Professional Documents
Culture Documents
MỤC TIÊU
- Giúp sinh viên hiểu được các khái niệm cơ bản của marketing trong kinh doanh
hiện đại
- Phân biệt được các quan điểm quản trị marketing
- Nắm được tiến trình quản trị marketing được tiếp cận như một tiến trình sáng tạo
và cung ứng giá trị cho khách hàng.
NỘI DUNG:
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA MARKETING
1.1.1. Marketing là gì?
Nếu trước đây người ta cho rằng marketing là làm sao quảng cáo tốt để bán
được hàng thì ngày nay điều mà các nhà làm marketing quan tâm là làm thế nào để
hiểu rõ khách hàng, hiểu rõ nhu cầu của họ, từ đó phát triển những sản phẩm mang lại
cho khách hàng những giá trị vượt trội với mức giá hợp lý, phân phối và cổ động một
cách hiệu quả, thì việc bán những sản phẩm đó không có vấn đề gì khó khăn. Do vậy, rõ
ràng là bán hàng và quảng cáo chỉ là một phần của phối thức marketing rộng lớn, một
tập hợp các công cụ phối hợp với nhau nhằm ảnh hưởng thị trường.
Vì vậy marketing được hiểu là “một tiến trình xã hội và quản lý theo đó các cá
nhân và các nhóm có được cái mà họ mong muốn thông qua việc tạo ra, trao đổi
những sản phẩm có giá trị với những người khác”.
Khái niệm marketing này đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu một số khái niệm có
liên quan dưới đây để làm rõ khái niệm này.
1.1.2. Nhu cầu cấp thiết, mong muốn, nhu cầu
1.1.2.1. Nhu cầu cấp thiết (needs)
Nhu cầu cấp thiết của con người là trạng thái thiếu hụt một cái gì đó mà con
người cảm nhận được, cần được đáp ứng bởi một hàng hóa hay dịch vụ nào đó.
Nhu cầu cấp thiết là vốn có đối với con người, rất đa dạng và phức tạp. Nó
bao gồm cả những nhu cầu sinh lý cơ bản về ăn, mặc, sưởi ấm và an toàn tính mạng
lẫn những nhu cầu xã hội như sự thân thiết gần gũi, uy tín và tình cảm cũng như các
nhu cầu cá nhân về tri thức và tự thể hiện mình. Nhu cầu cấp thiết là những phần cấu
thành nguyên thủy của bản tính con người, không phải do xã hội hay người làm
mketing tạo ra. Vì vậy Marketing chỉ phát hiện ra các nhu cầu cấp thiết của con
người chứ không tạo ra nó. Tuy nhiên, người làm marketing nhận thức về nhu cầu thị
trường, khách hàng không chỉ dừng lại ở nhu cầu cấp thiết. Để tạo ra được sản phẩm
thích ứng với nhu cầu thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh
doanh của công ty, người ta phải tìm hiểu khía cạnh thứ hai của nhu cầu thị trường đó
là mong muốn.
MỤC TIÊU
- Nhận diện các vấn đề chính trong hoạch định chiến lược
- Phân tích được tiến trình hoạch định chiến lược cấp công ty và cấp đơn vị kinh doanh
chiến lược
- Biết được cách thức lập một kế hoạch marketing
- Nghiên cứu các nội dung phân tích cạnh tranh cần thiết để đối mặt với bối cảnh cạnh
tranh ngày càng phức tạp
- Thiết kế hệ thống tình báo cạnh tranh để thu thập các thông tin cạnh tranh cần thiết
- Phân biệt được các vị thế cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh của từng vị thế đó.
NỘI DUNG:
2.1. HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC MARKETING
2.1.1. Tổng quan về hoạch định và chiến lược
2.1.1.1. Khái quát về hoạch định và chiến lược
Ngày nay, hoạch định là một chức năng căn bản và đầu tiên của nhà quản trị và
là tiến trình trong đó nhà quản trị xác định và lựa chọn mục tiêu của tổ chức và vạch ra
các hành động cần thiết nhằm đạt được mục tiêu.
A.D Chandler đã xem chiến lược bao gồm việc xác định các mục tiêu, mục đích
cơ bản dài hạn của tổ chức và thiết lập một chuỗi các hành động cũng như sự phân bổ
các nguồn lực cần thiết để thực hiện các mục tiêu đó. Trong khi đó thì Johnson và
Scholes quan niệm: Chiến lược là định hướng và phạm vi của một tổ chức về dài hạn
nhằm giành lợi thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua việc định dạng các nguồn lực của
nó trong môi trường thay đổi, để đáp ứng nhu cầu thị trường và thỏa mãn mong đợi của
các bên hữu quan.
Mục đích chung của hoạch định chiến lược là ứng phó một cách hữu hiệu với
những cơ hội và rủi ro của môi trường trong mối liên hệ với các các nguồn lực, khả
năng và năng lực cốt lõi của tổ chức.
2.1.1.2. Các cấp hoạch định
Trong các công ty lớn được tổ chức phức tạp, thông thường các kế hoạch được
xây dựng ở ba cấp sau: cấp công ty, cấp đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU) và cấp
chức năng trong mỗi SBU.
SBU cần thỏa mãn những tiêu chuẩn sau:
- Có sứ mệnh kinh doanh riêng
- Độc lập với các SBU khác
- Có các đối thủ cạnh tranh cụ thể trên thị trường
- Có khả năng tiến hành việc thống nhất các tiến trình hoạch định với các SBU phụ
10%
Bò
Con Chó
5 4 sữa
0%
0,1X 1X 10X
b. Phương pháp tiếp cận cận của Công ty General Electric (GE)
Theo công ty General Electric (GE), nếu chỉ căn cứ vào vị trí của các SBU trên
ma trận tăng trưởng-thị phần thì khó có thể xác định được mục tiêu phù hợp cho các
SBU đó. Vì thế GE áp dụng mô hình xác định danh mục đầu tư đa yếu tố, cụ thể là tập
1. Xác định phạm vi quyết định của chiến lược công ty, chiến lược các SBU của một
tập đoàn/ công ty mà bạn biết?
2. Các quyết định marketing cấp độ chiến lược giải quyết những vấn đề gì?
3. Tại sao cần xây dựng chiến lược marketing, kế hoạch marketing?
4. Vì sao khi xây dựng chiến lược marketing, doanh nghiệp cần phân tích đối thủ
cạnh tranh?
5. Những cách thức mở rộng thị trường của người dẫn đạo thị trường?
6. Các giải pháp bảo vệ thị phần của người dẫn đạo thị trường?
7. Vì sao những người thách thức thị trường lựa chọn các chiến lược tấn công đối
thủ? Những chiến lược tấn công nào có thể được sử dụng để thách thức đối thủ
cạnh tranh?
8. Thế nào là một chỗ trống thị trường lý tưởng? Những định hướng để chuyên môn
hóa hoạt động của những người lấp chỗ trống thị trường?
Thử nghiệm
Xác định
nhu cầu
Ghi chép Tình báo Thị trường
Phân tích thông tin
Marketing nội bộ Marketing
Hệ thống
Nghiên cứu Kênh
Hoạch Phân phối Phân tích Marketing Marketing
định thông tin thông tin
Đối thủ
Hình 3.1. Hệ thống thông tin marketing
Thực hiện
cạnh tranh
Công chúng
Trước hết, hệ thống sẽ tương tác với những người sử dụng thông tin để đánh giá
nhu cầu thông tin, tiếp theo sẽ phát triển thông tin cần thiết từ các nguồn nội bộ, tình
báo marketing và nghiên cứu marketing, sau đó giúp người sử dụng phân tích thông tin
để có thông tin đúng kiểu hỗ trợ ra quyết định. Cuối cùng, hệ thống thông tin
marketing phân phối thông tin marketing và giúp các nhà quản lý sử dụng chúng khi ra
quyết định.
3.1.1. Đánh giá nhu cầu thông tin marketing
Một hệ thống thông tin tốt cân đối giữa những thông tin mà người sử dụng
mong muốn và những thông tin họ thật sự cần và những gì mà công ty có thể cung ứng
được. Công ty bắt đầu bằng việc phỏng vấn các nhà quản trị tìm ra những thông tin mà
họ cần. Một số nhà quản trị sẽ hỏi bất cứ thông tin gì mà họ có thể có mà không cần
suy nghĩ cẩn thận về những gì họ thật sự cần. Hệ thống thông tin phải kiểm soát môi
trường marketing nhằm cung cấp cho các nhà ra quyết định những thông tin mà họ
phải có để có những quyết định marketing quan trọng.
Đôi khi công ty không thể cung cấp các thông tin cần thiết, có thể bởi vì nó
không có sẵn hoặc vì các hạn chế của hệ thống thông tin. Công ty cần phải quyết định
lợi ích của việc có thêm thông tin có bù đắp được chi phí có được chúng và thường thì
cả hai tiêu chí chi phí và giá trị rất khó đánh giá.
3.1.2. Phát triển thông tin marketing
3.1.2.1. Thông tin nội bộ
Nhiều công ty xây dựng cơ sở dữ liệu rộng rãi, thông tin trong cơ sở dữ liệu có
thể đến từ nhiều nguồn. Bộ phận kế toán chuẩn bị các báo cáo tài chính và nắm kết quả
bán hàng, chi phí và ngân quỹ chi tiết. Các báo cáo sản xuất, giao hàng, lưu kho. Báo
cáo của bộ phận bán hàng về các phản ứng của các nhà phân phối và các hoạt động
của đối thủ cạnh tranh. Bộ phận marketing cung cấp các thông tin về các biến số nhân
khẩu học, tâm lý, hành vi của khách hàng. Bộ phận dịch vụ khách hàng nắm các số
liệu về sự thỏa mãn của khách hàng và các vấn đề về dịch vụ…
Cơ sở dữ liệu nội bộ thường có thể truy cập nhanh hơn và rẻ hơn so với các
nguồn thông tin khác, nhưng nó cũng có một số hạn chế vì thông tin nội bộ được thu
thập cho các mục đích khác, nó có thể không đúng loại thông tin cho các quyết định
marketing.
3.1.2.2. Tình báo marketing
Hệ thống tình báo marketing là tập hợp những cách thức và những nguồn cung
cấp dữ liệu mà những người quản trị marketing sử dụng để có được những thông tin
cần thiết về diễn biến thường ngày của môi trường marketing.
Các nguồn thông tin tình báo marketing mà những người quản trị marketing
thường sử dụng là: sách báo, các ấn phẩm thương mại, trao đổi với khách hàng, những
người cung ứng, những nhà phân phối, những người quản trị khác và các nhân viên
của doanh nghiệp.
Phát hiện Xây dựng Thu thập Phân tích Báo cáo
vấn đề và kế hoạch dữ liệu dữ liệu kết quả
mục tiêu nghiên nghiên
nghiên cứu cứu
cứu
1. Vai trò của hệ thống thông tin marketing trong việc đề ra các quyết định
marketing của doanh nghiệp?
2. Những thông tin nào về khách hàng và đối thủ cạnh tranh mà doanh nghiệp cần
phải nghiên cứu?
3. Tại sao nói xác định vấn đề nghiên cứu là bước khó khăn và quan trọng nhất
trong tiến trình nghiên cứu marketing?
4. Tại sao khi xây dựng kế hoạch nghiên cứu marketing, người ta xác định phương
pháp nghiên cứu trước khi lựa chọn các công cụ nghiên cứu?
5. Môi trường marketing là gì? Vì sao doanh nghiệp cần phân tích môi trường
marketing đối với hoạt động kinh doanh của mình?
6. Vì sao người làm marketing phải phân tích môi trường dân số học (nhân khẩu
học). Những xu hướng chủ yếu nào trong môi trường dân số ảnh hưởng đến sự
lựa chọn chính sách marketing của doanh nghiệp?
7. Nghiên cứu môi trường văn hóa có ý nghĩa gì đối với doanh nghiệp?
MỤC TIÊU
- Giới thiệu mô hành hành vi tiêu dùng
- Xác định các biến số văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý tác động như thế nào
đến hành vi người tiêu dùng.
- Mô tả tiến trình ra quyết định mua hàng.
- Tìm hiểu bản chất của thị trường tổ chức và phân biệt nó với thị trường tiêu
dùng.
- Nghiên cứu hành vi mua hàng của các tổ chức
- Xác định các tình huống mua hàng của khách hàng tổ chức.
- Xác định những thành phần tham gia vào tiến trình mua của khách hàng tổ chức
cũng như các yếu tố tác động đến tiến trình mua.
- Hiểu khách hàng tổ chức ra quyết định mua như thế nào.
NỘI DUNG
4.1. THỊ TRƯỜNG TIÊU DÙNG VÀ HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG
4.1.1. Mô hình hành vi tiêu dùng
Hành vi mua của người tiêu dùng là toàn bộ hành động mà người tiêu dùng bộc
lộ trong quá trình trao đổi sản phẩm. Đó là cách thức mà người tiêu dùng sẽ thực hiện
để đưa ra các quyết định sử dụng tài sản của mình, liên quan đến việc mua sắm và sử
dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân.
Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu xem
khách hàng mua và sử dụng hàng hoá như thế nào. Trên cơ sở nhận thức rõ được hành
vi của người tiêu dùng, doanh nghiệp sẽ có căn cứ chắc chắn để trả lời các vấn đề liên
quan tới các chiến lược Marketing cần vạch ra. Đó là các vấn đề như sau: Ai là người
mua hàng? Họ mua các hàng hoá, dịch vụ gì? Mục đích mua các hàng hoá, dịch vụ
đó? Họ mua như thế nào? Mua khi nào? Mua ở đâu?
Trong mô hình hành vi mua của người tiêu dùng (hình 4.1), các yếu tố
marketing (sản phẩm, giá, phân phân phối, cổ động ) và các tác nhân khác (kinh tế,
khoa học kỹ thuật, chính trị, văn hóa) tác động vào “hộp đen” của người mua, tức là
tác động vào những đặc điểm (văn hóa, xã hội, cá nhân, tâm lý) cũng như tiến trình
quyết định của người mua, ở đây chúng gây ra những đáp ứng cần thiết từ phía người
mua và kết quả là đưa đến một quyết định mua sắm nhất định (loại sản phẩm, nhãn
hiệu, số lượng, lúc mua và nơi mua).
Hình 4.1: Mô hình về hành vi mua của người tiêu dùng (NTD)
4.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng hành vi mua của người tiêu dùng
Việc mua sắm của người tiêu dùng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố:
văn hóa, xã hội, cá nhân, tâm lý. Những yếu tố này được trình bày trong hình 4.2
Hình 4.2: Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng
Sự khác biệt lớn giữa các nhãn hiệu Ít sự khác biệt giữa các nhãn
hiệu
Quan tâm nhiều Hành vi mua phức tạp Hành vi mua có sự hối tiếc
Quan tâm ít Hành vi mua tìm kiếm sự đa dạng Hành vi mua theo thói quen
Hình 4.3 : Tiến trình quyết định mua hàng của người tiêu dùng
4.1.4.1. Nhận biết nhu cầu:
Đây là bước đầu tiên. Nhu cầu phát sinh do các yếu tố kích thích từ bên trong
cũng như từ bên ngoài. Con người có các nhu cầu tiềm ẩn nhất định. Các nhu cầu
tiềm ẩn đó sẽ bị kích thích bởi các yếu tố bên ngoài. Khi nhu cầu chưa cao thì các kích
thích Marketing là rất quan trọng (quảng cáo hấp đẫn, trưng bày sản phẩm, mời dùng
thử sản phẩm, khuyến mãi…). Cách bán hàng kiểu siêu thị có tác dụng rất mạnh kích
thích nhu cầu.
Để kích thích người tiêu dùng nhanh nhận thức được vấn đề, doanh nghiệp cần
phát hiện những hoàn cảnh thường đẩy con người đến chỗ ý thức vấn đề, doanh
nghiệp phải hiểu:
- Những nhu cầu nào đã và đang phát sinh?
- Môi trường nào, hoàn cảnh nào làm người ta ý thức được vấn đề?
- Cái gì đẩy nhanh người tiêu dùng ý thức được vấn đề?
4.1.4.2. Tìm kiếm thông tin
Khi nhu cầu thôi thúc thì con người tìm kiếm thông tin để đáp ứng nhu cầu.
Nhu cầu càng cấp bách, thông tin ban đầu càng ít, sản phẩm cần mua có giá trị càng
lớn thì càng thôi thúc con người tìm kiếm thông tin. Một người mua một căn hộ sẽ
tìm kiếm thông tin vất vả hơn so với mua một bộ váy công sở.
Các nguồn thông tin cơ bản:
- Nguồn thông tin kinh nghiệm: thông qua tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm.
- Nguồn thông tin cá nhân: từ bạn bè, gia đình, hàng xóm, đồng nghiệp…
- Nguồn thông tin thương mại: qua quảng cáo, hội chợ, triển lãm, người bán
hàng…
Nguồn thông tin nào có tác động mạnh? Điều này còn tuỳ thuộc vào loại sản
phẩm, vào đặc tính của khách hàng. Người cẩn thận thường không tin vào quảng cáo,
Hình 4.4 : Kết quả của việc tìm kiếm thông tin và đánh giá
Doanh nghiệp cần phải biết được là khách hàng đánh giá các phương án như
thế nào? Họ dùng tiêu chuẩn gì để lựa chọn? Để hiểu rõ việc đánh giá của khách
hàng như thế nào, chúng ta cần tìm hiểu chi tiết các vấn đề sau đây: Các thuộc tính
của sản phẩm mà khách hàng quan tâm; mức độ quan trọng của các thuộc tính đối
với khách hàng; niềm tin của khách hàng đối với các nhãn hiệu.
- Thuộc tính của sản phẩm:
Khách hàng thường xem một sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính nhất định.
Các thuộc tính này phản ánh các lợi ích khác nhau của sản phẩm mang lại cho người
sử dụng. Đó là các đặc tính về kỹ thuật, đặc tính về tâm lý, về giá cả, về các dịch vụ
Thái độ của những người khác có thể làm giảm lựa chọn của khách hàng, phụ
thuộc vào mức độ tiêu cực của thái độ của người đó đối với lựa chọn của khách hàng,
và động cơ của khách hàng trong việc tuân theo mong muốn của người đó.
Các nhân tố tình huống có thể làm thay đổi ý định mua hàng. Người tiêu dùng
hình thành ý định mua dựa trên những yếu tố như ngân sách của mình, mức giá và lợi
ích của sản phẩm. Khi sắp đi mua, yếu tố hoàn cảnh bất ngờ thay đổi làm cho họ thay
đổi ý định mua, ví dụ do có nhu cầu cấp bách hơn xuất hiện.
4.1.4.5. Hành vi sau khi mua
Sau khi mua xong khách hàng sử dụng sản phẩm và có các đánh giá về sản
Số thứ tự Các khả năng có thể Tâm trạng của khách hàng
1 Mong đợi > Cảm nhận Không hài lòng
2 Mong đợi = Cảm nhận Hài lòng
3 Mong đợi < Cảm nhận Vui sướng
Khi khách hàng hài lòng, họ sẽ chia sẻ tâm trạng hưng phấn đó cho nhiều người
khác. Như vậy, có thể nói khách hàng hài lòng là người quảng cáo miễn phí và hiệu
quả nhất cho chúng ta. Ngược lại khi họ không hài lòng, họ cũng sẽ “chia buồn” với
nhiều người khác. Điều này làm cho công ty có nguy cơ mất thêm nhiều khách hàng.
4.2. THỊ TRƯỜNG TỔ CHỨC VÀ HÀNH VI KHÁCH HÀNG TỔ CHỨC
4.2.1. Các đặc điểm của thị trường tổ chức
So với thị trường tiêu dùng, thị trường tổ chức có những điểm khác biệt sau:
- Số lượng người mua ít hơn
- Người mua lớn hơn
- Mối quan hệ giữa khách hàng – nhà cung cấp chặt chẽ
- Khách hàng tập trung về mặt địa lý
- Nhu cầu phái sinh
- Nhu cầu ít co dãn
- Nhu cầu biến động
- Mua hàng chuyên nghiệp
- Thường mua hàng trực tiếp.
1. Quyết định mua một chiếc điện thoại của bạn có bị tác động bởi nhóm tham
khảo hay không? Các nhóm này bao gồm những ai? Họ ảnh hưởng thế nào đến
quyết định mua điện thoại của bạn?
2. Lấy bốn loại sản phẩm cụ thể để minh họa cho các dạng hành vi mua.
3. Phân tích tiến trình mua hàng gần đây nhất của anh chị mà trải qua các bước
như trong bài học đã đề cập. Những người làm marketing tác động vào tiến
trình này như thế nào?
4. Trình bày những điểm khác biệt chủ yếu của thị trường tổ chức so với thị
trường tiêu dùng?
5. Phân tích những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của tổ
chức?
6. Phân tích mối quan hệ giữa các giai đoạn của tiến trình quyết định mua hàng
của tổ chức?
NỘI DUNG
5.1. ĐO LƯỜNG VÀ DỰ BÁO NHU CẦU
Đo lường và dự báo nhu cầu là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nghiên
cứu marketing.Nó không những phục vụ cho chức năng quản trị marketing, mà mọi
hoạt động kinh doanh đều dựa trên những tiên đoán về quy mô, xu hướng biến đổi về
cầu thị trường như: lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch sản xuất, kế hoạch nhân sự,
kế hoạch tài chính…
5.1.1. Những khái niệm chính trong đo lường và dự báo nhu cầu
- Tổng cầu thị trường
Tổng cầu thị trường về một loại sản phẩm là tổng khối lượng sản phẩm mà một
nhóm khách hàng nhất định sẽ mua tại một địa bàn nhất định, trong một khoảng thời
gian nhất định với một môi trường marketing và một chương trình marketing nhất
định.
- Cầu của doanh nghiệp
Cầu của doanh nghiệp là phần cầu của thị trường thuộc về doanh nghiệp, được
xác định theo công thức:
Qi = Si.Q
Với: Qi: Cầu của doanh nghiệp i
Si: Thị phần của doanh nghiệp i
Q: Tổng cầu thị trường
- Tiềm năng tiêu thụ của doanh nghiệp
Tiềm năng tiêu thụ của doanh nghiệp là giới hạn tiệm cận của cầu doanh nghiệp
khi nỗ lực marketing tăng lên tương đối so với đối thủ cạnh tranh.
- Dự báo cầu của doanh nghiệp
Dự báo cầu của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp dự báo mức tiêu thụ của
mình căn cứ vào kế hoạch marketing đã chọn và môi trường marketing được giải định.
5.1.2. Đo lường nhu cầu thị trường hiện tại
5.1.2.1. Ước lượng tổng nhu cầu thị trường
Tổng nhu cầu thị trường được xác định theo công thức sau:
Hình 5.1. Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michel Porter
- Mối đe dọa của sự cạnh tranh gay gắt trong phân đoạn thị trường
Một phân đoạn thị trường sẽ không hấp dẫn nếu có nhiều đối thủ cạnh tranh
mạnh tấn công, hoặc đối thủ đã đầu tư quá nhiều vào đó, đặc biệt khi thị trường đang
suy giảm sức mua mà doanh nghiệp đã đầu tư năng lực sản xuất quá nhiều làm chi phí
cố định tăng cao.
- Mối đe dọa của những người xâm nhập mới
Một phân đoạn thị trường sẽ không được coi là hấp dẫn nếu nó có thể thu hút
những đối thủ cạnh tranh mới có khả năng và nguồn lực mạnh để tăng thị phần.
- Mối đe dọa về những sản phẩm thay thế
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 91
Khi trong một phân đoạn thị trường đang có những sản phẩm thay thế hay có
khả năng xuất hiện những sản phẩm thay thế mới thì phân đoạn kém hấp dẫn.
- Mối đe dọa từ phía người mua
Một phân đoạn sẽ không hấp dẫn nếu những người mua có nhiều ưu thế trong
thương lượng để yêu cầu được giảm giá hay đòi hỏi chất lượng và dịch vụ cao hơn.
- Mối đe dọa từ phía nhà cung cấp
Những nhà cung cấp có thể gây sức ép trong thương lượng để nâng giá hay giảm
chất lượng các sản phẩm cung ứng, đặc biệt khi sản phẩm là đầu vào quan trọng, có ít
sản phẩm thay thế, hay chi phí chuyển đổi cao.
c. Mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp:
Mục tiêu và khả năng cuả doanh nghiệp cũng là các yếu tố cần xem xét để đánh
giá độ hấp dẫn của một đoạn thị trường. Nếu đoạn thị trường không phù hợp với khả
năng và mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp thì cũng bị loại. Nếu một đoạn thị trường
dù phù hợp với mục tiêu doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không đủ khả năng thì
cũng bị loại bỏ. Do vậy, cần xem xét cả năng lực quản lý, tài chính, nhân lực, công
nghệ… của doanh nghiệp xem có phù hợp với thị trường dự kiến hay không.
5.3.2. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Thị trường mục tiêu bao gồm các khách hàng có cùng nhu cầu hoặc mong muốn
mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng, đồng thời các hoạt động marketing của doanh
nghiệp có thể tạo ra ưu thế so với đối thủ cạnh tranh và đạt được các mục tiêu kinh
doanh đã định. Thị trường mục tiêu chính là những đoạn thị trường hấp dẫn mà doanh
nghiệp quyết định lựa chọn để tập trung nỗ lực marketing của mình.
Các phương án lựa chọn thị trường mục tiêu:
Doanh nghiệp có thể quyết định lựa chọn thị trường mục tiêu trên cơ sở 5 phương
án sau:
a. Tập trung vào một phân đoạn thị trường
Đây là trường hợp doanh nghiệp chọn phục vụ một phân đoạn thị trường duy
nhất do khả năng hạn chế của mình. Thay vì theo đuổi một phần nhỏ trong một thị
trường lớn, doanh nghiệp tìm cách đạt được một phần lớn trong một thị trường nhỏ
hơn. Thông qua marketing tập trung, doanh nghiệp có thể giành được một vị trí vững
chắc trong phân đoạn thị trường đã chọn nhờ sự am hiểu hơn về nhu cầu của phân
đoạn thị trường này và tiết kiệm được chi phí hoạt động do chuyên môn hóa sản xuất,
phân phối và khuyến mãi.
Tuy nhiên, marketing tập trung có thể gặp những rủi ro lớn hơn bình thường,
khi khách hàng đột ngột thay đổi thị hiếu, hay xuất hiện những đối thủ cạnh tranh có
tiềm lực mạnh thâm nhập vào phân đoạn thị trường này. Vì thế nên nhiều doanh nghiệp
có xu hướng đa dạng hoá hoạt động của mình vào vài ba phân đoạn thị trường hơn là
chỉ giới hạn trong một phân đoạn duy nhất.
b. Chuyên môn hóa có chọn lọc
1. Vì sao ngày nay trong thực hành marketing, các doanh nghiệp cần tiến hành
phân đoạn thị trường?
2. Hãy thảo luận các tiêu chuẩn của phân đoạn thị trường thành công.
3. Các cơ sở của phân đoạn thị trường tiêu dùng và thị trường tổ chức
4. Phân tích các lực lượng quyết định mức độ hấp dẫn của một phân đoạn thị
trường?
5. Phân tích những cách thức lựa chọn thị trường mục tiêu?
MỤC TIÊU
- Nghiên cứu bản chất của chiến lược khác biệt hóa và vai trò của khác biệt hóa
trong marketing
- Xác định khái niệm định vị và tái định vị
- Thảo luận cách thức khai thác các sự khác biệt để tạ ra các lợi thế cạnh tranh và
cách tiếp cận định vị
- Thảo luận các chiến lược xây dựng thương hiệu
NỘI DUNG
6.1. NHỮNG NỀN TẢNG TẠO SỰ KHÁC BIỆT
6.1.1. Sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh
6.1.1.1. Những đặc trưng của lợi thế cạnh tranh
- Lợi thế phải tạo ra giá trị cho khách hàng: Có nghĩa là nó phải cải thiện một số
đặc điểm hoặc thỏa đáng trên một vài phương diện của sản phẩm hoặc cung cấp
dịch vụ cấu thành giá trị cho khách hàng.
- Tăng giá trị phải được nhận biết bởi khách hàng: Nếu sản phẩm của doanh
nghiệp tốt hơn của đối thủ cạnh tranh nhưng khách hàng không thể nhận rõ
được điểm khác biệt này thì đó không phải là lợi thế cạnh tranh.
- Lợi thế phải khó bắt chước: Một lợi thế cạnh tranh thành công của một sản
phẩm sẽ lôi kéo nhiều người khác bắt chước, chạy theo nếu có thể. Một lợi thế
cạnh tranh sẽ bền vững hơn khi nó khó có thể bắt chước nhờ vào những đòi hỏi
về tài sản và kỹ năng duy nhất của tổ chức mới có thể tạo ra lợi thế đó.
6.1.1.2. Phát triển lợi thế cạnh tranh dựa trên sự khác biệt
Có ba cách tiếp cận để phát triển lợi thế cạnh tranh
- Lợi thế cạnh tranh dựa trên giá và chi phí thấp
Có hai cách để đạt được lợi thế cạnh tranh về chi phí thấp trong một ngành.
Trước hết là trở thành một nhà sản xuất lớn và có được lợi thế từ tính kinh tế theo qui
mô. Một khi sản lượng tăng lên thì chi phí cố định đơn vị sẽ thấp điều này cho phép
chi phí đơn vị sản phẩm thấp. Cách thứ hai là đường cong kinh nghiệm. Chi phí sẽ
giảm khi sản xuất nhiều hoặc cung ứng nhiều dịch vụ và qua quan sát một vài năm
đầu trong chu kỳ sống sản phẩm, việc tiếp tục giảm chi phí là có thể dự đoán được.
Hiện tượng đường cong kinh nghiệm đã quan sát được trong nhiều ngành.
- Lợi thế cạnh tranh dựa trên chất lượng khác biệt của sản phẩm.
Cách tiếp cận thứ hai để sáng tạo lợi thế cạnh tranh là phát triển sự khác biệt có
thể quan sát được và được khách hàng mục tiêu đánh giá cao. Cách tiếp cận này khác
biệt so với cách tiếp cận dựa trên chi phí thấp bởi vì thường gắn liền với chi phí cao
hơn nhưng cũng cho phép mức giá cao hơn và thường là lợi nhuận cũng cao hơn.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 100
- Nhu cầu, mong muốn của khách hàng thay đổi dẫn đến hình ảnh định vị cũ
không còn phù hợp
- Hình ảnh định vị của đối thủ cạnh tranh rõ nét và hiệu quả hơn hoặc hình ảnh
định vị của doanh nghiệp không khác biệt với thương hiệu cạnh tranh, nay cần
làm cho khách hàng nhận rõ sự khác biệt
- Khi hình ảnh định vị thương hiệu của doanh nghiệp không tốt trong nhận thức
của khách hàng mục tiêu.
Để tái định vị thương hiệu chắc chắn cần nỗ lực lớn và kiên trì của doanh
nghiệp, bởi vì thay đổi nhận thức và tình cảm đã có thường khó khăn hơn việc tạo lập
nhận thức và tình cảm ban đầu cho thương hiệu. Vì vậy các doanh nghiệp cần lựa chọn
chiến lược định vị cẩn thận và thực hiện nhất quán chiến lược định vị đã chọn để
không rơi vào trường hợp phải thay đổi hình ảnh thương hiệu bất đắc dĩ.
6.4. XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU MẠNH
Theo hiệp hội marketing Mỹ, thương hiệu được định nghĩa là: một cái tên, một
từ để gọi, một dấu hiệu, biểu tượng, hình dáng hay là sự kết hợp giữa chúng để nhận biết
dấu hiệu hàng hóa dịch vụ của một hay một nhóm nhà cung cấp và phân biệt với hàng
hóa dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.
Một số nhà phân tích nhìn nhận thương hiệu như là một tài sản bền vững quan
trọng của công ty, tồn tại lâu hơn một sản phẩm hoặc một tài sản nào khác của công ty.
Do vậy, thương hiệu là tài sản quan trọng cần phát triển và quản lý cẩn thận. Trong
phần này chúng ta xem xét những chiến lược quan trọng trong việc xây dựng và quản trị
thương hiệu.
6.4.1. Giá trị thương hiệu
Thương hiệu hàm ý nhiều hơn một tên gọi và biểu tượng. thương hiệu thể hiện
cảm nhận và nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm và năng lực của nó - là tất cả
những gì mà sản phẩm hoặc dịch vụ gợi lên nơi người tiêu dùng.
Một thương hiệu mạnh có giá trị thương hiệu cao. Giá trị thương hiệu là hiệu
quả khác biệt tích cực mà việc biết tên hiệu tạo ra nơi người tiêu dùng khi họ đáp ứng
các dịch vụ hoặc sản phẩm. Nó là thước đo khả năng của thương hiệu trong nắm bắt sở
thích và lòng trung thành từ người tiêu dùng. Một thương hiệu có giá trị thương hiệu
dương khi người tiêu dùng có thái độ yêu thích nó hơn so với một phiên bản chung
chung hoặc không có thương hiệu của cùng sản phẩm. Giá trị thương hiệu là âm nếu
người tiêu dùng có thái độ kém ưa chuộng so với phiên bản không có thương hiệu.
Thương hiệu với giá trị thương hiệu cao là một tài sản rất có giá trị. Đánh giá
thương hiệu là một tiến trình đánh giá tổng giá trị tài chính của một thương hiệu. Đo
lường giá trị này là rất khó khăn.
Giá trị thương hiệu cao đem lại cho công ty nhiều lợi thế cạnh tranh. Một thương
hiệu mạnh sẽ có được sự nhận biết và sự trung thành với thương hiệu của người tiêu
dùng cao hơn. Trên tất cả, thương hiệu mạnh cung ứng cho công ty một số công cụ
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 101
phòng vệ sự cạnh tranh về giá khốc liệt của các đối thủ.
Tuy nhiên, tài sản nền tảng đằng sau giá trị thương hiệu là tài sản khách hàng -
tức là những giá trị của mối quan hệ khách hàng mà thương hiệu tạo ra. Một thương
hiệu mạnh là quan trọng, nhưng những gì nó thật sự thể hiện là tập hợp những khách
hàng trung thành. Do vậy, trọng tâm thật sự của marketing là xây dựng tài sản khách
hàng, và quản trị thương hiệu được xem là công cụ marketing quan trọng.
6.4.2. Xây dựng thương hiệu mạnh
Xây dựng thương hiệu tạo ra một số quyết định mang tính thách thức đối với
người làm marketing. Hình 6.1 chỉ ra một số quyết định chiến lược về thương hiệu,
bao gồm định vị thương hiệu, lựa chọn tên thương hiệu, người tài trợ thương hiệu và
phát triển thương hiệu.
Định vị Lựa chọn tên Tài trợ thương hiệu Phát triển thương
thương hiệu thương hiệu - Thương hiệu nhà hiệu
- Thuộc tính - Lựa chọn sản xuất - Mở rộng dòng SP
- Lợi ích - Bảo vệ - Thương hiệu riêng - Mở rộng thương
- Niềm tin và - Nhượng quyền hiệu
giá trị - Đồng thương hiệu - Đa thương hiệu
- Thương hiệu mới
Hình 6.1. Quyết định chiến lược về thương hiệu
6.4.2.1. Định vị thương hiệu
Những người làm marketing cần phải định vị thương hiệu của mình một cách rõ
ràng trong tâm trí của khách hàng mục tiêu. Họ có thể định vị các thương hiệu của
mình theo ba cấp độ khác nhau.
- Ở cấp độ thấp nhất, họ có thể định vị thương hiệu của mình dựa trên những
đặc tính của sản phẩm. Tuy nhiên, những đặc tính là cấp độ định vị ít được yêu thích
nhất trong việc định vị thương hiệu. Các đối thủ cạnh tranh có thể dễ dàng bắt chước
những đặc tính này. Ngoài ra còn quan trọng hơn, khách hàng không quan tâm nhiều
đến các đặc tính như vậy, họ quan tâm đến những gì mà những đặc tính này đem lại.
- Thương hiệu có thể được định vị một cách tốt hơn bằng cách gắn tên thương
hiệu với những lợi ích mà khách hàng mong muốn.
- Những thương hiệu mạnh nhất đi xa hơn định vị trên lợi ích hoặc đặc tính.
Chúng được định vị dựa trên niềm tin và những giá trị mạnh mẽ. Những thương hiệu
này gợi lên những chấn động tình cảm.
Khi định vị một thương hiệu, người làm marketing phải thiết lập một sứ mệnh
cho thương hiệu và một tầm nhìn theo đó thương hiệu phải xứng đáng và phải làm
được. Và một thương hiệu là sự cam kết của công ty trong việc chuyển tải một tập hợp
cụ thể các đặc tính, lợi ích, dịch vụ và kinh nghiệm phù hợp với người mua.
6.4.2.2. Lựa chọn tên thương hiệu
Một tên thương hiệu tốt có thể gia tăng một cách ngoạn mục cho sự thành công
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 102
của sản phẩm. Tuy nhiên, việc tìm ra một cái tên thương hiệu tốt là một nhiệm vụ khó
khăn. Việc này bắt đầu với một sự xem xét cẩn thận sản phẩm và các lợi ích của nó, thị
trường mục tiêu và các chiến lược marketing đang sử dụng. Sau đó, đặt tên cho thương
hiệu là kết hợp một phần từ khoa học, một phần nghệ thuật và chút ít trực giác.
Chất lượng cần có của một tên thương hiệu tốt bao gồm những yếu tố sau: (1)
nó phải gợi lên điều gì đó về lợi ích và chất lượng của sản phẩm. (2) nó phải dễ phát
âm, nhận biết và nhớ. (3) tên thương hiệu phải khác biệt. (4) nó phải có thể mở rộng
(5) tên phải dễ dàng dịch sang một ngôn ngữ nước ngoài. (6) nó phải có thể đăng ký và
được pháp luật bảo vệ. Một tên thương hiệu không thể đăng ký nếu nó xâm phạm tên
thương hiệu hiện có.
Một khi đã được lựa chọn, tên thương hiệu phải được bảo vệ. Nhiều công ty cố
gắng xây dựng một tên thương hiệu có thể trở nên dùng để xác định loại sản phẩm.
6.4.2.3. Người tài trợ (người đứng tên) thương hiệu
Một nhà sản xuất có bốn lựa chọn tài trợ khác nhau. Sản phẩm có thể được tung
ra với thương hiệu của người sản xuất, hoặc nhà sản xuất có thể bán cho những người
bán lại và người bán lại sẽ đặt cho những sản phẩm đó một thương hiệu riêng, (còn
được gọi là thương hiệu của nhà phân phối). Mặc dù hầu hết các nhà sản xuất đều tạo ra
tên thương hiệu riêng cho mình, một số nhà sản xuất lại tung ra những thương hiệu được
nhượng quyền. Cuối cùng, hai công ty có thể liên kết nguồn lực với nhau và cùng đứng
tên cho sản phẩm (đồng thương hiệu)
a. Thương hiệu của nhà sản xuất so với thương hiệu riêng.
Thương hiệu của nhà sản xuất đã thống trị trong một thời gian rất dài trên diễn
đàn bán lẻ. Trong thời gian gần đây, với sự gia tăng về số lượng người bán lẻ và người
bán sỉ, họ đã tạo ra thương hiệu riêng của mình (hoặc thương hiệu của nhà phân phối).
Những thương hiệu riêng có thể khó khăn trong việc thiết lập và tốn kém trong việc
tồn kho và cổ động. Tuy nhiên, chúng cũng có thể đem lại lợi nhuận biên cao hơn cho
người bán lại. Và chúng đem lại cho người bán lại những sản phẩm độc quyền mà
khách hàng không thể mua ở đối thủ cạnh tranh, tạo ra sự trung thành lớn hơn đối với
cửa hàng.
Trong cuộc chiến giữa thương hiệu riêng và thương hiệu của nhà sản xuất,
người bán lẻ có nhiều lợi thế. Họ kiểm soát hàng hóa tồn kho, việc đặt hàng lên các giá
hàng và những sản phẩm ưu tiên đặt lên giá hàng trung tâm. Các nhà bán lẻ định giá
các thương hiệu riêng của họ thấp hơn so với các sản phẩm mang nhãn hiệu nhà sản
xuất, do vậy dễ thu hút sự quan tâm của khách hàng, đặc biệt trong những thời điểm
khó khăn của nền kinh tế. Và hầu hết những người đi mua sắm tin rằng các thương
hiệu riêng thường được sản xuất bởi một trong những nhà sản xuất lớn nhất.
b. Nhượng quyền
Hầu hết các nhà sản xuất phải tốn nhiều năm và chi tiêu hàng tỉ đôla để tạo ra
thương hiệu riêng cho mình. Tuy nhiên, một số công ty nhượng tên thương hiệu hoặc
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 103
biểu tượng cho các nhà sản xuất khác. Với một khoản chi phí nhất định, ngay lập tức
họ có thể cung cấp một tên thương hiệu đã được công nhận.
Việc nhượng quyền thương hiệu và biểu tượng đã tăng trưởng một cách nhanh
chóng trong những năm gần đây. Loại nhượng quyền tăng trưởng nhanh nhất là
nhượng quyền thương hiệu của công ty, khi nhiều và ngày càng nhiều các tổ chức lợi
nhuận và phi lợi nhuận nhượng tên hiệu của mình để kiếm thêm thu nhập và sự biết
đến thương hiệu.
c. Đồng thương hiệu
Đồng thương hiệu xảy ra khi hai doanh nghiệp khác nhau sử dụng chung tên
thương hiệu đã được thiết lập cho cùng loại sản phẩm.
Đồng tài trợ thương hiệu tạo ra nhiều lợi thế. Vì mỗi thương hiệu thống trị trong
một lĩnh vực khác nhau, thương hiệu kết hợp tạo ra sự hấp dẫn và giá trị thương hiệu
lớn hơn đối với khách hàng. Đồng tài trợ thương hiệu cũng cho phép công ty mở rộng
thương hiệu hiện tại của mình sang một chủng loại hàng hóa mà nếu nó một mình đứng
ra thì sẽ khó khăn hơn rất nhiều.
Đồng tài trợ thương hiệu cũng có một số hạn chế. Những mối quan hệ như vậy
thường liên quan đến những hợp đồng pháp luật và nhượng quyền phức tạp. Các đối
tác đồng tài trợ thương hiệu phải phối hợp một cách thận trọng quảng cáo của họ,
khuyến mãi và những nỗ lực marketing khác. Cuối cùng, khi đồng tài trợ thương hiệu,
mỗi đối tác phải tin tưởng lẫn nhau mới chăm sóc cẩn thận cho thương hiệu của mình.
6.4.2.4. Phát triển thương hiệu
Công ty có bốn lựa chọn khi họ phát triển thương hiệu. Công ty có thể mở rộng
dòng (tên thương hiệu đã có mở rộng cho hình thức sản phẩm mới, kích cỡ mới và mùi
vị mới trên cơ sở sản phẩm hiện tại), mở rộng thương hiệu (những thương hiệu hiện tại
được mở rộng cho những loại sản phẩm mới), đa thương hiệu (tên thương hiệu mới cho
cùng loại sản phẩm), hoặc thương hiệu mới (thương hiệu mới cho loại sản phẩm mới).
a. Mở rộng dòng
Mở rộng dòng xuất hiện khi một công ty tung ra thêm một số mặt hàng mới của
loại sản phẩm hiện tại với cùng một tên thương hiệu, như với mùi vị mới, kích cỡ mới,
hình thức mới, thành phần mới hoặc kích cỡ bao bì mới. Hầu hết tất cả các hoạt động
tung sản phẩm mới đều là mở rộng dòng.
Công ty có thể đưa ra chiến lược mở rộng dòng sản phẩm vì đây là cách thức
có chi phí thấp hơn, rủi ro ít hơn để đưa ra những sản phẩm mới. Hoặc nó có thể muốn
đáp ứng mong muốn về sự đa dạng của khách hàng, hoặc muốn sử dụng nguồn lực dư
thừa, hoặc đơn giản để yêu cầu nhiều không gian hơn trên gian hàng của người bán lại.
Tuy nhiên, mở rộng dòng có thể có một số rủi ro. Một thương hiệu được mở rộng quá
có thể đánh mất ý nghĩa đặc biệt của nó, hoặc những thương hiệu được mở rộng mạnh
mẽ có thể khiến khách hàng nhầm lẫn và thất vọng.
Một rủi ro khác là việc bán những sản phẩm mở rộng như vậy có thể ảnh hưởng
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 104
đến các mặt hàng khác trong dòng sản phẩm. Mở rộng dòng có thể hiệu quả khi nó
cạnh tranh với việc bán các thương hiệu cạnh tranh, không phải khi nó tự cạnh tranh với
các mặt hàng của công ty.
b. Mở rộng thương hiệu
Mở rộng thương hiệu là việc sử dụng thương hiệu thành công để tung ra một
sản phẩm mới hoặc một sản phẩm được đổi mới, cải tiến trong một chủng loại sản
phẩm mới.
c. Đa thương hiệu
Các công ty thường tung ra những thương hiệu khác cho cùng loại sản phẩm.. Đa
thương hiệu cung cấp một cách thức để thiết lập các đặc điểm hấp dẫn khác nhau đối
với các khách hàng có động cơ khác nhau. Nó cũng cho phép công ty chiếm nhiều
không gian trong cửa hàng của người bán lại hơn. Hoặc công ty có thể muốn bảo vệ
thương hiệu quan trọng của mình bằng cách đưa ra những thương hiệu bảo vệ sườn và
thương hiệu tấn công.
Điều trở ngại quan trọng của đa thương hiệu là là mỗi thương hiệu có thể chỉ
chiếm một thị phần nhỏ, và không có thương hiệu nào sinh lợi nhiều. Công ty cũng kết
thúc việc dàn trải nguồn lực của mình cho nhiều thương hiệu, thay vào đó xây dựng
một vài thương hiệu với mức sinh lợi cao hơn. Những công ty này nên giảm số lượng
thương hiệu mà họ sử dụng cho một loại sản phẩm và thiết lập một qui trình bảo vệ
vững chắc hơn cho những thương hiệu mới.
d. Thương hiệu mới
Một công ty cũng có thể tạo ra một tên thương hiệu mới khi nó tham gia vào
một loại sản phẩm mới theo đó không có thương hiệu nào hiện tại của công ty phù hợp
hoặc công ty có thể tin rằng sức mạnh của thương hiệu hiện tại đang xuống sắc và
thương hiệu mới là cần thiết.
Khi với đa thương hiệu, việc cung cấp quá nhiều thương hiệu mới có thể khiến
công ty dàn trải nguồn lực của mình quá mỏng. Và trong một số ngành, như hàng hóa
tiêu dùng, người tiêu dùng và người bán lẻ sẽ quan tâm liệu đã có quá nhiều thương hiệu
và lại có quá ít sự khác biệt giữa các thương hiệu này hay không..
6.4.3. Quản trị thương hiệu
Các công ty phải quản trị một cách cẩn trọng các thương hiệu của mình. Trước
hết, định vị thương hiệu phải được truyền thông một cách liên tục với khách hàng.
Những nhà làm marketing cho các thương hiệu quan trọng thường chi tiêu một ngân
sách lớn để quảng cáo nhằm tạo ra sự biết đến thương hiệu và nhằm xây dựng sự yêu
thích và sự trung thành đối với thương hiệu.
