You are on page 1of 113

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM


…-…

HỒ TÂM NGUYÊN

SỰ HÀI HOÀ VĂN HOÁ ĐÔNG – TÂY TRONG


KIẾN TRÚC LĂNG KHẢI ĐỊNH

CHUYÊN NGÀNH KIẾN TRÚC


MÃ SỐ : 6 0 5 8 0 1 0 2

LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS.KTS.NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2013


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1

2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến lăng Khải Định ................................... 2

3. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................... 4

4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4

6. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 5

CHƯƠNG I – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LĂNG TẨM TRIỀU


NGUYỄN

1.1. Khái niệm lăng tẩm......................................................................................... 7

1.2. Sự hình thành và phát triển của lăng tẩm triều Nguyễn ............................... 9

1.3. Sơ lược lịch sử Việt Nam trong mối liên hệ với phương Tây dưới thời
Nguyễn và sự ra đời của lăng Khải Định .............................................. 14

1.3.1. Sơ lược lịch sử Việt Nam trong mối liên hệ với phương Tây dưới thời
Nguyễn....................................................................................................... 14

1.3.2. Vài nét về vua Khải Định và sự ra đời của lăng Khải Định ...................... 19

1.3.2.1. Vài nét về vua Khải Định…………………………………………..19

1.3.2.2. Sự ra đời của lăng Khải Định………………………………………23

1.3.3. Đặc điểm kiến trúc lăng Khải Định ........................................................... 24

CHƯƠNG II – QUAN NIỆM VỀ SỰ HÀI HOÀ TRONG KIẾN TRÚC VÀ


CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI HOÀ VĂN HOÁ ĐÔNG – TÂY
TRONG KIẾN TRÚC LĂNG KHẢI ĐỊNH

2.1. Quan niệm về sự hài hoà trong kiến trúc .................................................. 26


2.1.1. Triết lý về sự hài hoà của phương Đông .................................................... 28

2.1.2. Triết lý về sự hài hoà của phương Tây ....................................................... 33

2.1.3. Kết luận ...................................................................................................... 36

2.2. Các tiêu chí đánh giá sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc
lăng Khải Định .............................................................................................. 37

2.2.1. Các tiêu chí về mặt văn hoá – phong tục .................................................... 37

2.2.2. Các tiêu chí về mặt triết lý hài hoà ............................................................. 40

2.2.2.1. Các tiêu chí hài hoà trong kiến trúc đối với những biểu hiện bên
ngoài……………………………………………………………………...40

2.2.2.2. Các tiêu chí hài hoà trong kiến trúc đối với những triết lý ẩn tàng
bên trong………………………………………………………………….44

2.2.3. Các tiêu chí về mặt biểu tượng kiến trúc .................................................... 47

CHƯƠNG III – PHÂN TÍCH SỰ HÀI HOÀ VĂN HOÁ ĐÔNG – TÂY
TRONG KIẾN TRÚC LĂNG KHẢI ĐỊNH

3.1. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc lăng Khải Định …....... 49

3.1.1. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong mặt bằng tổng thể lăng Khải Định .... 49

3.1.2. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong các công trình của lăng Khải Định .... 54

3.1.3. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong vật liệu và kết cấu của kiến trúc lăng
Khải Định ....................................................................................................... 62

3.1.4. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong nghệ thuật trang trí của kiến trúc lăng
Khải Định ....................................................................................................... 64

3.2. Những giá trị nghệ thuật của kiến trúc lăng Khải Định cần được gìn giữ
và phát huy …. .............................................................................................. 72

