: Các kênh phân phối hàng tiêu dùng
Kênh A là kênh trực tiếp (kênh không cấp): người sản xuất bán hàng trực tiếp cho
người tiêu dùng, giữa sản xuất và tiêu dùng không có một khâu trung gian nào. Ví dụ, các
doanh nghiệp sử dụng lực lượng bán hàng tại nhà.
Kênh B thường gọi là kênh một cấp: hàng hoá từ người sản xuất được chuyển cho
người bán lẻ rồi mới đến người tiêu dùng. Loại kênh này thường được sử dụng khi nhà
bán lẻ có quy mô lớn có thể mua khối lượng lớn từ nhà sản xuất hoặc khi chi phí lưu kho
là quá đắt nếu phải sử dụng nhà bán buôn.
Kênh C thường gọi là kênh hai cấp: trong kênh có thêm nhà bán buôn. Kênh C
thường được sử dụng phổ biến cho các loại hàng hoá có giá trị thấp, chi phí thấp, được
mua thường xuyên bởi người tiêu dùng như bánh kẹo, thuốc lá, tạp chí...
Kênh D là kênh dài nhất còn gọi là kênh ba cấp: được sử dụng khi có nhiều nhà
sản xuất nhỏ và nhiều nhà bán lẻ nhỏ, một đại lý được sử dụng để giúp phối hợp cung cấp
sản phẩm với khối lượng lớn.
Ngoài ra còn có những kênh nhiều cấp hơn. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhà
sản xuất: kênh càng nhiều cấp càng ít có khả năng kiểm soát.
- Kênh phân phối cho hàng hoá và dịch vụ công nghiệp
Bốn kênh phân phối cho hàng hoá và dịch vụ công nghiệp được thể hiện trong
hình 8.2. Khác với kênh cho hàng hoá tiêu dùng, các kênh phân phối hàng công nghiệp
thường ngắn hơn và thường chỉ có một trung gian hoặc không có bởi vì những người sử
dụng công nghiệp ít về số lượng, tập trung về mặt địa lý và mua với số lượng lớn.
Kênh A là kênh trực tiếp. Các doanh nghiệp sử dụng kênh này duy trì lực lượng
bán hàng của chính họ và chịu trách nhiệm về tất cả các chức năng của kênh. Kiểu kênh
này được sử dụng khi người mua lớn và đã xác định rõ, các nỗ lực bán đòi hỏi đàm phán
mạnh mẽ, sản phẩm có giá trị đơn vị cao và yêu cầu trợ giúp lắp đặt hoặc hướng dẫn sử
dụng.
Trong kênh B, nhà phân phối công nghiệp thực hiện nhiều chức năng khác nhau
bao gồm bán, lưu kho, phân phối và tín dụng.
Kênh C giới thiệu thêm người trung gian thứ hai. Đó là đại lý, hoạt động như lực
lượng bán độc lập của nhà sản xuất và giới thiệu nhà sản xuất cho người sử dụng công
nghiệp.
Kênh D dài nhất bao gồm cả đại lý và nhà phân phối. Các đại lý sử dụng trong
kênh này để tiếp xúc với các nhà phân phối - người bán cho các nhà sử dụng công
nghiệp.
Kênh A
Người
Nhà Kênh B sử dụng
sản Người phân phối công nghiệp công
xuất nghiệp
Kênh C
Đại lý
Kênh D
Đại lý Người phân phối công nghiệp
Hình 8.2: Các kênh phân phối hàng tư liệu sản xuất
Trong nhiều trường hợp, nhà sản xuất sử dụng hai hay nhiều loại kênh khác nhau
cho cùng một sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của những người mua khác nhau. Khi đó, có
thể coi là các nhà sản xuất đang áp dụng chiến lược đa kênh. Chiến lược đa kênh thường
được sử dụng để đạt mức bao phủ thị trường nhanh chóng. Thông qua chiến lược đa
kênh, doanh nghiệp có thể sáng tạo nhiều con đường vươn tới thị trường mục tiêu, thoả
mãn nhu cầu nhiều người mua và tăng lượng bán. Tuy nhiên, chiến lược đa kênh cũng có
thể là nguyên nhân gây nên xung đột và mâu thuẫn trong kênh.
b) Bề rộng của kênh phân phối
Để đạt được sự bao phủ thị trường tốt nhất, doanh nghiệp phải quyết định số lượng
các trung gian ở mỗi cấp độ phân phối. Bề rộng của kênh phân phối được thể hiện ở
nhiều mức độ khác nhau như phân phối rộng khắp, phân phối chọn lọc và độc quyền
phân phối.