Những chiến dịch quảng cáo như vậy có thể giúp tạo ra sự nhận biết thương
hiệu, sự hiểu biết về thương hiệu và thậm chí có thể là sự yêu thích thương hiệu. Tuy
nhiên, việc các thương hiệu không được duy trì bằng quảng cáo mà phải bằng trải
nghiệm, kinh nghiệm của thương hiệu. Ngày nay, khách hàng biết về thương hiệu
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 105
thông qua nhiều dịp tiếp xúc và các điểm gặp gỡ trực tiếp. Những dịp này bao gồm cả
quảng cáo, nhưng còn có những trải nghiệm cá nhân với thương hiệu, truyền miệng,
tương tác cá nhân với nhân viên công ty, tương tác qua điện thoại, trang web của công
ty và nhiều phương tiện khác. Và những kinh nghiệm này có thể có một tác động tích
cực hoặc tiêu cực lên nhận thức và cảm nhận về thương hiệu. Công ty phải quan tâm
nhiều đến việc quản trị những dịp tiếp xúc này như họ đã làm đối với quảng cáo.
Việc định vị thương hiệu sẽ không được duy trì một cách hoàn toàn trừ khi tất cả
mọi người trong công ty thực hiện thương hiệu. Tuy nhiên công ty cần phải đào tạo
nhân viên của mình để họ luôn hướng vào khách hàng, vì khách hàng. Thậm chí sẽ tốt
hơn, nếu công ty xây dựng sự kiêu hãnh nơi nhân viên của mình đối với sản phẩm và
dịch vụ của công ty, từ đó sự nhiệt tình của họ sẽ được lan truyền đến khách hàng. Các
công ty có thể quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu nội bộ nhằm giúp các nhân
viên hiểu, mong muốn và truyền bá những cam kết về thương hiệu. Nhiều công ty
thậm chí đi xa hơn bằng cách đào tạo và khuyến khích các nhà phân phối và các nhà
môi giới của mình cũng tham gia phục vụ khách hàng tốt hơn.
Tất cả những điều này gợi ý rằng quản trị tài sản thương hiệu của công ty
không còn là nhiệm vụ của chỉ những nhà quản trị thương hiệu. Các nhà quản trị
thương hiệu không đủ sức và phạm vị để làm tất cả những gì cần thiết để xây dựng và
củng cố thương hiệu của mình. Hơn nữa, các nhà quản trị thương hiệu thường theo
đuổi các kết quả ngắn hạn, trong khi việc quản trị thương hiệu như một tài sản đòi hỏi
một chiến lược mang tính dài hạn. Do vậy, một số công ty giờ đây đã thành lập một
nhóm quản trị tài sản thương hiệu để quản trị những thương hiệu quan trọng của mình.
Cuối cùng, các công ty cần phải kiểm tra một cách định kỳ những điểm mạnh và
điểm yếu của các thương hiệu của mình. Họ phải đặt ra những câu hỏi: Liệu rằng
thương hiệu của mình cung cấp đúng những lợi ích mà khách hàng thật sự mong muốn?
Liệu thương hiệu có được định vị một cách đúng đắn? Liệu rằng tất cả các tiếp xúc của
khách hàng có hỗ trợ việc định vị thương hiệu không? Liệu thương hiệu có nhận được
những hỗ trợ cần thiết và phù hợp?
Đánh giá thương hiệu có thể dẫn đến kết cục là phải định vị lại thương hiệu, vì
sở thích của khách hàng đã thay đổi hoặc xuất hiện những đối thủ cạnh tranh mới. Một
số trường hợp có thể cần đến một chiến lược xây dựng thương hiệu lại một cách hoàn
toàn cho sản phẩm, dịch vụ hoặc công ty. Làn sóng gần đây về sự liên minh và mua lại
của các tập đoàn đã làm dấy lên phong trào xây dựng lại thương hiệu công ty.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 106
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy giải thích tại sao phải định vị và công ty triển khai chiến lược định vị như
thế nào?
2. Sự khác biệt của sản phẩm có thể được tạo ra từ những nguồn nào?
3. Hãy chọn một loại sản phẩm và chọn ít nhất ba nhãn hiệu khác nhau và thử xác
định chiến lược định vị của chúng. Định vị này được truyền thông như thế nào đến
công chúng mục tiêu?
4. Hãy trình bày các cách tiếp cận định vị?
5. Giá trị thương hiệu được xây dựng như thế nào? Hãy chọn một thương hiệu lớn
và thử phân tích những yếu tố cấu thành giá trị thương hiệu đó?
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 107
CHƯƠNG 7: QUẢN TRỊ SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ
MỤC TIÊU
- Phát triển nhận thức tổng hợp về sản phẩm, dịch vụ và phối thức sản phẩm
- Nắm được các quyết định liên quan đến sản phẩm như thiết kế, bao gói, dán
nhãn và các dịch vụ hỗ trợ
- Thảo luận các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm và ảnh hưởng của nó đến
các quyết định marketing mix
- Quản trị chất lượng dịch vụ
NỘI DUNG
7.1. KHÁI NIỆM VỀ SẢN PHẨM VÀ PHỐI THỨC SẢN PHẨM
7.1.1. Khái niệm sản phẩm
Theo quan niê ̣m truyề n thố ng, sản phẩ m là tổ ng hơ ̣p các đă ̣c tiń h vâ ̣t lý, hóa ho ̣c
đươ ̣c tâ ̣p hơ ̣p trong mô ̣t hiǹ h thức đồ ng nhấ t, là vâ ̣t mang giá tri ̣ sử du ̣ng. Quan niê ̣m
này chủ yế u nói đế n giá tri ̣ sử du ̣ng của những vâ ̣t tồ n ta ̣i hữu hiǹ h. Người tiêu dùng
không chỉ mua vì những đă ̣c tiń h lơ ̣i ić h cố t lõi của sản phẩ m đó.
Theo quan niệm marketing, sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem ra thị trường
để thu hút sự chú ý, mua sắm, sử dụng, có thể thỏa mãn một nhu cầu hay mong muốn
nào đó.
Theo quan điểm này, sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng vật chất hoặc phi vật
chất, bao gồm hàng hóa, dịch vụ, ý tưởng, con người, địa điểm, tổ chức, có thể thỏa
mãn một hay nhiều nhu cầu của thị trường ở một thời điểm cụ thể.
7.1.2. Cấu trúc của sản phẩm
Một sản phẩm được cấu thành ở 5 mức độ, mỗi cấ p đô ̣ tăng thêm giá tri ̣ cho
khách hàng.
- Lớp lõi sản phẩm (lợi ích cố t lõi):
Đây là cấ p đô ̣ cơ bản nhấ t, cấ p đô ̣ này đề câ ̣p câu hỏi: Khách hàng thật sự mua
cái gì? Bản chấ t của sản phẩ m là mô ̣t giải pháp cho mô ̣t nhu cầ u nào đó của khách
hàng, vì thế người làm marketing cầ n xác đinh ̣ lơ ̣i ić h mà khách hàng tìm kiế m ở sản
phẩ m.
Mỗi khách hàng, nhóm khách hàng khác nhau sẽ có những nhu cầ u khác nhau
gắ n với những lơ ̣i ích khác nhau, nó chin ́ h là cơ sở cho viê ̣c ra quyế t đinh
̣ liên quan
đế n sản phẩ m. Nhà quản tri ̣ marketing phải nghiên cứu tìm hiể u khách hàng để phát
hiê ̣n ra những đòi hỏi về các khiá ca ̣nh khác nhau tiề m ẩ n trong nhu cầ u của ho ̣.
Lơ ̣i ić h cố t lõi là lý do mà khách hàng mua sản phẩ m, người ta không mua mô ̣t
chiế c máy khoan mà là mua lỗ khoan, phu ̣ nữ không chỉ mua son mà còn là niề m hy
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 108
vo ̣ng, khi mua kem đánh răng khách hàng không chỉ mua khả năng làm sa ̣ch răng
miê ̣ng, mà còn khả năng bảo vê ̣ men răng, chố ng sâu răng, cho hơi thở thơm tho,…
- Sản phẩ m cơ bản
Ở cấ p đô ̣ này, các nhà hoa ̣ch đinh
̣ sản phẩ m phải chuyể n những lơ ̣i ích cố t lõi
thành sản phẩ m cu ̣ thể , phải xây dựng những đă ̣c tính chung và căn bản nhấ t của sản
phẩ m, trở thành mô ̣t giải pháp cho nhu cầ u.
- Sản phẩ m mong đợi:
Để có thể ca ̣nh tranh và tồ n ta ̣i đươ ̣c, nhà kinh doanh cầ n ta ̣o ra mô ̣t sản phẩ m
mong đơ ̣i, nghiã là phải tâ ̣p hơ ̣p những thuô ̣c tin ́ h và điề u kiê ̣n mà người mua thường
mong đơ ̣i khi ho ̣ chấ p nhâ ̣n mua sản phẩ m đó. Ở cấ p đô ̣ này, nhà làm marketing phải
phát triể n các đă ̣c tính sản phẩ m và dicḥ vu ̣ tương đố i hoàn chỉnh cho viê ̣c mua và sử
du ̣ng sản phẩ m: các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bên ngoài,
nhãn hiệu, tên nhãn hiệu, bao bì. Thông qua các yếu tố này công ty có thể giúp
khách hàng phân biệt được sản phẩm của mình với sản phẩm cạnh tranh. Khách hàng
cũng căn cứ vào các yếu tố của cấp độ này để lựa chọn trong các sản phẩm cùng
loại.
- Sản phẩ m gia tăng:
Cấp độ này bao gồm các yếu tố dịch vụ khách hàng (customer service), và
cao hơn nữa là chăm sóc khách hàng (customer care) nhằm gia tăng nhâ ̣n thức của
khách hàng về chấ t lươ ̣ng sản phẩ m và sự hài lòng của khách hàng về sản phẩ m. Đó là
các dịch vụ như bảo hành, sửa chữa, hình thức thanh toán, giao hàng tại nhà,
lắp đặt, huấn luyện… cũng như thái độ thân thiện, cởi mở, nhiệt tình, thân thiện.
Cấp độ này chính là vũ khí cạnh tranh của công ty. Các dịch vụ của lớp này sẽ ngày
càng phong phú cùng với mức độ cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh hiện nay
không phải là cạnh tranh về những cái mà công ty làm ra tại nhà máy của mình, mà
về những cái làm cho sản phẩm hoàn chỉnh như bao gói, dịch vụ khách hàng
(phương thức thanh toán, giao hàng, tư vấn, bảo hành, sửa chữa…)
Khi mức đô ̣ ca ̣nh tranh trở nên khố c liê ̣t hơn, yêu cầ u về chuẩ n sản phẩ m sẽ gia
tăng theo. Các chương triǹ h gia tăng giá tri ̣cho khách hàng đã trở thành chuẩ n của thi ̣
trường và mong muố n của khách hàng. Sản phẩ m gia tăng trở thành sản phẩ m mong
đơ ̣i.
“Sự cạnh tranh mới ngày nay không còn giữa các sản phẩm do các công ty chế
ra trong nhà máy nữa, mà là giữa những gì họ thêm vào cho món hàng xuấ t xưởng
dưới dạng bao bì, các di ̣ch vụ, quảng cáo, lời khuyên cho khách hàng, cách tài trợ,
những sắ p xế p trong viê ̣c giao hàng, viê ̣c lưu kho, và những điề u khác mà người ta coi
trọng”
- Sản phẩm tiềm năng
Là những sáng tạo vượt ra khỏi cung cách cạnh tranh thông thường, nó vạch ra
tương lai mới cho sự phát triển của sản phẩm. Vì thế các doanh nghiê ̣p tić h cực tìm
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 109
kiế m những cách thức mới để thỏa mañ khách hàng và ta ̣o ra sự khác biê ̣t cho sản
phẩ m của mình.
Tóm la ̣i, khi phát triể n sản phẩ m, những người làm marketing trước hế t phải xác
đinh
̣ nhu cầ u cố t lõi của sản phẩ m để thỏa man ̃ khách hàng, tiế p đế n phải thiế t kế sản
phẩ m thực tế , tìm cách gia tăng nó nhằ m ta ̣o ra các lơ ̣i ić h cung ứng thâ ̣t nhiề u sự thỏa
mañ cho khách hàng và cuố i cùng, ho ̣ phải dự đoán đươ ̣c sự biế n đổ i của sản phẩ m
trong tương lai để có sự ứng phó phù hơ ̣p.
7.1.3. Phân loại sản phẩm
7.1.3.1. Phân theo thời gian sử dụng
- Hàng bền: Là những hàng hóa cu ̣ thể thường đươ ̣c sử du ̣ng rấ t nhiề u lầ n. Những
hàng này thường đòi hỏi về dicḥ vu ̣ và nhân viên bán hàng lành nghề , cầ n có
mức lời cao và có bảo hành cho người mua
- Hàng không bền: Là những hàng hóa cu ̣ thể thường chỉ qua mô ̣t hay vài lầ n sử
du ̣ng. Những hàng này tiêu thu ̣ nhanh và thường xuyên nên chiế n lươ ̣c thić h hơ ̣p
là phân phố i rô ̣ng raĩ , chỉ cầ n mức lời thấ p, quảng cáo ma ̣nh để khuyế n khić h
dùng thử và ta ̣o sự ưa thích.
7.1.3.2. Phân theo mục đích và thói quen mua sắm của người tiêu dùng
✓ Sản phẩm tiêu dùng
Sản phẩ m tiêu dùng là những sản phẩ m và dich ̣ vu ̣ mà khách hàng tiêu dùng
cuố i cùng mua để phu ̣c vu ̣ cho nhu cầ u cá nhân, gia điǹ h. Bao gồ m những sản phẩ m
tiê ̣n du ̣ng, sản phẩ m mua sắ m, sản phẩ m mua đă ̣c biê ̣t và sản phẩ m mua theo nhu cầ u
thu ̣ đô ̣ng.
- Sản phẩ m tiê ̣n du ̣ng: Là những sản phẩ m và dich ̣ vu ̣ tiêu dùng mà khách hàng
mua thường xuyên và ngay lâ ̣p tức, ít nỗ lực mua và so sánh. Ví du ̣: bánh ke ̣o,
bô ̣t giă ̣t, báo chi,́ …Nhà làm marketing cầ n phân phố i rô ̣ng raĩ đố i với loa ̣i sản
phẩ m này nhằ m ta ̣o đô ̣ bao phủ và đô ̣ sẵn có của sản phẩ m trên thi ̣trường.
- Sản phẩ m mua sắ m: Là những sản phẩ m và dich ̣ vu ̣ tiêu dùng mà khi mua
chúng khách hàng cân nhắ c lựa cho ̣n, so sánh về chấ t lươ ̣ng, giá cả, kiể u
dáng,…ho ̣ bỏ ra nhiề u thời gian và nỗ lực trong tìm kiế m thông tin và so sánh
nhiề u lựa cho ̣n khác nhau. Ví du ̣: đồ nô ̣i thấ t, điê ̣n thoa ̣i, quầ n áo thời
trang,…Những người làm marketing các sản phẩ m này thường phân phố i các
sản phẩ m của mình thông qua mô ̣t số it́ các cửa hàng nhưng cung ứng các hỗ trơ ̣
bán hàng phong phú nhằ m giúp khách hàng trong viê ̣c ho ̣ so sánh các lựa cho ̣n
- Sản phẩ m đă ̣c biê ̣t: Là những sản phẩ m và dich
̣ vu ̣ tiêu dùng với những đă ̣c tính
hoă ̣c sự nhâ ̣n da ̣ng nhañ hiê ̣u duy nhấ t, theo đó các nhóm khách hàng mong
muố n thực hiê ̣n các nỗ lực mua hàng đă ̣c biê ̣t. Ví du ̣: đồ ng hồ Rolex, các loa ̣i ô
tô đă ̣c biê ̣t…
- Sản phẩ m mua theo nhu cầ u thu ̣ đô ̣ng: Là những sản phẩ m tiêu dùng mà khách
hàng mua vừa không biết hoặc biết nhưng không nghĩ là sẽ mua. Nhìn chung,
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 110
nhu cầu của người tiêu dùng đối với loại sản phẩm này thường thụ động. Bán
loại sản phẩ m này đòi hỏi nỗ lực Marketing lớn, đặc biệt là nỗ lực bán hàng
cá nhân.
✓ Sản phẩm công nghiê ̣p
Là những sản phẩ m đươ ̣c mua để tái sản xuấ t hoă ̣c đươ ̣c sử du ̣ng để phu ̣c vu ̣
viê ̣c kinh doanh, bao gồ m: nguyên vâ ̣t liê ̣u, máy móc thiế t bi,̣ vâ ̣t tư phu ̣ và dich
̣ vu ̣
- Nguyên vâ ̣t liê ̣u: Bao gồ m nguyên vâ ̣t liê ̣u thô và nguyên vâ ̣t liê ̣u đã qua xử lý. Giá và
̣ vụ là những nhân tố marketing quan trọng, đă ̣t tên hiê ̣u và quảng cáo ít quan trọng hơn.
dich
- Máy móc thiế t bi:̣ Là những sản phẩ m công nghiê ̣p hỗ trợ cho hoa ̣t động sản xuấ t hoă ̣c
vâ ̣n hành của khách hàng tổ chức, bao gồ m thiế t đă ̣t và các thiế t bi phụ
̣ tùng. Sản phẩ m thiế t
đă ̣t bao gồ m nhà xưởng và những thiế t bi ̣ cố đinh ̣ (xưởng sản xuấ t, văn phòng, máy móc
̣
phục vụ sản xuấ t); thiế t bi phụ ́ h, fax, bàn ghế …)
tùng (dụng cụ cầ m tay, máy tin
- Vâ ̣t tư phụ và dich
̣ vụ: Các sản phẩ m đảm bảo sự vâ ̣n hành hay hoa ̣t động, các dich
̣ vụ
̣ vụ tư vấ n kinh doanh.
sửa chữa, các dich
7.2. CÁC QUYẾT ĐỊNH VỀ DÒNG SẢN PHẨM
Dòng sản phẩ m là một nhóm các sản phẩ m có mối quan hệ mật thiết với nhau ,
hoă ̣c vì chức năng của chúng tương tự nhau, được bán đến một số nhóm khách hàng, và
được đưa vào thi trươ
̣ ̀ ng qua cùng một kênh hoặc nằm trong cùng một mức giá nào đó.
Mỗi dòng sản phẩ m cầ n mô ̣t chiế n lươ ̣c marketing. Đa số các công ty đề u có bô ̣
phâ ̣n nhân sự riêng để quản lý từng dòng sản phẩ m. Người này phải đố i mă ̣t với mô ̣t
số quyế t đinh
̣ gay go về chiề u dài dòng sản phẩ m, hiê ̣n đa ̣i hóa dòng sản phẩ m và đinh
̣
đă ̣c điể m của dòng sản phẩ m.
7.2.1. Độ dài dòng sản phẩm
Một trong những quyết định quan trọng về dòng sản phẩ m là quyết định độ dài
của dòng sản phẩ m, tức là số mặt hàng trong dòng. Độ dài dòng sản phẩ m là quá ngắn
nếu việc tăng thêm các mặt hàng có thể làm tăng lợi nhuận, dòng sản phẩ m là quá dài
nếu lợi nhuận có thể tăng lên khi loại bỏ bớt một vài mặt hàng.
Độ dài của dòng sản phẩ m chịu sự tác động của các mục tiêu và nguồn lực của
công ty. Mục tiêu chủ yếu trong thiết kế dòng sản phẩ m là để bán được hàng cho nhiều
phân đoạn thị trường với nhiều đẳng cấp khác nhau. Những công ty tìm kiếm thị phần
cao và tăng trưởng thị trường nhanh sẽ sử dụng dòng sản phẩ m dài hơn. Trong khi đó
những công ty chú trọng vào tỉ suất sinh lợi cao sẽ có chiến lược sử dụng dòng sản
phẩ m ngắn hơn với những mặt hàng được chọn lựa một cách cẩ n thận. Độ dài của dòng
sản phẩ m chịu tác động bởi các mục tiêu và nguồn lực của công ty.
Công ty nên quản trị dòng sản phẩ m của mình một cách cẩ n thận. Dòng sản
phẩ m có xu hướng kéo dài theo thời gian và hầu hết các công ty cần phải cắt bớt các
mặt hàng không cần thiết hoặc không sinh lợi ra khỏi dòng nhằm làm tăng tính sinh
lợi chung. Ngoài ra, thừa năng lực sản xuất tạo áp lực cho các nhà quản trị dòng sản
phẩ m phải phát triển những mặt hàng mới. Lực lượng bán hàng và các nhà phân phối
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 111
cũng tạo áp lực khiến công ty phát triển dòng sản phẩ m phức tạp hơn nhằm thỏa mãn
khách hàng của mình. Nhưng khi gia tăng thêm một vài mặt hàng, một số chi phí sẽ
tăng lên: chi phí thiết kế, chi phí tồn kho, chi phí sản xuất, chi phí xử lý đặt hàng, chi
phí vận chuyển và chi phí cổ động cho những mặt hàng mới.
Mô ̣t công ty có thể gia tăng mô ̣t cách hê ̣ thố ng cho đô ̣ dài của dòng sản phẩ m
theo hai kiể u, dañ rô ̣ng hoă ̣c bổ sung.
7.2.1.1. Quyết đinh
̣ dãn rộng dòng sản phẩ m:
Một công ty sẽ quyết định dãn dòng sản phẩ m là khi muốn có thêm một số loại
sản phẩ m vào dòng sản phẩ m hiện tại. Công ty có thể dãn dòng lên, xuống hoặc cả hai.
- Dãn dòng xuố ng dưới:
Khi công ty kinh doanh ở các phân đoạn trên của thị trường, họ có thể dãn dòng
xuống dưới vì một trong ba lý do sau:
- Thứ nhất, công ty thường dãn xuống để lấp lỗ hổng thị trường có thể thu hút
các đối thủ cạnh tranh hoặc nhằm đáp ứng sự tấn công của đối thủ cạnh tranh vào
phần thị trường thu nhập cao.
- Thứ hai, công ty nhận ra các phân đoạn thị trường với sản phẩ m cấp thấp hơn
tăng trưởng nhanh hơn.
- Thứ ba, công ty có thể nhận thấy thị trường cao cấp hoặc cấp trung mà mình
đang hoạt động đang bão hòa hoặc suy thoái.
Khi dañ rô ̣ng xuố ng dưới, công ty phải đố i mă ̣t với mô ̣t số may rủi, sản phẩ m
cấ p dưới mới mẻ này có thể “nuố t” sản phẩ m đầ u cao, khiế n công ty sa sút. Hoă ̣c sản
phẩ m tầ m dưới có thể khiế n những hañ g ca ̣nh tranh tấ n công ngươ ̣c lên trên; hoă ̣c
những nhà buôn của hãng không muố n các sản phẩ m tầ m dưới này.
- Dãn dòng lên trên:
Mặt khác, các công ty ở những phân đoạn thị trường thu nhập thấp có thể dãn
dòng lên trên. Mục đích là để tăng thêm danh tiếng cho các sản phẩ m hiện tại. Hoặc có
thể họ bị lôi cuốn bởi tốc độ tăng trưởng nhanh hơn hoặc lợi nhuận cao hơn ở các phân
đoạn thị trường cao hoặc đơn giản họ muốn định vị mình là nhà sản xuất đa dạng các
chủng loại sản phẩ m.
Dañ lên cũng nhiề u may rủi. Những han ̃ g ca ̣nh tranh phiá trên không những đã
phòng thủ chă ̣t mà có thể phản công bằ ng cách lẫn xuố ng dưới. Còn khách hàng thì có
thể không tin rằ ng công ty mới la ̣i có đủ khả năng sản xuấ t những mă ̣t hàng chấ t lươ ̣ng
cao; và hơn nữa, nhân viên bán hàng, những nhà phân phố i của doanh nghiê ̣p có thể
không có đủ tài năng và kiế n thức để phu ̣c vu ̣ đoa ̣n thi trươ
̣ ̀ ng cao cấ p hơn.
- Dãn dòng 2 phía (dãn lên và dãn xuố ng)
Cách thức cuối cùng là đồng thời dãn lên và dãn xuống, các công ty phục vụ
những phân đoạn thị trường giữa có thể quyết định dãn dòng của mình theo cả hai
hướng. Cũng giố ng như trường hơ ̣p dañ xuố ng và lên, cách này cũng chứa đựng nhiề u
rủi ro, vì thế các doanh nghiê ̣p cầ n xem xét kỹ lưỡng những khả năng của min
̀ h và dự
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 112
đoán những phản ứng của đố i thủ ca ̣nh tranh để viê ̣c dañ rô ̣ng này đa ̣t hiê ̣u quả.
7.2.1.2. Quyết định bổ sung dòng sản phẩm
Một chiến lược khác ngoài dãn dòng là bổ sung dòng (filling), tức là thêm các
mặt hàng vào loại sản phẩ m hiện tại của dòng. Một số nguyên nhân của việc bổ sung
dòng là:
- Doanh nghiê ̣p mong muố n có thêm lơ ̣i nhuâ ̣n
- Doanh nghiê ̣p muố n lấ p đầ y khoảng trố ng chủng loa ̣i hiê ̣n có (Các trung gian
than phiề n viê ̣c mấ t doanh thu vì có ít mă ̣t hàng trong dòng)
- Doanh nghiê ̣p muố n tâ ̣n du ̣ng năng lực sản xuấ t dư thừa
- Doanh nghiê ̣p muố n trở thành vi trị ́ chủ chố t với chủng loa ̣i sản phẩ m đầ y đủ
- Doanh nghiê ̣p muố n ha ̣n chế ca ̣nh tranh.
Tuy nhiên việc bổ sung dòng có thể tạo ra hiện tượng cạnh tranh lẫn nhau giữa
các mặt hàng trong cùng loại của dòng và sự nhầm lẫn của khách hàng. Công ty phải
đảm bảo rằng những mặt hàng mới phải khác biệt với những mặt hàng hiện tại trong
tâm trí khách hàng. Mỗi mặt hàng phải có những khác biệt đáng kể.
7.2.2. Chiến lược tinh giản dòng sản phẩm
Khi dòng sản phẩ m của một công ty quá nặng để quản lý một cách hiệu quả do
số lượng và sự đa dạng của các sản phẩ m và dịch vụ cung ứng, thì công ty có thể thực
hiện tinh giản dòng sản phẩ m. Đây là một chiến lược bảo vệ nhằm giữ cho dòng sản
phẩ m được ổn định. Chiến lược này với hy vọng rằng nỗ lực tinh giản dòng sẽ tăng
cường sức mạnh cho dòng sản phẩ m. Chiến lược này đặc biệt có ý nghĩa khi chi phí gia
tăng và nguồn lực hạn chế.
Chiến lược tinh giản dòng sản phẩ m có thể có nhiều lợi ích như tiết kiệm chi phí
tiềm năng, giảm tồn kho và tập trung nhiều hơn vào marketing, nghiên cứu và phát
triển và những nỗ lực khác vào số lượng sản phẩ m ít hơn.
Tuy nhiên, các nỗ lực tinh giản cũng có thể bị chỉ trích. Những người chỉ trích
có thể cảm thấy rằng sản phẩ m có thể sẽ kinh doanh tốt hơn khi có những thay đổi về
phối thức marketing hoặc doanh thu và lợi nhuận sẽ thay đổi một khi các điều kiện
tạm thời của thị trường thay đổi. Do vậy các đánh giá cần phải thận trọng trước khi
quyết định tinh giản dòng.
Ngoài ra, quyết định tinh giản càng khó khăn hơn khi sản phẩ m là sản phẩ m cốt
lõi của công ty. Cuối cùng khi quyết định tinh giản, cần phải chú ý đến việc tuân thủ
những cam kết trước đó của công ty. Chiến lược này có thể mở ra những cơ hội tăng
lợi nhuận nhưng có thể bù lại là thị phần của công ty bị giảm.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 113
kế hoạch cải thiện sản phẩ m nhằm khuyến khích khách hàng làm quen với những sản
phẩ m có giá trị cao hơn và với mức giá cao hơn.
Một vấn đề quan trọng là lập kế hoạch về mặt thời gian cho những cải tiến này
để nó xuất hiện không quá sớm (nguy hại đến việc bán các sản phẩ m hiện tại của
dòng) hoặc quá muộn (sau khi các đối thủ cạnh tranh đã thiết lập được danh tiếng
mạnh mẽ với những hàng hóa tiên tiến hơn).
7.3. QUYẾT ĐỊNH VỀ PHỐI THỨC SẢN PHẨM
Phối thức sản phẩ m (product mix) bao gồm tất cả các dòng sản phẩ m và các
mặt hàng của công ty được bán ra thị trường. Ví du ̣ phố i thức sản phẩ m sau:
Nước giải khát Nước giải khát Nước tinh khiế t Bánh snack
có ga không có ga
Một phối thức sản phẩ m bao gồm bốn chiều kích quan trọng: chiề u rô ̣ng, chiề u
dài, chiề u sâu và tính đồ ng nhấ t của nó.
Chiề u rộng của phối thức sản phẩ m là số lượng các dòng sản phẩ m khác nhau
của công ty.
Chiề u dài của phối thức sản phẩ m biể u thi ̣ số lươ ̣ng những mă ̣t hàng khác nhau
có trong từng nhañ hiê ̣u của từng dòng sản phẩ m của phố i thức sản phẩ m
Chiề u sâu của phố i thức sản phẩ m là là số kiểu của mỗi sản phẩ m trong dòng.
Tính đồ ng nhấ t của phố i thức sản phẩ m thể hiê ̣n mố i quan hê ̣ mâ ̣t thiế t đế n mức
đô ̣ nào giữa các loa ̣i sản phẩ m có trong phố i thức sản phẩ m xét theo cách sử du ̣ng cuố i
cùng, các công nghê ̣ sản xuấ t, các hê ̣ thố ng phân phố i, giá cả hay các mă ̣t liên quan khác.
Những dòng sản phẩ m có tiń h đồ ng nhấ t thấ p thì chúng có những công du ̣ng khác nhau
đố i với người mua.
Các quyết định về phối thức sản phẩm:
7.3.1. Chiến lược một sản phẩm
Công ty có thể kinh doanh một sản phẩ m duy nhất trong mỗi dòng sản phẩ m của
mình và nỗ lực hết mình để thành công với sản phẩ m đó. Chiế n lươ ̣c này có một số lợi
thế:
- Thứ nhấ t, sự tập trung vào một sản phẩ m duy nhất đem lại sự chuyên môn
hóa giúp đạt được lợi thế về qui mô và năng suất.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 114
- Thứ hai, quản trị sản xuất sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi tập trung vào một
sản phẩ m.
- Thứ ba, trong môi trường hiện tại, trong khi sự tăng trưởng khiến hầu hết các
công ty cung cấp nhiều sản phẩ m, thì công ty với một sản phẩ m duy nhất có
thể trở nên rất chuyên nghiệp trong lĩnh vực của mình và do vậy có thể
đứng vững trong cạnh tranh.
Bên ca ̣nh những lợi thế rõ ràng của chiến lược này đã được phát biểu ở trên, công
ty với một sản phẩ m cũng gặp phải hai khó khăn:
- Mô ̣t là, nếu những thay đổi trong môi trường khiến sản phẩ m trở nên lỗi
thời, công ty với một sản phẩ m duy nhất sẽ rơi vào khủng hoảng sâu sắc.
- Hai là, chiến lược một sản phẩ m không đem lại sự tăng trưởng hoặc thị
phần cao.
Lợi thế lớn nhất của chiến lược này là tính sinh lợi. Nếu kinh doanh tập trung
vào một sản phẩ m mà không có tỷ suất sinh lợi cao thì tốt hơn là tìm kiếm một cơ hội
kinh doanh mới. Những công ty quan tâm đến sự tăng trưởng hoặc thị phần sẽ nhận
thấy chiến lược này là rất hạn chế.
7.3.2. Chiến lược đa sản phẩm
Nhiề u nhân tố khiến công ty lựa chọn chiến lược này. Công ty nếu chỉ kinh
doanh một sản phẩ m sẽ không biết phải xoay sở như thế nào nếu sản phẩ m này có vấn
đề, với nhiều sản phẩ m, nếu năng lực của một sản phẩ m yếu có thể cân đối bằng một
sản phẩ m khác. Ngoài ra, điều quan trọng là công ty có thể có được sự tăng trưởng nếu
kinh doanh đa sản phẩ m (hai sản phẩ m trở lên)
Chiến lược đa sản phẩ m cho phép đạt được sự tăng trưởng, thị phần và lợi nhuận,
mă ̣c dầ u không phải tất cả sản phẩ m đều phát triển nhanh, nhưng chúng sẽ bù trừ lẫn
nhau trong danh mục sản phẩ m. Không phải tất cả các công ty đều làm giàu đơn giản
vì kinh doanh nhiều sản phẩ m, sự tăng trưởng, thị phần và tính sinh lợi tùy thuộc vào
nhiều biến số và kinh doanh đa sản phẩ m chỉ là một trong những biến số đó.
7.3.3. Hệ thống sản phẩm
Cung ứng một hệ thống sản phẩ m hơn là một sản phẩ m duy nhất là một chiến
lược tốt với nhiều lý do. Nó làm cho khách hàng trở nên phụ thuộc hơn, do vậy công ty
có thể đạt được sự kiểm soát gần như độc quyền trên thị trường. Ngoài ra, hệ thống sản
phẩ m có thể là cách thức cản trở sự tham gia của các đối thủ cạnh tranh. Với những lợi
ích trên, chiến lược này đặc biệt hữu ích để đáp ứng sự tăng trưởng, tính sinh lợi và mục
tiêu thị phần. Tuy nhiên nếu chiến lược này vượt xa giới hạn thì có thể gặp một số vấn đề
về pháp luật vì vi phạm luật độc quyền.
Sự thành công của chiến lược hệ thống sản phẩ m đòi hỏi phải có sự hiểu biết về
những đòi hỏi của khách hàng bao gồm cả tiến trình và các chức năng mà khách hàng
phải thực hiện khi sử dụng sản phẩ m.
7.3.4. Đa dạng hóa sản phẩm
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 115
Đa dạng hoá đề cập đến việc tìm kiếm những sản phẩ m hoặc thị trường mới, hoặc
theo đuổi việc phát triển cả hai. Mỗi công ty chỉ mạnh ở một số sản phẩ m chủ đạo; đa
dạng hoá đòi hỏi về kiến thức, tư duy, các kỹ năng và qui trình vững chắc. Như vậy, đa
dạng hoá là một chiến lược mang tính rủi ro cao, và các công ty chỉ nên chọn hướng đi
này khi định hướng sản phẩ m/thị trường hiện tại có vẻ không đem lại các cơ hội tăng
trưởng trong tương lai.
Đa dạng hóa là một lựa chọn chiến lược đem lại lợi nhuận và doanh thu từ
những sản phẩ m và thị trường khác nhau. Một số nhân tố khiến công ty tìm kiếm sự
đa dạng hóa:
- Công ty đa dạng hóa khi các mục tiêu của họ không thể đạt được với phạm vi sản
phẩ m/thị trường đã xác định
- Công ty có thể đa dạng hóa vì công ty còn dư thừa nguồn lực
- Công ty có thể đa dạng hóa khi các cơ hội đa dạng hóa hứa hẹn lợi nhuận cao hơn
so với cơ hội mở rộng …
7.4. QUYẾT ĐỊNH VỀ SẢN PHẨM
7.4.1. Quyết định thiết kế sản phẩm
Một doanh nghiệp kinh doanh có thể cung ứng sản phẩ m tiêu chuẩ n hoặc một
sản phẩ m được thiết kế theo yêu cầu đến khách hàng cá nhân. Quyết định nên cung ứng
sản phẩ m tiêu chuẩ n hay sản phẩ m theo nhu cầu có thể được đơn giản hoá bằng cách
đặt ra những câu hỏi sau: Những khả năng của công ty là gì? Chúng ta đang kinh
doanh cái gì?
Giữa hai cấp độ tiêu chuẩ n hóa và sản phẩ m theo nhu cầu, một đơn vị kinh
doanh (SBU) cũng có thể cung ứng các sản phẩ m với một số thay đổi. Cu ̣ thể :
7.4.1.1. Sản phẩm tiêu chuẩn
Việc đưa ra những sản phẩ m tiêu chuẩ n sẽ đem lại hai lợi ích:
- Thứ nhấ t, những sản phẩ m này sẽ mang lại lợi thế về chi phí do hiệu quả
theo kinh nghiệm dễ dàng hơn hơn so với sản phẩ m theo nhu cầu;
- Thứ hai là những sản phẩ m tiêu chuẩ n có thể được kinh doanh trên toàn quốc
một cách hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, sản phẩ m tiêu chuẩ n cũng có một số vấn đề. Nó định hướng tư duy
quản trị vào việc thực hiện tiết kiệm chi phí trên một đơn vị đến mức mà ngay cả yêu
cầu cho những thay đổi nhỏ trong việc thiết kế sản phẩ m có thể bị bỏ qua.
7.4.1.2. Sản phẩm theo nhu cầu
Sản phẩ m theo yêu cầu khách hàng được bán ra dựa trên chất lượng cơ bản của
sản phẩ m đã hoàn tất, và phát triển rộng để đáp ứng yêu cầu đặc biệt của khách hàng.
Những người sản xuất thường làm việc mật thiết với khách hàng, xem xét lại sự tiến
triển của sản phẩ m cho đến khi hoàn chỉnh. Không giống như sản phẩ m tiêu chuẩ n, giá
không phải là nhân tố đối với sản phẩ m theo nhu cầu. Khách hàng mong đợi trả tiền
nhiều hơn cho sản phẩ m theo yêu cầu của họ. Như đã nói ở trên, sản phẩ m theo nhu cầu
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 116
có thể áp dụng tốt hơn cho các công ty nhỏ. Nhận định này không nên được hiểu là các
công ty lớn thì không thể thành công trong việc cung ứng các sản phẩ m theo nhu cầu
khách hàng. Thật ra, khả năng bán được các sản phẩ m theo yêu cầu khách hàng một
cách thành công phụ thuộc vào bản chất của sản phẩ m đó.
Một khía cạnh đổi mới của chiến lược sản phẩ m này là sản xuất theo nhu cầu số
lượng lớn, tạo ra sản phẩ m theo yêu cầu của mỗi khách hàng. Đây là công cụ mạnh để
xây dựng mối quan hệ với khách hàng, nó đòi hỏi công ty thu thập thông tin, thường là
thông tin cá nhân của khách hàng, về nhu cầu và sở thích của khách hàng.
Ngoài sự linh động về giá, kinh doanh sản phẩ m theo yêu cầu của khách hàng
cung ứng cho công ty kinh nghiệm hữu ích trong phát triển các sản phẩ m tiêu chuẩ n
mới.
7.4.1.3. Sản phẩm tiêu chuẩn có thay đổi
Chiến lược thay đổi sản phẩ m tiêu chuẩ n là lựa chọn trung gian giữa hai lựa
chọn trên đây. Với chiến lược này, khách hàng có thể lựa chọn một số thay đổi hạn
chế thêm vào sản phẩ m tiêu chuẩ n.
Chiến lược này hướng đến việc kết hợp lợi ích của cả sản phẩ m tiêu chuẩ n và
sản phẩ m theo yêu cầu. Bằng cách sản xuất những sản phẩ m tiêu chuẩ n, công ty có thể
đạt được tính kinh tế theo qui mô đồng thời việc cung ứng các lựa chọn nhỏ, sản phẩ m
được cá nhân hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Trong các lợi ích khác, chiến lược này cho phép công ty quan hệ mật thiết với
nhu cầu thị trường có thể được thỏa mãn thông qua sự cải tiến và thay đổi sản phẩ m. Nó
cũng làm tăng danh tiếng của tổ chức về độ linh hoạt trong việc đáp ứng những nhu cầu
của khách hàng. Nó cũng khuyến khích những người sử dụng mới cho sản phẩ m hiện
tại. Nếu mọi thứ không thay đổi, chiến lược này có thể hữu ích trong việc đạt được sự
tăng trưởng, thị phần và lợi nhuận.
7.4.2. Quyết định về các đặc tính của sản phẩm
Phát triển sản phẩ m và dịch vụ liên quan đến việc thiết kế các lợi ích mà sản
phẩ m cung ứng. Những lợi ích này được truyền thông và chuyển tải thông qua các đặc
tính của sản phẩ m như chất lượng, các đặc điểm kiểu dáng và thiết kế.
7.4.2.1. Chất lượng:
Chất lượng là một trong những công cụ định vị chính của những người làm
marketing. Chất lượng có tầm ảnh hưởng trực tiếp lên năng lực của sản phẩ m và dịch
vụ. Vì vâ ̣y nó liên quan trực tiếp đến giá trị và sự thỏa mãn của khách hàng. Vâ ̣y chấ t
lươ ̣ng là gì?
Hiệp hội chất lượng Hoa kỳ định nghĩa chất lượng như các đặc tính của sản phẩ m
dựa trên khả năng thỏa mãn các nhu cầu nhận biết và tiềm tàng của khách hàng. Tương
tự, Siemens định nghĩa chất lượng theo cách: "Chất lượng là khi các khách hàng của
chúng ta quay lại và sản phẩ m không bị trả lại". Những định nghĩa hướng vào khách
hàng này gợi ý rằng chất lượng bắt đầu với nhu cầu của khách hàng và kết thúc với sự
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 117
thỏa mãn của khách hàng.
Nhiều công ty ngày nay chuyển chất lượng định hướng vào khách hàng thành
một vũ khí chiến lược mạnh mẽ. Họ tạo ra sự thỏa mãn và giá trị cho khách hàng bằng
cách đáp ứng nhu cầu và sự yêu thích chất lượng của khách hàng một cách kiên định và
có lợi.
7.4.2.2. Các đặc tính sản phẩm:
Một sản phẩ m có thể được cung ứng với nhiều đặc tính. Mô hình sản phẩ m cơ
bản chỉ có một đặc tính là điểm khởi đầu. Công ty có thể tạo ra mô hình sản phẩ m có
cấp độ cao hơn bằng cách tăng thêm nhiều đặc tính. Các đặc tính là công cụ cạnh
tranh trong nỗ lực tạo ra sự khác biệt cho sản phẩ m của công ty so với các sản phẩ m
của đối thủ cạnh tranh. Làm một nhà sản xuất đầu tiên đưa một đặc tính mới có giá trị
và cần thiết là một trong những cách thức hiệu quả nhất để cạnh tranh.
Làm sao một công ty có thể xác định các đặc tính mới và quyết định cái nào để
thêm vào sản phẩ m? Công ty phải thăm dò một cách định kỳ khách hàng, những người
sử dụng sản phẩ m và hỏi họ những câu hỏi như: Bạn thích sản phẩ m như thế nào?
Những đặc tính đặc biệt nào của sản phẩ m mà bạn muốn có? Những đặc tính nào
chúng tôi có thể thêm vào để cải thiện sản phẩ m? Các câu trả lời cung cấp cho công ty
một danh sách đa dạng các ý tưởng về đặc tính. Công ty sau đó có thể đánh giá giá trị
của mỗi đặc tính đối với khách hàng so với chi phí mà công ty phải bỏ ra. Các đặc tính
mà khách hàng đánh giá thấp so với chi phí phải bỏ ra sẽ bị loại bỏ, những đặc tính mà
khách hàng đánh giá cao hơn so với chi phí sẽ được đưa vào sản phẩ m.
Mỗi sản phẩm có thể được mô tả theo những đặc tính khác nhau.
- Đặc tính kỹ thuật, lý, hóa: Gồm công thức, thành phần vật liệu, kiểu dáng,
màu sắc, cỡ khổ, vật liệu.
- Đặc tính sử dụng: gồm thời gian sử dụng, tính đặc thù, độ bền, an toàn,
hiệu năng…
- Đặc tính tâm lý: gồm vẻ đẹp, vẻ trẻ trung, sự thoải mái, sự vững chắc…
- Đặc tính kết hợp: Gồm giá cả, nhãn hiệu, sự đóng gói, tên gọi, các dịch
vụ…
Người làm marketing quan tâm nhiều nhất đến mối quan hệ giữa các đặc tính
này với các nhận thức, thái độ, tập quán tiêu dùng của người tiêu thụ. Chính những đặc
tính của sản phẩm là những yếu tố quyết định nhất đến sự chọn lựa của người tiêu thụ
so với các sản phẩm cạnh tranh khác. Do vậy người sản xuất thường tạo ra nhiều mẫu
sản phẩm, mỗi mẫu có đặc tính riêng để xem xét người tiêu thụ hướng mạnh nhất vào
đặc trưng nào để từ đó định ra những đặc trưng chủ chốt của sản phẩm nhằm lôi kéo
khách hàng.
7.4.2.3. Kiểu dáng sản phẩm và thiết kế.
Một cách thức khác để thêm giá trị cho khách hàng là thông qua kiểu dáng và
thiết kế sản phẩ m khác biệt. Thiết kế là một khái niệm rộng hơn kiểu dáng. Kiểu dáng
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 118
chỉ đơn thuần là mô tả bề ngoài của sản phẩ m. Kiểu dáng có thể bắt mắt. Một kiểu dáng
gợi cảm có thể thu hút sự chú ý và thỏa mãn khiếu thẩ m mỹ, nhưng nó không nhất
thiết phải làm cho sản phẩ m có năng lực tốt hơn. Không giống như kiểu dáng, thiết kế
đi vào chiều sâu hơn, nó đi vào trung tâm của sản phẩ m. Thiết kế tốt đóng góp vào sự
hữu dụng của sản phẩ m cũng như bề ngoài của sản phẩ m.
Thiết kế và kiểu dáng tốt có thể thu hút sự chú ý, cải thiện năng lực sản phẩ m, cắt
giảm chi phí sản xuất, và tạo nên những lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩ m
trong thị trường mục tiêu.
7.4.3. Quyết định nhãn hiệu sản phẩm
Người tiêu dùng cảm nhận nhãn hiệu sản phẩm như một phần thực chất của sản
phẩm và việc đặt nhãn hiệu có thể làm tăng giá trị cho sản phẩm. Tuy nhiên, việc đặt
nhãn hiệu cho một loại sản phẩm không đơn giản là đặt cho nó một cái tên, mà để cho
nhãn hiệu trở thành một danh tiếng còn nhiều công việc khác phải làm như đầu tư dài
hạn, quảng cáo, khuyến mãi… đòi hỏi rất nhiều chi phí tiền bạc và công sức.
Nhãn hiệu là tên gọi, thuật ngữ, biểu tượng, hình vẽ hay một sự kết hợp giữa
các yếu tố này, được dùng để xác nhận sản phẩm của doanh nghiệp nào và phân biệt
với các sản phẩm cạnh tranh.
Như vậy, nhãn hiệu sản phẩm có tác dụng để giúp khách hàng phân biệt được
sản phẩm của doanh nghiệp với các sản phẩm cùng loại.
Các yếu tố cấu thành của nhãn hiệu:
-Tên nhãn hiệu: Tên nhãn hiệu là một bộ phận của nhãn hiệu có thể đọc lên
được. Tên cần phải dễ đọc, dễ nhớ, tạo hàm ý về chất lượng, lợi ích của sản phẩm và
phân biệt với các sản phẩm khác.