KẾT LUẬN…. ..................................................................................................... 76


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa luôn luôn diễn ra trong tiến trình lịch sử của
nhân loại. Trong quá trình tiếp xúc đó, có thể xảy ra yếu tố của nền văn hóa này
thâm nhập vào nền văn hóa kia hoặc nền văn hóa này vay mượn các yếu tố của
nền văn hóa kia rồi điều chỉnh cho phù hợp, dẫn đến sự tiếp biến văn hóa. Văn
hoá Việt Nam không nằm ngoài tiến trình đó. Sự tiếp xúc mạnh mẽ với văn hóa
phương Tây vào những thập niên đầu thế kỷ XX, trong điều kiện thực dân Pháp
xâm lược và khai thác thuộc địa, đã tạo ra sự tiếp xúc và giao thoa văn hóa. Đó
là quá trình lựa chọn những tinh hoa của nhân loại rồi cải biến để phù hợp với
tâm thức và mĩ cảm của người Việt Nam. Đó là quá trình hội nhập để bổ sung
những yếu tố mới hiện đại vào những yêu tố truyền thống, làm phong phú thêm
những yếu tố truyền thống.

Lăng Khải Định ra đời trong bối cảnh nước ta đang bị thực dân Pháp đô hộ, nền
văn hóa phương Tây xâm nhập và tác động mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội lúc bấy giờ. Chính vì vậy, hình thức kiến trúc của lăng Khải Định
dường như mang nhiều điểm khác biệt so với dòng kiến trúc cung đình của triều
Nguyễn. Sự ra đời của lăng Khải Định đã mang lại nhiều lời khen chê của dư
luận và cho đến thời điểm này, vẫn còn nhiều tranh cãi chung quanh giá trị nghệ
thuật của nó. Nhiều nhà nghiên cứu thậm chí đã đặt nó ra khỏi dòng kiến trúc
cung đình thời Nguyễn hoặc có cái nhìn không mấy thiện cảm. Chính vì vậy,
với mong muốn tìm hiểu giá trị thực sự của lăng Khải Định, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Sự hài hòa văn hóa Đông-Tây trong kiến trúc lăng Khải
Định”
2

2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến lăng Khải Định

Đã có nhiều công trình nghiên cứu kiến trúc lăng tẩm ở Huế bởi các học giả
trong nước. Tuy nhiên, đối với lăng Khải Định thì hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến
trái chiều.

Các nhà nghiên cứu thường viết về lăng Khải Định một cách chung chung hoặc
có cái nhìn không thiện cảm đối với nó. Một số nhà nghiên cứu lại đặt lăng
Khải Định ra khỏi dòng kiến trúc thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái lạc lỏng
tạo ra từ phong cách kiến trúc. Trong tập “Nghiên cứu Huế, Nguyễn Hữu
Châu Phan có trích bài hồi kí “Ngang qua Huế, vào đầu thập niên ba mươi
thế kỉ XX” của Hermann Norden, nói rằng “Lăng của hoàng đế Khải Định vừa
mới băng hà được xây cất trên đỉnh một ngọn đồi, hao hao giống với một
khách sạn trên núi. Lăng này không những chỉ kém phần lôi cuốn hơn các lăng
khác đã đành; mà cách kiến trúc của lăng còn thiếu vẻ hài hòa với môi
trường.”[01] Còn trong bài tham luận “Kiến trúc sư, họ là ai ? KTS.Nguyễn
Trọng Huấn” nói rằng : “Nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam một thời huy
hoàng đó đã lụi tàn mau chóng vì không còn đất sống trong thân phận tôi đòi
của một dân tộc đã bị tước đoạt quyền độc lập khi người Pháp hoàn tất cuộc
xâm lăng vào cuối thế kỷ thứ XIX, và đã du nhập vào Việt nam một cách sống
khác, một kỹ thuật xây dựng khác và một hệ thống quan niệm khác về cái đẹp.
Trong cuộc giao hoà Đông-Tây đó, lăng Khải Định ở Huế là sản phẩm vụng về
của một ông Tây nói tiếng ta.” [02]

Nhà nghiên cứu Phan Thuận An được biết đến như một người chuyên nghiên
cứu về Huế. Trong quyển “Kiến trúc cố đô Huế ” ông đã có đề cập đến lăng
Khải Định. Ông đã khái quát một cách ngắn gọn lịch sử xây dựng và những đặc
điểm cơ bản của lăng Khải Định, đặc biệt trong đó ông có đánh giá rằng “ lăng
Khải Định là một tác phẩm tổng hòa của nhiều dòng văn hóa, một điểm giao
thoa giữa kim cổ Đông Tây.”[03] Bài viết “Lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại
3