Phân phối rộng khắp có nghĩa là doanh nghiệp cố gắng đưa hàng hoá và dịch vụ
vào càng nhiều cửa hàng càng tốt. Khi người tiêu dùng đòi hỏi địa điểm bán hàng phải
hết sức thuận tiện, thì điều quan trọng là phải đảm bảo phân phối với cường độ lớn hơn.
Phân phối rộng khắp thường được áp dụng cho những hàng hoá thông dụng như thuốc là,
xăng dầu, xà bông, thực phẩm, đồ ăn vặt và kẹo gôm.
Phân phối chọn lọc đòi hỏi sử dụng nhiều nhưng không phải tất cả những người
trung gian sẵn sàng nhận bán sản phẩm. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp bán sản phẩm
qua một số trung gian thương mại được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định ở mỗi
cấp độ phân phối. Đây là hình thức phân phối phổ biến nhất và thường dùng cho các loại
hàng mua có suy nghĩ. Phân phối chọn lọc cho phép doanh nghiệp bao quát được thị
trường một cách thích đáng mà vẫn kiểm soát được nhiều hơn so với phân phối rộng
khắp.
Độc quyền phân phối đòi hỏi phải hạn chế nghiêm ngặt số người trung gian
thương mại kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Trên mỗi thị trường, doanh
nghiệp chỉ bán hàng hoá, dịch vụ qua một trung gian thương mại duy nhất. Việc này
thường đi đôi với bán hàng độc quyền, nghĩa là nhà sản xuất yêu cầu các trung gian
không được bán các nhãn hiệu cạnh tranh. Ngoài ra, độc quyền phân phối cũng đòi hỏi
một sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà sản xuất với các trung gian mà họ sử dụng. Độc quyền
phân phối có xu hướng đề cao hình ảnh của người sản xuất và cho phép tính phụ giá cao
hơn. Phương thức này được áp dụng trong trường hợp, người sản xuất muốn duy trì
quyền kiểm soát chặt chẽ chính sách của người trung gian về việc định giá bán, tín dụng,
quảng cáo và các dịch vụ khác.Vì vậy, kiểu phân phối này thường gặp trong các ngành xe
hơi, thiết bị và một số nhãn hiệu trang phục nữ.
8.2.2. Tổ chức và hoạt động của kênh
Các kênh phân phối không chỉ là sự tập hợp thụ động các tổ chức có liên quan với
nhau trong phân phối lưu thông sản phẩm dịch vụ mà chúng là những hệ thống hoạt động
phức tạp, trong đó những con người và doanh nghiệp tương tác lẫn nhau để đạt những
mục tiêu riêng của mình. Một số hệ thống kênh chỉ có những tương tác không chính thức,
giữa các doanh nghiệp kết nối lỏng lẻo, một số hệ thống lại có những tương tác chính
thức và sự kết nối chặt chẽ cao độ. Dưới đây sẽ xem xét các động lực cho hoạt động của
kênh và cách thức mà các thành viên trong kênh tổ chức để hoàn thành công việc trong
ba hệ thống kênh phân phối chính.
a) Kênh trao đổi đơn
Là những kiểu kênh được thiết lập một lần và thường là sự tiếp cận một phía từ
người mua hoặc người bán trong quan hệ mua bán một sản phẩm nào đó.
Ví dụ như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản (do tính chất giá trị và
tính chất lặp lại của thương vụ)
Các thành viên của kênh không có sự liên kết và quan hệ bền vững trong kênh.
Trung gian của kênh phân phối gắn liền với trung gian thực hiện các hợp đồng mua bán.
Loại kênh này bắt đầu tồn tại khi có hiện tượng người mua tiếp xúc người bán và sẽ kết
thúc khi hợp đồng kết thúc nghĩa là khi đã thanh toán xong. Người ta cũng thấy rằng
hiếm khi có sự lặp lại trong việc mua bán để tái thiết lập kênh trao đổi đơn tương tự.