-Dấu hiệu của nhãn hiệu: Dấu hiệu của nhãn hiệu là một bộ phận của nhãn hiệu
mà ta có thể nhận biết nhưng không đọc lên được. Dấu hiệu bao gồm hình vẽ, biểu
tượng, màu sắc, kiểu chữ cách điệu…)
-Nhãn hiệu thương mại: là toàn bộ nhãn hiệu hay một phần của nhãn hiệu được
đăng ký bảo hộ tại cơ quan quản lý nhãn hiệu để được bảo vệ về pháp lý.
Nhãn hiệu về cơ bản là cam kết của người bán, người sản xuất trong việc cung
ứng tập hợp các đặc tính, lợi ích và dịch vụ một cách phù hợp với người mua. Những
nhãn hiệu nổi tiếng gợi lên sự đảm bảo về chất lượng. Một nhãn hiệu gợi lên nhiều điều
hơn là đơn giản chỉ mang tính biểu tượng. Nó có thể gợi lên sáu cấp độ ý nghĩa:
• Các đặc tính. Nhãn hiệu gợi lên trong tâm trí khách hàng một vài đặc tính.
• Các lợi ích. Khách hàng không mua những đặc tính mà mua những lợi ích do
chúng đem lại. Các đặc tính cần phải có khả năng chuyển thành các lợi ích cảm xúc
hoặc lợi ích chức năng. Ví dụ, thuộc tính bền cho ta ý nghĩa về tiết kiệm (lợi ích
chức năng), thuộc tính thiết kế hoàn hảo cho ta cảm nhận sự an toàn (lợi ích cảm
xúc).
• Giá trị. Nhãn hiệu cũng có thể thể hiện điều gì đó về giá trị của người làm ra
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 119
nó.
• Văn hóa. Nhãn hiệu cũng có thể gợi lên một vài nét văn hóa.
• Cá tính. Nhãn hiệu biểu đạt cá tính của người sử dụng.
• Người sử dụng. Nhãn hiệu còn thể hiện khách hàng mua hoặc sử dụng một sản
phẩm, nếu người sử dụng biết tôn trọng giá trị, văn hóa và phong cách mà sản
phẩm đó thể hiện.
Nếu công ty chỉ nhìn nhận nhãn hiệu như một cái tên, nó sẽ mất điểm. Thách
thức của việc xây dựng nhãn hiệu là phát triển một tập hợp những liên tưởng tích cực
về nhãn hiệu. Những người làm marketing phải quyết định hình ảnh nhãn hiệu sẽ được
xây dựng ở mức nào. Một trong những sai lầm cần tránh là không nên chỉ cổ động cho
những đặc tính của nhãn hiệu. Trước hết, người mua không quan tâm nhiều đến đặc tính
so với những lợi ích mà những đặc tính đó đem lại cho họ. Thứ hai, những đối thủ cạnh
tranh có thể dễ dàng bắt chước các đặc tính. Thứ ba, những đặc tính hiện tại cũng có
thể trở nên ít được ưa chuộng trong tương lai. Tuy nhiên nếu chỉ cổ động nhãn hiệu
trên những lợi ích cũng có nhiều rủi ro. Vì khi các đối thủ cạnh tranh xuất hiện với
những lợi ích của nhãn hiệu mạnh hơn hoặc khách hàng không còn coi trọng những
lợi ích đó nữa. Những yếu tố có ý nghĩa bền vững hơn của nhãn hiệu là giá trị, văn hóa
và cá tính. Chúng định hình cái thần của nhãn hiệu.
Xây dựng và quản lý thương hiệu có thể là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của người làm marketing. Những thảo luận về chiến lược xây dựng thương hiệu
đã được đề cập trong chương 6 của giáo trình này.
7.4.4. Quyết định bao bì và dán nhãn
7.4.4.1. Quyết định về bao bì
Rấ t nhiề u sản phẩ m phải đươ ̣c đóng gói trước khi đưa vào thi ̣trường. Bao bì có
thể có vai trò nhỏ hoă ̣c lớn tùy vào những loa ̣i hàng khác nhau. Tuy nhiên, hầ u hế t
những nhà làm marketing đề u coi bao bì là mô ̣t yế u tố trong chiế n lươ ̣c sản phẩ m.
a. Khái niê ̣m bao bì
- Bao bì là cái bao phủ vật hoặc là cái chứa đựng sản phẩm.
- Viê ̣c ta ̣o bao bì (packaging) là những hoa ̣t đô ̣ng nhằ m vẽ kiể u và sản xuấ t đồ
chứa hay gói cho mô ̣t sản phẩ m.
b. Các loại bao bì
▪ Bao bì sơ cấp: Là lớp bao bì trực tiế p đựng hoă ̣c gói sản phẩ m
▪ Bao bì thứ cấp: Là lớp bao bì dùng để bảo vê ̣ lớ bao bì sơ cấ p, đảm bảo
tính an toàn cho sản phẩ m và gia tăng tiń h thẩ m mỹ cho bao bì.
▪ Bao bì vâ ̣n chuyể n: Là lớp bao bì đươ ̣c thiế t kế để bảo quản, vâ ̣n chuyể n
sản phẩ m mô ̣t cách thuâ ̣n tiê ̣n.
c. Chức năng của bao bì:
Theo truyền thống, chức năng cơ bản của bao bì là để chứa và bảo vệ sản phẩ m.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 120
Gần đây, nhiều yếu tố đã làm cho bao bì trở thành một công cụ marketing quan trọng.
Sự cạnh tranh ngày càng tăng và sự phân loại các cửa hàng bán lẻ làm cho bao bì ngày
nay đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ bán hàng, từ việc thu hút sự chú ý, mô tả sản phẩ m
đến góp phần bán hàng thông qua việc giúp cho người tiêu dùng dễ nhận biết sản phẩ m
và nhãn hiệu, tạo ra cho họ sự tin tưởng và an tâm khi lựa chọn sản phẩ m và nhãn hiệu
của doanh nghiệp.
Các công ty đang nhận thức được sức mạnh của bao bì tốt trong việc tạo ra sự
nhận biết ngay lập tức của khách hàng đối với nhãn hiệu hàng hóa hoặc công ty. Như
vậy trong môi trường cạnh tranh gay gắt, bao bì có thể là cơ hội cuối cùng của nhà sản
xuất trong việc ảnh hưởng lên quyết định của người mua. Nó trở thành một "nhân tố 5
giây trong kinh doanh".
Bao bì đổi mới có thể đem lại cho công ty những lợi thế so với các đối thủ cạnh
tranh. Ngược lại, các bao bì được thiết kế nghèo nàn có thể tạo ra sự nhàm chán cho
khách hàng và mất cơ hội bán hàng cho công ty.
d. Quyết định về tạo bao bì
Phát triển bao bì tốt cho sản phẩ m mới đòi hỏi phải đưa ra nhiều quyết định.
Trước hết, công ty phải xây dựng khái niệm bao bi,̀ quyế t đinh ̣ các khiá ca ̣nh liên quan
đế n bao bi,̀ quyế t đinh
̣ thử nghiê ̣m bao bi,̀ quyế t đinh
̣ các thông tin trên bao bì, đánh giá hiê ̣u
quả bao bì và quyế t đinh
̣ chi phí bao bi.̀
➢ Xây dựng khái niệm bao bì
Khái niê ̣m bao bì là viê ̣c đinh ̣ nghiã bao bì đó phải là gì hay làm gì cho sản
phẩ m. Ví du ̣ nhiê ̣m vu ̣ chủ yế u của bao bì là phải bảo vê ̣ sản phẩ m, giới thiê ̣u mô ̣t
kiể u phân phố i mới, gơ ̣i ra những phẩ m chấ t của sản phẩ m, giúp người tiêu dùng dễ
nhâ ̣n biế t sản phẩ m và nhañ hiê ̣u, ta ̣o ra cho ho ̣ sự tin tưởng và an tâm khi sử du ̣ng sản
phẩ m và nhañ hiê ̣u của doanh nghiê ̣p.
➢ Quyết định những yếu tố về bao bì
Phải quyế t đinh
̣ những yế u tố đă ̣c biê ̣t của bao bì như kić h cỡ, hin ̀ h da ̣ng, chấ t
liê ̣u, màu sắ c. Kiể u chữ, dấ u hiê ̣u. Những yế u tố này phải hài hòa để làm nổ i bâ ̣t giá
tri ̣ bổ sung của sản phẩ m cho khách hàng nhâ ̣n thấ y và hỗ trơ ̣ cho viê ̣c đinh ̣ vi ̣ sản
phẩ m và chiế n lươ ̣c marketing. Bao bì phải phù hơ ̣p với viê ̣c quảng cáo, đinh ̣ giá,
phân phố i và các chiế n lươ ̣c marketing khác.
➢ Thử nghiê ̣m bao bì
Sau khi thiết kế xong bao bì cần phải thử nghiệm nó. Thử nghiệm kỹ thuật
phải đảm bảo chắc chắn là bao bì chịu được những điều kiện bình thường, thử nghiệm
hình thức phải đảm bảo chắc chắn chữ viết dễ đọc và màu sắc hài hoà, thử nghiệm
kinh doanh phải đảm bảo là các nhà kinh doanh đều thấy bao bì hấp dẫn và dễ bảo
quản, thử nghiệm với người tiêu dùng để đảm bảo người tiêu dùng ưng ý
➢ Quyế t đi ̣nh các thông tin trên bao bì
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 121
Tùy thuô ̣c vào những điề u kiê ̣n cu ̣ thể mà nhà sản xuấ t quyế t đinh
̣ đưa thông
tin gì lên bao bì và đưa chúng như thế nào, thông thường những thông tin chủ yế u thể
hiê ̣n qua bao bì là:
- Thông tin về sản phẩ m, chỉ rõ đó là hàng gi?̀
- Thông tin về phẩ m cấ p của sản phẩ m
- Thông tin về ngày, người, nơi sản xuấ t và các đă ̣c tiń h của sản phẩ m
- Thông tin về kỹ thuâ ̣t an toàn khi sử du ̣ng
- Thông tin quảng cáo
- Thông tin khác do luâ ̣t đinh ̣
➢ Những yêu cầ u cơ bản đố i với bao bì sản phẩm
- Phải bảo vê ̣ tố t hàng hóa trong quá trình vâ ̣n chuyể n và bán hàng
- Phải tiê ̣n lơ ̣i khi sử du ̣ng
- Phải hấ p dẫn, kích thích tiêu thu ̣
- Đảm bảo giá thành
- Chố ng làm hàng giả, hàng nhái
- Phù hơ ̣p với thi ̣hiế u, tâ ̣p quán tiêu dùng ở từng thi ̣trường
- Phù hơ ̣p với tiêu chuẩ n quy đinh ̣ của từng thi ̣trường.
➢ Đánh giá hiệu quả bao bì
Sau khi cho ̣n và tung bao bì mới, doanh nghiê ̣p phải đề u đă ̣n đánh giá la ̣i để
xem nó còn hiê ̣u quả về mă ̣t thu hút sự ưa thić h của khách hàng và đa ̣t đươ ̣c những
tiế n bô ̣ kỹ thuâ ̣t không?
➢ Quyết định chi phí bao bì
Chi phí vẫn là chi tiế t quan tro ̣ng phải cân nhắ c khi lâ ̣p bao bi.̀ Triể n khai bao bì
hữu hiê ̣u cho mô ̣t sản phẩ m mới, hay hoàn thiê ̣n mô ̣t mẫu bao bì mới, hoă ̣c đổ i sang
mô ̣t mẫu bao bì mới có thể tố n kém chi phí và phải mấ t rấ t nhiề u thời gian. Những
người làm marketing phải cân nhắ c chi phí bao bì này so với vai trò của bao bì trong
viê ̣c hỗ trơ ̣ để đa ̣t những mu ̣c tiêu marketing. Khi đưa ra những quyế t đinh ̣ về bao bi,̀
doanh nghiê ̣p cầ n phải chú ý đế n mức đô ̣ quan tâm ngày càng tăng của xã hô ̣i về bao
bi.̀
7.4.4.2. Quyết định gắn nhãn
Gắn nhãn có thể chỉ đơn thuần là một cái tên đơn giản gắn vào sản phẩ m hoặc có
thể là một hình ảnh phức tạp cấu thành một phần của bao bi.̀ Chúng thực hiện một số
chức năng. Tối thiểu, nhãn hàng hóa giúp xác định sản phẩ m hoặc thương hiệu, ví dụ
như tên hiệu Sunkit được dán trên nhãn màu cam. Nhãn hàng cũng dùng để mô tả một
số thứ về sản phẩ m như: ai là nhà sản xuất, sản phẩ m được sản xuất ở đâu, khi nào,
thành phần, cách sử dụng an toàn. Cuối cùng, nhãn hàng hóa có thể cổ động cho sản
phẩ m thông qua các hình ảnh hấp dẫn.
Ngoài ra, còn có nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật trong việc qui định
ghi nhãn hàng hóa, ví dụ như liên quan đến việc gắn giá hàng hóa, thành phần dinh
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 122
dưỡng của hàng hóa và ngày sản xuất, hạn sử dụng. Nhà sản xuất phải đảm bảo rằng
nhãn hàng hóa của mình có đầy đủ các thông tin yêu cầu.
7.4.5. Quyết định các dịch vụ hỗ trợ
Các dịch vụ khách hàng là một yếu tố khác của chiến lược sản phẩm. Sản phẩm
của công ty được đưa ra thị trường thường kèm theo các dịch vụ hỗ trợ, nó có thể là một
phần nhỏ hoặc quan trọng của toàn bộ cung ứng. Ở đây chúng ta chỉ bàn dịch vụ như
một phần tăng thêm của sản phẩm vật chất.
Bước đầu tiên là thăm dò khách hàng định kỳ nhằm đánh giá giá trị của dịch vụ
hiện tại và nhằm thu thập các ý tưởng để phát triển các dịch vụ mới. Một khi công ty
đã đánh giá được những giá trị của các dịch vụ hỗ trợ đối với khách hàng, công ty phải
đánh giá tiếp chi phí của việc cung ứng những dịch vụ này. Sau đó công ty sẽ phát
triển phối thức các dịch vụ sẽ cung ứng nhằm củng cố lòng trung thành của khách hàng
và đem lại lợi nhuận cho công ty.
Các doanh nghiệp cần hiểu rõ nhu cầu của khách hàng một cách thận trọng khi
thiết kế sản phẩm cũng như hệ thống dịch vụ hỗ trợ sản phẩm. Ngoài ra, người sản
xuất phải tìm hiểu xem khách hàng coi trọng dịch vụ nào nhất và tầm quan trọng
tương đối của các dịch vụ đó. Đối với những thiết bị đắt tiền, người sản xuất còn phải
đảm bảo cả những dịch vụ hỗ trợ như lắp đặt thiết bị, huấn luyện người sử dụng, các
dịch vụ bảo trì, sửa chữa và tài trợ. Các doanh nghiệp cần lên kế hoạch chung về thiết
kế sản phẩm và những quyết định về danh mục dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng.
7.5. CÁC CHIẾN LƯỢC MARKETING THEO CHU KỲ SỐNG SẢN PHẨM
7.5.1. Giới thiệu chung về chu kỳ sống của sản phẩm
7.5.1.1. Khái niệm chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kỳ sống của sản phẩm (PLC - the typical product life - cycle) là khoảng
thời gian tồn tại của sản phẩm trên thị trường. Nó được tính từ thời điểm sản phẩm lần
đầu tiên xuất hiện cho tới khi sản phẩ m không tiêu thụ được nữa buộc phải rút lui khỏi
thị trường.
Nói về chu kỳ sống của sản phẩ m, chúng ta có thể đề cập đến một số vấn đề sau:
- Sản phẩ m có một đời sống có giới hạn
- Doanh thu của một sản phẩ m trải qua những giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn
đặt ra những thách thức, cơ hội và vấn đề khác nhau đối với người bán
- Lợi nhuận tăng và giảm ở các giai đoạn khác nhau của chu kỳ sống
- Sản phẩ m đòi hỏi các chiến lược nguồn nhân lực, mua hàng, sản xuất, tài chính
và marketing khác nhau trong mỗi giai đoạn của chu kỳ sống.
7.5.1.2. Các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 123
D, L, C
Doanh số
Lợi nhuận
Chi phí
t0 t1 t2 t4 t
t3
Một chu kỳ sống điển hình của một sản phẩm được biểu diễn gồm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn giới thiê ̣u (t - t ) : là giai đoạn mà sự tăng trưởng doanh thu rất chậm vì
0 1
sản phẩ m mới được đưa vào thị trường. Lợi nhuâ ̣n gần như là không tồn tại trong
giai đoạn này vì những chi tiêu lớn cho việc giới thiệu sản phẩ m.
- Giai đoạn tăng trưởng (t - t ) : là giai đoạn mà thị trường tiếp nhận sản phẩ m rất
1 2
nhanh và những cải thiện quan trọng về lợi nhuận.
- Giai đoạn bão hòa (t - t ) : là giai đoạn phát triển chậm lại và thậm chí giảm sút về
2 3
doanh thu vì sản phẩ m đã đạt được sự chấp nhận của hầu hết khách hàng tiềm năng.
Lợi nhuận ổn định hoặc giảm sút vì cạnh tranh tăng lên.
- Giai đoạn suy thoái (t - t ) : là giai đoạn khi doanh thu giảm sút mạnh và lợi nhuận
3 4
bị xói mòn.
7.5.1.3. Các dạng chu kỳ sống sản phẩm
Không phải tất cả các sản phẩ m đều tuân thủ dạng chu kỳ sống hình chuông như
trên. Các nhà nghiên cứu đã xác định được các da ̣ng sau:
Dạng " phát triển - giảm đột ngột -baõ hòa" (hình a) đặc trưng cho những sản
phẩ m có doanh số tăng nhanh khi mới tung ra thị trường rồi sau đó sụt giảm rất nhanh
chóng do những người sớm chấp nhận sản phẩ m này thay thế chúng, sau đó doanh số
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 124
chững lại do những người chấp nhận muộn bắt đầu mua sản phẩ m.
Dạng "chu kỳ - chu kỳ lặp lại" (hình b) biểu thị chu kỳ sống của những sản
phẩ m (ví dụ như dược phẩ m mới) mà thời gian đầu nhờ quảng cáo mạnh mẽ nên doanh
số tăng nhanh, điều này đã tạo ra chu kỳ thứ nhất. Sau đó doanh số bắt đầu giảm và
doanh nghiệp lại tiếp tục mở một đợt quảng cáo sản phẩ m đó một lần nữa làm xuất
hiện chu kỳ thứ hai thường có qui mô nhỏ hơn và thời gian ngắn hơn.
Dạng chu kỳ số ng sản phẩ m dạng sóng (hình c) tiêu biểu cho những sản phẩ m
mà doanh số của chúng trải qua một chuỗi chu kỳ sống do phát hiện ra những đặc tính
mới của sản phẩ m, những công dụng mới hay những người sử dụng mới.
Khi tung sản phẩ m mới ra thị trường, doanh nghiệp cần dự báo hình dáng của
chu kỳ sống sản phẩ m dựa trên những yếu tố ảnh hưởng đến độ dài từng giai đoạn.
Đối với các sản phẩ m thông thường, thời gian phát triển ngắn hơn và ít tốn kém
hơn so với các sản phẩ m công nghệ cao.
Sản phẩ m mới sẽ có thời gian giới thiệu và phát triển ngắn nếu nó không đòi
hỏi chuẩ n bị cơ sở vật chất mới cho các kênh phân phối, vận chuyển hay thông tin liên
lạc, hay nếu các trung gian phân phối đã sẵn sàng tiếp nhận và khuếch trương sản
phẩ m, hoặc người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩ m mới, sẽ sớm chấp nhận và khuyến
cáo những người khác cùng mua sản phẩ m.
Sản phẩ m mới sẽ có thời gian sung mãn kéo dài nếu thị hiếu của người tiêu
dùng, công nghệ sản xuất sản phẩ m khá ổn định và doanh nghiệp vẫn duy trì được vị
trí dẫn đầu trên thị trường. Các doanh nghiệp thường thu hồi vốn đầu tư và kiếm lời
trong giai đoạn sung mãn của sản phẩ m.
Thời gian suy tàn sẽ kéo dài ra nếu thị hiếu của người tiêu dùng và công nghệ
của sản phẩ m thay đổi chậm.
7.5.2. Chiến lược marketing: Giai đoạn giới thiệu sản phẩm
Đây là giai đoa ̣n khi sản phẩ m mới lầ n đầ u tiên đem bán ra thi ̣ trường, mức
tăng doanh số rấ t châ ̣m, mức laĩ có thể âm hoă ̣c rấ t thấ p do chi phí phân phố i và
quảng cáo cáo nhằ m:
- Thông báo đế n khách hàng tiề m năng
- Khuyế n khić h dùng thử sản phẩ m
- Đảm bảo phân phố i trong các cửa hàng bán lẻ.
Trong giai đoa ̣n này, nhà quản tri ̣ marketing có thể theo đuổ i mô ̣t trong bố n
chiế n lươ ̣c sau: chiế n lươ ̣c hớt váng nhanh, Chiế n lươ ̣c hớt váng châ ̣m, chiế n lươ ̣c
thâm nhâ ̣p nhanh, chiế n lươ ̣c thâm nhâ ̣p châ ̣m.
a. Chiến lược hớt váng nhanh
Chiến lược hớt váng nhanh là chiến lược tung sản phẩ m mới ra thị trường với
mức giá ban đầu cao và mức độ cổ động cao. Doanh nghiệp tính giá cao để đảm bảo
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 125
lãi gộp tính trên đơn vị sản phẩ m ở mức cao nhất. Doanh nghiệp chi phí nhiều cho các
hoạt động cổ động như quảng cáo, khuyến mãi,...để thuyết phục khách hàng về lợi ích
của sản phẩ m và để tăng cường tốc độ thâm nhập thị trường. Chiến lược này thường
được áp dung trong những trường hợp phần lớn thị trường tiềm năng chưa biết đến sản
phẩ m; những người đã biết đến sản phẩ m mong muốn có được sản phẩ mvà sẵn sàng trả
giá cao để có được sản phẩ m đó; doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh tiềm tàng; và
khi doanh nghiệp muốn tạo ra sự ưa thích nhãn hiệu.
b. Chiến lược hớt váng chậm
Chiến lược hớt váng chậm là chiến lược tung sản phẩ m mới ra thị trường với
mức giá ban đầu cao và mức độ cổ động thấp. Doanh nghiệp tin rằng giá cao sẽ tạo ra
mức lãi gộp cao trên đơn vị sản phẩ m, còn mức cổ động thấp sẽ giữ cho chi phí
marketing ở mức thấp, và do đó sẽ hớt được nhiều lợi nhuận trên thị trường. Chiến lược
này được áp dụng khi thị trường có qui mô hạn chế; phần lớn thị trường đã biết đến sản
phẩ m; người mua sẵn sàng trả giá cao, và cạnh tranh tiềm tàng chưa có khả năng xảy ra.
c. Chiế n lược thâm nhập nhanh:
Chiến lược thâm nhập nhanh là chiến lược tung sản phẩ m mới ra thị trường với
mức độ cổ động cao và mức giá ban đầu thấp, với hy vọng đạt được tốc độ thâm nhập
nhanh và thị phần lớn nhất. Chiến lược này chỉ phù hợp khi thị trường lớn và chưa biết
đến sản phẩ m; hầu hết mọi người mua đều nhạy cảm đối với giá cả; thị trường tiềm ẩ n
khả năng cạnh tranh gay gắt; doanh nghiệp có thể đạt được hiệu quả kinh tế theo qui
mô và tích lũy được kinh nghiệm sản xuất.
d. Chiế n lược thâm nhập chậm
Chiến lược thâm nhập chậm là chiến lược tung sản phẩ m mới ra thị trường với
mức giá ban đầu thấp và mức độ cổ động thấp. Giá thấp sẽ khuyến khích khách hàng
nhanh chóng chấp nhận sản phẩ m, chi phí cổ động thấp nhằm đạt mức lãi ròng cao.
Chiến lược này thích hợp với thị trường có nhu cầu co dãn mạnh theo giá, nhưng ít co
dãn theo các yếu tố cổ động; thị trường có qui mô lớn, đã biết rõ sản phẩ m; và có một số
khả năng cạnh tranh tiềm tàng.
Chiế n lươ ̣c giá hớt váng thi trươ
̣ ̀ ng thực sự có ý nghiã khi:
- Có số lươ ̣ng người mua đủ để có mức cầ u hiê ̣n ta ̣i cao
- Chi phí tính trên mỗi đơn vi ̣ sản phẩ m khi sản xuấ t với khố i lươ ̣ng nhỏ
không quá cao đế n mức triê ̣t tiêu lơ ̣i thế của mức giá mà khách hàng sẽ
chấ p nhâ ̣n
- Giá cao không thu hút thêm đố i thủ ca ̣nh tranh
- Giá cao hỗ trơ ̣ hình ảnh sản phẩ m có chấ t lươ ̣ng cao.
Chiế n lươ ̣c giá thâm nhâ ̣p cầ n có những điề u kiê ̣n sau:
- Thi ̣trường nha ̣y cảm với giá cả
- Các chi phí về sản xuấ t và phân phố i giảm dầ n khi kinh nghiê ̣m sản xuấ t
tăng lên
- Giá thấ p không làm tăng mức đô ̣ ca ̣nh tranh thực tế và tiề m tàng.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 126
7.5.3. Chiến lược marketing: Giai đoạn tăng trưởng (phát triển)
Nếu một sản phẩ m mới đáp ứng được sự mong đợi của thị trường, doanh số sẽ
bắt đầu tăng lên nhanh chóng. Những người hưởng ứng sớm nhất sẽ tiếp tục mua
thêm, các khách hàng khác sẽ bắt đầu mua theo, nhất là khi họ nghe được những lời
khen ngợi sản phẩ m đó. Những đối thủ cạnh tranh mới sẽ thâm nhập vào thị trường để
tìm kiếm cơ hội sản xuất và thu lợi nhuận cao. Họ sẽ giới thiệu những sản phẩ m có bổ
sung thêm những đặc tính mới, xây dựng thêm nhiều điểm bán hàng, và điều này sẽ
làm cho thị trường được mở rộng. Số người cạnh tranh tăng cũng làm tăng số đầu mối
bán lẻ và sản lượng của doanh nghiệp cũng phải tăng vọt theo để mong cung cấp đủ
hàng.
Lợi nhuận tăng suốt trong giai đoạn phát triển, khi mà chi phí quảng cáo được
tính trên khối lượng lớn, chi phí sản xuất tính trên mỗi đơn vị cũng giảm nhờ "kinh
nghiệm tích lũy". Cuối giai đoạn phát triển, mức độ tăng tưởng chậm dần và các doanh
nghiệp chuẩ n bị những chiến lược mới cho giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn phát triển, doanh nghiệp có thể triển khai một số chiến lược
marketing để kéo dài thêm mức độ phát triển nhanh chóng của thị trường.
- Chiến lược cải tiến chất lượng sản phẩ m, tăng cường thêm những đặc tính mới và
mẫu mã mới cho sản phẩ m.
- Chiến lược thâm nhập vào những phân đoạn thị trường mới.
- Chiến lược mở rộng phạm vi phân phối hiện có và tham gia vào kênh phân phối
mới.
- Chiến lược chuyển mục tiêu quảng cáo từ giới thiệu mặt hàng sang tạo niềm tin
và sự ưa thích sản phẩ m.
- Chiến lược giảm giá đúng lúc để thu hút những khách hàng nhạy cảm với giá cả.
Chiến lược mở rộng thị trường này củng cố vị thế cạnh tranh của công ty. Công ty
trong giai đoạn này đối mặt với sự cân nhắc lựa chọn giữa thị phần cao và lợi nhuận
hiện tại cao. Bằng cách chi tiêu tiền cho việc cải tiến sản phẩ m, cổ động và phân phối,
công ty có thể chiếm được vị thế thống trị. Công ty hy sinh lợi nhuận hiện tại tối đa với
hy vọng đạt được lợi nhuận cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.
7.5.4. Chiến lược marketing: Giai đoạn bão hòa (sung mãn)
Đến một thời điểm nào đó, mức tăng doanh số của sản phẩ m sẽ chậm dần lại và
sản phẩ m bước vào giai đoạn sung mãn tương đối. Giai đoạn sung mãn này thường
kéo dài hơn những giai đoạn trước đó, đặt ra những thử thách gay go đối với các nhà
quản trị marketing. Đa số các sản phẩ m đều đang trong giai đoạn sung mãn của chu kỳ
sống và gần như toàn bộ công việc quản trị marketing đều nhằm vào giải quyết những
vấn đề của sản phẩ m trong giai đoạn sung mãn đó.
a. Các thời kỳ trong giai đoạn sung mãn:
Giai đoạn sung mãn có thể phân thành ba thời kỳ: sung man
̃ tăng trưởng, sung
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 127
mañ ổ n đinh,
̣ sung mañ suy thoái.
- Sung mañ tăng trưởng: Đây là thời kỳ có tốc độ tăng trưởng doanh số bắt
đầu giảm sút; không có kênh phân phối mới để tăng cường, mặc dù một số
người chấp nhận muộn vẫn còn mua sản phẩ m.
- Sung mañ ổ n đinh:̣ doanh số bán tính trên đầu người không thay đổi vì thị
trường đã baõ hòa. Đa số những khách hàng tiềm năng đã dùng thử sản
phẩ m đó và mức tiêu thụ tương lai phụ thuộc vào mức tăng dân số và nhu
cầu thay thế.
- Sung mãn suy tàn: Thời kỳ này có qui mô doanh số giảm dần, khách hàng
chuyển sang dùng những sản phẩ m khác và những sản phẩ m thay thế.
b. Chiế n lược marketing trong giai đoạn sung mãn (trưởng thành):
Trong giai đoạn sung mãn, các doanh nghiệp thường tìm cách loại bỏ những
sản phẩ m yếu kém và tập trung nguồn lực vào các sản phẩ m có lời nhiều hơn, và đôi
khi xem thường tiềm năng to lớn của những sản phẩ m cũ hiện có của mình. Những
người làm marketing cần phải xem xét một cách có hệ thống các chiến lược thị trường,
sản phẩ m và cải tiến marketing - mix.
❖ Đổi mới thị trường
Doanh nghiệp cố gắng làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩ m hiện có theo hai
hướng: tăng số người sử dụng sản phẩ m và tăng mức sử dụng của mỗi người.
✓ Tăng số người sử dụng sản phẩm có thể bằng cách:
- Tìm kiếm những khách hàng mới (tác động làm thay đổi thái độ của những
người không sử dụng sản phẩ m đó);
- Thâm nhập vào những phân đoạn thị trường mới
- Hãy giành lấy khách hàng cuả các đối thủ cạnh tranh.
✓ Tăng mức độ sử dụng của những khách hàng hiện có
- Thuyết phục họ sử dụng thường xuyên hơn
- Sử du ̣ng với số lươ ̣ng nhiề u hơn
- Phát hiê ̣n những công du ̣ng mới và khuyế n khić h mo ̣i người sử du ̣ng sản phẩ m
theo chiề u hướng đa da ̣ng.
❖ Đổi mới sản phẩm
Các nhà quản trị marketing cũng có thể đổi mới các thuộc tính của sản phẩ m
như chất lượng, đặc tính, kiểu dáng để thu hút thêm khách hàng mới và có được công
dụng nhiều hơn.
✓ Chiế n lược tăng cường chấ t lượng
Chiến lược tăng cường chất lượng nhằ m nâng cao hiệu năng của sản phẩ m như độ
bền, độ tin cậy, hương vị, tốc độ. Một nhà sản xuất có thể vượt qua các đối thủ cạnh
tranh bằng cách đưa ra một sản phẩ m"mới và được cải tiến". Chiến lược này có hiệu
quả chừng nào mà chất lượng còn có thể cải tiến được, người mua còn tin lời tuyên bố
về chất lượng đã cải tiến và còn có nhiều người mua mong muốn có chất lượng cao hơn.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 128
✓ Chiế n lược tăng cường đặc tính
Chiến lược tăng cường đặc tính nhằm tăng thêm những tính chất đặc trưng mới
(như kích cỡ, trọng lượng, vật liệu chế tạo, phụ tùng kèm theo) để làm tăng thêm công
dụng, sự đa dạng, mức độ an toàn hoặc sự thuận tiện của sản phẩ m. Chiến lược này có
một số lợi thế. Chiến lược tăng cường đặc tính của sản phẩ m có khả năng tạo nên hình
ảnh và tinh thần đổi mới doanh nghiệp và tranh thủ được sự trung thành của một số
phân đoạn thị trường coi trọng các đặc tính đó. Chiến lược này đem lại cơ hội cho việc
truyền bá miễn phí và tạo ra sự nhiệt tình của lực lượng bán hàng và các nhà phân phối.
Tuy nhiên chiến lược này có đặc điểm là bị đối thủ cạnh tranh bắt chước, trừ khi những
lợi ích của chiến lược này chỉ dành cho người đầu tiên tung ra và sự tăng cường đặc tính
sản phẩ mkhông đem lại lợi ích trong dài hạn.
✓ Chiế n lược cải tiế n kiể u dáng
Chiến lược cải tiến kiểu dáng nhằm làm tăng tính hấp dẫn về thẩ m mỹ của sản
phẩ m. Việc định kỳ tung ra thị trường những sản phẩ m có kiểu dáng mới được xem là
cạnh tranh về hình thức sản phẩ m, chứ không phải là cạnh tranh về chất lượng hay đặc
tính của sản phẩ m. Thực chất của chiến lược cải tiến kiểu dáng là tạo ra đặc điểm độc
đáo về hình thức, cấu trúc và màu sắc bao bì để khách hàng dễ nhận biết nhằm thu hút
thêm khách hàng mới đồng thời vẫn tranh thủ được những khách hàng trung thành với
nhãn hiệu sản phẩ m.
✓ Cải tiến phối thức marketing (marketing - mix):
Các nhà quản trị marketing cũng có thể kích thích doanh số bằng cách cải tiến
một vài yếu tố trong phối thức marketing.
- Giá cả:
Doanh nghiệp cần cân nhắc những khả năng có thể giảm giá bán để thu hút
khách hàng mới và khách hàng của các hãng cạnh tranh. Đưa ra các quyết định liên
quan đến giảm giá chính thức, hay giảm giá thông qua cách qui định giá đặc biệt, chiết
khấu theo khối lượng, định giá bao gồm cước phí vận chuyển hay không kèm cước phí
vận chuyển. Kể cả khả năng có thể tăng giá để khẳng định chất lượng cao hơn.
- Phân phố i
Doanh nghiệp cần tìm cách tranh thủ được sự hỗ trợ sản phẩ m và khả năng trưng
bày nhiều hơn ở các trung gian bán lẻ, hay có thể hướng sang những kênh phân phối quy
mô lớn, nhất là những trung gian phân phối cực lớn, nếu kênh phân phối đó đang phát
triển.
- Cổ động
Doanh nghiệp cần xem xét những cơ hội quảng cáo hiệu quả hơn, phân tích khả
năng thay đổi nội dung và hình thức của thông điệp quảng cáo, cách thức và phương
tiện truyền đạt, tần suất, thời điểm quảng cáo, cũng mức mức độ đáp ứng ngân sách
quảng cáo cho những thay đổi đó.
Doanh nghiệp cũng nên sử dụng những công cụ và hình thức khuyến mãi năng
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 129
động hơn, như mức hoa hồng cao, điều kiện tín dụng ưu đãi hơn, giải thưởng hoặc tặng
quà kèm theo,...
Đố i với bán hàng cá nhân, liệu công ty nên tăng chất lượng hay số lượng nhân
viên bán hàng. Những nền tảng cho sự chuyên môn hóa của lực lượng bán hàng nên
thay đổi như thế nào? Lãnh địa bán hàng có nên được xem xét lại không?
- Di ̣ch vụ
Doanh nghiệp cũng có thể cung ứng những dịch vụ mới và chất lượng dịch vụ tốt
hơn cho khách hàng bằng cách tăng tốc độ giao hàng, phát triển các dịch vụ hỗ trợ
khách hàng hoặc cung cấp tín dụng nhiều hơn.
Những người làm marketing thường thảo luận những công cụ nào hiệu quả nhất
trong giai đoạn bão hòa. Chẳng hạn, liệu công ty có đạt được lợi nhuận nhiều hơn
bằng cách tăng cường quảng cáo hoặc ngân sách khuyến mãi? Khuyến mãi có nhiều
tác động hơn vào giai đoạn này vì người mua đạt đến điểm cân bằng trong thói quen và
sở thích mua hàng của mình, và những yếu tố thuyết phục về tâm lý (từ các quảng cáo)
không còn hiệu quả bằng những công cụ khuyến khích tài chính như khuyến mãi…
Tùy theo tình trạng cụ thể của phối thức marketing trong mỗi doanh nghiệp mà
thực hiện việc cải tiến các yếu tố cho phù hợp với những thay đổi của thị trường. Một
vấn đề của chiến lược thay đổi phối thức marketing, đặc biệt là việc giảm giá và các
dịch vụ gia tăng, đó là tính dễ bắt chước. Công ty có thể không đạt được kết quả mong
muốn và tất cả các công ty phải gánh chịu sự xói mòn về lợi nhuận khi họ sử dụng
phối thức marketing để tấn công lẫn nhau. Chính vì thế, doanh nghiệp cần phân tích
đầy đủ các yếu tố của thị trường, cấu trúc của phối thức marketing của mình và của đối
thủ cạnh tranh để có những cải tiến mang tính khả thi và hiệu quả.
7.5.5. Chiến lược marketing: Giai đoạn suy thoái
Sau một thời gian có mặt trên thị trường, hầu hết các sản phẩ m và nhãn hiệu sẽ
giảm dần doanh số bán của mình. Sự suy giảm doanh số có thể nhanh hay chậm, hoặc ổn
định ở một mức thấp trong thời gian khá dài, nhưng về cơ bản không còn khả năng
sinh lời như trước nữa. Đó là biểu hiện của giai đoạn suy thoái.
Doanh số sụt giảm có thể vì nhiều lý do khác nhau, như sự đổi mới về công
nghệ, sự thay đổi sở thích của khách hàng, sự cạnh tranh ngày càng tăng lên. Tất cả
đều dẫn tới tình trạng dư thừa năng lực sản xuất, giá cả sản phẩ m ngày càng giảm
xuống kéo theo sự suy giảm nhanh chóng của lợi nhuận. Khi doanh số và lợi nhuận suy
giảm, một số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, những doanh nghiệp còn lại có thể
giảm bớt sản lượng, từ bỏ những phân đoạn thị trường nhỏ và thu hẹp mạng lưới phân
phối sản phẩ m. Họ cũng có thể cắt giảm chi phí quảng cáo và giảm giá bán xuống thấp
hơn nữa.
Cho đến khi những lý do để tồn tại không còn nữa, ví dụ khi sản phẩ m yếu kém
quá tốn kém đối với công ty, doanh thu không thể bù đắp được chi phí cố định và tất
nhiên không đem lại lợi nhuận, nghĩa là có quá nhiều chi phí chìm. Các sản phẩ m yếu
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 130
thường tiêu dùng một lượng thời gian quản lý không tỉ lệ tương xứng, đòi hỏi những
điều chỉnh về giá và tồn kho thường xuyên, thường liên quan đến kế hoạch sản xuất
ngắn hạn thay vì kế hoạch dài hạn, đòi hỏi cả nỗ lực quảng cáo lẫn lực lượng bán hàng
mà lý ra nếu đầu tư cho các sản phẩ m mạnh hơn sẽ đem lại lợi nhuận nhiều hơn và đôi
khi việc bán những sản phẩ m này có thể gây lo âu, nghi ngờ cho khách hàng và làm
mờ hình ảnh của công ty. Chi phí lớn nhất có thể sẽ phát sinh trong tương lai. Thất bại
trong việc loại bỏ những sản phẩ m yếu sẽ làm chậm việc tìm kiếm và phát triển những
sản phẩ m thay thế.
Khi nghiên cứu chiến lược công ty trong những ngành suy thoái, Harrigan đã
xác định năm chiến lược khác nhau mà các công ty có thể sử dụng:
- Tăng đầu tư của công ty (để thống trị thị trường hoặc củng cố vị thế cạnh tranh)
- Duy trì mức đầu tư cho đến khi tính không chắc chắc về ngành được giải quyết
- Giảm mức đầu tư một cách có lựa chọn, bằng cách loại bỏ những nhóm khách
hàng không sinh lợi, đồng thời củng cố đầu tư của công ty vào những phân đoạn có
lãi
- Thu hoạch những đầu tư của công ty để thu hồi ngân quỹ một cách nhanh chóng
- Loại bỏ nhanh chóng các đơn vị kinh doanh kém hiệu quả bằng cách bán tài
sản một cách có lợi nhất có thể.
Việc lựa chọn chiến lược marketing trong giai đoạn suy tàn của sản phẩ m phụ
thuộc rất nhiều vào mức độ hấp dẫn tương đối của ngành và sức mạnh cạnh tranh của
doanh nghiệp trong ngành đó. Công ty ở trong ngành không còn hấp dẫn nhưng lại có
những sức mạnh cạnh tranh phải xem xét việc lùi bước một cách chọn lọc. Công ty
trong ngành hấp dẫn và có sức cạnh tranh mạnh mẽ thì phải củng cố việc đầu tư của
mình.
Với mỗi sản phẩ m đang ở giai đoạn suy tàn, các nhà quản trị phải quyết định
xem nên thực hiện chiến lược marketing nào: duy trì, thu hoạch vét hay loại bỏ nó.
- Thứ nhất, doanh nghiệp có thể quyết định duy trì hiệu quả của nó bằng
cách đầu tư thêm với hy vọng các đối thủ cạnh tranh sẽ từ bỏ ngành này.
- Thứ hai, doanh nghiệp có thể quyết định thu hoạch nốt sản phẩ m nghĩa là
cắt giảm các loại chi phí (cơ sở và thiết bị, bảo trì, R&D, quảng cáo, số
lượng nhân viên bán hàng) và hy vọng rằng doanh số vẫn đứng vững trong
một thời gian nữa. Nếu thành công, giải pháp này cũng làm tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp trong một thời gian ngắn.
- Cuối cùng, doanh nghiệp cũng có thể loại bỏ hẳn sản phẩ m ra khỏi danh
mục sản phẩ m của mình hay bán nó cho một doanh nghiệp khác.
7.6. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM MỚI
7.6.1. Các thách thức trong phát triển sản phẩm mới
Sản phẩ m mới là gì? Sản phẩm mới được hiểu là tất cả những sản phẩm được
một số khách hàng tiềm năng cảm nhận như mới, bao gồm sản phẩ m mới hoàn toàn,
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 131
sản phẩ m cải tiến, những cách hoàn chỉnh sản phẩ m và nhãn hiệu mới mà doanh
nghiệp đang triển khai thông qua các nỗ lực nghiên cứu và phát triển của riêng mình.
Theo các tác giả Booz, Allen và Hamilton thì có sáu loại sản phẩ m mới đối với
doanh nghiệp và thị trường.
- Sản phẩm mới đối với thế giới: tức là những sản phẩ m mới tạo ra một thị
trường hoàn toàn mới.
- Loại sản phẩm mới: Những sản phẩ m mới cho phép doanh nghiệp thâm
nhập lần đầu tiên một thị trường đã có sẵn.
- Bổ sung loại sản phẩm hiện có: Những sản phẩ m mới bổ sung thêm vào
các loại sản phẩ m hiện có của doanh nghiệp (kích cỡ, hương vị,...).
- Cải tiến sản phẩm hiện có: Những sản phẩ m mới có những tính năng tốt
hơn hay giá trị nhận được cao hơn và thay thế những sản phẩ m hiện có.
- Sản phẩm được định vị lại: Những sản phẩ m hiện có được nhằm vào thị
trường hay những phân đoạn thị trường mới.
- Sản phẩm giảm chi phí: Những sản phẩ m mới có những tính năng tương tự
nhưng với chi phí thấp hơn.
Việc phát triển sản phẩ m mới thường gặp nhiều thất bại hơn là thành công. Tại
sao có nhiều sản phẩ m mới bị thất bại? Có nhiều lý do. Một nhà quản trị cấp cao có
thể đã ủng hộ ý tưởng mà ông ta ưa thích, bất chấp những kết quả marketing cho thấy là
bất lợi. Hoặc ý tưởng thì tốt, nhưng người đã đánh giá quá cao qui mô thị trường của
nó. Hoặc sản phẩ m đã không được chế tạo hoàn hảo đúng mức. Hoặc nó đã bị định vị
sai trong thị trường, hay không được quảng cáo chu đáo, hay do định giá quá cao. Đôi
khi những chi phí cho việc triển khai lại cao hơn dự kiến, hoặc các đối thủ cạnh tranh đã
phản ứng mạnh hơn mức doanh nghiệp dự tính.
Càng ngày việc triển khai sản phẩ m mới sẽ khó thành công hơn vì những lý do
sau:
- Thiếu những ý tưởng hay về sản phẩ m mới.
- Thị trường ngày càng manh mún và cạnh tranh gay gắt.
- Những đòi hỏi của xã hội và chính quyền về an toàn trong tiêu dùng và bảo
vệ môi trường ngày càng cao hơn.
- Quá trình triển khai sản phẩ m mới quá tốn kém do áp lực về chi phí nghiên
cứu phát triển và marketing.
- Thiếu vốn đầu tư cho nghiên cứu triển khai những ý tưởng tốt có triển vọng.
- Chu kỳ sống của các sản phẩ m ngày càng rút ngắn lại làm tăng nguy cơ
khó thu hồi vốn đầu tư cho nghiên cứu phát triển sản phẩ m mới.
7.6.2. Quản trị tiến trình phát triển sản phẩm mới
7.6.2.1. Hình thành ý tưởng
Đây là bước đầu tiên của quá trình phát triển sản phẩm mới. Để tránh sai lầm,
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 132
các ý tưởng sản phẩm mới phải theo định hướng chiến lược của công ty, phục vụ cho
mục tiêu chiến lược mà công ty theo đuổi. Mục tiêu của giai đoạn này là tập hợp
càng nhiều càng tốt các ý tưởng sản phẩm mới.
Để khơi đô ̣ng mô ̣t dòng liên tu ̣c những ý tưởng mới, công ty phải tích cực tìm
kiế m từ nhiề u nguồ n. Những nguồ n chủ yế u là:
- Khách hàng. Theo quan điểm marketing, những nhu cầu và mong muốn của
khách hàng là xuất phát điểm cho mọi ý tưởng về sản phẩ m mới. Thông qua việc
nghiên cứu những nhóm khách hàng chủ yếu sử dụng sản phẩ m của doanh nghiệp bằng
các cuộc thăm dò, phỏng vấn và trắc nghiệm cá nhân hay trao đổi nhóm tập trung và qua
những thư góp ý, khiếu nại của họ, doanh nghiệp có thể tìm hiểu những yêu cầu cải
tiến sản phẩ m mà họ đặt ra cho nhà sản xuất và các nhà nghiên cứu phát triển sản
phẩ mcó thể phát hiện ra những ý tưởng hay cho nguồn cảm hứng sáng tạo sản phẩ m
mới.
- Những chuyên gia đầu ngành. Các doanh nghiệp cũng có thể dựa vào những ý
kiến của các nhà khoa học đầu ngành, các kỹ sư, các nhà thiết kế giỏi trong và ngoài
doanh nghiệp để hình thành nên những ý tưởng về sản phẩ m mới.