Huế” của TS.Phan Thanh Hải đã cho người đọc thấy được một cái nhìn bao
quát đối với lăng tẩm triều Nguyễn về lịch sử và quy cách xây dựng, về đặc
điểm cơ bản của các lăng, trong đó ông có nhận xét về lăng Khải Định rằng
“khu lăng đã rất thành công trong việc kết hợp một cách hài hòa các trường
phái kiến trúc Đông - Tây để tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử kiến trúc
Việt Nam.”[04] Mặc dù vậy, hạn chế của TS. Phan Thanh Hải, cũng như Phan
Thuận An, là các ông chỉ nêu một cách khái quát và ngắn gọn, chưa phân tích
sâu vấn đề của lăng Khải Định.

Luận văn “Lăng tẩm các vua Nguyễn – Sự ảnh hưởng của văn hóa, triết học”
của Phan Quý Linh đã cho thấy được hệ tư tưởng của nhà Nguyễn ẩn chứa
xuyên suốt đằng sau hệ thống lăng tẩm ở Huế. Mặc dù chưa phân tích vấn đề hài
hòa Đông Tây của lăng Khải Định, Phan Quý Linh đã nêu lên được vì sao có sự
khác biệt giữa lăng này với các lăng khác của triều Nguyễn, đó là sự giao thoa
văn hóa trong một buổi giao thời đầy biến động của lịch sử và cá tính của vua
Khải Định. [05]

Bài viết “Mấy nhận xét về trang trí nội thất lăng Khải Định” của Trần Đức
Anh Sơn là bài viết có cái nhìn cụ thể nhất về nội thất của lăng Khải Định. Ông
đã cho thấy nội thất ở lăng Khải Định có sự cách tân trong cách thể hiện đề tài
truyền thống và sự dung hòa của nhiều hệ tư tưởng. [06]

Như vậy, mặc dù đã có một số nhà nghiên cứu viết về lăng Khải Định, song,
những bài viết này đa phần có những hạn chế sau đây:

- Có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với lăng Khải Định.

- Đề cập đến lăng Khải Định như một phần nhỏ trong những nghiên cứu của họ,
chưa phân tích nó như là một đối tượng chính nên còn nhiều vấn đề chưa được
bàn đến một cách kĩ lưỡng.
4

3. Mục tiêu nghiên cứu

-Phân tích đánh giá sự hài hòa văn hóa Đông Tây trong kiến trúc lăng Khải Định.

-Trên cơ sở đã phân tích và đánh giá, chúng ta sẽ khẳng định các giá trị kiến trúc
của lăng Khải Định nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và phát huy các giá
trị của công trình.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lăng Khải Định. Chính vì vậy, nội dung
nghiên cứu của luận văn phải tập trung vào việc đánh giá tổng quan, tìm các cơ
sở khoa học để có thể xác định được các giá trị của lăng Khải Định như mục
tiêu nghiên cứu đã đề ra.

5. Phương pháp nghiên cứu

Mục tiêu quan trọng của luận văn là phải đánh giá được sự hài hòa văn hóa
Đông Tây trong kiến trúc lăng Khải Định, vì vậy, đây là nghiên cứu nhằm xác
định giá trị của đối tượng và nâng cao nhận thức đối với giá trị của đối tượng.
Người viết sẽ kết hợp giữa việc khai thác các tài liệu đã có sẵn và tiến hành
khảo sát điền dã thực tế hiện trạng đối tượng nghiên cứu để bổ sung thêm thông
tin, từ đó rút ra những kết luận một cách có cơ sở khoa học. Tùy từng nội dung
cụ thể và từng bước nghiên cứu để chúng ta vận dụng phối hợp các phương
pháp khác nhau : phương pháp điền dã, phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp so sánh.