Việc lựa chọn cấu trúc kênh này sẽ đảm bảo tính linh hoạt trong việc tổ chức phân
phối những mặt hàng riêng lẻ. Dó đó, làm giảm chi phí phân phối, trung gian lưu thông
ngắn, quản lý kênh đơn giản. Tuy nhiên, nếu nhà sản xuất yêu cầu phân phối trên phạm vi
rộng hoặc muốn thiết lập các mối liên hệ lâu dài, có tính chất truyền thống trong kênh
phân phối thì cấu trúc này tỏ ra không phù hợp.
b) Kênh thông thường
Là một nhóm các tổ chức độc lập liên kết theo hàng dọc với nhau tham gia vào
hoạt động trao đổi hàng hoá nhằm đưa hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng.
Đây là loại kênh rất phổ biến trong nền kinh tế đang phát triển và chậm phát triển.
Các tổ chức tham gia vào kênh chỉ cố gắng chú ý tới lợi ích của bản thân và ít
quan tâm đến lợi ích của toàn bộ kênh. Sự ràng buộc giữa các thành viên kênh là không
chính thức và các thành viên ít gắn chặt với nhau. Việc mua bán không có sự ràng buộc
lâu dài và không có quan hệ dài hạn và đôi bên cùng có lợi. Vì vậy, cấu trúc này dễ bị
phá vỡ do có sự thay đổi thường xuyên của các cá nhân và tổ chức. Các thành viên này
không chấp nhận sự phụ thuộc đầy đủ vào một cá nhân tổ chức khác để có thể duy trì
được sự linh hoạt cần thiết khi thay đổi các điều kiện phân phối.
Với những đặc điểm trên, cấu trúc kênh này chỉ thích hợp với một trình độ phân
phối tương đối thấp, không cần có sự hỗ trợ hoặc sự liên kết đầy đủ giữa các bên. Do đó,
nó phù hợp với các nền kinh tế chưa phát triển và thường được các nhà sản xuất nhỏ áp
dụng với lý do là phí tổn không lớn. Tuy nhiên, loại kênh này bị hạn chế về khả năng đáp
ứng những nhu cầu lớn, tập trung và thường xuyên. Đặc biệt là nó tiềm ẩn những nguy cơ
và rủi ro dẫn đến sự phá sản của một hệ thống phân phối khi có sự xung đột giữa các tổ
chức và các cá nhân, mà không được giải quyết một cách triệt để. Hiện nay, các doanh
nghiệp đã phát triển các kênh mới để thực hiện các chức năng của kênh hiệu quả hơn và
đạt thành công lớn hơn. Đó là các hệ thống kênh liên kết dọc.
c) Các kênh liên kết dọc (VMS - Vertical Marketing System)
Những hệ thống marketing dọc thường giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực bán lẻ và
là nhân tố chủ yếu trong lĩnh vực phân phối các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp hoặc
cho khối kinh doanh. Ở các nước phát triển, các kênh VMS chiếm tới 64% thị trường
hàng tiêu dùng.
Hệ thống marketing dọc là những mạng luôn được quản lý một cách chuyên
nghiệp và được lập kế hoạch một cách tập trung được xây dựng nhằm đạt được lợi thế
kinh tế theo quy mô trong hoạt động và tối đa hoá tác động của thị trường.
Hay cũng có thể hiểu, hệ thống marketing dọc là một mạng luôn được hợp lý hoá
và đầu tư cao về vốn, được thiết kế để đạt được lợi thế kinh tế theo quy mô, về kỹ thuật,
quản lý và xúc tiến thông qua nhất thể hoá, phối hợp và đồng bộ hoá các dòng vận động
marketing từ điểm sản xuất đến điểm sử dụng cuối cùng.