- Đối thủ cạnh tranh. Tìm hiểu ý định của đối thủ cạnh tranh và nghiên cứu các
sản phẩ m của họ cũng như lý do khách hàng chọn dùng sản phẩ m của đối thủ là một
cách rất tốt để đưa ra những cải tiến sản phẩ m hơn hẳn sản phẩ m của đối thủ cạnh tranh.
- Những nhà cung ứng và phân phối sản phẩm là một nguồn cung cấp thông tin
quan trọng giúp cho việc hình thành nên những ý tưởng có tính khả thi cao. Họ luôn là
những người gần gũi khách hàng, hiểu rõ những ý kiến khen ngợi hay phàn nàn về sản
phẩ m của doanh nghiệp từ phía khách hàng, do đó có thể có những ý tưởng hay trong
việc thiết kế cải tiến sản phẩ m nhằm thỏa mãn tốt hơn những đòi hỏi và mong muốn của
khách hàng.
- Ban lãnh đạo doanh nghiệp cũng là một nguồn chủ yếu phát sinh các ý tưởng
mới về sản phẩ m. Họ có thể đề xuất và tổ chức thực hiện đến cùng ý tưởng về sản
phẩ m mới của mình hay ủng hộ một ý tưởng mà họ cho là có triển vọng thành công,
hay không chấp nhận một ý tưởng có thể tốt nhưng không được họ đánh giá cao.
Trong giai đoạn này, để khắc phục những sai sót có thể xảy ra, các doanh nghiệp
có thể áp dụng các phương pháp hình thành ý tưởng như phương pháp liệt kê các
thuộc tính (phân tích, đánh giá các thuộc tính đang có, từ đó thiết kế các giải pháp
hoàn thiện và tạo ra sản phẩ m mới), phương pháp phân tích hình thái học (phát hiện
các cấu trúc, khảo sát các mối quan hệ giữa chúng và tìm ra những cách kết hợp mới),
phương pháp phát hiện nhu cầu và vấn đề qua ý kiến của khách hàng, hay phương pháp
động não trong nhóm sáng tạo (khuyến khích đưa ra càng nhiều ý tưởng càng tốt, chưa
cần phê phán, khuyến khích kết hợp và phát triển các ý tưởng).
7.6.2.2. Sàng lọc ý tưởng
Giai đoạn này có mục tiêu loại bỏ các ý tưởng không phù hợp với mục tiêu,
chiến lược và tiềm lực của doanh nghiệp. Trong giai đoạn sàng lọc này, doanh nghiệp
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 133
cần tránh hai loại sai lầm:
- Sai lầm bỏ sót (drop-error) là khi doanh nghiệp gạt bỏ đi một ý tưởng hay.
Nếu một doanh nghiệp phạm quá nhiều sai lầm bỏ sót, tức là những tiêu
chuẩ n của họ quá bảo thủ.
- Sai lầm để lọt lưới (go-error) xảy ra khi doanh nghiệp chấp nhận một ý
tưởng dở và đưa nó vào triển khai, tung ra thị trường. Điều này dẫn đến
những hao tốn vô ích, hoặc lợi nhuận kém.
Mục đích của việc sàng lọc là nhằm chỉ ra và loại bỏ những ý tưởng kém cỏi
càng sớm càng tốt. Chi phí cho việc phát triển sản phẩ m mới qua mỗi giai đoạn càng
tăng lên. Khi sản phẩ m đi đến những giai đoạn cuối, các nhà quản trị cảm thấy họ đã
đầu tư quá nhiều nên cần phải tung sản phẩ m ra, mong thu hồi lại phần nào vốn đầu tư.
Nhưng một sự nóng vội như vậy sẽ làm giảm hiệu quả của phần vốn đầu tư thêm. Vì
thế, các doanh nghiệp cần phải có phương pháp sàng lọc có hiệu quả.
Trước hết doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu của việc phát triển sản phẩ m
mới (lợi nhuận, doanh số, tốc độ tăng trưởng doanh thu, tăng thêm uy tín) thị trường
mục tiêu của nó và tình hình cạnh tranh, ước tính qui mô thị trường, giá bán dự kiến,
thời gian và chi phí nghiên cứu phát triển và chi phí sản xuất, khả năng sinh lời.
Để đánh giá và chắt lo ̣c các ý tưởng, doanh nghiệp cần đưa ra những tiêu chuẩ n
làm cơ sở cho việc so sánh chúng. Các tiêu chuẩ n thường được sử dụng phổ biến là:
mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, mức độ của tính năng sản phẩ m cho phép
định giá cạnh tranh, khả năng khuếch trương những đặc điểm khác biệt,...
7.6.2.3. Phát triển và thử nghiệm quan niệm sản phẩ m
Những ý tưởng đứng vững sau khi sàng lọc giờ đây phải được phát triển thành
những quan niệm về sản phẩ m. Có sự khác biệt giữa ý tưởng sản phẩ m và quan niệm
sản phẩ m. Một ý tưởng sản phẩ m là ý nghĩ về một sản phẩ m có thể có để doanh
nghiệp tung vào thị trường. Quan niệm sản phẩ m là sự chuyển đạt khéo léo một ý
tưởng bằng ngôn ngữ cho khách hàng có thể hiểu được. Hình ảnh sản phẩ m là một
bức tranh cụ thể của một sản phẩ m mà khách hàng có trong đầu về một sản phẩ m thực
tế hay tiềm năng.
Phát triển quan niệm
Mọi ý tưởng sản phẩ m đều có thể chuyển thành những quan niệm sản phẩ m. Từ
những ý tưởng sản phẩ m mới đã qua sàng lọc, ngườì làm marketing phải triển khai
chúng thành những quan niệm sản phẩ m, đánh giá mức hấp dẫn đối với khách hàng
của từng quan niệm sản phẩ m đó và lựa chọn quan niệm sản phẩ m thích hợp nhất.
Thử nghiệm quan niệm
Thử nghiệm quan niệm sản phẩ m là đưa những quan niệm sản phẩ m đó ra thử
nghiệm ở một nhóm khách hàng mục tiêu mà doanh nghiệp đang muốn hướng tới. Các
quan niệm có thể trình bày bằng biểu trưng hay bằng hiện vật. Ở giai đoạn này, việc
diễn đạt bằng lời hay bằng hình vẽ cũng đủ, tuy rằng sự gợi ý cho khách hàng càng cụ
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 134
thể và càng sinh động thì độ tin cậy của thử nghiệm càng cao.
Người làm marketing phải đưa ra những câu hỏi cho nhóm khách hàng mục tiêu
để tìm hiểu xem quan niệm sản phẩ m mới có hấp dẫn và phù hợp với họ không và phù
hợp đến mức độ nào theo quan niệm của khách hàng và khách hàng còn kỳ vọng gì
thêm nữa đối với sản phẩ m mới của doanh nghiệp. Từ đó mà tiên lượng mức độ khả
thi của sản phẩ m mới. Đây là một giai đoạn rất quan trọng.
7.6.2.4. Hoạch định chiến lược Marketing
Đến đây doanh nghiệp phải triển khai sơ bộ một chiến lược marketing để tung
sản phẩm ra thị trường. Bản chiến lược marketing bao gồm 3 phần sau:
- Phần 1: Mô tả quy mô, cơ cấu, hành vi của thị trường mục tiêu, dự kiến định
vị và bán sản phẩm, thị phần và mức lợi nhuận mong đợi trong vài năm đầu.
- Phần 2: Dự kiến giá sản phẩm, chiến lược phân phối và kinh phí marketing
cho năm đầu tiên.
- Phần 3: Chỉ tiêu mức tiêu thụ, lợi nhuận lâu dài và chiến lược marketing mix
theo thời gian.
7.6.2.5. Phân tích kinh doanh
Một khi các nhà quản trị đã quyết định về quan niệm sản phẩ m và phác họa
những nét tổng quát của chiến lược marketing , họ có thể đánh giá mức độ hấp dẫn về
mặt kinh doanh của sản phẩ m mới này. Các nhà quản trị phải xem xét lại các dự toán
về doanh số, chi phí và mức lợi nhuận để xác định xem nó có thỏa mãn các mục tiêu
của doanh nghiệp không. Nếu thỏa mãn được mục tiêu lợi nhuận hay chí ít là có thể tiêu
thụ được một số lượng sản phẩ m đủ hòa vốn, doanh nghiệp có thể quyết định bước sang
giai đoạn phát triển sản phẩ m.
- Ước lượng doanh số :
Cấ p quản tri ̣ cầ n đánh giá xem doanh số có đủ cao để thu đươ ̣c mức laĩ thỏa
đáng cho công ty không. Ho ̣ nên khảo sát quá trin ̀ h bán của các sản phẩ m tương tự, và
cầ n điề u tra ý kiế n của thi ̣trường. Viê ̣c tiên liê ̣u doanh số cho sản phẩ m còn tùy thuô ̣c
vào loa ̣i sản phẩ m mua mô ̣t lầ n thôi, loa ̣i mua không thường xuyên hay loa ̣i mua
thường.
- Ước lượng chi phí và mức lợi nhuận
Sau khi tiên liê ̣u doanh số , cấ p quản tri ̣ có thể ước lươ ̣ng phí tổ n và tiề n lời.
Các phí tổ n đươ ̣c ước tiń h do các bô ̣ phâ ̣n R&D, tài chin ́ h, kế toán, sản xuấ t, chi phí
dự kiế n cho hoa ̣t đô ̣ng marketing.
7.6.2.6. Phát triển sản phẩm (triển khai sản phẩ m)
Nếu sản phẩ m qua được cuộc thử nghiệm về mặt kinh doanh, nó sẽ được chuyển
tới bộ phận nghiên cứu và phát triển hay bộ phận kỹ thuật để triển khai thành một sản
phẩ m cụ thể. Cho đến nay, nó chỉ là sự mô tả bằng ngôn ngữ hay bản vẽ hoặc mô hình
sơ thảo. Giai đoạn này đòi hòi đầu tư tăng vọt lên, vượt xa những chi phí trong các giai
đoạn trước. Giai đoạn này sẽ cho thấy ý tưởng sản phẩ m có thể biến thành một sản
phẩ m khả thi xét về mặt kỹ thuật và thương mại được hay không. Nếu không được,
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 135
mọi đầu tư của doanh nghiệp sẽ mất đi, ngoại trừ một số thông tin có ích nào đó thu
nhận được trong quá trình phát triển sản phẩ m.
Bô ̣ phâ ̣n R&D sẽ triể n khai quan niê ̣m sản phẩ m thành mô ̣t hoă ̣c nhiề u da ̣ng
chuyể n thể cu ̣ thể , nó hy vo ̣ng sẽ tim
̀ ra đươ ̣c mẫu hin
̀ h thỏa mañ các tiêu chuẩ n sau đây:
- Khách hàng thấ y rõ nó đã thể hiê ̣n cu ̣ thể những đă ̣c tiń h chủ chố t đươ ̣c
nêu trong quan niê ̣m
- Mẫu hình đó hoa ̣t đô ̣ng an toàn trong các điề u kiê ̣n và viê ̣c sử du ̣ng bình
thường
- Mẫu hình có thể sản xuấ t đươ ̣c với chi phí sản xuấ t đã dự trù.
Khi mô hình sản phẩ m đã được thiết kế và chế tạo, chúng phải được thử
nghiệm. Thử nghiệm về chức năng được tiến hành trong phòng thí nghiệm lẫn ngoài
thực tế đối với khách hàng để đảm bảo rằng chúng hoạt động an toàn và hiệu quả. Thử
nghiệm sản phẩ m mới đối với khách hàng là yêu cầu khách hàng sử dụng thử rồi đánh
giá từng đặc tính cũng như toàn bộ sản phẩ m. Nếu giai đoạn này kết thúc thành công,
sản phẩ m mới được chuyển sang giai đoạn thử nghiêm thị trường
7.6.2.7. Thử nghiệm thị trường
Sau khi sản phẩ m mới vượt qua được những thử nghiệm về chức năng và thử
nghiệm đối với khách hàng, cấ p đô ̣ thử nghiê ̣m tiế p theo là thử nghiêm thị trường.
Thử nghiệm thị trường là giai đoạn sản phẩ m mới được xác định nhãn hiệu, bao
bì và một chương trình marketing sơ bộ để đưa vào điều kiện thực tế của thị trường.
Thử nghiệm thị trường cho phép những người làm marketing thu được kinh
nghiệm trong các hoạt động marketing cho sản phẩ m mới, rút ra được những vấn đề
cần tiếp tục xử lý và tìm hiểu nguồn thông tin sâu rộng hơn, trước khi tiến hành tung
sản phẩ m ra thị trường ở quy mô lớn và tốn kém hơn nhiều.
Mục đích chủ yếu của thử nghiệm thị trường là thử nghiệm chính sản phẩ m đó
trong các hoàn cảnh thực tế của thị trường. Những thử nghiệm này cũng cho phép
doanh nghiệp kiểm nghiệm toàn bộ kế hoạch marketing cho sản phẩ m đó, bao gồm
chiến lược định vị sản phẩ m, quảng cáo, phân phối, định giá, lập nhãn hiệu, làm bao bì
và ngân sách marketing. Doanh nghiệp sử dụng thử nghiệm thị trường để tìm hiểu
phản ứng của người tiêu dùng cũng như của các trung gian phân phối trong vấn đề xử
lý, sử dụng và mua lại sản phẩ m. Các kết quả của thử nghiệm thị trường có thể sử
dụng để tiên lượng doanh số và khả năng sinh lời chính xác hơn.
Lưu ý rằng số lần thử nghiệm thị trường cần thiết thay đổi tùy theo sản phẩ m.
Quyết định thử nghiệm hay không và số lần thử nghiệm là bao nhiêu, một mặt tùy thuộc
vào kinh phí đầu tư và xác suất gánh chịu phí tổn khi giới thiệu sản phẩ m, mặt khác còn
tùy vào chi phí thử nghiệm và áp lực thời gian. Các phương pháp thử nghiệm thị
trường đều có ưu khuyết điểm riêng nên cần đươ ̣c lựa chọn cho phù hợp với từng loại
sản phẩ m và tình hình thị trường.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 136
7.6.2.8. Thương mại hóa sản phẩm
Sau khi trải qua thử nghiệm, sản phẩm mới được chấp thuận, được điều chỉnh
và tung ra thị trường. Trong giai đoạn này công ty phải quyết định các vấn đề sau:
- Khi nào ? (thời điểm).
Quyết định đầu tiên là xem vào lúc nào tung sản phẩ m mới cần được tung ra
thị trường. Có thể phân chia ước lệ ba thời điểm cần thương mại hoá sản phẩ m mới là:
tung sản phẩ m ra thị trường trước tiên, tung sản phẩ m ra đồng thời với các đối thủ cạnh
tranh, tung sản phẩ m ra thị trường muộn hơn.
- Ở đâu ? (khu vực địa lý).
Doanh nghiệp phải quyết định sẽ tung sản phẩ m mới ra ở một địa điểm duy nhất,
ở một vùng, ở nhiều vùng, trong toàn quốc hay trên thị trường quốc tế.
- Cho ai ? (thị trường mục tiêu).
Trong những thị trường ngày càng mở rộng, doanh nghiệp phải hướng hoạt
động phân phối và quảng cáo vào những nhóm khách hàng tương lai tốt nhất.
- Như thế nào ? (chiến lược tung ra thị trường).
Doanh nghiệp phải triển khai một kế hoạch hành động nhằm giới thiệu sản phẩ m
mới vào thị trường ngày càng được mở rộng. Họ phải phân bổ ngân sách marketing cho
các yếu tố của marketing-mix và nối kết các hoạt động khác với nhau
7.7. QUYẾT ĐỊNH VỀ DỊCH VỤ
7.7.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm của dịch vụ
7.7.1.1. Khái niệm
Dịch vụ được định nghĩa là bất kỳ hoạt động nào mà một bên có thể cung ứng
cho bên kia và cung ứng này là vô hình và không tạo ra bất kỳ sự sở hữu nào về vật
chất cụ thể. Việc sản xuất ra dịch vụ có thể hoặc không sử dụng các hỗ trợ của sản phẩ m
vật chất.
7.7.1.2. Phân loa ̣i
Cung ứng của công ty ra thị trường thường bao gồm một số dịch vụ. Dịch vụ có
thể là một phần quan trọng hoặc một phần phụ trong toàn bộ cung ứng. Có năm loại
dịch vụ như sau:
- Hàng hóa hoàn toàn hữu hình: cung ứng bao gồm chủ yếu là hàng hóa hữu hình, ví
dụ như kem đánh răng, dầ u gô ̣i đầ u, sách vở... Không hề có dịch vụ nào được kèm
theo sản phẩ m.
- Hàng hóa hữu hình kèm theo dịch vụ: cung ứng bao gồm hàng hóa hữu hình được
kèm theo một hoặc một vài dịch vụ. Sản phẩ m công nghệ càng cao (xe hơi và máy
tính) thì việc bán hàng càng phụ thuộc vào chất lượng và tính sẵn có của các dịch
vụ khách hàng kèm theo (phòng trưng bày hàng hóa, giao hàng, sửa chữa và bảo
dưỡng, hỗ trợ sử dụng, đào tạo vận hành, lắp đặt, bảo hành).
- Hàng hóa hữu hình kết hợp dịch vụ: cung ứng bao gồm hai phần dịch vụ và hàng
hóa hữu hình bằng nhau. Chẳng hạn, khách hàng đến nhà hàng vì cả thức ăn lẫn dịch
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 137
vụ.
- Dịch vụ kèm theo hàng hóa hữu hình và dịch vụ bổ sung: cung ứng bao gồm một
phần lớn là dịch vụ đi kèm với những hàng hóa hữu hình hoặc dịch vụ phụ trợ.
Chẳng hạn, hành khách hàng không mua dịch vụ vận chuyển. Chuyến đi bao gồm
cả một số hàng hóa hữu hình như thức ăn, nước uống và tạp chí hàng không. Dịch
vụ đòi hỏi phải có hàng hóa hữu hình như máy bay để thực hiện dịch vụ, tuy nhiên
yếu tố quan trọng vẫn là dịch vụ.
- Dịch vụ hoàn toàn: cung ứng chỉ gồm có dịch vụ. Chẳng hạn, dịch vụ massage,
̣ vu ̣ chăm sóc người già, …
̣ vu ̣ hớt tóc, dich
dich
7.7.1.3. Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ có các đặc trưng cơ bản khác với sản phẩ m hữu hình khác, như tính vô
hình, tính không thể tách rời, tính không ổn định về chất lượng, tính không lưu giữ được.
- Tính vô hình của dịch vụ có nghĩa là dịch vụ là không thể nhìn thấy, cảm nhận,
nghe hoặc ngửi được trước khi khách hàng mua và sử dụng nó. Do vậy, để giảm
tính không chắc chắn, khách hàng tìm kiếm những "tín hiệu" cho chất lượng dịch
vụ. Khách hàng cảm nhận chất lượng sản phẩ m từ nơi chốn, con người, giá cả,
trang thiết bị và việc truyền thông mà họ tiếp nhận được. Tuy nhiên, nhiệm vụ của
các nhà cung ứng dịch vụ là tăng thêm các yếu tố hữu hình vào dịch vụ theo cách
tốt nhất. Trong khi các nhà làm marketing sản phẩ m cố gắng thêm các yếu tố vô
hình vào sản phẩ m hữu hình của họ, thì ngược lại những người làm marketing dịch
vụ lại cố gắng thêm các yếu tố hữu hình vào các cung ứng vô hình của họ.
- Tính không thể tách rời: Sản phẩ m hữu hình được sản xuất, tồn kho để bán sau đó
và có thể sẽ tiêu dùng sau đó nữa. Ngược lại, dịch vụ trước hết phải được bán, sau
đó mới được sản xuất và tiêu dùng vào cùng một thời điểm. Tính không thể tách rời
của dịch vụ có nghĩa là dịch vụ không thể tách rời khỏi người cung ứng dịch vụ, cho
dù người cung ứng dịch vụ có thể là con người hoặc máy móc.
- Tính đa dạng và không ổn định về chất lượng có nghĩa là chất lượng của dịch vụ
phụ thuộc vào người cung ứng chúng cũng như khi nào, ở đâu và chúng được
cung ứng như thế nào. Chẳng hạn, một khách sạn nào đó có danh tiếng trong việc
cung ứng dịch vụ tốt hơn so với những khách sạn khác. Ở khách sạn này, có thể
nhân viên lễ tân rất niềm nở và nhiệt tình, trong khi ở một bộ phận khác gần đó
nhân viên không vui vẻ và thiếu thiện chí, ngoài ra chất lượng dịch vụ mà các nhân
viên cung ứng cũng thay đổi theo trạng thái tinh thần và thể chất của họ ở thời
điểm mà họ cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
- Tính không lưu giữ được có nghĩa là dịch vụ không thể lưu kho để bán hoặc sử
dụng sau đó. Tính không thể lưu kho của dịch vụ không có vấn đề gì nếu nhu cầu
đều đặn. Tuy nhiên, khi nhu cầu biến đổi nhiều, các công ty dịch vụ thường gặp
nhiều khó khăn. Do vậy, các công ty dịch vụ thường thiết kế chiến lược để cung
ứng một sự phù hợp tốt hơn giữa nhu cầu và sản xuất. Các khách sạn và các khu
giải trí đưa ra mức giá thấp hơn vào những thời gian thấp điểm (mùa mưa) nhằm thu
hút khách hàng.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 138
7.7.2. Chiến lược marketing đối với dịch vụ
7.7.2.1. Tạo ra sự khác biê ̣t của dich ̣ vụ
Liñ h vực dich ̣ vu ̣ khó ta ̣o sự khác biê ̣t hơn so với sản phẩ m vâ ̣t chấ t. Tuy
nhiên, các nhà làm marketing ngày càng nhâ ̣n thức đầ y đủ vai trò của dich ̣ vu ̣ trong
chuỗi nhu cầ u của khách hàng, vì vâ ̣y ho ̣ đang cố gắ ng ta ̣o ra cho các dich ̣ vu ̣ của
mình có những khác biê ̣t để hỗ trơ ̣ cho viê ̣c tiêu thu ̣ sản phẩ m.
Để hỗ trơ ̣ cho viê ̣c ca ̣nh tranh về giá, các doanh nghiê ̣p chú tro ̣ng đế n viê ̣c ta ̣o
ra sự khác biê ̣t về sản phẩ m hay dich ̣ vu ̣, nhân sự, hình ảnh. Yế u tố đầ u tiên là làm
cho sản phẩ m hay dich ̣ vu ̣ của mình có sự khác biê ̣t so với đố i thủ ca ̣nh tranh. Người
làm marketing tìm cách bổ sung vào phầ n dich ̣ vu ̣ cơ bản của mình những tin ́ h chấ t
dich ̣ vu ̣ phu ̣. Tuy nhiên những yế u tố mới về dich ̣ vu ̣ rấ t dễ bi ̣ sao chép, nên chỉ có
mô ̣t số it́ ta ̣o đươ ̣c lơ ̣i thế ca ̣nh tranh trong thời gian nhấ t đinh. ̣ Vì thế các doanh
nghiê ̣p cầ n tìm cách đổ i mới liên tu ̣c dich ̣ vu ̣ và nghiên cứu đưa ra những dich ̣ vu ̣ mới
để thu hút và giữ chân khách hàng.
Các doanh nghiê ̣p có thể ta ̣o ra sự khác biê ̣t trong cung ứng dich ̣ vu ̣ của min ̀ h
theo ba cách là thông qua con người, môi trường vâ ̣t chấ t và tiế n trình cung ứng dich ̣
vu ̣ (3P trong marketing dich ̣ vu ̣)
- Con người (Persons) :
Những nhân viên tham gia vào quá triǹ h ta ̣o ra dich ̣ vu ̣. Trong marketing dich ̣
vu ̣, con người luôn xuấ t hiê ̣n và giữ vai trò quan tro ̣ng trong hoa ̣t đô ̣ng cung cấ p dich ̣
vu ̣ và ảnh hưởng ma ̣nh mẽ đế n chấ t lươ ̣ng cảm nhâ ̣n của khách hàng đố i với dich ̣ vu ̣
đươ ̣c cung ứng.
- Môi trường vật chấ t (Physical environment)
Những điề u kiê ̣n vâ ̣t chấ t ta ̣o nên môi trường diễn ra hoa ̣t đô ̣ng cung ứng dich ̣
vu ̣, ví du ̣ khung cảnh nhà hàng, văn phòng làm viê ̣c…
- Tiế n trình cung ứng dich ̣ vụ (Process)
Cung ứng dich ̣ vu ̣ luôn diễn ra theo mô ̣t tiế n trình. Chấ t lươ ̣ng và đă ̣c tính của
dich ̣ vu ̣ phu ̣ thuô ̣c khá nhiề u vào viê ̣c thiế t lâ ̣p và vâ ̣n hành tiế n trình này như thế nào.
Doanh nghiê ̣p có thể ta ̣o lơ ̣i thế ca ̣nh tranh bằ ng cách đào ta ̣o và sử du ̣ng đô ̣i
ngũ nhân viên tiế p xúc giỏi và đáng tin câ ̣y hơn so với đố i thủ ca ̣nh tranh; ho ̣ có thể
ta ̣o ra môi trường vâ ̣t chấ t hấ p dẫn hơn ở nơi cung ứng dich ̣ vu ̣; hay thiế t kế mô ̣t quy
triǹ h cung ứng dich ̣ vu ̣ tố t hơn về chấ t lươ ̣ng, nhanh hơn về thời gian và đa da ̣ng hơn
về khả năng lựa cho ̣n cho khách hàng.
Các doanh nghiê ̣p cũng có thể ta ̣o ra sự khác biê ̣t về hiǹ h ảnh của ho ̣ và dich ̣
vu ̣ của ho ̣ trong tâm trí khách hàng thông qua các hoa ̣t đô ̣ng quảng cáo và đảm bảo
chấ t lươ ̣ng dich ̣ vu ̣ mà ho ̣ cung cấ p các nỗ lực khác nhằ m đinh ̣ vi ̣vi ̣trí dich
̣ vu ̣ trên thi ̣
trườngh mu ̣c tiêu.
7.7.2.2. Đảm bảo chấ t lượng dich ̣ vụ
Chấ t lươ ̣ng dich
̣ vu ̣ là mô ̣t trong những yế u tố hàng đầ u ta ̣o nên sự khác biê ̣t có
ưu thế trong ca ̣nh tranh. Vì thế , các doanh nghiê ̣p thường cố gắ ng cung ứng những dich ̣
vu ̣ chấ t lươ ̣ng cao hơn các đố i thủ ca ̣nh tranh.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 139
Để đảm bảo và nâng cao chấ t lươ ̣ng dicḥ cung ứng cho khách hàng, các nhà
nghiên cứu marketing khuyế n khích các doanh nghiê ̣p nên tim ̀ cách rút ngắ n khoảng
cách giữa những mong đơ ̣i của khách hàng và nhâ ̣n thức của ban lañ h đa ̣o doanh nghiê ̣p.
Theo các nhà nghiên cứu thì có năm yếu tố chủ yếu quyết định chất lượng dịch
vụ. Các yếu tố này được xếp thứ tự theo tầm quan trọng được khách hàng đánh giá.
- Mức độ tin cậy. Khả năng đảm bảo dịch vụ đã hứa hẹn một cách chắc chắn
và chính xác.
- Thái độ nhiệt tình. Sẵn sàng giúp đỡ khách hàng và đảm bảo dịch vụ nhanh
chóng.
- Sự đảm bảo. Trình độ chuyên môn, thái độ ứng xử của nhân viên và khả
năng của họ tạo nên được tín nhiệm và lòng tin ở khách hàng.
- Sự thông cảm. Thái độ quan tâm và đồng cảm với khách hàng.
- Yếu tố hữu hình, như các phương tiện vật chất, trang thiết bị, con người và
tài liệu thông tin.
Những doanh nghiệp đảm bảo dịch vụ tốt thường phải có cái nhìn chiến lược về
dịch vụ và cung ứng dịch vụ, đảm bảo về chất lượng dịch vụ, luôn đặt ra những tiêu
chuẩ n cao về dịch vụ để theo đuổi, thường xuyên theo dõi kết quả thực hiện dịch vụ và
giải quyết đầy đủ những khiếu nại của khách hàng cũng như thỏa mãn lợi ích của khách
hàng và nhân viên.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những công ty quản trị tốt dịch vụ có cùng một
số điểm chung trong công tác quản trị: có ý tưởng mang tính chiến lược, có sự cam kết
của ban lãnh đạo cấp cao về chất lượng, các chuẩ n mực cao, hệ thống điều khiển chất
lượng dịch vụ và các khiếu nại của khách hàng và chú trọng đến sự thỏa mãn của nhân
viên.
1. Nghiên cứu cấu trúc sản phẩm có ý nghĩa gì đối với việc hoạch định chính sách
sản phẩm của doanh nghiệp?
2. Vì sao phải phân loại sản phẩm? Có phải phân loại sản phẩm giúp cho việc
phân tích hành vi khách hàng tốt hơn không? Tại sao?
3. Lấy một ví dụ về danh mục sản phẩm của một doanh nghiệp mà bạn biết để giải
thích các khái niệm chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và tính đồng nhất của danh
mục sản phẩm.
4. Chứng minh nhận định: “Trong kinh doanh hiện đại, bao bì là người bán hàng
im lặng”
5. Phân tích những thay đổi về mức độ sản phẩm, giá, phân phối, truyền thông cổ
động trong các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm của một sản phẩm mà bạn
biết?
6. Đặc điểm của dịch vụ? Chiến lược marketing đối với dịch vụ?
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 140
CHƯƠNG 8: QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH GIÁ
MỤC TIÊU
- Phát triển nhận thức tổng hợp về định giá sản phẩm, dịch vụ
- Thực hành việc quản trị chiến lược giá và các quyết định liên quan đến giá
- Quản trị sự chuyển giao giá trị cho khách hàng thông qua việc định giá.
NỘI DUNG
8.1. KHÁI NIỆM GIÁ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁ TRONG
MARKETING-MIX
8.1. 1. Khái niệm giá
Theo nghĩa hẹp thì giá là khoản tiền trả cho một sản phẩm hoặc dịch vụ. Nói
rộng hơn, giá là tổng của toàn bộ những giá trị mà khách hàng phải trả để được hưởng
những lợi ích của việc sở hữu hoặc sử dụng một sản phẩm hay dịch vụ.
8.1. 2. Tầm quan trọng của giá trong marketing-mix
Trong marketing-mix, giá là yếu tố duy nhất tạo ra doanh thu; tất cả các yếu tố
khác đại diện cho chi phí, nó cũng là yếu tố linh hoạt nhất, giá cả có thể thay đổi một
cách nhanh chóng hơn các biến số khác của marketing-mix.
Giá còn là công cụ để tạo ra và nắm bắt giá trị khách hàng.
8.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ĐỊNH GIÁ
Khi quyết định mua hàng khách hàng thường cân nhắc kỹ về giá, đặc biệt trong điều
kiện kinh tế Việt Nam khi mức thu nhập của người tiêu dùng còn thấp. Mặt khác, giá là
một chiến lược Marketing mix có tác động nhanh so với các chiến lược khác, đồng thời
chịu chi phối bởi nhiều yếu tố. Do vậy, hiểu biết các yếu tố ảnh hưởng đến giá sẽ giúp cho
doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn về giá.
Để nghiên cứu những yếu tố tác động đến giá, người ta có thể chia các yếu tố đó
thành hai nhóm là nhóm các yếu tố bên trong doanh nghiệp và nhóm các yếu tố bên ngoài
doanh nghiệp.
8.2.1. Các nhân tố bên trong
8.2.1.1. Các mục tiêu marketing
Các mục tiêu Marketing của doanh nghiệp đóng vai trò định hướng cho việc đặt ra
nhiệm vụ của giá cả. Muốn trở thành một công cụ Marketing hữu hiệu thì giá phải phục vụ
đắc lực cho chiến lược Marketing về thị trường mục tiêu và định vị sản phẩm của doanh
nghiệp. Do vậy, khi định giá doanh nghiệp phải căn cứ vào mục tiêu Marketing của doanh
nghiệp và chiến lược định vị sản phẩm mà doanh nghiệp đã chọn.
Thông thường, một doanh nghiệp có thể theo đuổi một trong các mục tiêu cơ bản
sau đây:
- Mục tiêu tồn tại:
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 141
Đây là mục tiêu quan trọng trong trường hợp công ty thiếu nhiều nguồn lực, đang
trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt hoặc nhu cầu khách hàng thay đổi. Để duy trì hoạt
động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường cắt giảm giá, lợi nhuận không quan
trọng bằng việc đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp. Nếu mức giá thấp bù đắp được chi
phí biến đổi và một phần chi phí cố định thì doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động, về lâu
dài tìm cách tăng giá trị để kiếm lời.
- Tối đa hoá lợi nhuận hiện tại
Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận hiện tại của mình, doanh nghiệp sẽ định
giá sao cho có lợi nhất trước mắt hơn là hiệu quả lâu dài, bỏ qua những tác động của các
yếu tố khác trong marketing-mix và phản ứng của đối thủ cạnh tranh. Họ đánh giá nhu cầu
và chi phí ở các mức giá khác nhau và lựa chọn mức giá đem lại lợi nhuận tối đa.
- Tối đa hóa thị phần
Để thực hiện mục tiêu dẫn đầu về thị phần, doanh nghiệp cần phải đặt giá thấp nhất
có thể để thu hút khách hàng nhằm đạt được quy mô thị trường lớn nhất có thể và do vậy,
sẽ đạt được hiệu quả theo quy mô. Căn cứ vào mục tiêu thị phần tăng lên bao nhiêu phần
trăm để công ty định giá tương ứng.
- Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường
Để thực hiện mục tiêu dẫn đầu về chất lượng, doanh nghiệp thường định ra một mức
giá cao để đủ trang trải chi phí đầu tư cho nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra một ấn
tượng về chất lượng cao đối với khách hàng.
8.2.1.2. Chiến lược marketing-mix
Giá là một trong các công cụ của phối thức marketing mà công ty sử dụng để
đạt được các mục tiêu marketing. Các quyết định về giá phải phối hợp với các quyết
định về thiết kế sản phẩm, phân phối và truyền thông cổ động để hình thành nên một
chương trình marketing hiệu quả và nhất quán. Các quyết định của các biến số sản
phẩm, phân phối, truyền thông cổ động có thể tác động đến các quyết định định giá.
Các công ty thường sử dụng giá bán để định vị các sản phẩm của mình, sau đó
thiết kế các quyết định marketing mix khác phù hợp với mức giá mà họ muốn đưa ra.
Nhiều công ty sử dụng kỹ thuật tính toán chi phí mục tiêu để hỗ trợ cho chiến lược
định vị theo giá này. Kỹ thuật này ngược lại với quy trình thông thường là thiết kế một
sản phẩm mới trước, xác định chi phí rồi xác định giá bán cho chúng, nhưng kỹ thuật
tính toán chi phí mục tiêu thì bắt đầu bằng việc xác định mức giá bán lý tưởng dựa trên
cảm nhận của khách hàng về giá trị sản phẩm, sau đó tính toán các chi phí cần thiết để
đảm bảo sản phẩm sẽ bán được ở mức giá đó.
Các công ty khác lại không nhấn mạnh yếu tố giá cả mà sử dụng những công cụ
khác của phối thức marketing để định vị phi giá cả. Thông thường, các công ty không
đưa ra mức giá thấp nhất mà thay vào đó là chiến lược tạo sự khác biệt cho các cung
ứng marketing để nó xứng đáng với mức giá cao hơn.
Do đó, khi định giá, các chuyên gia marketing phải xem xét toàn bộ phối thức
marketing khi quyết định giá, và những người làm marketing cũng phải nhớ rằng
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 142
khách hàng hiếm khi mua hàng chỉ vì giá của nó. Thay vào đó là họ tìm kiếm những
sản phẩm sẽ đem lại cho họ giá trị tốt nhất căn cứ theo những lợi ích mà họ sẽ nhận
được cho số tiền đã bỏ ra.
8.2.1.3. Chi phí
Chi phí tạo nền tảng cho việc định giá một sản phẩm, nó thiết lập mức giá sàn mà
công ty có thể đưa ra. Công ty cần đề ra mức giá có thể trang trải cho chi phí về sản xuất,
phân phối, bán sản phẩm và bao gồm cả khoảng lời hợp lý cho những nỗ lực và rủi ro của
mình. Chi phí của công ty có thể chia làm hai loại: Định phí và biến phí.
Định phí (chi phí cố định): Là những chi phí không thay đổi theo mức độ sản xuất.
Ví dụ: Tiền mặt bằng, khấu hao tài sản cố định, …. Tuy nhiên nếu tính cho một đơn
vị sản phẩm thì lại thay đổi.
Biến phí (chi phí biến đổi): Là những chi phí thay đổi trực tiếp theo mức độ sản
xuất. Ví dụ nguyên vật liệu, bao bì,…tuy nhiên nếu tính cho một sản phẩm thì lại ổn
định.
Tổng chi phí: Là số lượng định phí và biến phí cho bất kỳ mức độ sản xuất nhất
định nào đó.
8.2.1.4. Một số yếu tố của tổ chức
Ban quản trị phải quyết định người nào trong công ty nên phụ trách việc định
giá. Đối với các công ty nhỏ, người quyết định giá cả thường là ban quản trị cấp cao,
chứ không phải bộ phận marketing hay bán hàng. Trong các công ty lớn, việc này
thuộc trách nhiệm của các nhà quản trị dòng sản phẩm. Đối với thị trường tổ chức,
nhân viên bán hàng có thể được phép thương lượng giá với khách hàng dựa trên một
khoảng giá cho trước được quy định bởi các nhà quản trị khi xây dựng chính sách giá.
Trong những ngành mà định giá là yếu tố then chốt, các công ty thường có bộ
phận định giá riêng để xác định mức giá tối ưu hoặc hỗ trợ những bộ phận khác trong
việc định giá.
8.2.2. Các nhân tố bên ngoài
8.2.2.1. Thị trường và nhu cầu
Để định giá tốt thì công ty phải hiểu được những cảm nhận của khách hàng về
giá trị ảnh hưởng như thế nào đến số tiền mà họ chi trả. Người mua đều cân bằng giữa
giá tiền của sản phẩm hay dịch vụ với những lợi ích mà họ nhận được.Vì vậy, trước
khi định giá, các chuyên gia marketing phải hiểu được mối quan hệ giữa giá và cầu sản
phẩm của công ty, cũng như việc xem nó thay đổi như thế nào trong nhiều loại thị
trường khác nhau.
Định giá trong những loại thị trường khác nhau
- Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo (cạnh tranh thuần túy)
Thị trường bao gồm nhiều người bán và nhiều người mua cùng trao đổi những
loại hàng hóa đồng nhất. Trên thị trường này người bán và người mua phải chấp nhận giá
chứ không phải là người ấn định giá. Người bán không thể bán giá cao hơn hoặc không cần
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 143
bán thấp hơn giá hiện hành. Các hoạt động nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm, định
giá, quảng cáo và khuyến mãi đóng vai trò không đáng kể. Do đó, người bán trong thị
trường này không cần phải dành nhiều thời gian cho chiến lược marketing.
- Trong thị trường cạnh tranh độc quyền (bán cạnh tranh)
Thị trường bao gồm nhiều người mua và nhiều người bán những sản phẩm với
một khoảng giá thay vì một mức giá của thị trường. Khoảng giá này xuất hiện vì mỗi
người bán có thể tạo sự khác biệt cho các cung ứng của mình đến khách hàng. Người
bán cố gắng phát triển những cung ứng khác biệt cho từng phân đoạn khách hàng khác
nhau và bên cạnh giá, họ có thể sử dụng các chiến lược xây dựng thương hiệu, quảng
cáo, bán hàng cá nhân để làm cho những cung ứng của mình có sự khác biệt.
- Trong thị trường cạnh tranh độc quyền nhóm (bán độc quyền)
Thị trường bao gồm một vài người bán và họ rất nhạy cảm với chiến lược định
giá và marketing của nhau. Mỗi người bán luôn đề phòng và sẵn sàng phản ứng lại với
chiến lược cũng như những thay đổi về giá bán của đối thủ.
- Trong thị trường cạnh tranh độc quyền
Thị trường chỉ có một người bán. Người bán này có thể là độc quyền của Nhà
nước, là một nhà độc quyền tư nhân chịu sự quản lý của Nhà nước, hoặc một công ty
độc quyền tư nhân không chịu sự quản lý của Nhà nước. Trong mỗi trường hợp, việc
định giá được thực hiện khác nhau.
P2 P’2
P1 P’1
Giá
Q1 Q2 Q’2 Q’1
Lượng cầu trong mỗi giai đoạn Lượng cầu trong mỗi giai đoạn
A. Cầu ít co giãn B. Cầu co giãn nhiều
Hình 8.1. Đường cầu
Mỗi mức giá mà công ty áp dụng có thể dẫn đến một mức cầu khác nhau. Mối
quan hệ giữa giá và mức cầu của giá đó được mình họa bằng đường cầu (hình 8.1).
Đường cầu chỉ ra số lượng sản phẩm mà khách hàng sẽ mua trong một khoảng thời
gian nhất định ở các mức giá khác nhau. Thông thường, cầu và giá có quan hệ nghịch
biến – giá càng tăng thì cầu càng giảm. Do vậy, công ty sẽ bán được ít nếu tăng giá.
Nói ngắn gọn, người tiêu dùng với số tiền hạn chế sẽ mua ít hơn nếu giá sản phẩm đó
quá cao. Trong trường hợp sản phẩm sang trọng, đường cầu có thể đi lên, vì khách
hàng nghĩ rằng mức giá cao hơn có nghĩa chất lượng cao hơn.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 144
Các công ty cố gắng đo lường đường cầu của mình bằng cách dự đoán nhu cầu
ở các mức giá. Mỗi loại thị trường khác nhau, đường cầu là khác nhau.
Độ co giãn của cầu theo giá (một chỉ số đo lường sự nhạy cảm của cầu đối với
những thay đổi về giá).
Độ co giãn của cầu theo giá được đo lường bởi tỉ số giữa phần trăm thay đổi
của lượng cầu với số phần trăm thay đổi của giá.
% thay đổi của cầu
Độ co giãn của cầu theo giá =
% thay đổi của giá
Cầu càng ít co giãn thì người bán càng có nhiều khả năng tăng giá. Vậy điều gì
quyết định độ co giãn của cầu? Người mua sẽ ít nhạy cảm với giá hơn khi sản phẩm họ
mua là sản phẩm độc đáo, duy nhất hoặc có chất lượng cao, danh tiếng hay hàng độc
quyền; sản phẩm thay thế rất khó tìm hoặc không thể so sánh chất lượng của sản phẩm
thay thế; và tổng chi tiêu cho sản phẩm thấp trong tương quan với thu nhập của họ
hoặc khi chi phí được chia sẻ với các cá nhân khác.
Nếu cầu co giãn nhiều, người bán sẽ cân nhắc đến việc hạ giá, một mức giá
thấp hơn sẽ mang về tổng doanh thu cao hơn. Cách này hiệu quả khi chi phí của việc
sản xuất và bán hàng tăng thêm không vượt quá doanh thu tăng thêm.Mặt khác, đa số
các công ty đều muốn tránh hạ giá bán xuống thấp khiến sản phẩm của họ thành hàng
hóa thông thường hay tiện dụng.
8.2.2.2. Chi phí, giá và sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
Chi phí và giá của đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng đến quyết định định giá của
công ty. Công ty cần định chuẩn các chi phí của mình so với chi phí của đối thủ cạnh
tranh để xem rằng nó có phải đang vận hành với lợi thế về chi phí hay không, công ty
cũng cần nghiên cứu giá và chất lượng cung ứng của các đối thủ cạnh tranh, từ đó là
điểm khởi đầu của việc định giá của công ty.
Những thông tin cạnh tranh khác cũng không kém phần quan trọng khi xây
dựng chiến lược định giá đó là đặc điểm cạnh tranh trong ngành, số lượng công ty
trong ngành, qui mô của các công ty trong ngành, sự khác biệt của sản phẩm và rào cản
thâm nhập thị trường.
8.2.2.3. Các nhân tố bên ngoài khác
Bên cạnh thị trường, các nhân tố bên ngoài khác công ty cần xem xét khi định
giá đó là các nhân tố kinh tế như sự khủng hoảng, lãi suất, lạm phát, bởi vì chúng tác
động lên cả chi phí sản xuất và nhận thức của khách hàng về giá và chất lượng của sản
phẩm.
Khi định giá, các công ty phải cân nhắc nhiều yếu tố khác từ môi trường bên
ngoài nữa, họ phải biết mức giá của mình sẽ tác động với các bên khác trong môi
trường họ hoạt động. Các hãng bán lẻ sẽ phản ứng thế nào với các mức giá khác nhau?
Công ty nên định giá mang lại sự công bằng, khuyến khích sự hỗ trợ từ các nhà bán lẻ,
giúp họ bán sản phẩm một cách hiệu quả. Chính phủ cũng là một yếu tố bên ngoài rất
quan trọng có ảnh hưởng đến việc định giá, và cuối cùng các công ty có thể cần tính
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 145
đến các vấn đề xã hội.
8.3. CÁC CÁCH TIẾP CẬN ĐỊNH GIÁ
Các công ty định giá bằng cách lựa chọn cách tiếp cận định giá chung bao gồm
một hoặc nhiều hơn ba nhóm yếu tố trên. Chúng ta xem xét ba cách tiếp cận về định
giá: tiếp cận dựa trên chi phí, tiếp cận dựa trên khách hàng và tiếp cận dựa trên đối thủ
cạnh tranh.
8.3. 1. Định giá dựa trên chi phí
Định giá dựa trên chi phí là việc tính toán giá bán dựa trên các khoản chi phí
sản xuất, phân phối và bán sản phẩm cộng với một tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng dành cho
công sức bỏ ra và những rủi ro phải gánh chịu.
Chi phí của một công ty chia thành hai loại: chi phí cố định và chi phí biến
đổi. Chi phí cố định là những chi phí không thay đổi khi quy mô sản xuất và doanh số
thay đổi. Chi phí biến đổi thay đổi tùy theo quy mô sản xuất. Tổng chi phí là tổng các
chi phí cố định và chi phí biến đổi tại một mức quy mô sản xuất cho trước. Các nhà
marketing muốn định giá thì ít nhất phải tính đến tổng chi phí sản xuất cho một quy
mô sản xuất cho trước.
8.3.1.1. Định giá cộng chi phí
Định giá cộng chi phí hay định giá cộng lời vào chi phí – cộng thêm một
khoản lợi nhuận chuẩn vào chi phí sản xuất.
P = (1+m) AC
Trong đó:
P: Giá bán
m: % mức lời dự kiến
AC: Chi phí trung bình
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 146
VC FC
Với AC= AVC+ AFC = + (Trong đó AVC là chi phí biến đổi trung
Q Q
bình, AFC là chi phí cố định trung bình, VC là chi phí biến đổi; FC là chi phí cố định,
Q là sản lượng tiêu thụ)
Phương pháp này có ưu điểm là dễ làm, tuy nhiên nó bỏ qua yếu tố nhu cầu của
khách hàng và các đối thủ cạnh tranh.Tuy nhiên phương pháp định giá này vẫn phổ
biến vì (1) người bán cảm thấy chắc chắn về chi phí của mình hơn là nhu cầu của
khách hàng, việc định giá đơn giản hóa, họ không cần phải điều chỉnh giá thường
xuyên khi nhu cầu thay đổi; (2) khi tất cả các công ty trong ngành cùng sử dụng
phương pháp định giá này thì sẽ giảm được sự cạnh tranh về giá; (3) định giá cộng vào
chi phí sẽ công bằng cho cả người mua lẫn người bán.