- Phương pháp điền dã

Dù đã có một số người đi trước nghiên cứu về lăng Khải Định nhưng những
nghiên cứu này chưa cung cấp đầy đủ những tư liệu, bản vẽ để có thể đánh giá
sự hài hòa của đối tượng. Vì vậy, việc điều tra, khảo sát hiện trạng là hết sức
5

quan trọng để bổ sung những tư liệu cần thiết với các công việc như vẽ ghi,
chụp ảnh do chính người viết thực hiện.

- Phương pháp phân tích – tổng hợp

Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng hầu như xuyên suốt trong quá
trình thực hiện luận văn, đặc biệt trong quá trình viết tổng quan về đối tượng
nghiên cứu và các công trình nghiên cứu liên quan. Mỗi tài liệu thu thập được
chỉ phản ánh một khía cạnh của đối tượng nghiên cứu, chính vì vậy, nhiệm vụ
của người viết là phải sắp xếp, phân loại, xử lý các tài liệu sẵn có này một cách
khoa học. Sau khi sắp xếp và phân tích, việc tổng hợp các thông tin này và đặt
chúng vào một hệ thống hợp lý sẽ giúp cho chúng ta đánh giá được đối tượng
một cách đầy đủ nhất.

- Phương pháp so sánh

Ngoài hai phương pháp chính nêu trên, người viết còn sử dụng phương pháp so
sánh với mục đích làm rõ thêm đối tượng nghiên cứu. Khi phân tích lăng Khải
Định, chúng ta không thể tách rời nó khỏi hệ thống lăng tẩm triều Nguyễn ở
Huế. Việc đặt lăng Khải Định trong mối tương quan so sánh với các lăng tẩm
khác trong hệ thống lăng tẩm triều Nguyễn sẽ giúp chúng ta nhận diện thêm
được nhiều vấn đề của đối tượng nghiên cứu.

6. Nội dung nghiên cứu

Nhận diện sự hài hoà trong kiến trúc là vấn đề quan trọng nhất làm cơ sở khoa
học để người viết có thể đánh giá được những giá trị của lăng Khải Định trong
luận văn này. Có thể nói, đạt đến sự hài hoà luôn là một yêu cầu khá phổ biến và
quan trọng trong đời sống của người Việt. Tuy nhiên, sự hài hoà là một yếu tố
thiên về định tính hơn là định lượng nên sẽ rất khó khăn nếu chúng ta không tìm
ra được những tiêu chí đánh giá cụ thể. Nội dung nghiên cứu của luận văn được
cụ thể hoá trong 3 chương như sau:
6

Chương I: Sự hình thành và phát triển lăng tẩm triều Nguyễn

Trong nội dung chương này, người viết sẽ xác định khái niệm lăng tẩm và khái
quát quá trình hình thành và phát triển của lăng tẩm triều Nguyễn để người đọc
có một cái nhìn tổng quan về lăng tẩm của thời kì này. Sau đó, sẽ đi vào phân
tích cụ thể sự ra đời của lăng Khải Định, cụ thể bao gồm: phân tích bối cảnh xã
hội, tính cách của vua Khải Định và cuối cùng là phân tích đặc điểm kiến trúc
của lăng Khải Định.

Chương II: Quan niệm về sự hài hoà trong kiến trúc và các tiêu chí đánh
giá sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc lăng Khải Định

Đây là chương quan trọng trong việc tìm ra các cơ sở khoa học để có thể đánh
giá được các giá trị kiến trúc của lăng Khải Định theo mục tiêu đã đề ra. Người
viết trước tiên sẽ phân tích các quan niệm về sự hài hoà trong kiến trúc, cụ thể là
quan niệm về sự hài hoà trong triết lý phương Đông và phương Tây. Sau đó sẽ
đi vào xem xét các tiêu chí cụ thể để đánh giá sự hài hoà trong kiến trúc.