Kết quả kinh doanh của kênh phân phối dọc thường là cao hơn các kênh truyền
thống nếu mạng lưới kênh được thiết kế và quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên các doanh nghiệp
tham gia vào kênh phải có một số nhượng bộ. Trong kênh thường có các quy định phải
tuân thủ, việc kiểm soát được thực hiện theo nhiều cách khác nhau và thường ít linh hoạt
hơn so với các thành viên kênh. Hơn nữa, một số yêu cầu của toàn bộ hệ thống marketing
đó có thể không phải là mối quan tâm lớn nhất của một thành viên. Và bên cạnh đó, cạnh
tranh với VMS là một thách thức chủ yếu. Cạnh tranh thường gay gắt và nếu không có
các lợi thế đặc biệt thì kết quả tài chính của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng.
Trong kênh VMS luôn tồn tại cả những yếu tố liên kết và sự xung đột tiềm tàng
trong kênh. Nó có thể là yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kênh.
Các kiểu kênh liên kết dọc thường được cụ thể hoá ở những mức độ phụ thuộc lẫn
nhau giữa các thành viên trong kênh và phù hợp với những điều kiện phân phối cụ thể
khác nhau. Các kênh liên kết dọc bao gồm:
i. Kênh liên kết dọc được quản lý
Đây là kiểu kênh tương đối độc lập, là dạng kênh liên kết có mức độ phụ thuộc và
sự liên hệ giữa các thành viên kênh ở mức độ thấp nhất. Trong đó có một thành viên kênh
có những cơ sở sức mạnh tự nhiên, vốn có giữ vai trò lãnh đạo các thành viên khác. Vì
việc theo đuổi những lợi ích mà các thành viên này tự nguyện liên kết và chấp nhận sự
lãnh đạo của các thành viên khác. Ví dụ như hệ thống phân phối hoa quả, nông sản, gia
cầm, gia súc qua chợ đầu mối. Các chủ lớn thường gom hàng ở chợ Đồng Xuân, Bắc
Qua… Nó không tồn tại dưới dạng một tổ chức, không có văn bản giao quyền sở hữu.
Thông thường, nhà quản trị kênh là nhà sản xuất và dòng sản phẩm của nó chỉ ra
bao nhiêu phần của dòng sản phẩm chảy trong kênh. Chẳng hạn như, những nhà sản xuất
một nhãn hiệu thịnh hành có đủ khả năng đảm bảo sự hợp tác và ủng hộ mạnh mẽ từ
những người buôn bán trung gian như Kodak, Procter & Gamble có đủ khả năng đạt
được sự hợp tác khác thường với những người buôn bán trung gian mặt hàng của mình
trong việc trưng bày, dành mặt bằng buôn bán, khuyến mãi và chính sách giá.
Mặc dù vậy, vai trò lãnh đạo hay điều khiển kênh thường không tồn tại tuyệt đối.
Nó có thể bị thay đổi khi những cơ sở sức mạnh của mỗi thành viên có sự thay đổi. Vì
vậy, một doanh nghiệp quản lý kênh không phải lúc nào cũng là nhà sản xuất. Wal – Mart
là một ví dụ. Nó có thể có những ảnh hưởng đáng kể đối với những nhà cung cấp của nó.
Ưu điểm cơ bản của kênh VMS được quản lý là đảm bảo tính linh hoạt cao trong
việc thích ứng với những biến đổi của thị trường do các thành viên có khả năng thay đổi
những điều kiện hoặc điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ kênh. Nó cũng giúp cho hệ
thống kênh có sự ổn định lâu dài dựa trên những cam kết được tôn trọng và uy tín của
mỗi bên (không được hình thành một các tự nhiên và nhanh chóng). Vì tính ưu việt này
mà hệ thống kênh phân phối này rất phổ biến ở Việt Nam.
Tuy nhiên, kênh liên kết được quản lý không có sự ràng buộc chặt chẽ nên có thể
không đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo những mức tiêu thụ sản phẩm hoặc chia sẻ
những thiệt hại giữa các thành viên kênh. Điều này làm ảnh hưởng đến tính kế hoạch của
các chiến lược phân phối của doanh nghiệp. Vì vậy, nó là cơ sở cho sự phát triển của các
dạng kênh tiếp theo.
ii. Kênh liên kết hợp đồng
Đây là loại kênh phát triển hơn về khả năng, tính liên hệ, sự phụ thuộc, khả năng
giải quyết vấn đề.