8.3.1.2. Phân tích điểm hòa vốn và định giá dựa vào lợi nhuận mục tiêu
Doanh nghiệp xác định mức giá trên cơ sở đảm bảo tỷ suất lợi nhuận mục tiêu
trên vốn đầu tư (ROI) mà doanh nghiệp mong muốn đạt được.
ROIxI
P=AC+
Q
Trong đó:
ROI: tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư
I: Vốn đầu tư.
Q: Sản lượng tiêu thụ
- Phương pháp điểm hòa vốn:
FC
Qhv=
P AVC
FC LNMT
Khối lượng bán đạt LNMT =
P AVC
Phương pháp này cho phép người ra quyết định giá có thể xem xét các mức giá
khác nhau và ảnh hưởng của nó đến sản lượng tiêu thụ và lợi nhuận, ước lượng được thời
gian hòa vốn và đạt lợi nhuận. Tuy nhiên để đạt được điều này thì doanh nghiệp phải dự
đoán chính xác sản lượng tiêu thụ.
8.3. 2. Định giá dựa trên giá trị khách hàng
Định giá dựa trên giá trị khách hàng là định giá dựa trên sự nhận thức của
người mua về giá trị sản phẩm chứ không dựa trên chi phí của người bán. Trên thực tế,
việc định giá dựa trên khách hàng chính là hiểu rõ khách hàng định giá bao nhiêu cho
những lợi ích mà họ nhận được từ sản phẩm, sau đó mới xác định giá bán theo giá trị
này.
Các công ty thường thấy khó có thể đo lường được giá trị mà khách hàng cảm
nhận về sản phẩm của họ, vì thế công ty cần cố gắng xác định được các giá trị đó,
thỉnh thoảng công ty nên hỏi khách hàng xem họ sẽ trả bao nhiêu cho sản phẩm cơ bản
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 147
và bao nhiêu cho mỗi lợi ích tăng thêm, hoặc công ty có thể tiến hành các chương trình
thử nghiệm để kiểm tra mức giá trị cảm nhận của các sản phẩm khác nhau.
Chúng ta có thể xem xét sự khác nhau giữa hai phương pháp định giá dựa trên
chi phí và định giá dựa trên giá trị như sau:
Định giá dựa trên chi phí:
Thiết kế sản phẩm Xác định chi phí Định giá dựa trên Thuyết phục người
tốt sản phẩm chi phí mua về giá trị SP
Đối với phương pháp định giá dựa vào chi phí, công ty thường tự xác định giá
trị của một sản phẩm tốt, cộng thêm vào đó các chi phí sản xuất ra sản phẩm, và định
ra một mức giá bao gồm toàn bộ những chi phí bỏ ra và mức lợi nhuận mục tiêu. Sau
đó người marketing phải thuyết phục người mua rằng giá trị của sản phẩm xứng đáng
với số tiền mà họ bỏ ra để mua nó.
Còn đối với phương pháp định giá dựa trên giá trị thì đi ngược lại với quy
trình trên. Trước tiên công ty phải đánh gá nhu cầu và cảm nhận của khách hàng về giá
trị, sau đó công ty sẽ xác định giá mực tiêu dựa trên giá trị được cảm nhận đó; giá trị
và giá bán mục tiêu sẽ ảnh hưởng đến các quyết định về những chi phí có thể phát
sinh, từ đó quyết định thiết kế sản phẩm mang lại giá trị mong đợi cho khách hàng,
định giá bán sao cho phù hợp với giá trị cảm nhận của khách hàng.
Có hai phương pháp định giá dựa trên giá trị: định giá dựa trên giá trị hợp lý
và định giá dựa trên giá trị gia tăng.
8.3.2.1. Định giá dựa trên giá trị hợp lý
Định giá dựa trên giá trị hợp lý là sự kết hợp đúng mức giữa chất lượng và
dịch vụ hoàn hảo với giá phải chăng. Trong một số trường hợp chiến lược này có
nghĩa là tung ra phiên bản ít tiền hơn của những sản phẩm đã có danh tiếng; hoặc là
thiết kế lại những thương hiệu có sẵn để có thể đem lại chất lượng cao hơn với một
mức giá định trước, hoặc giữ nguyên chất lượng với mức giá thấp hơn.
8.3.2.2. Định giá dựa trên giá trị gia tăng
Định giá dựa trên giá trị không đơn giản là chọn mức giá khách hàng muốn trả
hoặc định giá thấp để cạnh tranh, mà nhiều công ty đã áp dụng chiến lược định giá dựa
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 148
trên giá trị gia tăng, là cách mà doanh nghiệp bổ sung những tính năng và dịch vụ giá
trị gia tăng để tạo ra sự khác biệt hóa sản phẩm của công ty và ấn định mức giá cao
hơn.
8.3. 3. Định giá dựa vào đối thủ cạnh tranh
Khi định giá, công ty phải cân nhắc tới mức giá của đối thủ cạnh tranh. Bất kể
mức giá của công ty như thế nào thì công ty phải chắc chắn rằng mình đang đem lại
cho người tiêu dùng giá trị vượt trội tại mức giá đó.
Định giá dựa vào đối thủ cạnh tranh là cách định giá dựa trên chiến lược, chi
phí, giá cả của đối thủ cạnh tranh.
Theo phương pháp này, công ty lấy giá hiện hành của đối thủ cạnh tranh để làm cơ
sở mà không quan tâm tới chi phí sản xuất cũng như cầu của thị trường. Tuỳ theo loại thị
trường và đặc tính sản phẩm của công ty mà đặt giá bằng, thấp hơn hoặc cao hơn giá của
đối thủ cạnh tranh.
8.4. CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ CHO SẢN PHẨM MỚI
8.4. 1. Chiến lược hớt váng
Là định giá ban đầu cao để khai thác các đoạn thị trường chấp nhận mức giá
cao. Sau khi lượng tiêu thụ chậm lại, doanh nghiệp mới hạ giá sản phẩm xuống để lôi
kéo lớp khách hàng kế tiếp vốn nhạy cảm với giá cả. Bằng cách này, doanh nghiệp vớt
được lượng doanh thu tối đa từ những khúc thị trường khác nhau.
Điều kiện áp dụng:
- Sản phẩm độc đáo và giá cao hỗ trợ hình ảnh sản phẩm chất lượng cao
- Trên thị trường có những đoạn sẵn sàng chấp nhận mức giá cao
- Chi phí của việc sản xuất qui mô nhỏ không quá cao để công ty phải mất đi lợi
thế của việc định giá cao
- Các đối thủ cạnh tranh không thể tham gia vào thị trường sớm và định giá
thấp hơn.
8.4. 2. Chiến lược thâm nhập thị trường
Công ty định giá ban đầu thấp để thâm nhập thị trường nhanh chóng và hiệu
quả nhằm nhanh chóng thu hút số lượng lớn người mua và giành được thị phần lớn.
Điều kiện áp dụng:
- Thị trường nhạy cảm với giá, giá thấp tạo ra sự tăng trưởng thị phần cao hơn
- Chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm phải giảm khi sản lượng tăng lên.
- Giá thấp nhằm loại trừ cạnh tranh và các nhà định giá thâm nhập phải duy trì
vị thế giá thấp để có lợi thế về giá lâu dài.
8.5. CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ CHO PHỐI THỨC SẢN PHẨM
Chiến lược định giá sản phẩm thường thay đổi khi sản phẩm nằm trogn phối
thức sản phẩm. Lúc này, công ty tìm cách để tập hợp giá tối đa hóa được lợi nhuận cho
toàn bộ phối thức sản phẩm. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu năm cách định giá cho phối
thức sản phẩm:
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 149
8.5. 1. Định giá cho dòng sản phẩm
Các công ty thường phát triển dòng sản phẩm thay vì những sản phẩm riêng lẻ.
Các bước giá nên tính đến sự chênh lệch về chi phí giữa những sản phẩm trong dòng,
quan trọng hơn, chúng nên tính đến sự khác nhau trong nhận định của người tiêu dùng
đối với giá trị của các tính năng khác nhau. Công việc của người bán là xây dựng cho
được sự khác biệt về mặt chất lượng cảm nhận được nhằm hỗ trợ cho sự khác biệt về
giá.
8.5. 2. Định giá cho sản phẩm tùy chọn
Nhiều công ty sử dụng chiến lược định giá sản phẩm tùy chọn nhằm mục đích
là bán những sản phẩm tùy chọn hoặc phụ kiện đi kèm sản phẩm chính. Việc định giá
cho các sản phẩm tùy chọn này rất khó khăn, các công ty phải quyết định nên quyết
định món nào trong giá cơ bản và món nào khách có thể tự chọn.
8.5. 3. Định giá cho sản phẩm bổ sung (định giá những sản phẩm phải được dụng
kèm với sản phẩm chính)
Các công ty sản xuất những sản phẩm để dùng với sản phẩm chính. Ví dụ sản
phẩm bổ sung là lưỡi dao cho dao cạo râu, mực in cho máy in…Thông thường thì các
nhà sản xuất sẽ định giá sản phẩm chính với giá thấp và kiếm lời nhuận khi bán các
sản phẩm bổ sung.
Trong trường hợp dịch vụ thì chiến lược này được gọi là định giá hai phần. Giá
cho dịch vụ được chia ra phần chi phí cố định và phần biến đổi theo mức độ sử dụng,
giá cố định nên tương đối thấp để kích thích khách hàng mua dịch vụ, còn lợi nhuận
chủ yếu được tạo ra từ phần giá biến đổi.
8.5. 4. Định giá cho phụ phẩm (sản phẩm phụ)
Việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ thường tạo ra các phụ phẩm (sản phẩm phụ),
nếu phụ phẩm không có giá trị và việc tiêu thụ chúng tốn kém thì việc định giá sản
phẩm chính sẽ bị ảnh hưởng. Sử dụng phương pháp định giá phụ phẩm, công ty tìm
kiếm một thị trường cho những phụ phẩm này để giảm chi phí xử lý chúng và tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm chính.
8.5. 5. Định giá gói sản phẩm
Sử dụng phương pháp định giá gói sản phẩm, người bán thường kết hợp một số
sản phẩm lại và bán với giá giảm. Phương pháp này có thể thúc đẩy doanh số của
những sản phẩm mà bình thường người tiêu dùng không hoặc ít mua, mức giá của gói
sản phẩm phải đủ thấp để hấp dẫn họ.
8.6. CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ LINH HOẠT (ĐIỀU CHỈNH GIÁ)
Các công ty thường điều chỉnh giá cơ sở cho phù hợp với từng đối tượng khách
hàng khác nhau và từng hoàn cảnh khác nhau. Ở đây, chúng ta sẽ tìm hiểu các chiến
lược điều chỉnh giá khác nhau:
- Chiết khấu và tiền thưởng: Giảm giá để thưởng cho các đáp ứng của
khách hàng như trả tiền sớm, hoặc để thúc đẩy doanh số bán
- Định giá theo phân đoạn thị trường: Điều chỉnh giá tùy theo các đối
tượng khách hàng, sản phẩm hoặc địa điểm khác nhau.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 150
- Định giá tâm lý: Điều chỉnh giá theo các hiệu quả tâm lý
- Định giá khuyến mãi: Giảm giá tạm thời để tăng doanh số trong ngắn hạn
- Định giá theo địa lý: Điều chỉnh giá theo vị trí địa lý của khách hàng
- Định giá quốc tế: Điều chỉnh giá cho các thị trường quốc tế
8.6. 1. Chiết khấu và tiền thưởng
Hầu hết các công ty điều chỉnh giá cơ sở để thưởng cho những khách hàng vì
một số đáp ứng tốt của họ như trả tiền sớm, khối lượng mua hàng cao, mua hàng vào
mùa thấp điểm. Những điều chỉnh này được gọi là chiết khấu và tiền thưởng.
Chiết khấu có thể có nhiều hình thức khác nhau như: (1) Chiết khấu tiền mặt,
hình thức giảm giá cho khách hàng thanh toán hóa đơn sớm; (2) chiết khấu theo số
lượng, là giảm giá cho những khách hàng mua số lượng lớn; (3) chiết khấu chức năng
hay còn gọi là chiết khấu thương mại, dành cho những thành viên trong kênh thương
mại của mình, tùy theo chức năng mà họ thực hiện như bán hàng, cất giữ, bảo quản
hàng…(4) chiết khấu theo mùa, là giảm giá cho những người mua hàng hóa hoặc dịch
vụ trong thời gian không phải mùa kinh doanh chính của nó.
Tiền thưởng: Là một kiểu giảm giá so với mức giá chính thức. Ví dụ, trợ giá
mua mới đổi cũ; tiền thưởng cổ động (các khoản thanh toán hoặc giảm giá để thưởng
cho các nhà phân phối cho việc tham gia vào các chương trình hỗ trợ quảng cáo và bán
hàng).
8.6. 2. Định giá theo phân đoạn thị trường (định giá phân biệt)
Định giá theo phân đoạn thị trường, là trường hợp các công ty điều chỉnh giá
bán của mình nhằm đáp ứng những khác biệt của khách hàng, sản phẩm và vị trí.
Trong định giá này, công ty bán một sản phẩm hoặc dịch vụ tại hai hay nhiều mức giá,
mặc dù sự chênh lệch các mức giá không dựa trên sự khác nhau về chi phí.
Định giá theo phân đoạn có một số hình thức sau:
- Định giá theo khách hàng: Các khách hàng khác nhau sẽ trả mức giá khác
nhau cho cùng sản phẩm hoặc dịch vụ (ví dụ vé giá thấp cho sinh viên,
người già…)
- Định giá theo vị trí: Công ty có thể định các mức giá khác nhau cho các
vị trí khác nhau (vé xem phim ở các vị trí khác nhau trong nhà hát, sân
vận động bóng đá)
- Định giá theo thời gian: Công ty có thể thay đổi giá của mình theo mùa,
theo tháng, theo ngày hay theo giờ.
8.6. 3. Định giá tâm lý
Thông thường, giá sẽ nói điều gì đó về sản phẩm, nhiều khách hàng sử dụng
giá để đánh giá chất lượng. Khi sử dụng việc định giá tâm lý, người bán xem xét yếu tố
tâm lý của giá và không chỉ là vấn đề kinh tế. Chẳng hạn, các khách hàng thường cảm
nhận sản phẩm giá cao như là những sản phẩm có chất lượng cao. Khi khách hàng có thể
đánh giá chất lượng của sản phẩm bằng cách xem xét nó hoặc nhớ lại những kinh
nghiệm trong quá khứ khi tiêu dùng nó, họ sử dụng giá để đánh giá chất lượng. Nhưng
khi họ không thể đánh giá chất lượng vì thiếu thông tin hoặc kỹ năng, giá có thể trở
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 151
thành một tín hiệu quan trọng.
Một phương diện khác của định giá tâm lý là giá tham khảo, giá mà khách hàng
nghĩ trong đầu và mường tượng đến khi xem xét một sản phẩm nào đó. Giá tham khảo
có thể được hình thành bằng cách chú ý đến những mức giá hiện tại, ghi nhớ những
mức giá trong quá khứ hoặc đánh giá tình huống mua hàng. Người bán có thể tác động
hoặc sử dụng những mức giá tham khảo này khi định giá.
Thậm chí, có đôi khi những sự khác biệt nhỏ về giá cũng tạo ra những sự khác
biệt về sản phẩm. Xem xét trường hợp một sản phẩm được định mức giá 300 USD so
với 299.95 USD. Sự khác biệt thật sự về giá chỉ là 5 xu nhưng sự khác nhau về tâm lý
có thể lớn hơn. Chẳng hạn một số khách hàng sẽ coi giá 299.95 USD như là một mức
giá trong khoảng 200 USD, chưa sang mức 300 USD. Và khách hàng thường cảm thấy
rằng mức giá 299.95 USD có vẻ rẻ trong khi sản phẩm ở mức 300 USD sẽ gợi lên mức
giá cao hơn.
8.6. 4. Định giá khuyến mãi
Với chiến lược định giá khuyến mãi, các công ty sẽ thay đổi giá cho các sản phẩm
của mình theo từng thời kỳ thấp hơn so với giá niêm yết và đôi khi thấp hơn chi phí
nhằm kích thích mua hàng. Định giá khuyến mãi có một số hình thức. Các siêu thị và
các cửa hàng sẽ định giá thấp thậm chí giá lỗ cho một vài sản phẩm để thu hút khách
hàng đến cửa hàng với hy vọng rằng họ sẽ mua những mặt hàng khác với mức giá bình
thường. Người bán cũng sẽ sử dụng định giá vào các dịp đặc biệt trong một vài mùa
trong năm nhằm thu hút khách hàng nhiều hơn.
Các nhà sản xuất sẽ thường áp dụng hình thức giảm giá bằng tiền cho các khách
hàng thường xuyên mua ở một cửa hàng trong một khoảng thời gian nào đó, nhà sản
xuất gửi khoản tiền giảm giá trực tiếp đến khách hàng. Cách thức giảm giá này phổ
biến đối với các nhà sản xuất ô tô và những sản phẩm dùng lâu bền, đồng thời nó cũng
được sử dụng với các hàng hóa tiêu dùng.
Định giá khuyến mãi, tuy vậy, có thể có những tác dụng ngược. Sử dụng quá
thường xuyên và bị bắt chước bởi các đối thủ cạnh tranh, khuyến mãi giá có thể tạo ra
những khách hàng cơ hội, chỉ chờ mua những sản phẩm có khuyến mãi. Hoặc, nếu
giảm giá thường xuyên có thể làm xói mòn giá trị của nhãn hiệu trong con mắt của
khách hàng. Sử dụng thường xuyên định giá khuyến mãi cũng có thể dẫn đến chiến
tranh về giá trong ngành. Chiến tranh về giá như vậy thường bị thao túng bởi một hoặc
một vài đối thủ cạnh tranh, những người hoạt động hiệu quả.
8.6. 5. Định giá theo địa lý
Một công ty cũng phải quyết định giá bán các sản phẩm của mình cho các khách
hàng ở các vùng khác nhau trên thế giới.
- Định giá FOB: yêu cầu mỗi khách hàng trả chi phí vận chuyển từ xưởng sản xuất
đến khách hàng. Cách định giá FOB có nghĩa là người bán chịu trách nhiệm đến khi
hàng đã chất xong lên phương tiện chuyên chở. Từ thời điểm đó trách nhiệm chuyển
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 152
sang khách hàng, họ sẽ trả tiền vận chuyển từ xưởng sản xuất đến điểm đến. Vì mỗi
khách hàng chịu chi phí của mình, những người theo đuổi cách định giá này nhận thấy
rằng đây là cách tốt nhất để đánh giá chi phí vận chuyển.
- Định giá thống nhất, ngược lại với cách định giá FOB, công ty định một mức giá
bán như nhau cho mọi khách hàng, bằng cách cộng vào giá bán ban đầu một mức phí
vận chuyển trung bình, cho dù họ ở xa hay gần. Các lợi thế khác của cách định giá này
là nó tương đối dễ kiểm soát và cho phép công ty định ra mức giá trên toàn quốc.
- Định giá theo vùng là cách thức trung hòa giữa cách định giá FOB và định giá
thống nhất. Công ty định giá chung cho hai hoặc nhiều hơn hai vùng giống nhau. Tất
cả các khách hàng trong một vùng nào đó sẽ trả mức giá như nhau, vùng ở xa thì giá sẽ
cao hơn.
- Định giá theo địa điểm cố định, người bán sẽ lựa chọn một thành phố cố định là
điểm mốc và tính chi phí vận chuyển cho tất cả khách hàng từ điểm mốc này đến nơi
của họ, mà không tính đến chi phí vận chuyển từ nơi mà hàng hóa thực sự được vận
chuyển đến khách hàng.
- Định giá bao chi phí vận chuyển là cách định giá mà người bán bao tất cả chi phí
vận chuyển nhằm có được nhiều hợp đồng mong muốn. Người bán có thể cho rằng
nếu họ có nhiều hợp đồng, chi phí trung bình sẽ giảm và bù trừ được các chi phí vận
chuyển phát sinh. Định giá bao chi phí vận chuyển được sử dụng để thâm nhập thị
trường và trụ vững trong thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
8.6. 6. Định giá quốc tế
Các công ty kinh doanh trên thị trường quốc tế phải quyết định mức giá ở các
quốc gia khác nhau. Trong một số trường hợp, công ty có thể định mức giá như nhau
trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các công ty điều chỉnh mức giá của họ nhằm phản
ánh các điều kiện của thị trường địa phương và các xem xét về mặt chi phí.
Giá mà công ty nên định cho một quốc gia cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
bao gồm các điều kiện kinh tế, cạnh tranh, luật pháp và qui định, và sự phát triển của hệ
thống bán sỉ và bán lẻ. Cảm nhận của khách hàng và sở thích của họ cũng có thể khác
nhau ở các quốc gia khác nhau, do vậy cần phải có các mức giá khác nhau. Hoặc công
ty có thể có các mục tiêu marketing khác nhau trong các thị trường toàn cầu, và do vậy
đòi hỏi chiến lược định giá sẽ khác nhau.
8.7. QUYẾT ĐỊNH THAY ĐỔI GIÁ SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ
8.7. 1. Phản ứng đối với việc thay đổi giá
8.7.1.1. Phản ứng của khách hàng
Khách hàng không phải lúc nào cũng hiểu đúng về sự thay đổi giá cả. Một sự
giảm giá có thể bị giải thích theo những cách sau đây: Mặt hàng đã lạc hậu và sắp bị
một mặt hàng mới thay thế; mặt hàng có khiếm khuyết ở điểm nào đó và bán không
chạy; doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính, và có thể không còn cung cấp phụ
tùng thay thế trong tương lai; giá cả có thể sẽ còn hạ hơn nữa và nên chờ đợi; hoặc chất
lượng sản phẩm đã bị rút xuống. Một sự tăng giá, mà thường sẽ làm giảm sản lượng bán
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 153
ra, có thể gợi cho người mua một số ý nghĩ tích cực như là "mặt hàng bán rất chạy" và
có thể không thể mua được nếu không mua ngay, mặt hàng có một giá trị tốt khác
thường; hoặc người bán muốn thu lợi nhuận quá mức, và đang bắt người mua phải trả
mức giá cao quá đáng.
8.7.1.2. Phản ứng của đối thủ cạnh tranh
Một doanh nghiệp có ý định thay đổi giá thì phải quan tâm đến những phản ứng
của các đối thủ cạnh tranh cũng như của khách hàng. Các đối thủ cạnh tranh rất dễ phản
ứng trong những thị trường có ít doanh nghiệp tham gia, sản phẩm đồng nhất và người
mua được thông tin đầy đủ.
Doanh nghiệp phải thu thập thông tin và phân tích năng lực sản xuất, mức tiêu thụ
thực tế, khả năng tài chính và mục tiêu của đối thủ cạnh tranh cũng sự mức độ trung
thành của khách hàng đối với sản phẩm của đối thủ. Nếu đối thủ cạnh tranh đó có mục
tiêu là thị phần, thì chắc chắn sẽ đối phó với việc thay đổi giá. Nếu mục tiêu của họ là
tăng tối đa lợi nhuận, thì họ có thể phản ứng lại bằng các chiến lược khác trong
marketing -mix, như tăng ngân sách quảng cáo hay cải tiến chất lượng sản phẩm. Điều
quan trọng là phải ước đoán được đối thủ cạnh tranh nghĩ gì về việc thay đổi giá của
doanh nghiệp. Họ có thể hiểu việc thay đổi giá của doanh nghiệp theo những cách khác
nhau, như doanh nghiệp đang cố gắng mở rộng thị trường, doanh nghiệp đang kinh
doanh kém và đang muốn tăng mức tiêu thụ của mình v.v...
Khi có nhiều đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải dự đoán phản ứng có thể
có của mỗi đối thủ gần nhất. Nếu tất cả các đối thủ đều phản ứng như nhau, điều này có
nghĩa là chỉ cần phân tích một đối thủ tiêu biểu. Nếu các đối thủ cạnh tranh phản ứng
khác nhau vì có khác biệt về qui mô, thị phần hay chính sách, thì sự phân tích riêng lẽ
từng đối thủ là cần thiết. Nếu có một số đối thủ cùng tiến hành thay đổi giá thì cũng rất
hợp lý để hy vọng rằng những đối thủ còn lại cũng sẽ hành động như vậy.
8.7. 2. Duy trì giá
Nếu phân đoạn thị trường cấu thành phần lớn doanh thu của công ty không bị tác
động bởi các sự thay đổi của môi trường, công ty có thể quyết định không thực hiện bất
kỳ sự thay đổi nào trong chiến lược định giá.
Quyết định duy trì giá là thích hợp trong bối cảnh ở đó thay đổi giá có thể cần
thiết, nhưng mức độ thay đổi là không xác định được. Nếu phản ứng của khách hàng và
các đối thủ cạnh tranh đối với sự thay đổi giá không thể dự đoán được, thì duy trì mức
giá hiện tại có thể thích hợp. Mặc khác, thay đổi giá có thể có tác động lên hình ảnh
sản phẩm hoặc doanh thu của các sản phẩm khác trong dòng sản phẩm của công ty mà
khó có thể đánh giá hết được.
Ngoài ra, mối quan tâm đến lợi ích của xã hội có thể là một lý do khác của việc
duy trì giá ở mức hiện tại. Thậm chí khi việc cung ứng tạm thời thấp hơn nhu cầu, thì
một số công ty có thể tiếp nhận thái độ có trách nhiệm đối với xã hội và tiếp tục duy trì
mức giá.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 154
8.7. 3. Giảm giá
Có ba lý do để giảm giá.
Trước hết, với chiến lược phòng thủ, giá có thể cắt giảm để đáp ứng lại đối thủ
cạnh tranh.
Lý do thứ hai của việc giảm giá là bản chất tấn công. Theo khái niệm đường
cong kinh nghiệm, chi phí sẽ giảm khi kinh nghiệm tích lũy tăng lên. Kết quả là, công
ty với kinh nghiệm tích lũy lớn sẽ giảm giá mạnh hơn so với những công ty có kinh
nghiệm tích lũy hạn chế. Giảm chi phí có một tác động tích cực lên lợi nhuận. Do vậy,
vì mục đích chiến lược, cách thức này cho phép công ty chạy đua để đạt thị phần cao
hơn và đảm bảo rằng có càng nhiều kinh nghiệm càng tốt nhằm đạt được một mức chi
phí có thể tạo được lợi thế cạnh tranh.
Lý do thứ ba cho việc giảm giá có thể là đáp ứng lại nhu cầu của khách hàng.
Nếu giá thấp là một yêu cầu của việc làm cho thị trường tăng trưởng, thì nhu cầu của
khách hàng có thể trở thành là trọng tâm của chiến lược marketing, tất cả các phương
diện khác của phối thức marketing phải được phát triển một cách tương ứng.
8.7. 4. Tăng giá
Sự tăng giá có thể được áp dụng do nhiều nguyên nhân. Trước hết, trong nền
kinh tế lạm phát, giá có thể cần phải điều chỉnh lên nhằm duy trì lợi nhuận. Trong thời
kỳ lạm phát, tất cả các loại chi phí tăng lên và để duy trì lợi nhuận thích đáng, thì việc
tăng giá trở nên cần thiết.
Cắt giảm kích cỡ bao gói trong khi mức giá vẫn được duy trì, thực chất cũng là
tăng giá. Trong tình hình suy thoái, giảm kích cỡ bao gói giúp duy trì mức giá mặc dù
chi phí tăng. Trong điều kiện lạm phát, cắt giảm kích cỡ bao gói cho phép duy trì giá
nhằm tránh những rào cản tâm lý.
Giá cũng có thể tăng khi một nhãn hiệu có sự kiểm soát độc quyền các phân
đoạn thị trường mà nó phục vụ. Nói một cách khác, khi một nhãn hiệu có vị trí duy nhất
khác biệt, tăng giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Lợi thế khác biệt đó có thể có thực hoặc
có thể tồn tại chỉ trong tâm trí khách hàng. Trong khi tìm kiếm sự tăng giá trong trường
hợp độc quyền, việc tăng giá và khách hàng sẽ tiếp nhận nó mà vẫn duy trì được sự
trung thành với nhãn hiệu. Nếu giá tăng một cách không bình thường, lợi thế khác biệt
có thể mất đi và khách hàng sẽ chọn một nhãn hiệu khác có thể với mức giá thấp hơn.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 155
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Vì sao khi định giá sản phẩm, doanh nghiệp phải xem xét cảm nhận của người
mua về giá cả và giá trị của sản phẩm?
2. Sự co giãn của cầu theo giá là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự co giãn của cầu
theo giá đối với việc định giá sản phẩm?
3. Các phương pháp định giá?
4. Phân biệt 2 chiến lược định giá cho sản phẩm mới: định giá hớt váng và định giá
thâm nhập thị trường.
5. Định giá 2 phần là gì? Ý nghĩa của phương pháp định giá 2 phần và điều kiện áp
dụng?
6. Khi nào doanh nghiệp tiến hành thay đổi giá? Những điều kiện tương ứng nào để
doanh nghiệp có thể chủ động tăng giá hoặc giảm giá.
7. Tại sao phải nghiên cứu những phản ứng của khách hàng và đối thủ cạnh tranh khi
quyết định thay đổi giá?
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 156
CHƯƠNG 9: QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG VÀ KÊNH MARKETING
MỤC TIÊU:
- Giải thích được tại sao doanh nghiệp sử dụng các kênh marketing và thảo luận
chức năng của các kênh này
- Thảo luận cách thức tương tác với nhau của các thành viên trong kênh
marketing với nhau và cách họ tổ chức để vận hành kênh này
- Nhận diện những kênh marketing chính dành cho một doanh nghiệp
- Giải thích các doanh nghiệp lựa chọn, thúc đẩy, đánh giá các thành viên trong
kênh marketing
- Thảo luận bản chất và tầm quan trọng của hậu cần marketing tích hợp.
NỘI DUNG:
9. 1. CHUỖI CUNG ỨNG VÀ MẠNG CUNG ỨNG GIÁ TRỊ
Việc sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ và sẵn sàng cung ứng chúng cho khách
hàng đòi hỏi việc xây dựng những mối quan hệ không chỉ với khách hàng, mà còn với
các nhà cung ứng và những nhà bán lại quan trọng trong chuỗi cung ứng của công ty.
Chuỗi cung ứng này bao gồm những đối tác ở tuyến trước và tuyến sau, bao gồm các
nhà cung ứng, các trung gian và thậm chí các khách hàng của các trung gian.
Tuyến sau kể từ nhà sản xuất hoặc nhà cung ứng dịch vụ, bao gồm tất cả những
công ty cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện, bộ phận, thông tin, tài chính và tư vấn cần
thiết để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Những người làm marketing, theo truyền thống
thường chú trọng vào tuyến trước của chuỗi cung ứng - tức là vào kênh marketing hoặc
kênh phân phối hướng đến khách hàng. Các đối tác trong kênh marketing như người
bán sỉ và bán lẻ hình thành đường kết nối sống còn giữa công ty và các khách hàng mục
tiêu.
Cả các đối tác tuyến trước và tuyến sau cũng đều là thành phần của chuỗi cung
ứng của công ty. Nhưng mỗi công ty thiết kế chuỗi cung ứng riêng của mình cho phép
cung ứng giá trị vượt trội cho khách hàng. Thành công của một công ty không chỉ phụ
thuộc vào việc nó vận hành tốt chuỗi cung ứng mà còn phụ thuộc vào khả năng cạnh
tranh của toàn bộ chuỗi cung ứng cũng như kênh marketing của nó với hệ thống cung
ứng của các đối thủ cạnh tranh.
Ngày nay các công ty nói nhiều đến quan điểm mạng lưới cung ứng giá trị trong
công việc kinh doanh của mình. Như chúng ta đã đề cập, mạng lưới cung ứng giá trị
được thiết lập từ công ty, các nhà cung ứng, các nhà phân phối và cuối cùng là khách
hàng và những nhân tố này tạo lập mối quan hệ đối tác với nhau nhằm cải thiện năng
lực của toàn bộ hệ thống.
Trong chương này chúng ta tập trung vào kênh marketing - tức là tuyến sau của
mạng lưới cung ứng giá trị. Tuy nhiên, cần nhớ rằng đây chỉ là một phần của toàn bộ hệ
thống cung ứng. Để đem lại giá trị cho khách hàng, công ty cần đến các đối tác ở tuyến
trước của chuỗi cung ứng cũng giống như cần đến các đối tác ở tuyến sau. Những
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 157
người làm marketing ngày nay tham gia và tác động đến hoạt động ở tuyến trước của
công ty cũng như các hoạt động ở tuyến sau. Ngày nay, họ không còn là những nhà
quản lý kênh marketing mà trở thành các nhà quản lý mạng lưới.
9. 2. TỔNG QUAN VỀ KÊNH MARKETING
9.2. 1. Bản chất và tầm quan trọng của kênh marketing
Một mạng lưới phân phối tốt tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ cho một tổ chức.
Một số nhà sản xuất bán hàng hóa của mình trực tiếp đến người sử dụng cuối cùng.
Nhưng hầu hết các công ty sử dụng các trung gian nhằm chuyển hàng hóa đến thị
trường. Họ hình thành các kênh marketing (kênh phân phối), là một tập hợp các tổ
chức phụ thuộc lẫn nhau trong tiến trình cung cấp sản phẩm và dịch vụ sẵn sàng cho
việc sử dụng hoặc tiêu dùng bởi các khách hàng tiêu dùng hoặc người sử dụng thương
mại.
Các quyết định kênh của công ty tác động một cách trực tiếp đến tất cả các quyết
định marketing khác. Việc định giá của công ty phụ thuộc vào việc thỏa thuận với các
kênh cửa hàng giảm giá toàn quốc, hay sử dụng các cửa hàng chuyên dụng hoặc bán
trực tiếp qua mạng. Lực lượng bán hàng của công ty và các quyết định truyền thông
cũng phụ thuộc vào nhu cầu của các thành viên trong kênh đối với mức độ hỗ trợ trong
truyền thông, thuyết phục, đào tạo huấn luyện. Ngoài ra việc công ty phát triển hoặc đưa
vào một vài sản phẩm mới có thể phụ thuộc vào mức độ phù hợp của những sản phẩm
này với năng lực của các thành viên trong kênh của nó.
Một số công ty quan tâm không đúng mức đến các kênh phân phối, điều này làm
ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ. Ngược lại, nhiều công ty thường sử dụng hệ thống phân
phối linh hoạt có khả năng đáp ứng cao để đạt lợi thế cạnh tranh.
9.2. 2. Các chức năng của kênh phân phối
Một kênh phân phối làm công việc vận chuyển hàng hóa từ nhà sản xuất tới
người tiêu dùng. Họ lấp được khoảng cách về thời gian, không gian và quyền sở hữu
giữa người tiêu dùng với các sản phẩm. Những thành viên của kênh phân phối thực
hiện các chức năng chủ yếu sau:
- Thông tin. Thu thập thông tin cần thiết để hoạch định marketting và tạo thuận
tiện cho sự trao đổi sản phẩm và dịch vụ.
- Cổ động. Triển khai và phổ biến những thông tin có sức thuyết phục về sản
phẩm nhằm thu hút khách hàng.
- Tiếp xúc. Tìm ra và truyền thông đến khách hàng tương lai
- Cân đối. Định dạng nhu cầu và phân phối sản phẩm thích ứng với nhu cầu của
khách hàng. Việc này bao gồm những hoạt động như sản xuất, xếp hàng, tập hợp và
đóng gói.
- Thương lượng. Cố gắng để đạt được sự thỏa thuận cuối cùng về giá cả và
những điều kiện khác liên quan để có thể thực hiện được việc chuyển giao quyền sở
hữu hay quyền sử dụng sản phẩm.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 158
- Phân phối vật phẩm. Vận chuyển và tồn kho hàng hóa
- Tài trợ. Huy động và phân bổ nguồn vốn cần thiết để dự trữ, vận chuyển bán
hàng và thanh toán các chi phí hoạt động của kênh phân phối.
- Chia sẻ rủi ro. Chấp nhận những rủi ro liên quan tới việc điều hành hoạt động
của kênh phân phối.
9.2. 3. Cấu trúc kênh phân phối
Doanh nghiệp có thể thiết kế các kênh phân phối của mình để đưa sản
phẩm/dịch vụ tới khách hàng theo nhiều phương thức khác nhau. Mỗi tầng của kênh
phân phối là một lớp trung gian marketing thực hiện một phần công việc nào đó trong
quá trình đưa sản phẩm và quyền sở hữu chúng đến gần người tiêu dùng hơn
Cấu trúc kênh là thuật ngữ mô tả tập hợp các thành viên kênh có quan hệ và
phân chia công việc phân phối với nhau như thế nào?
Chiều dài của kênh phân phối được xác định bằng số các cấp độ trung gian có
mặt trong kênh. Một kênh phân phối được gọi là dài khi có nhiều cấp độ trung gian
tham gia vào kênh. Các loại cấu trúc kênh điển hình được minh họa trong hình sau:
➢ Đối với hàng tiêu dùng
Kênh phân phối trực tiếp
Đối với hàng tiêu dùng, Độ dài của kênh phân phối tùy thuộc vào các nhân tố
ảnh hưởng như loại hình sản phẩm, các yếu tố thị trường và chu kỳ sống sản phẩm.
Đối với mặt hàng này, người ta có khuynh hướng sử dụng kênh dài bởi vì chúng cần
được phân phối rộng rãi và vì chúng là những hàng hóa tiện lợi chủ yếu. Chẳng hạn,
một nhà sản xuất bánh kẹo có thể thông qua nhà bán sỉ để phân phối các thanh kẹo sữa
hay làm việc trực tiếp với những siêu thị lớn. Chúng ta gọi nhà sản xuất này sử dụng hệ
thống phân phối gồm hai cấp. Thị trường càng phân tán về mặt địa lý, các hãng càng
nên sử dụng hệ thống kênh dài.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 159
➢ Đối với hàng kỹ nghệ
Kênh phân phối trực tiếp
Đối với hàng kỹ nghệ, bán hàng cá nhân, Internet, telemarketing và thư trực
tiếp là cách bán và phân phối thường được các nhà sản xuất sử dụng. Tuy nhiên điều
này còn tùy thuộc vào các yếu tố như bản chất của sản phẩm, nỗ lực bán hàng và các yêu
cầu về dịch vụ, cũng như khoảng cách về mặt địa lý. Đối với những sản phẩm có mức
độ đòi hỏi cao về kiến thức công nghệ, các dịch vụ hỗ trợ và những kỹ năng bán hàng
chuyên nghiệp (trong thương lượng hay sự tế nhị với khách hàng) thì bán hàng trực tiếp
tỏ ra hiệu quả hơn. Trong khi đó đại lý và nhà phân phối thường được sử dụng cho
những sản phẩm có giá thấp và ít phức tạp hơn.
9. 3. HÀNH VI VÀ TỔ CHỨC KÊNH
Kênh phân phối không đơn thuần chỉ là tập hợp các công ty gắn kết với nhau
qua nhiều dòng dịch chuyển khác nhau. Chúng là một hệ thống có hành vi phức tạp,
kết quả của sự liên kết các cá nhân và các tổ chức, trong đó mỗi thành viên giữ một vai
trò riêng, chuyên thực hiện một hay nhiều chức năng và tương tác với các thành viên
khác để đạt được mục tiêu của cá nhân, tổ chức và của kênh. Các nhà quản trị kênh
thường phải phân tích các hành vi phổ biến trong kênh.
9.3. 1. Mâu thuẫn kênh và cạnh tranh
Vì quyền lợi của các thành viên trong kênh, với tư cách là những thực thể kinh
doanh độc lập, không phải bao giờ cũng trùng hợp với nhau, cho nên thường phát sinh
những mâu thuẫn. Họ thường quan tâm nhiều hơn tới những mục tiêu ngắn hạn của
mình và những giao dịch với thành viên kế cận trong kênh phân phối. Việc hợp tác để
đạt những mục tiêu chung của kênh đôi khi lại có nghĩa là từ bỏ những mục tiêu cá
nhân. Họ thường không đồng ý về vai trò mỗi thành viên phải làm, về vấn đề ai phải
làm gì và nhận được lợi ích gì. Những bất đồng về vai trò và mục tiêu như thế làm nảy
sinh những mâu thuẫn trong kênh.
Chúng ta sẽ xem xét ba vấn đề: những loại mâu thuẫn nào xuất hiện trong
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 160
kênh, nguyên nhân của những mâu thuẫn này là gì và có thể làm gì để giải quyết
những mâu thuẫn đó.
9.3.1.1. Các loại mâu thuẫn kênh
Mâu thuẫn: những bất đồng về vai trò, mục tiêu, lợi ích của mỗi thành viên sinh
ra những mâu thuẫn trong kênh. Mâu thuẫn là phản ứng của một hoặc một số thành viên
trong kênh trước những hành động của một thành viên khác gây nên tồn tại hoặc thất
vọng cho họ.
- Mâu thuẫn theo chiều ngang là những mâu thuẫn giữa các trung gian ở cùng cấp độ
phân phối trong kênh. Ví dụ mâu thuẫn giữa những nhà bán buôn cùng một mặt
hàng với nhau do định giá khác nhau hoặc bán hàng ngoài khu vực lãnh thổ đã phân
chia.
- Mâu thuẫn theo chiều dọc xảy ra giữa các thành viên kênh ở các cấp độ phân phối
khác nhau. Ví dụ xung đột giữa nhà sản xuất với nhà bán buôn về định giá, cung
cấp dịch vụ và quảng cáo.
- Mâu thuẫn đa kênh tồn tại khi nhà sản xuất thiết lập hai hoặc nhiều kênh để bán
hàng trên cùng một thị trường.
9.3.1.2. Các nguyên nhân gây mâu thuẫn kênh
Việc xác định các nguyên nhân gây mâu thuẫn kênh là rất quan trọng. Một số
mâu thuẫn tương đối dễ giải quyết, nhưng một số khác thì lại rất khó.
Nguyên nhân quan trọng nhất là vì mục đích không giống nhau. Chẳng hạn, nhà
sản xuất có thể muốn đạt được tốc độ thâm nhập thị trường nhanh thông qua chính sách
giá thấp. Các nhà phân phối, ngược lại có thể thích làm việc với tỉ suất sinh lợi cao và
theo đuổi lợi nhuận trong ngắn hạn. Đôi khi mâu thuẫn xuất hiện do quyền lợi và vai
trò không rõ ràng. IBM bán máy tính cá nhân cho các khách hàng lớn thông qua các
nhân viên bán hàng của công ty, và nó cũng cho phép các trung gian bán hàng cho các
khách hàng lớn. Ranh giới lãnh thổ và chiết khấu theo doanh thu thường gây nên mâu
thuẫn.
Mâu thuẫn cũng có thể là do khác nhau về nhận thức. Nhà sản xuất có thể lạc
quan về nền kinh tế trong ngắn hạn và muốn các trung gian phân phối nhận tồn kho
nhiều, trong khi các nhà phân phối lại rất bi quan.
Mâu thuẫn cũng có thể xuất hiện vì mức độ phụ thuộc quá lớn của các trung gian
vào nhà sản xuất. Quyền lực của các trung gian phân phối độc quyền, như các nhà
phân phối xe hơi, cuối cùng lại bị tác động bởi các quyết định định giá và sản phẩm của
nhà sản xuất. Tình huống này tạo ra tiềm năng rất lớn cho các mâu thuẫn.
9.3.1.3. Quản trị mâu thuẫn kênh
Giải pháp quan trọng nhất để quản lý mâu thuẫn có hiệu quả là chấp nhận những
mục tiêu cơ bản. Các thành viên của kênh phân phối phải thỏa thuận được với nhau về
mục tiêu cơ bản mà họ cùng theo đuổi. Mục tiêu đó có thể là tồn tại, gia tăng thị phần,
nâng cao chất lượng sản phẩm hay thỏa mãn khách hàng.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 161
Một cách khác nữa để xử lý mâu thuẫn là tiến hành việc trao đổi người giữa hai
hay nhiều cấp của kênh phân phối, tức là người của một cấp này (ví dụ như người sản
xuất) có thể làm việc ở một cấp khác (ví dụ như đại lý độc quyền) hay ngược lại. Như
vậy họ có thể hiểu và thông cảm với quan điểm của nhau hơn trong công việc hợp tác.
Khi mâu thuẫn đã trở nên nghiêm trọng, thì các thành viên của kênh phân phối
có thể phải sử dụng biện pháp ngoại giao, trung gian hòa giải hay trọng tài phân xử.
Biện pháp ngoại giao có nghĩa là các bên thành viên cử ra một nhóm người để gặp gỡ
đại diện của phía bên kia để cùng nhau thương lượng nhằm tìm ra giải pháp cho vấn đề
mà hai bên quan tâm. Trung gian hòa giải là sử dụng một bên thứ ba trung lập đứng ra
hòa giải quyền lợi của hai bên. Đưa ra trọng tài phân xử khi hai bên đồng ý trình bày
những luận điểm của mình cho một bên thứ ba (một hay nhiều trọng tài viên) và chấp
nhận quyết định phân xử của trọng tài.
Cuối cùng để toàn bộ kênh phân phối hoạt động tốt, cần chuyên môn hóa vai trò
của từng thành viên và các xung đột phải được điều giải một cách hiệu quả. Sự hợp tác,
chuyên môn hóa vai trò và điều giải xung đột trong kênh phân phối chỉ thực hiện được
nếu doanh nghiệp có một cấp lãnh đạo vững mạnh. Kênh phân phối sẽ hoạt động tốt
hơn nếu có một bộ máy điều hành có quyền lực phân chia lực lượng hợp lý trong
kênh, có quyền phân công nhiệm vụ và giải quyết mâu thuẫn.
9.3. 2. Tổ chức kênh
9.3.2.1. Kênh truyền thống
Một kênh marketing truyền thống bao gồm nhà sản xuất, nhà bán sỉ và nhà bán lẻ
độc lập, trong đó, mỗi người là một thực thể kinh doanh riêng biệt luôn tìm cách tăng
tối đa lợi nhuận của mình, cho dù có làm giảm lợi nhuận của cả hệ thống. Không có
thành viên nào của kênh phân phối có quyền kiểm soát hoàn toàn hay đáng kể đối với
các thành viên khác. Những kênh marketing truyền thống đó thiếu sự lãnh đạo mạnh,
có đặc điểm là hoạt động kém hiệu quả và có nhiều mâu thuẫn phức tạp.
9.3.2.2. Hệ thống kênh dọc (VMS – Vertical Marketing System)
Để toàn bộ kênh hoạt động tốt, vai trò của mỗi thành viên trong kênh phải được
cụ thể hóa và các mâu thuẫn kênh phải được quản lý. Kênh sẽ hoạt động tốt hơn nếu nó
có một tổ chức hoặc một cơ chế đảm nhận vai trò lãnh đạo và có sức mạnh áp đặt vai
trò cho các thành viên và quản lý mâu thuẫn.