Chương III: Phân tích sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc lăng
Khải Định

Từ những nhận thức về sự hài hoà trong kiến trúc đã được phân tích ở chương 2,
người viết sẽ đi vào phân tích sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc
lăng Khải Định trên các yếu tố : mặt bằng tổng thể, mặt bằng, mặt đứng, vật liệu
– kết cấu, nghệ thuật trang trí. Từ đó xác định các giá trị nghệ thuật của kiến
trúc lăng Khải Định.
7

CHƯƠNG I – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LĂNG TẨM TRIỀU


NGUYỄN

1.1. Khái niệm lăng tẩm

Theo “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh, Lăng (陵) có nghĩa là mồ mã vua
chúa, Tẩm (寢) có nghĩa là ngủ, phòng ngủ, nghỉ ngơi [07]. “Từ điển Tiếng
Việt” của viện ngôn ngữ cũng có cách giải thích tương tự với nghĩa của từ lăng
là mồ mã của vua chúa và các bậc vương hầu [08]. Các từ lăng mộ 陵墓, lăng
tẩm 陵寢... đều xuất phát từ Trung Hoa. Từ thời cổ đại, người Trung Quốc đã
nghĩ rằng sau khi chết sẽ có một cuộc sống ở một thế giới khác và linh hồn của
họ vẫn còn đó. Cho nên quan niệm này đã được phản ánh vào việc xây dựng
lăng mộ, đặc biệt là đối với các bậc quân vương. Họ xây dựng lăng mộ của mình
to lớn và xa hoa như cung điện và nhà ở của người đang sống. Vua chúa Việt
Nam mà nhà Nguyễn không phải là một ngoại lệ, dưới sự ảnh hưởng của văn
hóa Trung Hoa, cũng có sự tương đồng trong nhân sinh quan đối với sự sống và
cái chết. Theo quan niệm duy tâm này, họ cũng cho rằng chết chưa phải là hết,
vì vậy những khu lăng tẩm của nhà Nguyễn không phải là nơi tang thương buồn
bã mà đó chỉ là nơi mình được nghỉ ngơi, ngủ một giấc ngủ dài. Bố cục mặt
bằng của khu lăng tẩm nào cũng chia làm hai phần chính : phần lăng và phần
tẩm. Khu vực lăng là khu vực chôn thi hài nhà vua. Khu vực tẩm là chỗ xây
nhiều miếu, điện, lầu, gác, đình, tạ…để nhà vua lúc còn sống thỉnh thoảng rời
hoàng cung lên đây tiêu khiển. Có thể xem khu vực tẩm như một hành cung hay
hoàng cung thứ hai của ông vua đang tại vị. Có thể lấy lăng Tự Đức để làm ví
dụ minh họa. Lăng Tự Đức hay Khiêm Lăng cũng bao gồm hai trục, trục lăng và
trục tẩm, đồng thời bổ sung thêm kiến trúc vườn cảnh ở phía trước, bao quan hồ
Lưu Khiêm, khiến tổng thể khu lăng trở nên mềm mại và nên thơ. Trục tẩm của
lăng Tự Đức có nhiều công trình kiến trúc lớn nhỏ để phục vụ sinh hoạt và giải
trí của nhà vua lúc còn sống, trong đó có điện Hòa Khiêm, nơi vua làm việc,
8

điện Lương Khiêm, nơi vua ăn ngủ, Xung Khiêm tạ, Dũ Khiêm tạ, nơi vua ngồi
câu cá, hóng mát, làm thơ, ngắm cảnh; có Minh Khiêm đường là nhà hát; có Y
Khiêm viện, Trì Khiêm viện nơi tá túc của cung nữ đi theo để hầu vua. Khu vực
tẩm cũng sẽ trở thành nơi thờ cúng nhà vua khi vua băng hà. Như vậy, bản thân
từ lăng tẩm, ngoài việc dùng để chỉ nơi an táng vua chúa, nó còn phản ánh nhân
sinh quan về sự sống cái chết của lúc bấy giờ.