Kênh liên kết hợp đồng là loại kênh liên kết dọc mà sự liên kết giữa các thành viên
độc lập trong kênh được ràng buộc bởi các văn bản, hợp đồng chính thức. Có thể là hợp
đồng phân phối ngắn, dài hạn. Hợp đồng phân phối được thiết lập dựa trên cơ sở ràng
buộc giữa hai bên để đạt được mức tiết kiệm hay tiêu thụ lớn hơn so với khả năng họ có
thể đạt được khi hoạt động riêng lẻ. Johston va Lawrence đã gọi nó là “quan hệ cộng tác
gia tăng giá trị”
VMS hợp đồng có thể được cụ thể bằng ba kiểu sau:
- Hợp tác xã bán lẻ
Là một thực thể kinh doanh, được tập hợp bởi những nhà bán lẻ, làm chức năng
bán buôn hay cả sản xuất, điều phối các hoạt động quảng cáo, định giá, tiêu thụ.
Lợi nhuận được chia cho các xã viên (là những người bán lẻ) theo tỷ lệ với khối
lượng hàng hoá họ đã mua. Còn những người bán lẻ khác không phải là xã viên cũng có
thể mua hàng thông qua hợp tác xã nhưng không được chia lợi nhuận. Hình thức này
tương đối linh hoạt, tổ chức tự nguyện nhưng liên kết không chặt chẽ.
- Chuỗi tình nguyện
Thường được thiết lập khi một số các nhà bán lẻ liên kết với nhau dưới sự bảo trợ
của người bán buôn.
Khi đó, người bán buôn chịu trách nhiệm về những công việc như tìm kiếm các
nguồn hàng, phân bố kế hoạch tiêu thụ hoặc hỗ trợ về tài chính. Nhờ đó đảm bảo tiết
kiệm trong mua hàng, tạo khả năng cạnh tranh có hiệu quả với những tổ chức lớn hơn.
Loại hình này phổ biến trong ngành hàng thực phẩm.
- Tổ chức đặc quyền: Franchise
Là hình thức phát triển cao hơn trong liên kết hợp đồng. Nó được đặc trưng bởi
một bên là người có chủ quyền sở hữu về hàng hoá - dịch vụ, bí quyết, công nghệ, nhãn
mác, kinh nghiệm quản lý, quan hệ và uy tín trên thị trường… ký hợp đồng với một bên
là các doanh nghiệp, là những người nhận quyền cam kết bán những sản phẩm – dịch vụ
theo những ràng buộc về số lượng, khu vực địa lý, khách hàng…(như cam kết không bán
hàng của đối thủ cạnh tranh hoặc mở rộng khu vực bán). Việc cấp đặc quyền là một bước
phát triển bán lẻ nhanh nhất và được quan tâm nhất trong thời gian gần đây. Có thể phân
ra ba hình thức cấp đặc quyền:
Thứ nhất là hệ thống đặc quyền bán lẻ được người sản xuất bảo trợ, rất phổ biến
trong ngành chế tạo ô tô. Ví dụ Ford cấp giấy phép bán ô tô của mình cho các đại lý. Các
đại lý là người kinh doanh độc lập đồng ý chấp nhận các điều kiện khác nhau về tiêu thụ
và dịch vụ.
Thứ hai là hệ thống đặc quyền bán buôn được nhà sản xuất bảo trợ, phổ biến trong
ngành nước ngọt. Ví dụ Coca Cola cấp giấy phép buôn bán cho những người đóng chai
(bán buôn) trên các thị trường khác nhau để những người này mua của họ nước cốt đem
về nạp ga, đóng chai rồi bán cho những người bán lẻ trên thị trường địa phương.
Thứ ba là hệ thống đặc quyền bán lẻ được doanh nghiệp dịch vụ bảo trợ. ở đây
một doanh nghiệp dịch vụ đứng ra tổ chức toàn bộ hệ thống để đưa ra dịch vụ của mình
đến người tiêu dùng một cách có hiệu quả. Ví dụ như McDonald’s hay Buger King trong
ngành dịch vụ thức ăn nhanh.
Khi thị trường có sự đột biến theo chiều hướng xấu thì sự bảo trợ của nhà sản xuất
là rất lớn vì bị thiệt hại nhiều nhất trong trường hợp này chỉ là lợi ích bị gắn chặt với một
sản phẩm nào đó. Vì vậy, tổ chức đặc quyên thường thích hợp với những hàng hoá nổi
tiếng, những hãng kinh doanh mạnh hoặc có sức mạnh chi phối thị trường ở mức độ nào
đó.