Hệ thống kênh dọc (VMS) là một sự phát triển kênh quan trọng nhất trong
những năm vừa qua từ mô hình kênh truyền thống. Hệ thống kênh dọc bao gồm các
nhà sản xuất, các nhà bán sỉ và các nhà bán lẻ hoạt động như một hệ thống thống nhất.
Một thành viên kênh sở hữu các thành viên khác, ký kết hợp đồng với họ hoặc có
nhiều quyền lực để buộc tất cả các thành viên hợp tác với nhau. VMS có thể do nhà sản
xuất, nhà bán lẻ hoặc nhà bán sỉ lãnh đạo.
Có ba dạng VMS chính: VMS công ty, VMS hợp đồng và VMS quản lý. Mỗi
loại sử dụng những phương tiện khác nhau để thiết lập quyền lãnh đạo và sức mạnh
trong kênh.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 162
VMS công ty: tích hợp các khâu từ sản xuất đến phân phối dưới quyền sở hữu
của một tổ chức. Việc quản lý mâu thuẫn và sự hợp tác được duy trì thông qua các
kênh của tổ chức.
VMS hợp đồng, bao gồm những công ty độc lập ở các khâu khác nhau từ sản
xuất đến phân phối và những tổ chức này kết nối với nhau thông qua các hợp đồng để
đạt được tính hiệu quả kinh tế cao hơn hoặc doanh thu cao hơn so với mỗi tổ chức hoạt
động độc lập. Phối hợp và quản trị mâu thuẫn đạt được thông qua các thỏa thuận trong
hợp đồng giữa các thành viên kênh. Kinh doanh nhượng quyền là quan hệ hợp đồng
thường thấy nhất. Đó là quan hệ hợp đồng giữa công ty mẹ (người chủ quyền) và công
ty hoặc cá nhân (bên nhận nhượng quyền) trong đó nhà chủ quyền cho phép người
nhận nhượng quyền được sử dụng những thứ họ sở hữu trong hoạt động kinh doanh
trên một khu vực thị trường nhất định theo các điều kiện và nguyên tắc cụ thể. Các
hợp đồng nhượng quyền kinh doanh phải đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của cả hai
bên: người chủ quyền và người nhận quyền.
Có ba dạng nhượng quyền kinh doanh phổ biến là:
- Nhượng quyền kinh doanh cho người bán lẻ do nhà sản xuất tài trợ
- Nhượng quyền kinh doanh cho người bán buôn do nhà sản xuất tài trợ
- Nhượng quyền kinh doanh cho người bán lẻ do công ty dịch vụ tài trợ.
VMS quản lý, quyền lãnh đạo trong hệ thống phân phối này được thiết lập
không phải thông qua quyền sở hữu hay hợp đồng mà dựa trên qui mô và quyền lực
của một hoặc một vài thành viên thống trị trong kênh. Các nhà sản xuất của một nhãn
hiệu hàng đầu có thể có sự hợp tác kinh doanh mạnh mẽ và sự hỗ trợ từ các nhà bán lại.
Chẳng hạn, GE, P&G và Kraft có thể kiềm chế sự hợp tác không bình thường từ các
nhà bán lẻ về việc trưng bày hàng hóa, không gian trên kệ hàng, cổ động và chính sách
giá. Các nhà bán lẻ lớn như Wal-Mart, Home Depot và Barnes&Noble có thể có những
tác động mạnh mẽ lên nhà sản xuất đã cung ứng sản phẩm mà họ bán.
9.3.2.3. Hệ thống kênh ngang
Một bước phát triển nữa về mặt tổ chức kênh là sự sẵn sàng của hai hay nhiều
doanh nghiệp ở một cấp hợp lại với nhau để khai thác một cơ hội marketing mới xuất
hiện. Mỗi doanh nghiệp đều có thể thiếu vốn, bí quyết kỹ thuật, năng lực sản xuất và
các nguồn lực marketing để kinh doanh độc lập, hoặc là họ ngại rủi ro, hoặc vì nhìn thấy
tác dụng to lớn khi hợp tác với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp có thể làm
việc với nhau trên cơ sở tạm thời hay lâu dài, hoặc lập một doanh nghiệp riêng.
9.3.2.4. Hệ thống đa kênh
Trong quá khứ, nhiều công ty sử dụng chỉ một kênh để bán hàng cho một thị
trường hoặc một phân đoạn thị trường. Ngày nay, với sự khác biệt của các phân đoạn
thị trường và khả năng của kênh, ngày càng nhiều công ty tiếp cận hệ thống phân phối
đa kênh. Marketing đa kênh xuất hiện khi một doanh nghiệp thiết lập hai hoặc nhiều
kênh marketing để có thể tiếp cận được một hoặc một số phân đoạn khách hàng. Việc
sử dụng hệ thống đa kênh ngày càng tăng lên trong những năm gần đây.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 163
Hệ thống đa kênh đem lại nhiều lợi thế cho các công ty khi đối mặt với thị
trường ngày càng phức tạp và rộng lớn. Với mỗi kênh mới, công ty mở rộng độ bao
phủ thị trường và doanh thu của mình và có được nhiều cơ hội để thiết kế sản phẩm và
dịch vụ theo nhu cầu riêng biệt của các phân đoạn thị trường khác nhau. Nhưng hệ
thống đa kênh như vậy rất khó kiểm soát, và chúng gây ra nhiều mâu thuẫn khi các
kênh cạnh tranh với nhau để giành khách hàng.
9. 4. QUYẾT ĐỊNH THIẾT KẾ KÊNH PHÂN PHỐI
Viêc thiế t kế kênh phân phố i đòi hỏi phải phân tić h nhu cầ u khách hàng, xác
đinh
̣ những mu ̣c tiêu và những ràng buộc của kênh, xây dựng và đánh giá những
phương án chính của kênh và lựa cho ̣n kênh phân phố i để áp du ̣ng vào hoa ̣t đô ̣ng phân
phố i sản phẩ m.
9.4. 1. Phân tích nhu cầu khách hàng
Việc đầu tiên khi thiết kế kênh phân phối là tìm hiểu xem khách hàng mục tiêu
mua những sản phẩm nào, mua ở đâu, tại sao họ mua và mua như thế nào. Người làm
công tác marketing phải hiểu được những nhu cầu của khách hàng về mức độ đảm bảo
dịch vụ mà họ muốn có. Các chỉ tiêu chủ yếu dùng để đánh giá mức độ đảm bảo dịch
vụ là:
- Quy mô lô hàng. Quy mô lô hàng là số lượng sản phẩm mà kênh phân phối
cho phép một khách hàng mua trong một đợt.
- Thời gian chờ đợi. Thời gian chờ đợi là khoảng thời gian trung bình mà khách
hàng của kênh phân phối phải chờ đợi để nhận được hàng.
- Địa điểm thuận tiện. Địa điểm mua hàng thuận tiện thể hiện mức độ kênh
phân phối tạo điều kiện dể dàng cho người mua sản phẩm.
- Sản phẩm đa dạng. Nếu kênh phân phối đảm bảo được chiều rộng của loại sản
phẩm càng lớn thì sản phẩm càng đa dạng và do đó nó làm tăng khả năng đáp ứng nhu
cầu mà khách hàng đòi hỏi. Mức độ thuận tiện về địa điểm sẽ càng tăng thêm nữa khi
sử dụng marketting trực tiếp.
- Dịch vụ hỗ trợ. Đây là những dịch vụ phụ thêm (tín dụng ưu đãi, giao hàng
tận nhà, lắp đặt, sửa chữa) mà kênh phân phối đảm nhận.
9.4. 2. Thiết lập những mục tiêu và ràng buộc của kênh phân phối
Những mục tiêu của kênh sẽ định rõ kênh phân phối vươn tới thị trường nào
với mục tiêu nào? Doanh nghiệp nên đặt ra mục tiêu cho kênh phân phối của mình
dưới dạng mức độ dịch vụ khách hàng mà họ muốn đạt được. Thông thường, doanh
nghiệp có thể xác định được một vài phân khúc khách hàng có mong muốn khác nhau
về mức độ dịch vụ. Doanh nghiệp nên quyết định phục vụ những phân khúc nào và sử
dụng kênh nào thì tốt nhất. Trong từng phân phúc, doanh nghiệp đều muốn tối thiểu
hóa tổng chi phí của kênh cho việc đáp ứng những yêu cầu về dịch vụ khách hàng.
Mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra cho kênh phân phối cũng bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố sau:
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 164
- Đặc điểm người tiêu dùng: Khách hàng có số lượng đông và càng ở phân tán
về mặt địa lý thì kênh càng dài, hay nếu khách hàng mua thường xuyên từng lượng
nhỏ, cũng cần kênh dài.
- Đặc điểm sản phẩm: Những sản phẩm cồng kềnh đòi hỏi kênh phân phối đảm
bảo đến mức thấp nhất cự ly vận chuyển và số lần bốc xếp trong quá trình lưu thông từ
người sản xuất đến người tiêu dùng. Những sản phẩm phi tiêu chuẩn, như máy móc
chuyên dụng thì các đại diện của người sản phẩm phải bán trực tiếp vì những người
trung giạn không có đủ kiến thức chuyên môn cần thiết…
- Đặc điểm của các trung gian phân phối: Có nhiều loại trung gian thương mại
trên thị trường với đặc điểm kinh doanh khác nhau. Khả năng nguồn lực, mặt mạnh,
mặt yếu của các trung gian trong việc thực hiện công việc phân phối cũng khác nhau.
Các trung gian có khả năng khác nhau trong việc thực hiện quảng cáo, lưu kho, khai
thác khách hàng…
- Đặc điểm về cạnh tranh: Doanh nghiệp vần phân tích những ưu thế và những
hạn chế chủ yếu của kênh phân phối ở những đối thủ cạnh tranh để thiết kế kênh phân
phối của mình có khả năng cạnh tranh cao.
- Đặc điểm về doanh nghiệp: Quy mô của doanh nghiệp sẽ quyết định quy mô
đáp ứng thị trường và khả năng lựa chọn những trung gian phân phối thích hợp.
- Đặc điểm môi trường kinh doanh: Khi nền kinh tế suy thoái hay những quy
định và hạn chế của pháp luật cũng ảnh hưởng đến thiết kế của kênh.
9.4. 3. Xác định những phương án chính của kênh phân phối
9.4.3.1. Các loại trung gian
Doanh nghiệp có thể xác định các loại trung gian có sẵn trên thị trường để tạo
thành kênh phân phối cho mình. Ngoài lực lượng bán hàng trực tiếp của doanh nghiệp,
có thể xem xét để đưa vào kênh phân phối các trung gian đại lý của những người sản
xuất khác, những người phân phối độc quyền, đại lý bán lẻ… Các doanh nghiệp cũng
phải tìm kiếm những kênh phân phối mới nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng nhiều
hơn so với kênh phân phối hiện có.
9.4.3.2. Số lượng trung gian
Doanh nghiệp phải quyết định số lượng của những nhà trung gian cần có ở mỗi
cấp. Có ba phương thức phân phối sau:
- Phân phối độc quyền: Nhà sản xuất chỉ cho phép một số lượng giới hạn các
đại lý được độc quyền phân phối sản phẩm trong phạm vi hoạt động của mình.. Việc
này đi đôi với độc quyền kinh doanh, tức là người bán không được bán hàng của đối
thủ cạnh tranh. Phân phối độc quyền có xu hướng đề cao hình ảnh của người sản phẩm
và cho phép tính phụ giá cao hơn. Phương thức phân phối độc quyền thường được áp
dụng trong lĩnh vực ô tô, các máy móc thiết bị quan trọng và thời trang cao cấp.
- Phân phối rộng rãi: Đặc điểm của phương thức phân phối rộng rãi là người
sản xuất tìm cách đưa sản phẩm và dịch vụ vào càng nhiều cửa hàng càng tốt. Vì khi
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 165
người tiêu dùng đòi hỏi địa điểm mua hàng phải hết sức thuận tiện, vì điều quan trọng
là phải đảm bảo phân phối với cường độ lớn hơn. Ví dụ như thuốc lá, xà phòng…
- Phân phối chọn lọc: Phân phối chọn lọc sử dụng một số chứ không phải là tất
cả những người trung gian nào chấp nhận việc bán sản phẩm của người sản xuất. Cách
này thường được dùng ở các doanh nghiệp đã ổn định hay những doanh nghiệp mới
đang tìm cách thu hút các trung gian bằng cách hứa hẹn áp dụng chính sách phân phối
chọn lọc. Ưu điểm của phương thức phân phối chọn lọc là doanh nghiệp không phải
phân tán nguồn lực của mình cho quá nhiều cửa hàng, giúp cho doanh nghiệp xây
dựng được mối quan hệ làm việc tốt với các trung gian đã được tuyển chọn và trông
đợi một mức bán hàng trên mức trung bình. Phân phối chọn lọc còn cho phép doanh
nghiệp bao quát thị trường một cách thích đáng mà vẫn kiểm soát được nhiều hợn và
chi phí ít hơn so với phương thức phân phối rộng rãi.
9.4.3.3. Điều kiện và trách nhiệm của các thành viên trong kênh phân phối
Người sản xuất phải định rõ các điều kiện của các thành viên tham gia kênh
phân phối bao gồm việc cân nhắc các yếu tố chủ yếu: Chính sách giá cả, điều kiện bán
hàng, quyền hạn theo lãnh thổ, trách nhiệm về các dịch vụ hỗ trợ mà mỗi thành viên
trong kênh phải thực hiện.
9.4. 4. Đánh giá các phương án chính trong kênh phân phối
Sau khi đã xây dựng một số phương án kênh phân phối, nhà sản xuất phải chọn
ra một lênh phân phối thỏa mãn tốt nhất những mục tiêu dài hạn của mình. Mỗi kênh
phân phối cần phải đánh giá theo những tiêu chuẩn kinh tế, kiểm soát và thích nghi.
Tiêu chí kinhh tế, doanh nghiệp so sánh doanh số, chi phí, khả năng sinh lợi mà
các kênh phân phối khác nhau có thể đạt được. Mỗi kênh cần vốn đầu tư bao nhiêu, và
sẽ đem lại kết quả gì? Doanh nghiệp cũng cân nhắc đến quyền kiểm soát. Sử dụng
trung gian luôn đồng nghĩa với việc giao cho họ một phần kiểm soát trong việc quảng
bá sản phẩm. Nếu các thứ khác là như nhau thì doanh nghiệp ưu tiên giữ tối đa quyền
kiểm soát. Cuối cùng là tiêu chuẩn khả năng thích nghi, doanh nghiệp muốn đảm bảo
tính linh động cho kênh của mình nhằm tạo ra sự thích nghi với những thay đổi trong
môi trường kinh doanh, do đó, một kênh phân phối với những cam kết dài hạn sẽ rất
ưu việt một khi đã có nền tảng về tính kinh tế và quyền kiểm soát.
9. 5. CÁC QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ KÊNH
9.5. 1. Lựa chọn các thành viên kênh
Mỗi nhà sản xuất có khả năng khác nhau trong việc thu hút các trung gian đủ
tiêu chuẩn cho kênh phân phối đã chọn của mình.
Khi lựa chọn trung gian, doanh nghiệp nên lựa chọn những đặc điểm nổi bật
nào để tạo sự khác biệt cho những đối tác tốt. Họ có xu hướng đánh giá các trung gian
về thâm niên trong nghề, những mặt hàng họ bán, mức lợi nhuận và phát triển, khả
năng trả nợ, khả năng hợp tác và uy tín,…
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 166
9.5. 2. Quản trị và thúc đẩy các thành viên kênh
Sau khi được lựa chọn, doanh nghiệp phản không ngừng quản lý và thúc đẩy
các thành viên trong kênh để họ hoạt động tốt nhất có thể. Để thúc đẩy bán hàng, công
ty thường áp dụng các chính sách khác nhau để khuyến khích các thành viên trong
kênh. Muốn phát huy cao độ tác dụng của các chính sách khuyến khích, công ty
cần tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của từng thành viên để làm căn cứ cho các chính
sách.
Chính sách có tác động mạnh nhất là chiết khấu bán lẻ cao, các điều kiện ưu
đãi trong hợp đồng, phần thưởng vật chất và tinh thần cho các thành viên bán hàng
giỏi. Các biện pháp phạt cũng được thực hiện đối với các thành viên hoạt động kém.
Chính sách khôn khéo hơn là chính sách thiết lập mối quan hệ cộng tác lâu dài
ổn định với các thành viên trong kênh. Hai bên cùng bàn bạc để dẫn đến một thoả
thuận đáp ứng mong đợi của hai bên. Các mức thưởng khác nhau tương ứng với
các kết quả hoạt động khác nhau theo thoả thuận đối với mỗi thành viên trong kênh.
Phương pháp thứ ba là kế hoạch hoá việc phân phối trong kênh. Công ty thành
lập bộ phận chuyên trách về phân phối. Bộ phận này vạch ra mục tiêu, kế hoạch,
biện pháp xúc tiến hỗ trợ tiêu thụ. Công ty hỗ trợ đắc lực cho các thành viên về
quảng cáo, khuyến mại, trưng bày hàng hoá, huấn luyện kỹ năng bán hàng chăm sóc
khách hàng cho các thành viên. Các hoạt động hỗ trợ đó làm cho các thành viên cảm
thấy yên tâm và gắn bó với công ty như là một thành viên trong hệ thống Marketing
của công ty.
9.5. 3. Đánh giá các thành viên kênh
Đánh giá công bằng hoạt động của các thành viên trong kênh là việc làm cần
thiết. Để làm điều đó, trước mỗi kỳ kế hoạch (tháng, quý, năm) công ty giao định
mức bán hàng cho mỗi trung gian trong kênh phân phối. Cuối kỳ, công ty gửi “Bản
đánh giá kết quả kinh doanh” của mỗi thành viên cho họ để họ thấy được các thành
tích cũng như yếu kém của mình trong kỳ.
Đầy đủ hơn, Công ty phải định kỳ đánh giá công tác của các thành viên theo một
số các chỉ tiêu đã thoả thuận trước trong hợp đồng như doanh số đạt được, mức hàng
dự trữ trung bình, thời gian giao hàng trung bình, các xử lý hàng thất thoát hoặc hư
hỏng, mức hợp tác trong chương trình khuyến mãi, quảng cáo, huấn luyện của doanh
nghiệp…
9. 6. HẬU CẦN MARKETING VÀ QUẢN TRỊ MẠNG CUNG ỨNG
9.6. 1. Bản chất và tầm quan trọng của công tác hậu cần marketing
Đối với một số nhà quản lý, hậu cần marketing chỉ có nghĩa là xe tải và nhà
kho. Nhưng công tác hậu cần hiện đại bao hàm nhiều hơn vậy. Hậu cần marketing -
cũng được gọi là phân phối vật chất - liên quan đến việc hoạch định, thực hiện và kiểm
tra các dòng vật chất của sản phẩm, dịch vụ và các thông tin có liên quan từ điểm bắt đầu
đến điểm tiêu dùng nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng đúng nơi và đúng thời
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 167
điểm.
Trong quá khứ, phân phối vật phẩm thường bắt đầu với sản phẩm tại nhà máy và
cố gắng tìm giải pháp có chi phí thấp nhất để đưa chúng đến với khách hàng. Tuy
nhiên, ngày nay những người làm marketing với tư duy trong công tác hậu cần lấy
khách hàng làm trung tâm, bắt đầu với thị trường và đi ngược qui trình đến hoạt động
sản xuất, hoặc thậm chí đến hoạt động cung ứng. Hậu cần marketing không chỉ liên
quan đến phần phân phối đi (đưa hàng hóa từ nhà xưởng đến người bán lại và sau đó
đến với khách hàng) mà còn cả phần phân phối đến (hàng hóa và nguyên vật liệu dịch
chuyển từ nhà cung ứng đến nhà xưởng) và cả phân phối dự phòng (việc vận chuyển bị
gián đoạn, những hàng hóa không được yêu thích bị khách hàng hoặc người bán lại trả
lại). Nghĩa là, hậu cần liên quan đến toàn bộ hoạt động quản trị chuỗi cung ứng - quản
trị chuỗi gia tăng giá trị ở tuyến trước và tuyến sau các nguyên vật liệu, hàng hóa
thành phẩm và các thông tin có liên quan giữa các nhà cung ứng, công ty, những người
bán lại và khách hàng tiêu dùng cuối cùng.
Các công ty ngày nay chú trọng nhiều hơn vào công tác hậu cần vì một số lý
do:
- Trước hết, các công ty có thể đạt được lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ bằng cách sử
dụng công tác hậu cần được cải thiện nhằm cung cấp cho khách hàng dịch vụ tốt
hơn hoặc giá thấp hơn.
- Thứ hai, công tác hậu cần được cải thiện có thể đem lại việc cắt giảm chi phí to
lớn cho cả công ty và khách hàng.
- Thứ ba, sự bùng nổ về nhu cầu đa dạng sản phẩm đã tạo ra nhu cầu đối với việc cải
thiện công tác quản trị hậu cần. Việc đặt hàng, giao hàng, lưu kho và kiểm soát tập
hợp hàng hóa đa dạng như vậy là một thách thức lớn đối với công tác hậu cần.
- Cuối cùng, việc cải tiến công nghệ thông tin đã tạo ra nhiều cơ hội quan trọng để
cải thiện hiệu quả phân phối.
9.6. 2. Các mục tiêu của hệ thống hậu cần
Mục tiêu của hậu cần marketing nên hướng đến cung ứng mức độ dịch vụ khách
hàng theo mục tiêu với chi phí thấp nhất. Công ty trước hết phải nghiên cứu tầm quan
trọng của các dịch vụ phân phối khác nhau cho khách hàng và sau đó định ra mức
dịch vụ của mỗi phân đoạn. Mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, chứ không phải doanh
thu. Một số công ty cung ứng ít dịch vụ hơn so với các đối thủ cạnh tranh của họ và
định một mức giá thấp hơn. Các công ty khác cung ứng nhiều dịch vụ hơn và định mức
giá cao hơn để bù đắp chi phí.
9.6. 3. Các chức năng hậu cần chính
Sau khi xác định xong các mục tiêu hậu cần, doanh nghiệp đã sẵn sàng thiết kế
một hệ thống hậu cần để tối thiểu hóa chi phí của việc đạt được những mục tiêu đó.
Các chức năng chính của hậu cần bao gồm: lưu kho, quản trị tồn kho, vận chuyển,
quản trị thông tin hậu cần.
9.6.3.1. Lưu kho
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 168
Chu kỳ sản xuất và tiêu dùng rất ít khi phù hợp với nhau. Do vậy, hầu hết các
công ty phải lưu kho hàng hóa của mình trong khi chờ đợi chúng được bán đi. Chức
năng tồn kho giải quyết sự khác biệt về số lượng và thời điểm, nhằm đảm bảo rằng các
sản phẩm sẵn sàng khi khách hàng mua chúng.
Công ty phải quyết định bao nhiêu kho hàng và những loại kho nào mình cần
và đặt chúng ở đâu. Công ty có thể sử dụng nhà kho lưu trữ hoặc trung phân phân
phối. Nhà kho lưu hàng hóa để điều chỉnh trong thời gian dài. Trung tâm phân phối
được thiết kế để cung cấp hàng hóa hơn là chỉ tồn kho chúng. Chúng là những nhà kho
tự động và lớn được thiết kế để nhận hàng từ nhiều nhà cung ứng khác nhau, nhận đơn
đặt hàng, thực hiện chúng một cách hiệu quả và giao hàng đến cho khách hàng nhanh
nhất có thể.
9.6.3.2. Quản trị tồn kho
Quản trị tồn kho cũng tác động đến sự thỏa mãn của khách hàng. Ở đây, các nhà
quản trị phải duy trì sự cân bằng giữa việc tồn kho quá nhiều và quá ít. Với tồn kho quá
ít, công ty gặp rủi ro cạn dữ trữ khi khách hàng muốn mua hàng. Để giải quyết vấn đề
này, công ty có thể phải đối mặt với việc chuyển hàng hoặc sản xuất cấp tốc. Dự trữ
quá nhiều hàng tạo ra tồn kho quá mức cần thiết khiến chi phí cao và hàng hóa lỗi
thời. Do vậy, trong quản trị tồn kho, công ty phải cân đối giữa chi phí của việc tồn kho
với doanh thu và lợi nhuận.
Nhiều công ty đã giảm tồn kho và các chi phí có liên quan thông qua hệ thống
hậu cần JIT. Với hệ thống đó, nhà sản xuất và bán lẻ chỉ giữ mức tồn kho nhỏ linh
kiện hoặc hàng hóa, thường chỉ cần đủ cho vài ngày. Hệ thống JIT đòi hỏi việc dự báo
chính xác cùng với việc cung ứng linh hoạt, thường xuyên và nhanh do vậy hàng hóa
được cung ứng đúng khi cần. Vì thế hệ thống này có thể giúp tiết kiệm đáng kể chi phí
tồn kho.
Những người làm marketing luôn tìm ra những cách thức mới để quản trị tồn kho
hiệu quả hơn. Trong tương lai gần, việc tồn kho có thể trở nên hoàn toàn tự động hóa.
9.6.3.3. Vận chuyển
Lựa chọn vận chuyển tác động đến việc định giá, năng lực giao hàng và tình trạng
của hàng hóa khi nó đến với khách hàng - tất cả yếu tố này đều tác động đến sự thỏa
mãn của khách hàng. Bằng việc giao hàng hóa đến tổng kho, đến các trung gian và
đến khách hàng, công ty có thể lựa chọn giữa các hình thức vận tải chính: đường bộ,
đường thủy, đường hàng không, đường sắt, đường ống và một lựa chọn tương đối hiện
đại khác là Internet. Bằng việc lựa chọn hình thức vận chuyển cho sản phẩm, phải cân
đối các yếu tố khác nhau như tốc độ, sự phụ thuộc, tính sẵn sàng, chi phí và các yếu tố
khác. Do vậy, nếu một công ty cần đến tốc độ thì đường hàng không hoặc xe tải là lựa
chọn hàng đầu. Trong khi nếu mục tiêu là chi phí thấp, đường biển hoặc đường ống sẽ
tốt hơn.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 169
9.6.3.4. Quản trị thông tin hậu cần
Các công ty quản trị chuỗi cung ứng thông qua thông tin. Các đối tác của kênh
thường kết nối với nhau để chia sẻ thông tin và ra các quyết định hậu cần tốt hơn. Từ
quan điểm hậu cần, các dòng thông tin như đặt hàng của khách hàng, thanh toán, mức
độ tồn kho và thậm chí thông tin của khách hàng liên quan một cách chặt chẽ với năng
lực của kênh.
Thông tin có thể được chia sẻ và quản trị bằng nhiều cách - bằng thư hoặc điện
thoai, thông qua nhân viên bán hàng, thông qua Internet hoặc thông qua EDI - chuyển
giao thông tin bằng điện tử, các trao đổi dữ liệu được máy tính hóa giữa các tổ chức.
9.6. 4. Quản trị hậu cần tích hợp
Hiện nay, ngày càng nhiều các doanh nghiệp ứng dụng khái niệm quản trị hậu
cần tích hợp. Theo đó, để cung cấp dịch vụ khách hàng tốt hơn với chi phí phân phối
thấp hơn, doanh nghiệp cần phải làm việc theo nhóm, cả trong nội bộ cũng như giữa tất
cả các thành viên của kênh marketing. Bên trong tổ chức, các bộ phận khác nhau của
công ty phải làm việc chặt chẽ với nhau nhằm tối đa hóa năng lực hậu cần của công ty.
Với bên ngoài, công ty phải tích hợp hệ thống hậu cần với các nhà cung ứng và khách
hàng nhằm tối đa hóa năng lực của toàn bộ hệ thống phân phối.
Hợp tác chéo trong nội bộ doanh nghiệp
Trong hầu hết các công ty, trách nhiệm của các hoạt động hậu cần được giao
cho các bộ phận chức năng khác nhau - marketing, bán hàng, tài chính, sản xuất, mua
hàng. Rất thường xuyên, mỗi chức năng đều cố gắng tối đa hóa năng lực hậu cần của bộ
phận mình mà không quan tâm đến hoạt động của các chức năng khác. Tuy nhiên, các
hoạt động vận tải, tồn kho, tổng kho và xử lý đơn hàng thường tương tác với nhau. Mức
tồn kho thấp làm giảm chi phí tồn kho. Nhưng chúng cũng có thể làm giảm dịch vụ cho
khách hàng và làm tăng chi phí từ khi hàng được xuất đi, đơn đặt hàng bị trả, sản xuất
đặc biệt khi hết hàng hoặc chi phí cao cho việc giao hàng nhanh. Vì các hoạt động phân
phối liên quan đến việc cân nhắc của nhiều bộ phận chức năng khác nhau, do vậy họ
phải phối hợp với nhau để đạt được năng lực hậu cần cao hơn.
Mục tiêu của quản trị chuỗi cung ứng tích hợp là phối hợp tất cả các quyết định
hậu cần của công ty. Mối quan hệ làm việc chặt chẽ giữa các chức năng có thể đạt
được bằng nhiều cách. Một số công ty tạo ra các cuộc họp hậu cần thường xuyên bao
gồm các nhà quản lý có trách nhiệm đối với các hoạt động phân phối khác nhau. Các
công ty cũng có thể tạo ra các vị trí lãnh đạo kết nối các hoạt động hậu cần của các khu
vực chức năng. Điều quan trọng là công ty phối hợp các hoạt động marketing và hậu
cần nhằm tạo ra sự thỏa mãn thị trường cao hơn với chi phí hợp lý.
Xây dựng mối quan hệ đối tác hậu cần
Các công ty phải tiến xa hơn việc cải thiện công tác hậu cần của mình. Họ cũng
phải làm việc với các thành viên khác của kênh nhằm cải thiện toàn bộ kênh phân phối.
Các thành viên của kênh phân phối kết nối chặt chẽ với nhau trong việc cung ứng sự
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 170
thỏa mãn và giá trị cho khách hàng. Thành công của mỗi thành viên kênh phụ thuộc
vào năng lực của toàn bộ chuỗi cung ứng.
Các công ty thông minh phối hợp chiến lược hậu cần của họ với nhau và đẩy
mạnh mối quan hệ đối tác với các nhà cung ứng và các khách hàng nhằm cải thiện
dịch vụ khách hàng và giảm chi phí kênh. Nhiều công ty đã tạo ra nhóm làm việc đa
công ty, đa chức năng. Các công ty khác tạo quan hệ đối tác thông qua các dự án cùng
chia sẻ. Điểm chung ở đây là tất cả các thành viên của kênh phải làm việc cùng với
nhau nhằm phục vụ khách hàng cuối cùng.
Hậu cần với bên thứ ba
Hầu hết các công ty đều tự thực hiện công tác hậu cần của mình. Tuy nhiên,
cũng ngày càng nhiều công ty thuê ngoài một phần hoặc toàn bộ hoạt động hậu cần của
họ, tức là sử dụng bên thứ ba. Các công ty hậu cần tích hợp đó thực hiện bất kỳ chức
năng hậu cần nào được yêu cầu nhằm đưa sản phẩm của khách hàng ra thị trường.
Các công ty sử dụng các nhà cung cấp hậu cần vì một số lý do. Trước hết, vì
việc đưa hàng hóa ra thị trường là nhiệm vụ chính của họ, do vậy các nhà cung cấp
dịch vụ này thường làm hiệu quả và với mức chi phí thấp. Thứ hai, thuê ngoài dịch vụ
hậu cần giải thoát công ty để tập trong nhiều hơn vào việc kinh doanh chính. Cuối cùng,
các công ty hậu cần tích hợp rất am hiểu môi trường hậu cần luôn đổi thay và ẩn chứa
nhiều thách thức.
1. Kênh marketing là gì? Kênh marketing đảm nhiệm chức năng gì trong mạng lưới
cung ứng?
2. Thế nào là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp? Việc lựa chọn kênh
và xác định số lượng các cấp trung gian trong kênh phân phối gián tiếp có phụ thuộc
vào loại sản phẩm cần phân phối không?
3. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu trong hệ thống kênh phân phối? nguyên nhân và cách
giải quyết các mâu thuẫn đó?
4. Phân biệt kênh truyền thống, hệ thống marketing dọc, hệ thống marketing ngang và
hệ thống marketing đa kênh?
5. Những yêu cầu nào của khách hàng mà doanh nghiệp phải đảm bảo khi quyết định
thiết kế kênh phân phối?
6. Ưu và nhược điểm của các phương thức phân phối: độc quyền, chọn lọc và rộng rãi?
Điều kiện áp dụng của mỗi phương thức phân phối trên?
7. Người quản trị marketing phải đưa ra những quyết định nào để tăng cường kiểm soát
cũng như kích thích, động viên các thành viên trong kênh phân phối?
8. Doanh nghiệp đưa ra những quyết định nào trong việc phân phối sản phẩm vật chất?
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 171
CHƯƠNG 10: TRUYỀN THÔNG MARKETING TÍCH HỢP
MỤC TIÊU
- Thảo luận bản chất của truyền thông marketing tích hợp
- Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn công cụ truyền thông
- Mô tả tiến trình truyền thông marketing
- Cách thức phát triển một chương trình truyền thông hiệu quả
- Hiểu rõ các công cụ truyền thông: quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công chúng,
bán hàng cá nhân, marketing trực tiếp.
NỘI DUNG
10. 1. TRUYỀN THÔNG MARKETING ĐỊNH HƯỚNG TRUYỀN THÔNG
TÍCH HỢP
10.1.1. Tổng quan về phối thức truyền thông marketing tích hợp
10.1.1.1. Phối thức truyền thông marketing
Phối thức truyền thông marketing của công ty hay còn gọi là phối thức truyền
thông cổ động (promotion-mix) là sự kết hợp giữa các công cụ quảng cáo, khuyến mãi,
quan hệ công chúng, bán hàng cá nhân và marketing trực tiếp mà công ty sử dụng để
chuyển tải một giá trị khách hàng sao cho thuyết phục và xây dựng quan hệ khách
hàng. Các công cụ này được định nghĩa như sau:
- Quảng cáo: Là các hình thức giới thiệu gián tiếp và khuyếch trương các ý
tưởng, hàng hóa hoặc dịch vụ đến các khách hàng, thông qua các phương
tiện truyền thông và do tổ chức trả tiền để thực hiện.
- Khuyến mãi: Là những kích thích ngắn hạn dưới hình thức thưởng nhằm
khuyến khích việc sử dụng thử hoặc mua sản phẩm, dịch vụ.
- Quan hệ công chúng: Là các chương trình được thiết kế để cổ động hoặc
bảo vệ hình ảnh công ty hoặc các sản phẩm của công ty đối với các giới
công chúng của doanh nghiệp.
- Bán hàng cá nhân: Là các tương tác trực tiếp thông qua lực lượng bán với
một hoặc nhiều khách hàng tiềm năng nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm
hay xúc tiến giải quyết các đơn hàng.
- Marketing trực tiếp: Sử dụng thư, điện thoại, fax. Email hoặc internet để
giao tiếp trực tiếp với khách hàng.
10.1.1.2. Truyền thông marketing tích hợp
Môi trường truyền thông thay đổi
Một số yếu tố đang thay đổi làm thay đổi bộ mặt của truyền thông marketing
ngày nay. Trước hết là người tiêu dùng đang thay đổi, trong thời đại kỹ thuật số không
dây này, mọi người nắm bắt thông tin tốt hơn và có quyền lực giao tiếp mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, các chiến lược marketing đang thay đổi, người làm marketing chuyển hướng
từ marketing đại chúng sang marketing theo phân đoạn thị trường, càng ngày họ càng
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 172
phát triển những chương trình marketing tập trung hơn, được thiết kế để xây dựng mối
quan hệ gần gũi hơn với khách hàng trong các thị trường mục tiêu đã được lựa chọn.
Cuối cùng, những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ thông tin cho phép những người
làm marketing tiếp cận với nhu cầu của khách hàng nhanh chóng hơn và sâu sắc hơn.
Những tiến bộ bùng nổ này đã tác động đáng kể đến truyền thông marketing, tác động
lên cách thức những người làm marketing lựa chọn các công cụ truyền thông.
- Quyền lực của các nhà bán lẻ ngày càng gia tăng
- Tính hiệu quả của quảng cáo bắt đầu giảm
- Sự chú trọng vào năng lực trong ngắn hạn được sử dụng càng nhiều
- Sự chú trọng vào việc giữ khách hàng tăng lên một cách nhanh chóng
- Marketing dữ liệu ngày càng trở thành công cụ marketing quan trọng
- Sự tăng trưởng ngày càng cao của quản trị quan hệ khách hàng.
Nhu cầu truyền thông marketing tích hợp
Ngày nay, người tiêu dùng ngày càng bị dội bom bởi các thông điệp quảng cáo
từ vô số nguồn khác nhau, trong tâm trí họ, tất thảy các thông điệp từ các phương tiện
truyền thông đều trở thành một thông điệp duy nhất về công ty. Thông điệp mâu thuẫn
từ các nguồn khác nhau có thể làm cho hình ảnh về công ty, vị thế thương hiệu, và các
mối quan hệ khách hàng trở nên rối bời và khó hiểu. Tuy nhiên, các công ty thường
thất bại trong việc tích hợp nhiều kênh truyền thông thành một kênh thống nhất bởi
những thông tin truyền thông thường xuất phát từ các bộ phận khác nhau của công ty.
Ngày nay, nhiều công ty đang áp dụng khái niệm về truyền thông marketing
tích hợp (IMC). Với khái niệm này, công ty phải tích hợp một cách cẩn trọng và phối
hợp nhiều kênh truyền thông nhằm chuyển tải các thông điệp rõ ràng, thống nhất về tổ
chức và các sản phẩm của mình.
IMC có nghĩa là tất cả các thông điệp, định vị hình ảnh và nhận diện của tổ
chức phải được phối hợp trong truyền thông ra bên ngoài. Điều này có nghĩa là các
chương trình quan hệ công chúng phải phát biểu cùng một thứ như các chiến dịch thư
trực tiếp và các quảng cáo gợi mở cùng những cái nhìn như trên trang web.
IMC phải tính đến tất cả những điểm khách hàng tiếp xúc với các thông điệp
của công ty, các sản phẩm của công ty và với các nhãn hiệu của công ty. Ỏ mỗi lần
tiếp xúc đó, khách hàng sẽ phải nhận được cùng một thông điệp về công ty hoặc về sản
phẩm. Công ty phải cố gắng chuyển tải những thông điệp tích cực và thống nhất ở tất
cả các điểm tiếp xúc với khách hàng.
10.1.2. Tiến trình truyền thông
Truyền thông marketing tích hợp liên quan đến việc nhận diện đối tượng mục
tiêu và xây dựng một chương trình truyền thông hài hòa, thống nhất giữa các bộ phận
để thu được phản ứng mong muốn từ khán giả.
Để giao tiếp hiệu quả với khách hàng, người làm marketing cần hiểu được
cách thức truyền thông hoạt động. Hai yếu tố thể hiện các bên chủ yếu tham gia truyền
thông - người gửi và người nhận. Hai công cụ giao tiếp chính của truyền thông- tức là
thông điệp và phương tiện truyền thông. Bốn chức năng chính của truyền thông - gồm
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 173
mã hóa, giải mã, phản ứng và phản hồi. Yếu tố cuối cùng là nhiễu trong hệ thống đó.
Các yếu tố này được định nghĩa như sau:
- Người gửi (sender) là bên gửi thông điệp cho bên còn lại (còn được gọi là nguồn
truyền thông).
- Mã hóa (encoding) là tiến trình chuyển ý tưởng thành các biểu tượng.
- Thông điệp (message) : Tập hợp các biểu tượng mà bên gởi truyền đi.
- Phương tiện truyền thông (media) gồm các kênh truyền thông qua đó thông điệp
truyền đi từ người gửi đến người nhận.
- Giải mã (decoding) là tiến trình người nhận quy ý nghĩa cho các biểu tượng do người
gửi truyền đến.
- Người nhận (receiver) là bên nhận thông điệp do bên kia gửíi đến.
- Đáp ứng (response) là tập hợp những phản ứng mà người nhận có được sau khi tiếp
nhận thông điệp.
- Phản hồi (feeback) là một phần sự đáp ứng của người nhận được thông tin trở lại cho
người gửi.
- Nhiễu tạp (noise) là những yếu tố làm sai lệch thông tin trong quá trình truyền thông,
dẫn đến kết quả là người nhận nhận được một thông điệp không giống thông điệp
được gửi đi.
Nhiễu tạp
Đáp ứng
Phản hồi
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 174
10.1.3. Phát triển chương trình truyền thông hiệu quả
Để phát triển một chiến lược truyền thông hiệu quả, người truyền thông phải
thực hiện một tiến trình bao gồm các bước chủ yếu sau đây: định dạng công chúng
mục tiêu, xác định mục tiêu truyền thông, thiết kế thông điệp, lựa chọn kênh truyền
thông, xác định ngân sách truyền thông, quyết định về hệ thống truyền thông, đánh giá
kết quả truyền thông.
10.1.3.1. Định dạng công chúng mục tiêu
Người truyền thông muốn thực hiện công việc truyền thông thì trước hết phải
xác định rõ đối tượng mà mà cần truyền thông tin là ai. Công chúng có thể là những
khách mua tiềm tàng các sản phẩm của doanh nghiệp, những người sử dụng hiện thời,
những người quyết định, hoặc những người gây ảnh hưởng. Công chúng mục tiêu có
thể là những cá nhân, những nhóm người nào đó. Công chúng mục tiêu sẽ ảnh hưởng
quan trọng đến những quyết định của người truyền thông về: nói cái gì, nói như thế
nào, nói khi nào, nói ở đâu và nói với ai, và ai là người sẽ nói?
10.1.3.2. Xác định mục tiêu truyền thông
Một khi đã xác định được công chúng mục tiêu và những đặc điểm của nó, thì
người truyền thông marketing phải quyết định về những phản ứng đáp lại mong muốn
của công chúng. Tất nhiên phản ứng đáp lại là làm cho người mua mua hàng và hài
lòng. Nhưng hành vi mua hàng là kết quả cuối cùng của một quá trình rất dài để thông
qua quyết định của người tiêu dùng. Người truyền thông marketing cần biết cách làm
thế nào để đưa công chúng mục tiêu lên trạng thái sẵn sàng mua cao hơn.
Người làm marketing có thể tìm kiếm ở công chúng mục tiêu phản ứng đáp lại
về nhận thức, cảm thụ hay hành vi. Nghĩa là người làm marketing có thể muốn khắc
sâu vào tâm trí người tiêu dùng một điều gì đó thay đổi thái độ của họ hay thúc đẩy
người tiêu dùng đến chỗ hành động. Có những mô hình khác nhau về các giai đoạn
phản ứng đáp lại của người tiêu dùng. 10.2 trình bày bốn mô hình về mức độ phản ứng
đáp lại quen thuộc nhất.
Giai đoạn Mô hình Mô hình “phân MH “đổi mới- Mô hình “giao
AIDA cấp tác động” chấp nhận” tiếp
Nhận thức Chú ý -Biết Biết đến -Tiếp xúc
-Hiểu -Tiếp nhận
-Phản ứng đáp
lại về nhận thức
Cảm thụ -Quan tâm -Thích -Quan tâm -Thái độ
-Mong muốn -Chuộng -Đánh giá -Có ý định
-Tin tưởng
Hành vi Hành động -Dùng thử Hành vi
-Chấp nhận
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 175
Hình 10.2. Các mô hình mức độ đáp ứng của người tiêu dùng
Tất cả những mô hình trên đây đều giả thiết rằng phần lớn người mua trải qua
các giai đoạn nhận thức, cảm thụ và hành vi theo đúng trật tự logic này. Đây là chuỗi
“nhận thức -cảm thụ -hành vi” và thích hợp khi công chúng để tâm rất nhiều đến một
loại sản phẩm đã nhận thức là có nhiều điểm khác biệt, như khi mua một chiếc xe máy.
Một chuỗi khác là “hành vi -cảm thụ -nhận thức”, khi công chúng để tâm rất nhiều,
nhưng nhận thức được ít hay không nhận thức thấy có sự khác biệt trong loại sản
phẩm đó. Còn một chuỗi thứ ba là “nhận thức -hành vi -cảm thụ”, khi công chúng ít để
tâm và nhận thức ít có sự khác biệt trong loại sản phẩm. Khi hiểu được chuỗi thích
hợp người làm marketing có thể thực hiện tốt hơn việc lập kế hoạch truyền thông
Hiệu quả của quá trình truyền thông chính là thái độ tích cực của đối tượng nhận tin
sau khi lĩnh hội thông tin. Hành vi mua hàng là kết quả của một quá trình thông qua
quyết định dài. Mục tiêu của truyền thông là đưa khách hàng đến những trạng thái
sẵn sàng mua cao hơn trong tiến trình dài đó.
Ở đây ta sẽ giả thiết rằng người mua để tâm rất nhiều vào loại sản phẩm và
nhận thức rõ sự khác biệt trong loại sản phẩm đó. Vì vậy ta sẽ sử dụng mô hình “phân
cấp tác động” và mô tả sáu trạng thái sẵn sàng của người mua - biết, hiểu, thích,
chuộng, tin chắc và mua.
Biết (awareness). Người truyền thông trước hết phải nắm được việc công
chúng mục tiêu biết đến sản phẩm hay tổ chức của mình như thế nào. Nếu đa số họ
chưa biết gì về doanh nghiệp và sản phẩm của nó, thì công việc của người truyền
thông là tạo cho họ biết, ít nhất cũng là tên doanh nghiệp. Điều này có thể làm được
bằng một thông điệp đơn giản có sự lặp đi lặp lại tên này. Tuy vậy việc tạo cho công
chúng biết được thông tin đơn giản cũng đòi hỏi có thời gian.
Hiểu (knowledge). Công chúng mục tiêu có thể biết về sản phẩm hay doanh
nghiệp nhưng có thể chưa thực sự hiểu về chúng. Làm cho công chúng hiểu được
doanh nghiệp và sản phẩm của nó là mục tiêu tiếp theo của người truyền thông.
Thích (liking). Nếu công chúng đã hiểu về sản phẩm, liệu họ có cảm nghĩ gì về
sản phẩm ấy. Nếu công chúng tỏ ra không có thiện cảm với sản phẩm, thì doanh
nghiệp cần triển khai một chiến dịch truyền thông nhằm gây dựng mối thiện cảm.
Chuộng (preference). Công chúng mục tiêu có thể thích sản phẩm nhưng lại
không ưa chuộng nó hơn những sản phẩm khác. Trường hợp này cần khuếch trương
những đặc tính nổi bật của sản phẩm như giá cả, chất lượng và các tính năng khác để
thuyết phục công chúng và làm tăng mức độ ưa chuộng sản phẩm của họ.
Tin chắc (conviction). Công chúng mục tiêu có thể ưa chuộng một sản phẩm
nhưng không tin chắc rằng mình sẽ mua nó. Công việc của người truyền thông là thiết
lập một niềm tin vững chắc rằng quyết định mua sản phẩm đó là đúng dắn.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 176
Mua (purchase). Một số trong công chúng mục tiêu có thể đã tin, nhưng không
hẳn tính ngay đến việc mua. Họ có thể chờ đợi có thêm thông tin, hoặc dự định để làm
việc đó sau. Người truyền thông phải dẫn những khách hàng tiềm năng này đi đến
bước cuối cùng là mua hàng.
Người tiêu dùng có thể đang ở bất kỳ một trong số sáu trạng thái sẵn sàng mua
đó. Công việc của người truyền thông là xác định xem đa số người tiêu dùng đang ở
giai đoạn nào, và triển khai một chiến dịch truyền thông để đưa họ đến giai đoạn tiếp
theo.