Tóm lại, kênh liên kết hợp đồng có ưu thế là tạo ra sự ràng buộc và giải quyết các
tranh chấp giữa các bên tham gia bằng một hệ thống các hợp đồng với các điều khoản cụ
thể, đồng thời đáp ứng được cả yêu cầu thiết lập có tính kế hoạch và sự quản lý trong
phân phối. Mặt khác, các điều khoản này dễ dàng được điều chỉnh hoặc thay đổi dựa trên
việc kiểm tra, xem xét định kỳ. Tuy nhiên, dạng kênh này lại đòi hỏi một trình độ quản lý
tốt.
iii. Kênh tập đoàn
Là kiểu kênh liên kết dọc trong đó tất cả các thành viên kênh đều thuộc về một cơ
cấu tổ chức nội bộ hay nó là sự phát triển tiếp tục theo chiều dọc từ sản xuất đến bán
buôn, bán lẻ khi các nhà sản xuất mở rộng quyền sở hữu của nó.
Ví dụ như các Tổng doanh nghiệp Điện lực, Bưu chính viễn thông, nước sạch,
Petrolimex, bảo hiểm… đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Kênh tập đoàn trong hệ thống các kênh liên kết dọc khi được quản lý tốt có thể
đảm bảo tính hiệu quả do dựa trên sự phân công lao động một cách hợp lý và có thể tiết
kiệm chi phí. Ngược lại, dạng kênh này cũng phát sinh tiêu cực ảnh hưởng đến hãng.
Những hạn chế rất căn bản là tạo nên siêu độc quyền từ sản xuất đến phân phối và nó có
thể trở thành một cơ cấu cồng kềnh kém năng động khi được mở rộng quá mức và được
quản lý kém. Trong một trường hợp sự thay đổi về các cấu trúc phân phối của kênh tập
đoàn rất hạn chế.
Các kiểu cấu trúc kênh trên được thể hiện ở hình 8.3.
Kênh marketing
9.1.4. Ưu điểm và hạn chế của một số phương tiện quảng cáo
Dưới đây là ưu nhược điểm của một số phương tiện quảng cáo mà các doanh
nghiệp cần lưu ý khi sử dụng các phương tiện này:
Dễ sử dụng, kịp thời, tầm ảnh Tính chất tái hiện kém,
Báo và tạp chí hưởng rộng, có hình ảnh và chữ một số người không đọc
viết, độ tin cậy cao, có thể lưu lại trang quảng cáo, tuổi thọ
bằng văn bản. ngắn.
Hình ảnh và âm thanh sống động, Chi phí cao, một số nơi
Truyền hình tầm ảnh hưởng rộng, tần số lớn, chất lượng sóng còn kém,
tác động mạnh. khán giả không thích xem
quảng cáo.
Đài phát thanh Bao phủ rộng, chi phí thấp, Chỉ có âm thanh không có
hình ảnh, nhiều người ít
nghe đài, tiếp xúc thoáng
qua.
Gửi thư trực Có thể lựa chọn những đối tượng Những thư hồi âm không
tiếp để gửi thư, trực tiếp với người điển hình
nhận thư, giá rẻ, có thể gửi thư đến
các vùng xa xôi, hẻo lánh.
Ngoài trời Tần suất lặp lại cao đối với những Không lựa chọn được
người thường xuyên qua lại, gây công chúng hạn chế,
ấn tượng, ít cạnh tranh. không có tác dụng với
những người không qua
lại nơi đặt panô- áp phích,
chịu tác động của thời
tiết.
Quảng cáo tại Tác động trực tiếp tới những Khách hàng vốn đã bị dội
điểm bán khách hàng có nhu cầu mua hàng, bom quảng cáo rất dễ dị
ứng khi bị các phim
quảng cáo “đeo bám” đến
tận nơi mua hàng
Thư trực tiếp Dễ sử dụng, độc giả chọn lọc, Tạo cảm giác ít giá trị
mang tính riêng tư, ít bị cạnh tranh