10.1.3.3. Thiết kế thông điệp
Sau khi đã xác định được đáp ứng mong muốn của người mua, tiếp theo cần
thiết kế một thông điệp có hiệu quả. Một cách lý tưởng, theo mô hình AIDA một
thông điệp phải gây được sự chú ý (attention), tạo được sự quan tâm (interest), khơi
dậy được mong muốn (desire) và thúc đẩy được hành động (action). Trong thực tế, ít
có thông điệp nào đưa người tiêu dùng đi trọn vẹn từ trạng thái biết đến hành vi mua,
nhưng cấu trúc AIDA đưa ra được những tiêu chuẩn đáng mong muốn.
Việc tạo thành một thông điệp sẽ đòi hỏi giải quyết các vấn đề : nói cái gì (nội
dung thông điệp), nói thế nào cho hợp lý (cấu trúc thông điệp), nói thế nào cho diễn
cảm (hình thức thông điệp) và ai nói cho có tính thuyết phục (nguồn thông điệp).
Nội dung thông điệp
Người truyền thông phải hình dung được những điều sẽ nói với công chúng
mục tiêu đề tạo được sự đáp ứng mong muốn. Quá trình này được gọi bằng những
cách khác nhau là soạn thảo lời mời chào, chủ đề hay ý tưởng. Tựu trung lại là nêu lên
một số lợi ích, động cơ, đặc điểm hay lý do tại sao công chúng cần nghĩ đến hay
nghiên cứu sản phẩm. Có ba kiểu chủ đề: lý tính, tình cảm và đạo đức.
- Chủ đề lý tính:
Liên quan đến những lợi ích riêng của người mua, rằng sản phẩm sẽ đem lại
những gì mà người mua mong đợi: chất lượng, tính kinh tế, giá trị hay các tính năng
đặc biệt khác của sản phẩm.
- Chủ đề tình cảm
Hướng đến kích thích cả tích cực lẫn tiêu cực thúc đẩy việc mua hàng. Chẳng
hạn gợi nên tình cảm yêu thương, bao dung, tự hào, khôi hài,... Hay nhắc đến nguy cơ
bệnh tật, những thói quen xấu, khiến người ta phải làm việc cần làm là khám sức khỏe
định kỳ, hay ngừng làm những việc không nên làm là bỏ thuốc lá, thôi uống rượu, bỏ
thói ăn tham
- Chủ đề đạo đức
Chủ đề đạo đức hướng người ta đến sự ý thức về cái thiện, thúc giục sự ủng hộ
các mục tiêu có tính chất xã hội như bảo vệ môi trường, giúp đỡ người tàn tật,...
Cấu trúc thông điệp
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 177
Hiệu quả của một thông điệp phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc cũng như nội
dung của nó. (1) Người truyền thông phải quyết định có nên đưa ra kết luận rõ ràng,
hay để công chúng tự rút ra kết luận. Thực tế cho thấy đưa ra kết luận rõ ràng thì
thường hiệu quả hơn; (2) đưa ra lập luận một chiều hay hai chiều; (3) quyết định nên
đưa những luận chứng đanh thép vào đầu hay cuối thông điệp. Giới thiệu luận chứng
đanh thép vào đầu thông điệp thì tạo sự chú ý mạnh, nhưng có thể dẫn đến một kết
thúc có tính chất giảm dần.
Hình thức thông điệp
Hình thức biểu đạt một thông điệp phải thật sinh động để cuốn hút sự chú ý,
quan tâm và dễ thuyết phục người mua. Đối với một ấn phẩm quảng cáo, người truyền
thông phải quyết định về tiêu đề, lời lẽ, minh họa, màu sắc và thể hiện theo cách đề
cao tính lạ thường và tương phản, hình ảnh và tiêu đề lôi cuốn, hình thức khác thường,
kích cỡ và vị trí gây được sự chú ý, hình ảnh sống động,... Nếu truyền qua radio phải
chọn từ ngữ, cách phát âm và chất lượng giọng đọc (tốc độ đọc, nhịp điệu, cao độ và
mức độ rõ ràng và sức truyền cảm của giọng đọc). Nếu thông điệp được thực hiện trên
truyền hình hay giao tiếp trực tiếp, thì phải cộng thêm những yếu tố khác nữa là ngôn
ngữ của hình thể và phong cách (những gợi ý không lời), như vẽ đẹp và sự biểu lộ của
nét mặt, dáng vẽ và sự vận động của thân thể, trang phục, kiểu tóc,...
Nếu thông điệp được truyền qua sản phẩm hay bao bì thì cần lưu ý đến cách
xếp đặt, hương thơm, màu sắc, kích thước và kiểu dáng của sản phẩm và bao bì.
Nguồn thông điệp
Sự tác động của thông điệp đối với người tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng bởi
việc họ cảm nhận về người gửi như thế nào. Các thông điệp được gởi đi từ những
nguồn đáng tin cậy thì có tính thuyết phục cao. Có ba yếu tố thường được thừa nhận
là làm tăng mức độ đáng tin cậy của nguồn: Tính chuyên môn, tính đáng tin, và tính
khả ái.
Tính chuyên môn biểu thị mức độ mà người truyền thông có được thẩm quyền
để ủng hộ một luận điểm. Các bác sĩ, nhà khoa học, các chuyên gia được đánh giá cao
về tính chuyên môn trong lĩnh vực tương ứng của họ.
Tính đáng tin liên quan tới việc nguồn được cảm nhận có mức độ khách quan
và trung thực ra sao. Bạn thân thì đáng tin cậy hơn người lạ hay người bán hàng.
Tính khả ái thể hiện mức hấp dẫn của nguồn truyền tải thông điệp đối với công
chúng. Tính thật thà, hài hước và tự nhiên làm cho người truyền tải thông điệp trở nên
khả ái hơn. Vì vậy, nguồn hữu hiệu nhất là nguồn đạt mức độ cao trong cả ba yếu tố
nói trên.
10.1.3.4. Chọn lựa phương tiện truyền thông
Người truyền thông giờ đây phải chọn lựa các kênh truyền thông hữu hiệu. Các
kênh truyền thông có hai loại: kênh cá nhân (trực tiếp) và kênh phi cá nhân (gián tiếp).
Kênh truyền thông cá nhân (trực tiếp)
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 178
Trong kênh này, hai hay nhiều người sẽ trực tiếp truyền thông với nhau. Họ có
thể truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp nhân viên với đối tượng, qua điện thoại, hoặc
qua thư từ trên cơ sở giao tiếp cá nhân. Các kênh truyền thông trực tiếp tạo ra hiệu quả
thông qua những cơ hội cá nhân hóa việc giới thiệu và thông tin phản hồi. Các kênh
truyền thông trực tiếp có thể chia nhỏ thành các kênh giới thiệu, kênh chuyên viên và
kênh xã hội. Kênh giới thiệu gồm các nhân viên bán hàng của doanh nghiệp tiếp xúc
trực tiếp với người mua trên thị trường mục tiêu. Kênh chuyên viên gồm những
chuyên viên độc lập phát biểu ý kiến của mình với khách hàng mục tiêu. Kênh xã hội
gồm những người láng giềng, bạn bè, các thành viên trong gia đình và những người
đồng sự nói chuyện với khách hàng mục tiêu. Ảnh hưởng của vai trò cá nhân đối với
công chúng mục tiêu đặc biệt quan trọng trong các trường hợp họ cần mua những sản
phẩm đắt tiền, có nhiều rủi ro hay không mua thường xuyên, hay những sản phẩm nói
lên địa vị hoặc thị hiếu của người sử dụng.
Kênh truyền thông phi cá nhân (gián tiếp)
Những kênh truyền thông gián tiếp chuyển các thông điệp đi mà không cần có
sự tiếp xúc hay giao tiếp trực tiếp. Chúng bao gồm các phương tiện truyền thông đại
chúng, bầu không khí và các sự kiện.
Các phương tiện truyền thông đại chúng bao gồm những phương tiện truyền
thông dưới dạng ấn phẩm (thư trực tiếp, báo và tạp chí), những phương tiện truyền
thông quảng bá (truyền thanh, truyền hình), những phương tiện truyền thông điện tử
(băng ghi âm và ghi hình, đĩa ghi hình, internet) và những phương tiện trưng bày
(panô, bảng hiệu, áp phích). Hầu hết các thông điệp gián tiếp đều được chuyển tải qua
các phương tiện truyền thông có trả tiền.
Bầu không khí là những khung cảnh có chủ tâm nhằm tạo ra hay củng cố xu
hướng mua và tiêu dùng sản phẩm.
Các sự kiện là những công việc có chủ tâm, nhằm chuyển tải các thông điệp đặc
biệt đến công chúng mục tiêu, như tổ chức các buổi họp báo, lễ khai trương và bảo trợ
hoạt động thể thao,...
10.1.3.5. Xây dựng ngân sách và phân chia ngân sách cổ động
Xác định ngân sách cổ động
Muốn thực hiện được hoạt động truyền thông Marketing, công ty cần phải
cung cấp một ngân sách nhất định. Thông thường có 4 phương pháp xác định ngân
sách cho hoạt động truyền thông của công ty:
❖ Phương pháp tùy theo khả năng
Theo phương pháp này, công ty xây dựng ngân sách truyền thông theo khả
năng tài chính của họ. Phương pháp này có nhược điểm là công ty không thể chủ
động sử dụng các hoạt động truyền thông theo mức cần thiết để tác động tới thị
trường.
❖ Phương pháp phần trăm trên doanh số
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 179
Theo phương pháp này, công ty xây dựng ngân sách truyền thông bằng một tỷ
lệ phần trăm nào đó của doanh số (năm báo cáo hoặc năm kế hoạch).
Phương pháp này có ưu điểm: Thứ nhất, nó có nghĩa là chi phí cổ động sẽ thay
đổi tùy theo khả năng của doanh nghiệp. Điều này thỏa mãn được những người quản
trị tài chính có quan điểm “chi phí phải gắn chặt với biến động mức tiêu thụ của doanh
nghiệp trong chu kỳ kinh doanh”. Thứ hai, nó khuyến khích ban lãnh đạo nghĩ đến mối
liên hệ giữa chi phí cổ động, giá bán và lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm. Thứ ba, nó
khuyến khích ổn định cạnh tranh ở mức độ mà các doanh nghiệp chi cho cổ động một
tỷ lệ phần trăm doanh thu của mình xấp xỉ ngang nhau. Mặc dù vậy, phương pháp này
cũng có một số nhược điểm. Nó dẫn đến chỗ xác định ngân sách căn cứ vào ngân quỹ
hiện có chứ không phải theo những cơ hội của thị trường. Nó không khuyến khích việc
tiến hành cổ động không theo chu kỳ hay chi phí tiến công. Sự phụ thuộc của ngân
sách cổ động vào biến động của mức tiêu thụ hàng năm sẽ gây trở ngại cho việc lập kế
hoạch dài hạn. Phương pháp này không tạo ra một căn cứ logic để lựa chọn một tỉ lệ
phầm trăm cụ thể, ngoại trừ những gì đã làm được trong quá khứ hay những gì mà đối
thủ cạnh tranh đang làm. Cuối cùng nó không khuyến khích xây dựng ngân sách cổ
động trên cơ sở xác định xem mỗi sản phẩm và thị trường xứng đáng chi bao nhiêu.
❖ Phương pháp ngang bằng cạnh tranh
Theo phương pháp này, công ty xây dựng ngân sách truyền thông bằng ngân
sách truyền thông của các đối thủ cạnh tranh trên cùng địa bàn và chu kỳ kinh doanh.
Phương pháp này có ưu điểm là sẽ tránh khả năng xảy ra chiến tranh về truyền
thông giữa các công ty cạnh tranh. Khó khăn trong việc thực hiện phương pháp này
là khó xác định được ngân sách truyền thông của các công ty cạnh tranh. Mặt khác,
do mục tiêu truyền thông của các công ty khác nhau, cho nên căn cứ như trên cũng
không hoàn toàn hợp lý.
❖ Phương pháp căn cứ vào mục tiêu và công việc
Theo phương pháp này, các công ty xây dựng ngân sách truyền thông trên cơ sở
những mục tiêu và công việc cần phải giải quyết về phương diện truyền thông.
Phương pháp này được xem là có căn cứ khoa học. Điều quan trọng cần lưu ý
là mục tiêu, nhiệm vụ truyền thông phải đặt trong mục tiêu và nhiệm vụ của chiến lược
Marketing.
Phương pháp này có ưu điểm là đòi hỏi ban lãnh đạo phải trình bày rõ những giả
thiết của mình về mối quan hệ giữa tổng chi phí, mức độ tiếp xúc, tỉ lệ dùng thử và
mức sử dụng thường xuyên.
Vấn đề chủ yếu là cần dành cho cổ động trọng số bằng bao nhiêu trong toàn bộ
marketing mix (so với cải tiến sản phẩm, hạ giá, tăng dịch vụ, v.v..). Câu trả lời còn
tùy thuộc vào chỗ sản phẩm của doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống
của nó, chúng có phải là hàng tiêu dùng thông thường không hay là những sản phẩm
khác biệt, chúng có nhu cầu thường xuyên không hay cần phải “bán” đi, và nhiều vấn
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 180
đề khác nữa. Về lý thuyết, tổng ngân sách cổ động phải được xác định ở mức đảm bảo
lợi nhuận biên tế từ một đồng cổ động phải bằng lợi nhuận biên tế của một đồng dùng
vào các mục đích không phải cổ động. Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc này không
hề dễ dàng.
Phân chia ngân sách cổ động
Việc phân chia kinh phí cổ động dựa vào các yếu tố sau:
❖ Bản chất của mỗi công cụ cổ động
Tùy vào mỗi công cụ cổ động khác nhau mà cần phân bổ ngân sách
❖ Loại sản phẩm – thị trường
✓ Loại sản phẩm:
Giá trị đơn vị. Các sản phẩm giá trị thấp nhằm vào thị trường quảng đại, do
vậy sử dụng quảng cáo là thích hợp. Sản phẩm có giá trị cao phù hợp với bán hàng trực
tiếp.
Tính cá biệt của sản phẩm. Quảng cáo phù hợp với các sản phẩm tiêu
chuẩn hoá. Bán hàng trực tiếp phù hợp với sản phẩm cá nhân hoá.
Các dịch vụ trước và sau bán hàng. Các dịch vụ này càng nhiều thì càng phù
hợp với bán hàng trực tiếp, vì chỉ bán hàng trực tiếp mới có thể cung cấp được các
dịch vụ khách hàng đầy đủ.
✓ Thị trường:
Hàng tiêu dùng: Quảng cáo, khuyến mãi, bán hàng trực tiếp, quan hệ công
chúng và tuyên truyền.
Hàng kỹ nghệ: Bán hàng trực tiếp, khuyến mãi, quảng cáo, quan hệ công chúng
và tuyên truyền.
❖ Chiến lược bán hàng
Chiến lược đẩy hay kéo được lựa chọn
Chiến lược xúc tiến nhằm vào các trung gian được gọi là chiến lược đẩy.
Chiến lược xúc tiến nhằm vào người tiêu dùng cuối cùng được gọi là chiến lược kéo.
Trong chiến lược đẩy, các chiến lược xúc tiến hay được dùng là bán hàng trực
tiếp và khuyến mãi các trung gian nhằm đẩy sản phẩm chuyển qua các trung gian
trong kênh phân phối đến khách hàng cuối cùng. Loại chiến lược này phù hợp với
các sản phẩm phục vụ các nhà kinh doanh cũng như các hàng tiêu dùng khác nhau.
Chiến lược kéo sử dụng nhiều quảng cáo, khuyến mại nhằm trực tiếp vào
người tiêu dùng cuối cùng đề tạo ra nhu cầu kéo hàng hoá dọc theo kênh phân phối
qua các trung gian trong kênh.
❖ Giai đoạn sẵn sàng của người tiêu dùng
- Giai đoạn biết: quảng cáo và tuyên truyền
- Giai đoạn hiểu: Quảng cáo, giáo dục, bán
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 181
- Giai đoạn tin: Chào bán, quảng cáo
- Giai đoạn mua: Chào bán
❖ Giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm
Các giai đoạn của chu kỳ sống Chiến lược truyền thông cổ động
Giai đoạn giới thiệu Quảng cáo, tuyên truyền là cần thiết, chào
hàng cho những người bán sỉ, khuyến mại để
kích thích dùng thử.
Giai đoạn phát triển Kích thích nhu cầu lựa chọn nhãn hiệu. Nhấn
mạnh đến quảng cáo. Các trung gian chia
sẻ nhiệm vụ xúc tiến.
Giai đoạn bão hoà Tăng cường khuyến mại, chỉ quảng cáo để nhắc
nhở.
Giai đoạn suy thoái Chấm dứt các nỗ lực xúc tiến trừ khi muốn làm
sống lại sản phẩm.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 182
- Tính biểu cảm. Quảng cáo tạo ra những cơ hội để giới thiệu doanh nghiệp và
sản phẩm của nó bằng cách sử dụng khôn khéo hình ảnh, âm thanh và màu sắc. Tuy
nhiên đôi khi tác dụng biểu cảm rất mạnh của công cụ này có thể làm mờ nhạt hay
đánh lạc hướng sự chú ý đến thông điệp.
- Tính chung. Quảng cáo không thể có tính chất ép buộc như trường hợp đại
diện bán hàng của doanh nghiệp. Công chúng không cảm thấy mình có bổn phận phải
chú ý hay hưởng ứng. Quảng cảo chỉ có thể thực hiện độc thoại, chứ không phải đối
thoại với công chúng.
Quảng cáo có thể sử dụng để tạo ra một hình ảnh lâu bền cho một sản phẩm hay
để kích thích tiêu thụ nhanh. Quảng cáo là một phương thức có hiệu quả để vươn tới
nhiều người mua phân tán về địa lý với chi phí thấp cho một lần tiếp xúc.
➢ Khuyến mãi
Mặc dù công cụ khuyến mãi, như phiếu thưởng, cuộc thi, phần thưởng,... rất đa
dạng, chúng đều có ba đặc điểm chủ yếu sau:
- Truyền thông. Chúng thu hút sự chú ý và thường cung cấp thông tin có thể
đưa người tiêu dùng đến với sản phẩm.
- Khuyến khích. Chúng kết hợp việc nhân nhượng, khích lệ hay hỗ trợ nào đó
có giá trị đối với người tiêu dùng.
- Mời chào. Chúng chứa đựng lời mời chào thực hiện ngay việc mua bán.
Các doanh nghiệp sử dụng công cụ khuyến mãi để tạo ra phản ứng đáp lại
mạnh mẽ hơn và nhanh hơn. Có thể sử dụng các công cụ khuyến mãi để chào hàng có
hiệu quả và phục hồi mức tiêu thụ đang sa sút. Tuy nhiên hiệu quả của khuyến mãi
thường mang tính chất ngắn hạn và không có tác dụng tạo dựng sự ưa thích lâu dài đối
với nhãn hiệu đó.
➢ Marketing trực tiếp
Marketing trực tiếp bao gồm một số hình thức như thư gửi trực tiếp, marketing
qua điện thoại, marketing điện tử v.v.., với một số đặc điểm khác biệt là:
- Không công khai. Thông điệp thường đưọc chuyển đến một người cụ thể và
không đến với những người khác.
- Theo ý khách hàng. Thông điệp có thể được soạn thảo theo ý khách hàng để
hấp dẫn cá nhân người nhận.
- Cập nhật. Có thể soạn thảo và gửi thông điệp rất nhanh cho người nhận.
➢ Quan hệ công chúng và tuyên truyền
Sức hấp dẫn của các quan hệ công chúng xuất phát từ ba đặc điểm sau:
- Tín nhiệm cao. Nội dung và tính chất của thông tin có vẻ xác thực và đáng tin
cậy hơn đối với người đọc so với quảng cáo.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 183
- Không cần cảnh giác. Quan hệ công chúng có thể tiếp cận đông đảo khách
hàng tiềm năng mà họ thường né tránh tiếp xúc với nhân viên bán hàng và quảng cáo.
Thông điệp đến với người mua dưới dạng tin sốt dẻo.
- Giới thiệu cụ thể. Giống như quảng cáo, quan hệ công chúng có khả năng giới
thiệu cụ thể doanh nghiệp hay sản phẩm. Những người làm marketing có xu hướng
đánh giá thấp quan hệ công chúng, hay sử dụng nó như một công cụ sau cùng. Tuy
vậy, một chương trình quan hệ công chúng có suy tính kỹ lưỡng phối hợp vói các yếu
tố khác của hệ thống cổ động có thể đạt được hiệu quả rất to lớn.
➢ Bán hàng trực tiếp
Bán hàng trực tiếp là một công cụ có hiệu quả nhất về chi phí trong những giai
đoạn cuối của quá trình mua sắm, đặc biệt là trong việc tạo dựng sự ưa thích của người
mua, niềm tin và dẫn đến hành động mua hàng. Nguyên do là so với quảng cáo thì
bán hàng trực tiếp có ba đặc điểm khác biệt sau:
- Trực diện. Bán hàng trực tiếp đòi hỏi mối quan hệ sinh động, trực tiếp và qua
lại giữa hai hay nhiều người. Mỗi bên tham dự có thể nghiên cứu trực tiếp những nhu
cầu và đặc điểm của nhau và có những điều chỉnh tức thời.
- Xây dựng quan hệ. Bán hàng trực tiếp cho phép thiết lập nhiều mối quan hệ,
từ quan hệ mua bán thông thường đến quan hệ bạn bè thân thiết. Những người đại diện
bán hàng giỏi thường phải thực lòng quan tâm đến khách hàng, nếu họ muốn có quan
hệ lâu dài.
- Phản ứng đáp lại. Bán hàng trực tiếp làm cho người mua thấy có bổn phận
lắng nghe lời chào hàng. Người mua cần phải chú ý nghe và đáp lại, cho dù chỉ là một
lời cảm ơn lịch sự. Tuy nhiên, để có được những lợi thế đó, lực lượng bán hàng đòi
hỏi một khoản chi phí lâu dài lớn hơn so với quảng cáo. Quảng cáo có thể bắt đầu và
kết thúc, nhưng quy mô của lực lượng bán hàng thì rất khó thay đổi.
10.1.3.7. Đánh giá kết quả cổ động
Sau khi thực hiện kế hoạch cổ động người truyền thông phải đo lường tác động
của nó đến công chúng mục tiêu. Việc này đòi hỏi phải khảo sát công chúng mục tiêu
xem họ có nhận thấy hay ghi nhớ thông điệp đó không, họ đã nhìn thấy nó bao nhiêu
lần, họ ghi nhớ được những điểm nào, họ cảm thấy như thế nào về thông điệp đó, thái
độ trước kia và hiện nay của họ đối với sản phẩm đó và doanh nghiệp. Người truyền
thông cũng cần thu thập những số đo hành vi phản ứng đáp lại của công chúng, như có
bao nhiêu người đã mua sản phẩm, thích nó và nói chuyện với những người khác về
nó.
10. 2. QUẢN TRỊ CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN THÔNG CỔ ĐỘNG
10.2.1. Phát triển và quản trị chương trình quảng cáo
Quảng cáo là các hình thức phi cá nhân, phải trả tiền để giới thiệu hoặc quảng
bá ý tưởng, sản phẩm, dịch vụ do một nhà tài trợ xác định trả tiền.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 184
Để phát triển một chương trình quảng cáo, cần đưa ra các quyết định sau:
Thiết lập mục tiêu quảng cáo, dự trù ngân sách quảng cáo, quyết định thông điệp
quảng cáo, lựa chọn phương tiện quảng cáo, đánh giá hoạt động quảng cáo.
10.2.1.1. Xác định mục tiêu quảng cáo
Bước đầu tiên trong quá trình thiết kế chương trình quảng cáo là xác định các
mục tiêu quảng cáo. Những mục tiêu này phải xuất phát từ những quyết định trước đó
về thị trường mục tiêu, định vị trí trong thị trường và marketing-mix. Mục tiêu quảng
cáo có thể được phân loại theo mục đích chính của nó: mục tiêu thông tin, thuyết phục
hay nhắc nhở.
Mục tiêu thông tin
- Thông báo cho thị trường biết về một sản phẩm mới
- Nêu ra những công dụng mới của sản phẩm
- Thông báo cho thị trường biết việc thay đổi giá
- Giải thích nguyên tắc hoạt động của sản phẩm
- Mô tả những dịch vụ hiện có
- Điều chỉnh lại những ấn tượng không đúng
- Giảm bớt nỗi lo ngại của người mua
- Tạo dựng hình ảnh của doanh nghiệp
Quảng cáo thông tin được dùng nhiều trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm khi mục tiêu
chủ yếu là tạo nên nhu cầu ban đầu.
Mục tiêu thuyết phục
- Hình thành sự ưa thích nhãn hiệu
- Khuyến khích chuyển sang nhãn hiệu của mình
- Thay đổi nhận thức của người muâ về các tính chất của sản phẩm
- Thuyết phục người mua mua ngay
- Thuyết phục người mua tiếp người chào hàng và mở giao dịch
Quảng cáo thuyết phục trở nên quan trọng ở giai đoạn cạnh tranh, khi mục tiêu
của doanh nghiệp là tạo nên nhu cầu có chọn lọc đối với một nhãn hiệu cụ thể.
Mục tiêu nhắc nhở
- Nhắc nhở người mua là sắp tới họ sẽ cần sản phẩm đó
- Nhắc nhở người mua về địa điểm có thể mua sản phẩm đó
- Nhắc nhở người mua về sự có mặt của sản phẩm trong thời kỳ trái mùa vụ
- Duy trì sự biết đến sản phẩm ở mức độ cao
Quảng cáo nhắc nhở vô cùng quan trọng đối với những sản phẩm ở thời kỳ
sung mãn của chu kỳ sống.
Việc lựa chọn mục tiêu quảng cáo cần căn cứ vào kết quả phân tích kỹ lưỡng
tình hình marketing hiện tại. Chẳng hạn, nếu một nhóm sản phẩm đang ở thời kỳ sung
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 185
mãn và doanh nghiệp đang là người dẫn đầu thị trường, và nếu mức độ sử dụng nhãn
hiệu thấp, thì mục tiêu thích hợp là phải kích thích sử dụng nhãn hiệu đó nhiều hơn.
Mặt khác, nếu nhóm sản phẩm đó là mới và doanh nghiệp không phải là người dẫn
đầu thị trường, nhưng nhãn hiệu của nó tốt hơn của người dẫn đầu, thì mục tiêu thích
hợp là thuyết phục thị trường về tính ưu việt của nhãn hiệu đó.
10.2.1.2. Xác định ngân sách quảng cáo
Sau khi đã xác định mục tiêu quảng cáo, các doanh nghiệp sẽ phải tiến hành
xây dựng ngân sách quảng cáo cho từng loại sản phẩm của mình. Các phương pháp
hoạch định ngân sách đã được trình bày ở phần trước của chương này là: căn cứ vào
khả năng, phần trăn trên doanh thu, cân bằng cạnh tranh, căn cứ vào mục tiêu và
nhiệm vụ. Ở đây chúng ta sẽ thảo luận một số yếu tố cần được xem xét khi dự trù ngân
sách cho quảng cáo.
- Các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm. Những sản phẩm mới thường dòi
hỏi ngân sách quảng cáo lớn để tạo sự biết đến và khuyến khích dùng thử, những sản
phẩm sung mãn chỉ được hỗ trợ bằng ngân sách nhỏ hơn theo tỉ lệ với doanh thu bán
hàng.
- Thị phần. Những nhãn hiệu có thị phần lớn thường đòi hỏi chi phí quảng cáo
ít hơn tính theo doanh thu bán hàng để duy trì thị phần của mình. Để tạo thị phần bằng
cách tăng qui mô thị trường đòi hỏi chi phí quảng cáo lớn hơn.
- Cạnh tranh. Trên một thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh và chi phí quảng
cáo lớn, một nhãn hiệu phải được quảng cáo mạnh mẽ hơn để loại trừ những thông tin
nhiễu tạp của thị trường.
- Tần suất quảng cáo. Số lần lặp lại cần thiết để đưa thông điệp của nhãn hiệu
đến được người tiêu dùng cũng góp phần quyết định ngân sách quảng cáo.
- Khả năng thay thế của sản phẩm. Những nhãn hiệu thuộc loại thông thường
(chẳng hạn như bia, nước ngọt bột giặt,...) đòi hỏi phải quảng cáo mạnh để tạo nên sự
khác biệt. Quảng cáo cũng rất quan trọng khi nhãn hiệu có thể cung ứng những lợi ích
vật chất hay tính năng độc đáo.
10.2.1.3. Quyết định thông điệp quảng cáo
Bất kể ngân sách đến đâu thì quảng cáo chỉ có thể thành công khi thu hút được
sự chú ý và thông tin hiệu quả. Thông điệp quảng cáo tốt đặc biệt quan trọng trong
môi trường quảng cáo tốn kém và lộn xộn ngày nay.
Người làm quảng cáo phải trải qua ba bước: Thiết kế thông điệp, tuyển chọn và
đánh giá thông điệp, và thực hiện thông điệp.
Thiết kế thông điệp
Theo nguyên tắc, thông điệp của sản phẩm cần được quyết định như một bộ
phận của quá trình phát triển khái niệm sản phẩm. Nó biểu hiện lợi ích chủ yếu mà
nhãn hiệu đó đem lại. Và sau một thời gian thông điệp có thể phải thay đổi nhưng sản
phẩm có thể không thay đổi, nhất là khi người tiêu dùng đang tìm kiếm những lợi ích
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 186
khác của sản phẩm hay khi họ hoặc doanh nghiệp phát hiện ra những công dụng mới
của sản phẩm đó.
Những người sáng tạo dùng nhiều cách để tạo các ý tưởng hấp dẫn diễn tả
được mục đích quảng cáo. Nhiều người tiến hành theo phương pháp quy nạp, tức là đi
tìm nguồn cảm hứng sáng tạo từ những cuộc nói chuyện với khách hàng, các đại lý,
các chuyên gia và đối thủ cạnh tranh. Người tiêu dùng là một nguồn chủ yếu cung cấp
những ý tưởng hay. Những cảm nhận của họ về những ưu việt và hạn chế của nhãn
hiệu hiện có sẽ là những gợi ý quan trọng để hoạch định chiến lược sáng tạo. Một số
khác thì làm theo kiểu suy diễn để tạo những nội dung cần truyền đạt trong các thông
điệp quảng cáo. Ở đây cần lưu ý là càng nhiều phương án quảng cáo được thiết kế độc
lập thì xác suất tìm được một quảng cáo hay và hiệu quả càng lớn, tuy nhiên điều này
cũng đòi hỏi chi phí thời gian, sức lực và tiền bạc nhiều hơn.
Đánh giá và lựa chọn thông điệp
Người làm quảng cáo cần đánh giá các phương án thông điệp khác nhau. Một
quảng cáo hay thường tập trung vào một vấn đề cốt lõi của việc bán hàng. Twedt đã đề
nghị rằng các nội dung thông điệp có thể được đánh giá dựa trên tính phù hợp với
mong muốn, tính độc đáo và tính trung thực. Nội dung truyền đạt trước hết phải nói
điều gì đó đáng được mong ước hay quan tâm về một sản phẩm. Nó còn phải nói điều
gì đó độc đáo, đặc biệt, không thể dùng cho các nhãn hiệu khác được. Sau cùng nội
dung truyền đạt phải trung thực hay có bằng chứng xác thực. Làm cho một quảng cáo
thuyết phục được người mua về tính trung thực của những điều mà nó truyền tải là
không đơn giản. Có nhiều người mua hoài nghi về tính trung thực của quảng cáo nói
chung.
Thực hiện thông điệp
Các nhà quảng cáo bây giờ phải đưa các ý tưởng vào thực hiện, biến nó thành
một chương trình có khả năng thu hút sự chú ý và quan tâm của thị trường mục tiêu.
Nhóm sáng tạo phải tìm ra cách thức tiếp cận, phong cách, giọng điệu, lời nói… để
triển khai thông điệp. Thông điệp có thể được trình bày bằng nhiều phong cách thể
hiện khác nhau như:
- Một mẩu đời. Trình bày một hay nhiều người đang sử dụng sản phẩm trong
một bối cảnh bình thường.
- Lối sống. Cho thấy sản phẩm thích hợp đến mức nào với một lối sống.
- Trí tưởng tượng. Tạo một sự mới lạ ly kỳ chung quanh sản phẩm hay việc sử
dụng nó.
- Tâm trạng hoặc hình ảnh. Kiểu này xây dựng một tâm trạng hay hình ảnh khơi
gợi quanh một sản phẩm, chẳng hạn như cái đẹp, tình yêu, hay sự thanh thản. Không
nói ra điều gì về sản phẩm cả mà chỉ có sự gợi ý để người xem tự cảm nhận.
- Âm nhạc. Cho một hay nhiều nhân vật hoặc hình hoạt họa hát một bài hát nói
về sản phẩm.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 187
- Biểu tượng nhân cách. Tạo một nhân vật làm biểu tượng cho sản phẩm.
- Chuyên môn kỹ thuật. Mô tả trình độ chuyên nghiệp của doanh nghiệp hoặc
kinh nghiệm trong việc làm ra sản phẩm.
- Bằng chứng khoa học. Trình bày kết quả khảo sát hay bằng chứng khoa học
cho thấy sản phẩm được ưa chuộng hay xuất sắc hơn các sản phẩm khác cùng loại.
- Bằng chứng xác nhận. Đặc tả một nguồn đáng tin cậy hoặc dễ mến xác nhận
sản phẩm.
Nhà quảng cáo cũng cần chọn giọng điệu cho quảng cáo; phải sử dụng những
từ có khả năng gây chú ý và dễ nhớ trong quảng cáo; yếu tố định dạng cũng tạo sự
khác biệt cho sức ảnh hưởng của quảng cáo lẫn chi phí.
10.2.1.4. Lựa chọn phương tiện quảng cáo
Các bước chính trong việc lựa chọn phương tiện quảng cáo bao gồm: (1) quyết
định về phạm vi, tần suất và cường độ tác động; (2) lựa chọn những phương tiện
quảng cáo chủ yếu; (3) quyết định lịch trình sử dụng phương tiện truyền thông; và (4)
phân bố phương tiện truyền thông theo địa lý.
Quyết định về phạm vi, tần suất và cường độ tác động
Để chọn phương tiện truyền thông, người quảng cáo cần biết rõ mình muốn
quảng cáo với phạm vi nào, tần suất lặp lại là bao nhiêu, và cường độ tác động đến
mức nào để đạt được những mục tiêu quảng cáo.
Phạm vi quảng cáo (R) biểu thị số người hay hộ gia đình tiếp xúc được với
mục quảng cáo cụ thể trên phương tiện truyền thông ít nhất một lần trong một khoảng
thời gian nhất định. Người quảng cáo phải định rõ chiến dịch quảng cáo của mình sẽ
đến được với bao nhiêu người trong thị trường mục tiêu trong một thời hạn nào đó.
Tần suất quảng cáo (F) là thước đo trung bình một người trong thị trường mục
tiêu sẽ tiếp xúc bao nhiêu lần với thông điệp.
Cường độ tác động (I) là giá trị định lượng của một lần tiếp xúc qua một
phương tiện truyền thông nhất định. Người quảng cáo cũng phải quyết định mức độ
tác động mà quảng cáo phải có được mỗi khi đến được với khách hàng mục tiêu.
Quảng cáo trên truyền hình thường có tác động mạnh hơn qua truyền thanh, vì truyền
hình vừa có âm thanh vừa có hình ảnh.
Với một ngân sách nhất định, người làm quảng cáo phải biết khéo léo kết hợp
phạm vi, tần suất và cường độ tác động để việc sử dụng các phương tiện quảng cáo đạt
hiệu quả cao nhất. Phạm vi là quan trọng hơn khi tung ra những sản phẩm mới, những
nhãn hiệu phòng vệ bên sườn, những nhãn hiệu nổi tiếng, những nhãn hiệu mua
thường xuyên, hay khi theo đuổi một thị trường mục tiêu mới. Tần suất quan trọng hơn
khi có những đối thủ cạnh tranh, sự phản đối mạnh của người tiêu dùng, hay mua theo
chu kỳ.
Lựa chọn phương tiện quảng cáo
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 188
Người lập kế hoạch truyền thông phải biết phạm vi, tần suất và ảnh hưởng của
từng loại phương tiện truyền thông chủ yếu, các loại hình truyền thông chính gồm báo
chí, truyền hình, internet, thư trực tiếp, tạp chí, đài truyền thanh và quảng cáo ngoài
trời. Các nhà quảng cáo có thể chọn các phương tiện truyền thông kỹ thuật số mới như
điện thoại di động và các thiết bị kỹ thuật số khác có khả năng trực tiếp tiếp cận người
tiêu dùng. Mỗi phương tiện có những lợi thế và hạn chế như sau:
Phương tiện Lợi thế Hạn chế
Báo chí Linh hoạt, kịp thời, bao Thời gian tồn tại ngắn, chất
quát được thị trường, nhiều lượng tái hiện kém, ít
người chấp nhận, độ tin người đọc
cậy cao
Truyền hình Kết hợp hình ảnh, âm Giá cao, nhiều người
thanh và cử động khơi dậy quảng cáo, công ít được
cảm xúc, thu hút mạnh sự tuyển chọn
chú ý
Gửi thư trực tiếp Công chúng có lựa chọn, Giá tương đối cao, khó tạo
trưctiếp, không có cạnh hình ảnh sâu đậm
tranh trên cùng phương
tiện
Truyền thanh Đại chúng, địa bàn và Sức thu hút kém hơn
công chúng truyền hình, tiếp xúc
chọn lọc, giá rẻ thoáng qua
Tạp chí Địa bàn và công chúng Thời gian từ khi đặt đến
chọn lọc, tin cậy và uy tín, khi đăng quảng cáo lâu,
chất lượng tái hiện tốt,tồn không đảm bảo vị trí tốt
tại lâu,nhiều người đọc
Quảng cáo ngoài trời Linh hoạt, tần suất lặp lại Công chúng không chọn
cao, giá rẻ, ít cạnh tranh lọc, hạn chế tính sáng tạo
Ngoài các đặc điểm của các loại phương tiện truyền thông, người lựa chọn
phương tiện cần lưu ý đến một số yếu tố quan trọng khác nữa như: thói quen sử dụng
phương tiện truyền thông của công chúng mục tiêu; sản phẩm; thông điệp; chi phí.
Quyết định lịch trình sử dụng phương tiện truyền thông
Phần lớn các doanh nghiệp quyết định lịch trình quảng cáo trên các phương tiện
truyền thông theo thời vụ hay theo chu kỳ kinh doanh, chứ không rải đều trong năm.
Tiếp theo nó phải quyết định nên quảng cáo trước hay đúng vào thời vụ bán hàng;
quảng cáo phải mạnh hơn, tương ứng hay yếu hơn doanh số của mỗi thời vụ đó. Người
quảng cáo còn phải lựa chọn nên quảng cáo liên tục, đều đặn trong một thời gian nhất
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 189
định, hay quảng cáo ngắt quảng, dồn dập trong một thời hạn ngắn của khoảng thời
gian đó.
Lịch trình quảng cáo có hiệu quả phụ thuộc vào các mục tiêu truyền thông, đặc
điểm của sản phẩm, khách hàng mục tiêu, kênh phân phối và những yếu tố marketing
khác.
Khi tung một sản phẩm mới ra thị trường, người quảng cáo phải lựa chọn giữa
các loại quảng cáo liên tục, quảng cáo tập trung, quảng cáo lướt qua và quảng cáo từng
đợt.
Quảng cáo liên tục là đảm bảo lịch trình quảng cáo đều đặn trong suốt thời gian
nhất định. Chi phí cho kiểu quảng cáo này thường cao và không nên áp dụng cho
những sản phẩm mua sắm theo thời vụ, mà chỉ áp dụng trong trường hợp cần mở rộng
thị trường và những sản phẩm mua thường xuyên.
Quảng cáo tập trung đòi hỏi phải chi toàn bộ kinh phí quảng cáo trong một thời
kỳ, và chỉ phù hợp với những sản phẩm mua theo thời vụ.
Quảng cáo lướt qua là kiểu quảng cáo chỉ phát trong một thời gian nào đó, tiếp
đến là ngừng quảng cáo, và lại tiếp tục vào thời gian tiếp theo. Kiểu này được sử dụng
trong trường hợp kinh phí quảng cáo có hạn.
Quảng cáo từng đợt là kiểu quảng cáo liên tục với cường độ thấp nhưng được
củng cố bằng những đợt có cường độ cao. Quảng cáo từng đợt khai thác được điểm
mạnh của quảng cáo liên tục và quảng cáo lướt qua để tạo ra một sự dung hòa trong
lịch trình quảng cáo. Những người ủng hộ quảng cáo từng đợt cho rằng công chúng sẽ
hiểu được thông điệp thấu đáo hơn mà vẫn tiết kiệm được chi phí.
Quyết định về phân bố địa lý của phương tiện truyền thông
Doanh nghiệp phải quyết định phân bổ ngân sách quảng cáo theo không gian và
thời gian. Doanh nghiệp có thể quyết định quảng cáo toàn quốc hay địa phương khi
nó đăng tải các chương trình quảng cáo trên kênh truyền hình hay tạp chí và báo chí
của toàn quốc hay của địa phương đó.
10.2.1.5. Đánh giá hoạt động quảng cáo
Quảng cáo cần được đánh giá liên tục. Các nhà nghiên cứu dùng nhiều kỹ thuật
để đo lường hiệu quả truyền thông và doanh số do tác động của quảng cáo.
Nghiên cứu hiệu quả truyền thông
Nghiên cứu hiệu quả truyền thông nhằm tìm cách xác định một quảng cáo có
truyền đạt hiệu quả hay không. Phương pháp gọi là trắc nghiệm văn bản quảng cáo
được thực hiện trước và sau khi đưa văn bản đó vào phương tiện truyền thông thực sự.
Có ba phương pháp chính để trắc nghiệm trước:
- Đánh giá trực tiếp, tức là đề nghị người tiêu dùng đánh giá các phương án
quảng cáo khác nhau. Các kết quả đánh giá này được sử dụng để đánh giá mức độ chú
ý, đọc hết, nhận thức, tác động và dẫn đến hành động của quảng cáo. Mặc dù cách
lượng định này về tác dụng thực tế của quảng cáo ít tin cậy hơn những bằng chứng cụ
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 190
thể, nhưng số điểm đánh giá cao hơn vẫn cho biết một quảng cáo có khả năng đạt hiệu
quả cao hơn.
- Trắc nghiệm tập quảng cáo yêu cầu người tiêu dùng xem hay nghe một loạt
các quảng cáo trong một thời gian cần thiết, sau đó đề nghị họ nhớ lại các quảng cáo
đó và nội dung của chúng. Mức độ ghi nhớ của họ cho thấy khả năng một quảng cáo
được để ý đến và thông điệp có dễ hiểu và dễ nhớ hay không.
- Trắc nghiệm trong phòng thí nghiệm. Một số nhà nghiên cứu đã dùng các thiết
bị để ghi nhận phản ứng tâm sinh lý của người tiêu dùng đối với quảng cáo: nhịp tim,
huyết áp, sự dãn nở đồng tử, hiện tượng đổ mồ hôi... Trắc nghiệm này đo lường được
khả năng thu hút của quảng cáo chứ không đo được niềm tin, thái độ và dự định của
khách hàng.
Nghiên cứu hiệu quả doanh số
Hiệu quả của quảng cáo về doanh số thường khó đo lường hơn hiệu quả truyền
thông. Doanh số chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoài quảng cáo, như đặc điểm sản
phẩm, giá cả, mức độ sẵn có của sản phẩm, ảnh hưởng của các sản phẩm cạnh tranh,...
Những yếu tố này càng ít và dễ kiểm soát thì việc đo lường hiệu quả của quảng cáo về
doanh số càng dễ dàng. Tác động về doanh số dễ đo lường nhất là khi bán theo thư đặt
hàng và khó đo lường nhất khi quảng cáo cho nhãn hiệu hoặc kèm theo ý đồ xây dựng
hình ảnh doanh nghiệp.
10.2.2. Hoạch định chính sách khuyến mãi
10.2.2.1. Khái niệm:
Khuyến mãi (sales promotion) bao gồm rất nhiều công cụ cổ động nhằm kích
thích thị trường đáp ứng mạnh hơn và nhanh chóng hơn. Những công cụ này là kích
thích khách hàng (tặng hàng mẫu, phiếu thưởng, trả lại tiền, bán đại hạ giá, phần
thường, tổ chức cuộc thi, phiếu tặng hàng, trình diễn) kích thích thương mại (trợ cấp
mua, quà miễn phí, trợ cấp bằng hàng, quảng cáo hợp tác, thi đua doanh số các đại lý)
và kích thích nhân viên bán hàng (tiền thưởng, thi đua, so sánh doanh số).
Các công cụ khuyến mãi thường được dùng bởi hầu hết các tổ chức, bao gồm
nhà sản xuất, phân phối, bán lẻ,…
Có nhiều yếu tố góp phần làm cho việc khuyến mãi tăng lên mạnh mẽ, nhất là
trong thị trường hàng tiêu dùng. Các ban lãnh đạo hiện nay đã nhận nhận khuyến mãi
là một công cụ hữu hiệu, nhiều nhà quản trị sản phẩm đã được phép sử dụng các công
cụ khuyến mãi và họ chịu áp lực phải tăng doanh số lên. Những yếu tố khác là: số
lượng nhãn hiệu sản phẩm tăng lên, các đối thủ cạnh tranh quảng cáo nhiều hơn, các
trung gian phân phối gây áp lực đối với người sản xuất nhiều hơn, hiệu năng quảng
cáo suy giảm vì chi phí quảng cáo cao, có nhiều người cùng sử dụng một kênh truyền
thông v.v ...
10.2.2.2. Những quyết định chủ yếu về khuyến mãi
a. Xác lập các mục tiêu khuyến mãi
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 191
Những mục tiêu riêng biệt của khuyến mãi sẽ thay đổi tuỳ theo loại thị trường
mục tiêu đã chọn.
Đối với người tiêu dùng, mục tiêu là thúc đẩy tiêu dùng nhiều hơn, khuyến
khích người chưa sử dụng dùng thử sản phẩm, và thu hút những người đang sử dụng
sản phẩm của hãng cạnh tranh.
Đối với người bán lẻ, mục tiêu là khuyến khích họ bán những mặt hàng mới và
dự trữ hàng nhiều hơn, thúc đẩy mua hàng vòa thời kỳ trái vụ, khuyến khích tồn trữ
những mặt hàng có liên quan với nhau và tìm cách thâm nhập các kênh phân phối mới.
Đối với lực lượng bán hàng, mục tiêu là khuyến khích họ ủng hộ những sản
phẩm hay mặt hàng mới, cố gắng tìm kiếm khách hàng nhiều hơn và kích thích bán
hàng trong mùa vắng khách.
b. Lựa chọn công cụ khuyến mãi
Có nhiều công cụ có thể được dùng để đạt đến mục tiêu của khuyến mãi.
Những công cụ khuyến mãi chính đối với người tiêu dùng, người bán lử và lực lượng
bán hàng được đề cập dưới đây:
➢ Đối với khuyến mãi người tiêu dùng
- Mẫu thử: Các sản phẩm dùng thử
- Thẻ giảm giá (Coupon): Chứng nhận cho phép người mua tiết kiệm được ít
nhiều khi họ mua sản phẩm cụ thể nào đó
- Hoàn tiền: là hình thức giống coupon, nhưng việc giảm giá xảy ra sau khi
mua hàng
- Gói giá: cho phép khách hàng tiết kiệm trên giá niêm yết của sản phẩm
- Vật phẩm khuyến mãi: những món đồ hữu dụng bên trên có in nhà quảng
cáo, logo hoặc thông điệp và được tặng làm quà cho người tiêu dùng.
- Khuyến mãi tại điểm bán hàng: bao gồm các cuộc trưng bày, mô tả ngay
tại điểm bán hàng.
- Các cuộc thi, bốc thăm trúng thưởng, trò chơi
➢ Đối với khuyến mãi thương mại
Khuyến mãi thương mại có thể thuyết phục các nhà bán lẻ quan tâm đến thương
hiệu, tạo ra không gian trên kệ, quảng bá qua quảng cáo, và đưa nó đến tay khách
hàng.
Những công cụ sử dụng trong khuyến mãi thương mại tương tự như khuyến mãi
tiêu dùng như các cuộc thi, tặng phẩm, trưng bày. Ngoài ra nhà sản xuất có thể sử
dụng những công cụ khác như:
- Chiết khấu
- Chiết khấu trợ giá
- Cung cấp sản phẩm miễn phí
- Thưởng tiền mặt
- Tặng vật phẩm khuyến mãi
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 192
➢ Đối với lực lượng bán hàng
- Tặng tiền mặt
- Quà tặng
- Thưởng doanh số…
c. Xây dựng chương trình khuyến mãi
Ngoài việc lựa chọn dạng khuyến mãi, những người làm marketing phải đưa ra
nhiều quyết định khi thiết kế chương trình khuyến mãi, như:
- Quy mô kích thích
- Điều lệ tham dự
- Cách thức quảng bá và phân phối khuyến mãi
- Thời hạn khuyến mãi
- Thời điểm khuyến mãi
- Kinh phí khuyến mãi
- …
d. Tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá kết quả khuyến mãi
Để các chương trình khuyến mãi thực thi một cách hữu hiệu, cần chuẩn bị các
kế hoạch thực hiện và kiểm tra cho từng biện pháp. Kế hoạch thực hiện phải tính cả
thời gian chuẩn bị và thời gian bán hàng. Các nhà sản xuất có thể sử dụng bốn phương
pháp đánh giá hiệu quả khuyến mãi.
- Phương pháp thông thường nhất là so sánh doanh số trước, trong và sau khi áp
dụng biện pháp khuyến mãi.
- Nghiên cứu dữ liệu về nhóm khách hàng sẽ cho thấy những loại khách hàng nào
đáp ứng với chương trình khuyến mãi và họ đã làm gì sau khi kết thúc chương
trình đó.
- Nếu cần nhiều thông tin hơn, thì những cuộc khảo sát khách hàng có thể được
tiến hành để biết có bao nhiêu người nhớ tới chương trình, họ nghì gì về nó, bao
nhiêu người được lợi từ chương trình khuyến mãi, và nó có tác động gì đến
quyết định chọn mua hàng của họ sau này không.
- Các chương trình khuyến mãi cũng có thể được đánh giá qua những thử
nghiệm với sự thay đổi về mức độ kích thích, thời gian tiến hành và cách phổ
biến chương trình.
10.2.3. Quản trị các chương trình quan hệ công chúng
10.2.3.1. Khái niệm
Quan hệ công chúng (public relations – PR) là việc xây dựng quan hệ tốt với
các nhóm công chúng khác nhau của công ty bằng cách chiếm được cảm tình của công
chúng, xây dựng hình ảnh tốt cho công ty, xử lý hoặc đánh lạc hướng các tin đồn hoặc
câu chuyện, sự kiện bất lợi.
Các hoạt động cơ bản của quan hệ công chúng, gồm:
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 193
- Quan hệ với báo chí, mà mục đích là đăng tải các thông tin có giá trị trên các
phương tiện truyền thông đại chúng để thu hút sự chú ý đến con người, sản phẩm, dịch
vụ hay tổ chức.
- Tuyên truyền sản phẩm. Tiến hành những nỗ lực khác nhau nhằm công bố về
những sản phẩm cụ thể.
- Truyền thông của doanh nghiệp, bao gồm truyền thông đối nội và đối ngoại
nhằm làm cho mọi người hiểu biết sâu hơn về tổ chức đó.
- Vận động hành lang. Làm việc với các nhà lập pháp và các quan chức chính
phủ để cổ động việc ủng hộ hay hủy bỏ một đạo luật hay một qui định nào đó.
- Tham mưu. Đề xuất với ban lãnh đạo những kiến nghị về các vấn đề có liên
quan đến công chúng và về vị trí và hình ảnh của doanh nghiệp.
Ngoài việc tuyên truyền trên các phương tiện để cổ động hay giới thiệu sản
phẩm, địa điểm hay con người, PR còn có những nhiệm vụ sau:
- Hỗ trợ việc giới thiệu sản phẩm mới;
- Hỗ trợ việc xác định lại vị trí của một sản phẩm sung mãn;
- Tạo nên sự quan tâm đến một loại sản phẩm;
- Ảnh hưởng đến những nhóm mục tiêu nhất định;
- Tạo dựng hình ảnh của doanh nghiệp bằng cách tạo nên những ý nghĩ tốt đẹp
về các sản phẩm của nó. PR đặc biệt có hiệu quả trong việc tạo sự biết đến và hiểu biết
nhãn hiệu đối với những sản phẩm mới lẫn những sản phẩm hiện có.
10.2.3.2. Những quyết định chủ yếu của quan hệ công chúng
a. Xác định mục tiêu quan hệ công chúng
- Tạo ra sự biết đến. Đăng tải các tư liệu trên phương tiện truyền thông để thu
hút sự chú ý đến sản phẩm, dịch vụ, con người, tổ chức hay ý tưởng.
- Tạo dựng uy tín. Truyền thông điệp qua các bài báo nhằm nâng cao uy tín.
- Kích thích lực lượng bán hàng và những người phân phối. Những tư liệu viết
về sản phẩm mới trước khi nó được tung ra sẽ giúp lực lượng bán hàng tiêu thụ được
sản phẩm đó cho những người bán lẻ.
- Giảm bớt chi phí cổ động. Chi phí của quan hệ công chúng ít hơn gửi thư trực
tiếp và quảng cáo trên các phương tiện truyền thông. Ngân sách cổ động của doanh
nghiệp càng nho,í thì càng nên sử dụng quan hệ với công chúng để tranh thủ phần tâm
trí của họ dành cho sản phẩm và doanh nghiệp.
b. Lựa chọn thông điệp và phương tiện quan hệ công chúng
Các phương tiện quan hệ với công chúng thường được sử dụng là các xuất bản
phẩm (các bài báo, cuốn sách nhỏ, tư liệu nghe nhìn, bản tin doanh nghiệp và các tạp
chí); tổ chức các sự kiện đặc biệt (hội nghị báo chí, hội thảo chuyên đề, triển lãm, thi
và hội thao, lễ kỷ niệm, bảo trợ các hoạt động thể thao và văn hóa); tìm kiếm và sáng
tác ra những tin tức về doanh nghiệp, những sản phẩm và con người của nó; các bài
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 194
nói chuyện với công chúng; các hoạt động xã hội; những phương tiện nhận biết doanh
nghiệp (logo, bảng hiệu, danh thiếp,...).
Mỗi phương tiện trên đây đòi hỏi một cách truyền tải thông tin khác nhau, do
đó để sử dụng chúng một cách có hiệu qủa, người quản trị PR cần thiết kế thông điệp
cho thích hợp với việc sử dụng từng loại phương tiện đó. Việc thiết kế thông điệp
thường bắt đầu từ những câu chuyện lý thú về doanh nghiệp hay sản phẩm và con
người của nó. Người làm marketing quan hệ với công chúng phải tìm kiếm những tin
tức, hay nhiều trường hợp phải sáng tạo ra tin tức. Mỗi sự kiện là một cơ hội để phát
triển thành rất nhiều câu chuyện nhằm vào những nhóm công chúng khác nhau. Việc
sáng tạo ra sự kiện là một kỹ năng đặc biệt quan trọng trong việc tuyên truyền về
doanh nghiệp và thu hút sự quan tâm của công chúng đến sản phẩm và dịch vụ của nó.
c. Tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả quan hệ công chúng
Trong việc triển khai marketing quan hệ với công chúng không phải bao giờ
các thông điệp (tư liệu, bài báo,...) cũng được những người biên tập của các phương
tiện truyền thông chấp nhận. Vì thế, để chuyển tải được thông điệp đến công chúng
mục tiêu, những người làm PR phải xem những người biên tập của các phương tiện
truyền thông như một thị trường cần thỏa mãn. Công tác tuyên truyền cần phải rất thân
trọng khi nó liên quan đến việc tổ chức những sự kiện đặc biệt, như hội nghị báo chí,
tiệc chiêu đãi, các cuộc thi tranh giải toàn quốc. Những người làm PR cũng phải tháo
vát, có khả năng xử lý khéo léo các tình huống trục trặc nhằm nâng cao hiệu năng hoạt
động của PR.
Do PR được thực hiện cùng với các công cụ cổ động khác, nên việc đo lường
hiệu quả của nó không dễ dàng. Số đo hiệu quả của PR dễ thực hiện nhất là số lần tiếp
xúc với các thông tin mà các phương tiện truyền thông đảm bảo. Nhưng số đo mức độ
tiếp xúc không cho biết có bao nhiêu người đã thực sự đọc, nghe hay nhớ được thông
điệp đó và sau đó họ nghĩ gì. Mặt khác, các ấn phẩm có thể có số độc giả trùng lặp, mà
chỉ tiêu của công tác tuyên truyền là mức độ bao quát, nên cần biết số lần tiếp xúc
không trùng lặp. Một số đo có giá trị hơn là sự thay đổi mức độ biết đến, hiểu biết đầy
đủ hay thái độ của công chúng sau chiến dịch PR. Phần đóng góp vào mức tiêu thụ và
lợi nhuận, nếu đo được sẽ là số đo thỏa mãn nhất để đánh giá hiệu quả PR.
10.2.4. Quản trị lực lượng bán hàng
10.2.4.1. Khái niệm
Quản trị lực lượng bán hàng là việc phân tích, lập kế hoạch, thực thi và kiểm
soát các hoạt động của lực lượng bán hàng. Bao gồm thiết kế chiến lược và cơ cấu lực
lượng bán hàng, tuyển dụng và lựa chọn, đào tạo, đãi ngộ, giám sát và đánh giá nhân
viên bán hàng của công ty.
10.2.4.2. Nội dung chủ yếu của quản trị lực lượng bán hàng
a. Thiết kế lực lượng bán hàng
➢ Mục tiêu của lực lượng bán hàng
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 195
Căn cứ vào đặc điểm của thị trường mục tiêu và vị trí mong muốn của doanh
nghiệp trên thị trường đó mà xác định mục tiêu của lực lượng bán hàng. Có thể nói
phương thức bán hàng trực tiếp cho khách hàng là một công cụ tiếp xúc và giao tiếp
đắt tiền nhất mà một doanh nghiệp có thể sử dụng. Tuy nhiên, bán hàng trực tiếp có
thể là một công cụ có hiệu quả cao trong những giai đoạn nhất định của quá trình mua
hàng, như giai đoạn huấn luyện người mua, thương lượng và hoàn tất giao dịch kinh
doanh.
Các đại diện bán hàng thực hiện một trong các nhiệm vụ sau đây:
- Thăm dò, tức là tìm kiếm và gây dựng quan hệ để có những khách hàng mới.
- Cung cấp thông tin cho khách hàng về các sản phẩm và dịch vụ.
- Bán hàng, là tiếp xúc, giới thiệu, giải đáp thắc mắc, hoàn tất vụ giao dịch.
- Thực hiện dịch vụ cho khách hàng như tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, thỏa thuận về
việc tài trợ, đảm bảo giao hàng nhanh chóng.
- Thu thập thông tin về khách hàng.
Phân bổ sản phẩm cho khách hàng trong những lúc khan hiếm.
Các doanh nghiệp thường đưa ra những mục tiêu khác nhau cho lực lượng bán
hàng của mình. Các mục tiêu phải thật cụ thể, như dành 75% thời gian cho những
khách hàng hiện có và 25% cho những khách hàng tiềm năng, 80% cho những sản
phẩm đã ổn định và 20% cho những sản phẩm mới. Ngày nay các doanh nghiệp chủ
trương phát triển hệ thống marketing định hướng theo thị trường, vì thế các lực lượng
bán hàng cần tập trung vào thị trường và hướng đến khách hàng nhiều hơn.
Quan điểm truyền thống cho rằng công việc của nhân viên bán hàng phải bán
được thật nhiều hàng, còn bộ phận marketing chịu trách nhiệm về chiến lược
marketing và khả năng sinh lời. Quan điểm hiện đại thì cho rằng nhân viên bán hàng
cần phải biết phân tích số liệu tiêu thụ, ước lượng tiềm năng của thị trường, thu thập
thông tin, xây dựng các chiến lược và chương trình marketing.
➢ Chiến lược của lực lượng bán hàng
Các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để dành được đơn đặt hàng của
khách hàng. Họ phải bố trí lực lượng bán hàng của mình theo một ý đồ chiến lược sao
cho có thể tiếp xúc đúng khách hàng, đúng lúc và đúng cách. Các đại diện bán hàng có
thể làm việc với từng khách hàng, nhóm khách hàng, hay qua hội thảo và hội nghị
khách hàng để giao tiếp với các khách hàng tổ chức (người cung ứng, người mua).
Như vậy người đại diện bán hàng hành động như một người quản trị khách hàng, thu
xếp những cuộc tiếp xúc với những người trong các tổ chức mua hàng và bán hàng.
Việc bán hàng càng đòi hỏi sự hợp tác và ủng hộ của những người khác, như ban lãnh
đạo, khách hàng qui mô lớn, các nhân viên kỹ thuật, những người cung cấp thông tin
và dịch vụ cho khách hàng trong và sau khi mua hàng.
Sau khi đã quyết định một phương thức bán hàng, doanh nghiệp có thể sử dụng
lực lượng bán hàng trực tiếp của doanh nghiệp (nhân viên bán hàng tại chỗ và nhân
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 196
viên bán hàng dã ngoại) hay lực lượng bán hàng theo hợp đồng (đại diện của người
sản xuất, đại lý tiêu thụ hay những người môi giới, hưởng hoa hồng theo doanh thu
bán hàng).
➢ Cấu trúc của lực lượng bán hàng
✓ Theo cấu trúc lãnh thổ
Theo cấu trúc này, mỗi đại diện bán hàng được phân công phụ trách một địa
bàn riêng biệt, ở đó họ được toàn quyền giới thiệu chủng loại sản phẩm của doanh
nghiệp. Cấu trúc tổ chức bán hàng kiểu này có một số ưu điểm. Thứ nhất, trách nhiệm
của người bán hàng được xác định rõ ràng. Nếu có sự khác biệt trong kỹ thuật bán
hàng của mỗi cá nhân, thì người bán hàng đó sẽ được tín nhiệm hay bị khiển trách về
doanh thu bán hàng trên địa bàn đó. Thứ hai là trách nhiệm theo lãnh thổ thúc đẩy
người bán chăm lo vun đắp những quan hệ kinh doanh và quan hệ cá nhân tại địa
phương. Những mối quan hệ này sẽ góp phần vào hiệu quả bán hàng của người đại
diện bán hàng và ảnh hưởng tới thu nhập cá nhân của người đó. Thứ ba, chi phí đi lại
sẽ thấp vì mỗi đại diện bán hàng chỉ di chuyển trong một địa bàn nhỏ.
Tổ chức bán hàng theo lãnh thổ thường được hỗ trợ bởi nhiều cấp độ các vị trí
quản lý bán hàng như: địa diện bán hàng vùng – quản lý vùng – quản lý khu vực –
giám đốc bán hàng.
✓ Theo cấu trúc sản phẩm
Do sự cần thiết phải am hiểu về sản phẩm của các đại diện bán hàng cùng với
sự phát triển của các loại sản phẩm và hệ thống quản trị sản phẩm, nhiều doanh nghiệp
đã lựa chọn cấu trúc lực lượng bán hàng của mình theo loại sản phẩm. Sự chuyên môn
hoá theo sản phẩm có thể là cần thiết khi doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại sản
phẩm có kỹ thuật phức tạp, hay những loại sản phẩm này quá khác biệt, ít có liên hệ
với nhau. Hạn chế của kiểu cấu trúc này là có thể xảy ra trường hợp có nhiều đại diện
bán hàng của cùng một doanh nghiệp đến chào hàng cùng một khách hàng trong cùng
một thời điểm. Điều này có nghĩa là chi phí tăng lên và gây nên sự bực mình cho
khách hàng.
✓ Theo cấu trúc khách hàng
Các doanh nghiệp thường chuyên môn hoá lực lượng bán hàng của mình theo
ngành hay theo loại khách hàng. Họ có thể tổ chức những lực lượng bán hàng riêng rẽ
cho các ngành khác nhau, thậm chí cho các khách hàng khác nhau. Lợi ích rõ nhất của
sự chuyên hoá theo khách hàng là mỗi nhân viên bán hàng có thể hiểu biết cặn kẽ về
những nhu cầu đặc biệt của khách hàng. Nhược điểm chủ yếu của lực lượng bán hàng
cấu trúc theo khách hàng là khi doanh nghiệp có nhiều loại khách khác nhau phân tán
khắp nước, đòi hỏi nhân viên bán hàng phải đi lại nhiều hơn.
✓ Cấu trúc hỗn hợp
Khi một doanh nghiệp bán nhiều loại sản phẩm khác biệt nhau cho nhiều loại
khách hàng trên một địa bàn rộng lớn, nó thường kết hợp nhiều kiểu cấu trúc khác
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 197
nhau cho lực lượng bán hàng của mình. Người đại diện bán hàng có thể được chuyên
hoá theo lãnh thổ -sản phẩm, lãnh thổ -thị trường , sản phẩm -thị trường... Khi đó các
đại diện bán hàng có thể trực thuộc một hay nhiều người quản trị chủng loại sản phẩm
và quản trị nhân viên.
➢ Quy mô của lực lượng bán hàng
Nhiều doanh nghiệp áp dụng phương pháp khối lượng công việc để xác định
quy mô cho lực lượng bán hàng. Phương pháp này bao gồm những bước sau:
- Phân nhóm khách hàng theo quy mô dựa trên khối lượng tiêu thụ hằng năm.
- Xác định tần suất tiếp xúc (số lần tiếp xúc trực tiếp khách hàng trong một năm) cho
từng nhóm khách hàng. Nó phản ánh cường độ tiếp xúc mà doanh nghiệp cần có so
với các đối thủ cạnh tranh.
- Xác định tổng khối lượng công việc trong một năm bằng cách nhân số khách hàng
trong mỗi nhóm qui mô với tần suất tiếp xúc tương ứng.
- Xác định số lần tiếp xúc trung bình mà một đại diện bán hàng có thể thực hiện được
trong một năm.
- Xác định số đại diện bán hàng cần có bằng cách chia tổng số lần tiếp xúc cần thiết
trong một năm cho số lần tiếp xúc trung bình hàng năm mà một đại diện bán hàng có
thể thực hiện.
b. Quản trị hoạt động của lực lượng bán hàng
➢ Tuyển dụng và lựa chọn lực lượng bán hàng
Tuyển dụng và lựa chọn lực lượng bán hàng xuất sắc được xem là vấn đề cốt lõi
của một hoạt động bán hàng thành công. Sự chênh lệch thành tích giữa những người
bán hàng có thể rất lớn, và việc tuyển chọn kỹ lưỡng có thể gia tăng đáng kể khả năng
hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng bán hàng.
Căn cứ đầu tiên để tuyển dụng những ứng viên có những đặc điểm phù hợp là ý
kiến của khách hàng. Hầu hết các khách hàng đều nói rằng họ muốn các đại diện bán
hàng phải là người trung thực, đáng tin cậy, hiểu biết nhiều và có thái độ ân cần.
Doanh nghiệp cần phải tìm kiếm những đặc điểm này khi tuyển chọn các ứng viên.
Một phương pháp khác là tìm kiếm những đặc điểm chung của những nhân viên
bán hàng thành công nhất trong các doanh nghiệp. Theo Charles Garfield, những đại
diện bán hàng xuất sắc đều có những đặc điểm như dám chấp nhận rủi ro, mạnh dạn
trong công việc, biết cách giải quyết vấn đề và quan tâm đến khách hàng. Đại diện bán
hàng có thể là nam hay nữ, cao hay thấp, hoạt bát hay không, ăn mặc chải chuốt hay
xềnh xoàng... và đều có thể là một nhân viên bán hàng thành công. Còn nghiên cứu
của Gallup Consluting thì cho thấy nhân viên bán hàng tốt phải có bốn tài năng cơ
bản: động lực nội tại, phong cách làm việc có kỷ luật, khả năng chốt giao dịch, khả
năng xây dựng mối quan hệ với khách hàng.
Khi tuyển dụng, doanh nghiệp nên phân tích công việc bán hàng và đặc điểm
của nhân viên bán hàng thành công nhất để xác định những đặc điểm cần thiết cho
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 198
nhân viên bán hàng. Sau đó, họ sẽ tuyển dụng nhân viên bán hàng theo những đặc
điểm như vậy. Bộ phận nhân sự tìm kiếm ứng viên từ nhiều nguồn như từ thông tin
của nhân viên bán hàng hiện tại, sử dụng cơ quan tuyển dụng, đăng tin tuyển dụng trên
báo, web, thu hút nhân viên bán hàng xuất sắc từ những công ty khác… từ đó doanh
nghiệp có thể lựa chọn ra những người tốt nhất. Thủ tục lựa chọn có thể khác nhau, từ
cuộc phỏng vấn không chính thức đến chính thức, hay đưa ra những bài kiểm tra,
những bài trắc nghiệm…
➢ Huấn luyện (đào tạo) lực lượng bán hàng
Để đào tạo một nhân viên bán hàng mới, doanh nghiệp có thể mất thời gian từ
vài tuần đến vài tháng hoặc hơn nữa. Các doanh nghiệp đào tạo nhân viên bán hàng
qua các chương trình, qua trang web…
Chương trình huấn luyện đại diện bán hàng có nhiều mục tiêu:
- Làm cho các đại diện bán hàng hiểu rõ và hòa đồng với doanh nghiệp. Hầu hết
các doanh nghiệp đều dành phần đầu tiên của chương trình huấn luyện để giới thiệu
quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, mục tiêu, cơ cấu tổ chức và
những người lãnh đạo chủ chốt, cấu trúc tài chính và cơ sở vật chất, những sản phẩm
chủ yếu và khối lượng tiêu thụ.
- Tạo sự hiểu biết về những sản phẩm của doanh nghiệp. Các học viên sẽ được
giới thiệu về quá trình sản xuất sản phẩm và tính năng hoạt động của chúng theo
những cách sử dụng khác nhau.
- Cung cấp những thông tin cần thiết về đặc điểm của khách và đối thủ cạnh
tranh. Đại diện bán hàng được tìm hiểu về các loại khách hàng khác nhau và nhu cầu,
động cơ và tập quán mua sắm của họ. Họ cũng được trang bị những hiểu biết về chiến
lược và chính sách của doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh.
- Huấn luyện cách chào hàng hiệu quả. Các đại diện bán hàng được học những
nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật bán hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp còn giới thiệu
những luận cứ chủ yếu khi chào bán mỗi sản phẩm cụ thể và đôi khi cung cấp cả mẫu
hướng dẫn chào hàng.
- Hướng dẫn những thủ tục qui định và trách nhiệm của người chào hàng dã
ngoại. Các đại diện bán hàng được học phương cách phân chia thời gian làm việc với
khách hàng, cách sử dụng công tác phí, làm báo cáo và hoạch định lộ trình có hiệu quả
nhất.
➢ Kích thích (đãi ngộ) lực lượng bán hàng
Phần lớn các đại diện bán hàng cần sự khuyến khích và động viên đặc biệt thì
mới làm việc hết sức mình. Điều này là cần thiết do bản tính của con người là muốn
được động viên, khích lệ bằng vật chất và tinh thần cho những nỗ lực cống hiến của
mình, hơn nữa còn do bản chất của công việc bán hàng là tiếp xúc nhiều người, không
chủ động về thời gian và hay gặp chuyện bực mình.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 199
Ban lãnh đạo có thể động viên tinh thần và mức hoàn thành công việc của đại diện bán
hàng thông qua bầu không khí của doanh nghiệp, xây dựng định mức bán hàng hợp lý
và những khích lệ tích cực khác như khoản tiền thưởng do bán vượt định mức doanh
số, các khoản phúc lợi.
➢ Đánh giá lực lượng bán hàng
Ngoài báo cáo của lực lượng bán hàng cùng với những kết quả quan sát khác
cung cấp chính thức tư liệu để đánh giá các thành viên của lực lượng bán hàng, có thể
sử dụng các phương pháp đánh giá khác nữa.
- So sánh các nhân viên bán hàng với nhau.
- So sánh doanh số hiện tại và quá khứ
- Đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng.
- Đánh giá phẩm chất của nhân viên bán hàng
10.2.5. Quản trị marketing trực tiếp
10.2.5.1. Khái niệm
Marketing trực tiếp được hiểu là một hệ thống tương tác marketing có sử dụng
một hay nhiều phương tiện quảng cáo để tác động đến một phản ứng đáp lại đo lường
được và/hay việc giao dịch tại bất kỳ địa điểm nào. Như được, thường là một đơn đặt
hàng của người mua (còn gọi là marketing đơn hàng trực tiếp).
Những người làm marketing trực tiếp sử dụng các phương tiện quảng cáo trả lời
trực tiếp để bán hàng và tìm hiểu về các khách hàng có tên và các đặc điểm chủ yếu đã
được nhập vào cơ sở dữ liệu khách hàng nhằm thiết lập mối quan hệ thường xuyên.
Các hãng hàng không, các khách sạn và các doanh nghiệp khác đang thiết lập những
quan hệ chặt chẽ với khách hàng thông qua những hình thức thưởng vì có tần suất sử
dụng cao và sử dụng cơ sở dữ liệu về khách hàng để chào hàng đến từng khách hàng,
gồm các khách hàng hiện có và cả những khách hàng tiềm năng.
Các hình thức phổ biến của marketing trực tiếp là: marketing bằng catalog,
marketing bằng thư trực tiếp, marketing đáp ứng trực tiếp trên truyền hình, truyền
thanh, báo và tạp chí, mua hàng điện tử, mua hàng bằng máy đặt hàng tại các cửa
hàng, sân bay...
Marketing trực tiếp đem lại cho khách hàng nhiều lợi ích, như tiết kiệm thời
gian và công sức, có thể ngồi tại nhà chọn mua qua catalog hay mạng vi tính, đặt mua
quà và gửi thẳng đến người thân, có thể tìm hiểu về nhiều sản phẩm và dịch vụ mà
không bị ràng buộc về thời gian gặp gỡ nhân viên bán hàng.
10.2.5.2. Những quyết định chủ yếu của marketing trực tiếp
a. Mục tiêu
- Mục tiêu của marketing trực tiếp là làm cho khách hàng tiềm năng mua
ngay sản phẩm. Sự thành công của nó được đánh giá bằng mức độ phản
ứng đáp lại của khách hàng.
- Các mục tiêu khác của marketing trực tiếp có thể là tạo ra sự biết đến và ý
định mua sau này.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 200
-Lợi ích chủ yếu của marketing trực tiếp là lập được danh sách khách hàng
tiềm năng cho lực lượng bán hàng, phát đi thông tin để củng cố hình ảnh
của nhãn hiệu và doanh nghiệp.
b. Khách hàng mục tiêu
Những người làm marketing trực tiếp cần hình dung ra những đặc điểm của
khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng có nhiều triển vọng mua nhất. Khách
hàng mục tiêu tốt nhất là những người mới mua gần đây nhất, mua thường xuyên và
mua nhiều. Cũng có thể sử dụng những tiêu chuẩn phân đoạn thị trường để xác định
khách hàng mục tiêu (tuổi tác, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, hoàn cảnh gia
đình và lý do mua hàng,...). Kết quả về thị trường mục tiêu là cơ sở để lập danh sách
những khách hàng có triển vọng nhất trên thị trường mục tiêu đó.
c. Chiến lược chào hàng
Người làm marketing trực tiếp cần xây dựng một chiến lược chào hàng có hiệu
quả để đáp ứng những nhu cầu của thị trường mục tiêu. Chiến lược chào hàng gồm
năm yếu tố là sản phẩm, chào hàng (bằng thư hay lời nói), phương tiện truyền thông,
phương pháp phân phối và ứng xử sáng tạo.
d. Trắc nghiệm các yếu tố marketing trực tiếp và đo lường kết quả
Một trong những lợi thế của marketing trực tiếp là có thể trắc nghiệm tính hiệu
quả của các yếu tố khác nhau của chiến dịch chào hàng trong điều kiện của thị trường.
Có thể trắc nghiệm tính chất của sản phẩm, văn bản quảng cáo, giá bán, các phương
tiện truyền thông, danh sách gửi thư,... Mặc dù mức độ đáp ứng của marketing trực
tiếp chỉ ở một con số, việc trắc nghiệm các yếu tố này có thể làm tăng đáng kể số
người biết đến sản phẩm và số người hình thành ý định mua trong tương lai, từ đó có
thể mở rộng khả năng sinh lời cho doanh nghiệp.
Người làm marketing trực tiếp cần phân tích các hoạt động đã triển khai và mức độ
đáp ứng lại của khách hàng một cách kỹ lưỡng để đảm bảo hòa vốn.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích các phương pháp xác định ngân sách cổ động và trường hợp áp dụng
chúng?
2. Phân tích các đặc điểm của quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công chúng, bán hàng
cá nhân, marketing trực tiếp?
3. Quảng cáo là gì? Các mục tiêu của quảng cáo?
4. Hãy lấy những ví dụ thực tế để trình bày phong cách thể hiện thông điệp quảng cáo?
5. Marketing trực tiếp là gì? Vai trò của marketing trực tiếp trogn kinh doanh hiện đại?
Những hình thức phổ biến của marketing trực tiếp? Những quyết định trong
marketing trực tiếp?
6. Khuyến mãi? Các bước triển khai một chương trình khuyến mãi?
7. Quan hệ công chúng? Những quyết định chủ yếu của quan hệ công chúng?
8. Những mục tiêu chủ yếu của một chương trình huấn luyện nhân viên bán hàng?
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 201
CHƯƠNG 11: TỔ CHỨC THỰC THI VÀ KIỂM TRA HOẠT ĐỘNG
MARKETING
A. MỤC TIÊU
- Nắm được các hình thức tổ chức bộ phận marketing trong tổ chức
- Hiểu được các loại kiểm tra marketing
- Phân tích được nội dung và phương pháp kiểm tra marketing
B. NỘI DUNG
11.1. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC BỘ PHẬN MARKETING TRONG TỔ
CHỨC
Các phòng ban marketing hiện đại có thể tồn tại dưới nhiều hình thức, theo chức
năng, theo khu vực địa lý, theo sản phẩm, theo thị trường hoặc theo sản phẩm-thị trường.
1.1.1.1. Cấu trúc theo chức năng
Đây là hình thức tổ chức phổ biến nhất, trong trường hợp này, các chuyên gia
marketing đả nhiệm thực hiện các chức năng khác nhau, họ trực thuộc giám đốc phụ
trách marketing, người sẽ điều hành công việc của họ. Hình 11.1 giới thiệu 5 chuyên gia
thực hiện 5 chức năng cơ bản của quản trị marketing. Ngoài ra còn có thể có các chuyên
gia khác thực hiện chức năng dịch vụ khách hàng, hoạch định marketing và quản trị hậu
cần.
Giám đốc
marketing
Ưu điểm cơ bản của tổ chức theo chức năng là điều hành đơn giản. Tuy nhiên, khi
các chủng loại sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp tăng lên thì mô hình tổ chức này
ngày càng mất dần hiệu quả của nó. Ngày càng khó soạn thảo những kế hoạch marketing
cụ thể cho từng thị trường hay mặt hàng, cũng như phối hợp hoạt động marketing của
toàn doanh nghiệp.
1.1.1.2. Cấu trúc theo địa lý
Một công ty hoạt động trên thị trường cấp quốc gia thường cấu trúc lực lượng bán
(đôi khi là những chức năng khác nhau, kể cả marketing) theo khu vực địa lý. Chẳng hạn
, giám đốc bán hàng toàn quốc có thể giám sát 3 giám đốc vùng, người này chịu trách
nhiệm quản lý 6 giám đốc khu vực, mỗi giám đốc khu vực chịu trách nhiệm giám sát 8
trưởng bộ phận bán hàng và người nay quản ly 10 nhân viên bán hàng.
Một số công ty hiện nay còn bổ sung thêm vị trí chuyên gia thị trường khu vực
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 202
(hay giám đốc marketing địa phương), với sự am hiểu thị trường cao, bộ phận này có
chức năng hỗ trợ cho lực lượng bán hàng trong việc gia tang doanh số bán và bảo vệ thị
trường.
1.1.1.3. Cấu trúc theo sản phẩm
Những doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm hay nhãn hiệu thường thành
lập tổ chức quản trị theo sản phẩm hay nhãn hiệu. Cấu trúc theo sản phẩm không thay
thế cho cấu trúc theo chức năng, nhưng đóng vai trò như một cấp quản trị khác. Cấu trúc
theo sản phẩm được đặt dưới quyền một người quản trị sản phẩm, người quản trị sản
phẩm giám sát những người quản trị loại sản phẩm, và những người quản trị loại sản
phẩm này lại giám sát những người quản trị sản phẩm và nhãn hiệu cụ thể.
Cách tổ chức quản trị theo sản phẩm có nhiều lợi điểm. Thứ nhất, người quản trị
sản phẩm có thể tập trung vào việc xây dựng một marketing-mix có hiệu quả cho sản
phẩm trước đó. Thứ hai, người quản trị sản phẩm có thể phản ứng nhanh chóng hơn đối
với những vấn đề trên thị trường, so với một ban chức năng gồm các chuyên gia.Thứ ba,
các nhãn hiệu nhỏ ít bị xem nhẹ vì chúng có một người bảo vệ sản phẩm. Thứ tư, việc
quản trị theo sản phẩm là một cơ sở huấn luyện tuyệt vời cho những cán bộ điều hành trẻ,
vì nó buộc họ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.1.4. Cấu trúc thị trường
Nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên các thị trường mang tính chất rất khác nhau
nên sử dụng cách thức tổ chức hoạt động marketing theo nguyên tắc thị trường nếu trên
các thị trường khác nhau người mua có những hành vi hay sở thích hàng hóa khác nhau.
Tổ chức bộ phận marketing theo nguyên tắc thị trường tương tự như hệ thống tổ
chức theo sản phẩm, nhà quản trị hoạt động trên tất cả các thị trường chỉ đạo hoạt động
của một số nhà quản trị marketing ở từng thị trường. Nhà quản trị từng thị trường này
chịu trách nhiệm xây dựng các kế hoạch tiêu thụ dài hạn và ngắn hạn, các kế hoạch hoạt
động khác theo chức năng.
1.1.1.5. Cấu trúc sản phẩm - thị trường
Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể kết hợp theo sản phẩm – thị trường. Hình thức
này phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều khu vực thị trường khác nhau và trên mỗi
khu vực thị trường này họ lại kinh doanh nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thực hiện
được hình thức tổ chức này đòi hỏi các nhà quản trị marketing phải am hiểu sâu sắc từng
đoạn thị trường và các loại sản phẩm bán trên thị trường đó. Hình thức này tạo điều kiện
thuận lợi để doanh nghiệp kết hợp tốt sản phẩm và thị trường để từ đó tìm ra những vùng
thị trường mới.
11.2. KIỂM TRA HOẠT ĐỘNG MARKETING
Công việc của bộ phận marketing là lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt động
marketing. Một kế hoạch marketing dù được thiết kế hoàn hảo tới đâu, trogn quá trình
thực hiện vẫn có thể nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, vì thế bộ phận marketing phải
thường xuyên theo dõi và kiểm tra các hoạt động marketing.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 203
Kiểm tra marketing có thể chia làm 4 loại: kiểm tra kế hoạch năm, kiểm tra sinh
lời, kiểm tra hiệu quả và kiểm tra chiến lược.
Kiểm tra kế hoạch năm là việc kiểm tra quá trình thực hiện và kết quả đạt được
của những người làm marketing dựa trên kế hoạch năm và tiến hành những điều chỉnh
cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch đề ra. Kiểm tra khả năng sinh lời bao gồm
những nỗ lực xác định khả năng sinh lợi đích thực của các sản phẩm, các khu vực, các thị
trường, và các kênh phân phối khác nhau. Kiểm tra hiệu suất nhằm đánh giá và nâng cao
hiệu suất của chi phí marketing thông qua các hoạt động bán hàng, quảng cáo, phân phối
và khuyến mãi. Kiểm tra chiến lược bao gồm việc khảo sát định kỳ để biết được những
chiến lược cơ bản của doanh nghiệp khai thác như thế nào những cơ hội marketing.
11.2.1. Kiểm tra kế hoạch năm
Mục đích của kiểm tra kế hoạch năm là nhằm đảm bảo chắc chăn rằng doanh
nghiệp sẽ đạt được những chỉ tiêu về mức doanh số, lợi nhuận và những chỉ tiêu khác đã
đề ra trong kế hoạch năm của mình. Quy trình kiểm tra được thực hiện qua 4 bước:
- Xác định chỉ tiêu đánh giá
- Đo lường kết quả thực hiện theo các chỉ tiêu đã xác định
- Xác định các nguyên nhân của kết quả
- Đề xuất biện pháp điều chỉnh
Những người quản trị sử dụng năm công cụ chủ yếu để kiểm tra kết quả thực hiện
kế hoạch: phân tích mức tiêu thụ, phân tích thị phần, phân tích chi phí marketing trên
doanh thu bán hàng, phân tích tài chính, theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng.
11.2.1.1. Phân tích mức tiêu thụ
Phân tích mức tiêu thụ dựa trên so sánh giữa mức doanh số thực tế đạt được so
với chỉ tiêu đề ra từ đó đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự chênh lệch giữa thực tế và
kế hoạch. Người kiểm tra cần đánh giá mức tiêu thụ cả về hiện vật (số lượng sản phẩm)
và giá trị (doanh số). Qua phân tích hai chỉ tiêu này sẽ cho thấy ảnh hưởng của giá ban
đến doanh số. Bởi vì nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh số là lượng bán và giá bán.
Người kiểm tra cần phân tích cụ thể chênh lệch lượng bán và doanh số giữa thực
hiện và kế hoạch dự kiến theo từng khu vực thị trường, từng đoạn thị trường hay nhóm
khách hàng…để từ đó xác định được nguyên nhân ảnh hưởng đến lượng bán chi tiết để
có thể đề xuất giải pháp khắc phục.
11.2.1.2. Phân tích thị phần
Mức tiêu thụ của doanh nghiệp chưa thể hiện được sự thành công của doanh
nghiệp trong mối quan hệ so sánh với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, doanh nghiệp cần theo
dõi thị phần của mình, nếu thị phần của doanh nghiệp tăng, có nghĩa là doanh nghiệp
thành công ihơn đối thủ, nếu thị phần của doanh nghiệp giảm tức là doanh nghiệp đang
kém hơn đối thủ cạnh tranh.
Dưới đây là một số cách xác định thị phần:
- Thị phần thực tế (thị phần tổng quát): tỷ lệ phần trăm giữa lượng bán của công
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 204
ty so với tổng lượng bán sản phẩm của cả thị trường.
- Thị phần tiềm năng: tỷ lệ phần trăm giữa lượng bán của công ty so với tiềm
năng thị trường
- Thị phần tương đối: tỷ lệ phần trăm giữa lượng bán của công ty so với lượng
bán của đối thủ cạnh tranh lớn nhất.
11.2.1.3. Phân tích tỉ lệ chi phí marketing trên doanh thu bán hàng
Việc kiểm tra kế hoạch năm đòi hỏi phải đảm bảo rằng doanh nghiệp không chi
phí quá mức để đạt được chỉ tiêu về mức tiêu thụ. Chỉ số chủ yếu cần theo dõi là tỷ lệ chi
phí marketing trên doanh thu bán hàng, gồm các tỷ lệ chi phí thành phần sau:
- Chi phí cho lực lượng bán hàng trên doanh thu bán hàng
- Chi phí quảng cáo trên doanh thu bán hàng
- Chi phí khuyến mãi trên doanh thu bán hàng
- Chi phí nghiên cứu trên doanh thu bán hàng
- Chi phí hành chính cho việc tiêu thụ trên doanh thu bán hàng
Dựa trên đánh giá chi phí đầu tư cho marketing để nhà quản trị marketing điều
khiển các chi phí đầu tư này ở mức độ hợp lý nhằm đem lại khả năng sinh lời cao
nhất.
11.2.1.4. Theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng
Những biện pháp kiểm tra trên đây mang nặng tính tài chính và định lượng. Ngoài
ra cần có những chỉ tiêu báo động sớm cho lãnh đạo biết những biến động thị phần sắp
diễn ra. Một số doanh nghiệp đã thành lập những hệ thống theo dõi thái độ và mức độ hài
lòng của khách hàng. Nhờ theo dõi sự biến động về mức độ ưa chuộng và hài lòng của
khách hàng trước khi chúng kịp tác động đến mức tiêu thụ, ban lãnh đạo có thể chủ động
thi hành sớm hơn các biện pháp điều chỉnh của mình.
11.2.2. Kiểm tra khả năng sinh lời
Ngoài việc kiểm tra kế hoạch năm ra, các doanh nghiệp cần phải đo lường khả
năng sinh lời của các sản phẩm, địa bàn, nhóm khách hàng, kênh phân phối và quy mô
đặt hàng khác nhau của họ. Thông tin này sẽ giúp ban lãnh đạo xác định những sản phẩm
hoặc hoạt động marketing nào cần được mở rộng, thu hẹp hay loại bỏ.
Việc phân tích khả năng sinh lời của marketing có thể tiến hành theo các bước sau
đây:
- Phân tích báo cáo lời- lỗ theo sản phẩm, địa bàn, nhóm khách hàng, kênh phân
phối và quy mô đặt hàng (doanh thu bán hàng, chi phí hàng bán, chi phí khác,
lãi ròng).
- Giải trình các loại chi phí theo các hoạt động marketing chức năng (quảng cáo,
bán hàng,...)
- Chuẩn bị báo cáo lời-lỗ của từng kênh phân phối
- Xác định các biện pháp điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao khả năng sinh lời,
trên cơ sở phân tích ở các bước trên.
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 205
11.2.3. Kiểm tra hiệu suất
Các doanh nghiệp thường tổ chức bộ phận kiểm tra marketing có chức năng kiểm
tra các hoạt động marketing để phát hiện vấn đề và từ đó đề xuất các giải pháp cần nâng
cao hiệu quả của các hoạt động marketing. Đối tượng đánh giá thường bao gồm: hiệu
suất của lực lượng bán hàng, hiệu suất quảng cáo, hiệu suất khuyến mãi.
11.2.3.1. Hiệu suất của lực lượng bán hàng
Những người quản trị bán hàng cần theo dõi những chỉ tiêu quan trọng sau đây về
hiệu suất của lực lượng bán hàng trên địa bàn họ phụ trách:
-
Số lần tiếp xúc khách hàng của một nhân viên bán hàng trong một ngày
-
Thời gian trung bình của một lần tiếp xúc
-
Chi phí trung bình cho mỗi lần tiếp xúc
Tỷ lệ phần trăm đơn đặt hàng trên 100 cuộc tiếp xúc
-
-
Số khách hàng mới trong một kỳ
Số khách hàng bị mất đi trong một kỳ
-
Chi phí của lực lượng bán hàng tính bằng tỷ lệ phần tram của tổng doanh thu
-
bán hàng.
11.2.3.2. Hiệu suất quảng cáo
Trên thực tế rất khó đo lường chính xác kết quả thu được bằng số tiền quảng cáo
đã bỏ ra. Nhưng ít nhất những người quản trị marketing cũng cần đánh giá các số liệu
thống kê sau đây:
-
Chi phí quảng cáo trên 1000 khách hàng mục tiêu trong phạm vi bao quát của
phương tiện truyền thông
- Tỷ lệ % số công chúng chú ý, nhìn thấy/liên tưởng và đọc phần lớn nội dung
quảng cáo
- Dư luận của ngươi tiêu dung về nội dung quảng cáo
- Thái độ của người tiêu dùng trước và sau quảng cáo.
- Yêu cầu của người tiêu dùng tìm hiểu thông tin do quảng cáo kích thích
11.2.3.3. Hiệu suất khuyến mãi
Các chỉ tiêu đánh giá là:
Tỷ lệ phần trăm khối lượng hàng bán tăng lên sau khi thực hiện chương trình
-
khuyến mãi
- Mức chi phí của từng hình thức khuyến mãi trên một đồng doanh số bán ra
- Số lượng khách hàng yêu cầu tìm hiểu thông tin sau đợt khuyến mãi.
11.2.4. Kiểm tra chiến lược marketing
Marketing là một lĩnh vực chức năng, trong đó các mục tiêu, chiến lược và
chương trình luôn phải thích ứng với những thay đổi của thị trường. Sau mỗi thời gian
nhất định các doanh nghiệp cần đánh giá lại quan điểm chiến lược, mục tiêu và hiệu quả
của các hoạt động marketing để có những điều chỉnh cần thiết.
Có hai công cụ cụ thể là đánh giá hiệu quả chiến lược marketing và kiểm tra
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 206
marketing.
11.2.4.1. Hiệu quả chiến lược marketing
Hiệu quả của chiến lược marketing không chỉ thể hiện ở doanh số tiêu thụ và mức
lợi nhuận hiện tại, mà còn được phản ánh qua mức độ nó thể hiện năm nội dung chủ yếu
của định hướng marketing: triết lý về khách hàng, tổ chức các phối thức marketing, thông
tin marketing chính xác, định hướng chiến lược và hiệu suất công tác.
11.2.4.2. Kiểm tra marketing
Kiểm tra marketing là việc kiểm tra định kỳ, độc lập, có hệ thống, toàn diện môi
trường marketing, mục tiêu, chiến lược và hoạt động của một doanh nghiệp, hay đơn vị
kinh doanh, nhằm xác định những lĩnh vực có vấn đề và những cơ hội, đề xuất kế hoạch
hành động nhằm nâng cao thành tích marketing của doanh nghiệp.
Nội dung của kiểm tra marketing bao gồm:
- Kiểm tra môi trường marketing (môi trường vĩ mô, môi trường vi mô)
- Kiểm tra chiến lược marketing (nhiệm vụ của doanh nghiệp, mục tiêu
marketing, chiến lược)
- Kiểm tra tổ chức marketing (cơ cấu tổ chức, hiệu suất theo chức năng, hiệu
suất giao tiếp)
ThS. Đỗ Thị Thủy- Khoa Kinh tế- ĐH Kiến Trúc Đà Nẵng 207