Quy chế về cách dùng danh xưng chung chỉ lăng mộ dưới thời Nguyễn rất chặt
chẽ. Chỉ có mộ của hoàng đế, hoàng hậu mới được gọi là lăng 陵 hay sơn lăng
山陵. Mộ của thân vương, phi, tần chỉ được gọi là tẩm 寢, còn của thần dân,
không phân biệt giàu nghèo đều gọi là mộ 墓. Xem sách Đại Nam nhất thống
chí, có thể thấy rõ, toàn bộ phần viết về lăng mộ các hoàng đế, hoàng hậu triều
Nguyễn đều xếp chung trong phần Sơn lăng 山陵. Còn bộ Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ thì dành hẳn một quyển Lăng tẩm 陵寢 (quyển 216) với 5 nội
dung : Quy Chế, Lệnh Cấm, Xây Dựng, Quy Thức Viên Tẩm và Cây Trồng, để
bàn về vấn đề này. Thời Tự Đức trở về sau, bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ tục biên, có bổ sung thêm các quy định về viên tẩm, sinh phần, mộ cho các
đối tượng là thân vương, quan lại. [09]

Thực ra, quy chế về danh xưng lăng mộ đã có từ rất lâu đời và nó có nguồn gốc
trực tiếp từ Trung Hoa. Theo Từ Nguyên từ điển: “ Thời Tần gọi mộ Thiên tử là
Sơn 山, từ thời Hán về sau mới gọi là Lăng 陵”, các chữ Sơn lăng 山陵, Thọ
lăng 壽陵, Lăng viên 陵園, Lăng tẩm 陵寢…cũng có nguồn gốc từ đó [10]. Đến
thời Minh-Thanh, các quy chế về lăng mộ của Trung hoa đã rất hoàn chỉnh. Các
quy chế lăng mộ của triều Nguyễn đều tham khảo từ hệ thống quy chế này, dĩ
nhiên cũng đã có những sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh
nước ta.
9

Như vậy, triều Nguyễn có quy định khá cụ thể về tên gọi các loại hình lăng tẩm
của hoàng gia. Về cơ bản, có thể chia thành 3 loại: lăng các chúa Nguyễn, lăng
các vua Nguyễn và hoàng hậu, tẩm của các thành viên khác thuộc hoàng gia
(hoàng tử, công chúa, thân vương, thân công, phi, tần, tiệp dư…).

1.2. Sự hình thành và phát triển của lăng tẩm triều Nguyễn

Ảnh hưởng sâu sắc quan niệm "sinh kí tử quy" (sống gửi, thác về), từ hàng ngàn
năm trước, vua chúa Trung Hoa đã hết sức quan tâm đến việc xây dựng lăng
mộ-ngôi nhà ở thế giới bên kia của họ. Lịch sử cũng ghi nhận từ hàng ngàn năm
trước Trung Quốc đã có những ngôi lăng mộ vĩ đại, được xem là những kì quan
của phương Đông cổ, như lăng Tần Thủy Hoàng, lăng của Hán Võ Đế, lăng của
Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên vv… Do có lịch sử lâu đời và tồn tại như
một dòng kiến trúc đặc thù, lăng mộ Trung Quốc từ rất sớm đã có những quy
thức riêng và ở từng thời kì lịch sử cụ thể cũng có sự khác biệt. Đây là nguyên
do kiến trúc lăng mộ Trung Quốc có nhiều phong cách khác nhau, như lăng mộ
thời Tần-Hán, lăng mộ thời Tam Quốc, lăng mộ thời Đường-Tống, lăng mộ thời
Minh -Thanh .

Do chịu ảnh hưởng từ lâu đời của văn hóa Trung Hoa, ở Việt Nam, kiến trúc
lăng mộ cũng xuất hiện sớm. Khảo sát của giáo sư Chu Quang Trứ cho thấy, từ
thời Ngô Quyền đã chú ý đến việc xây cất lăng mộ, còn lăng của các vua Trần ở
Thái Bình thì đã được xây dựng với quy mô khá lớn. Ở các triều đại tiếp theo,
lăng tẩm của vua chúa, hậu phi cũng luôn được xây dựng công phu, nhất là lăng
của vua Lê ở vùng Lam Kinh, Thanh Hóa. Tuy nhiên, phải đến thời Nguyễn
(1802-1945), kiến trúc lăng tẩm mới trở thành một dòng riêng và đạt đến những
thành tựu độc đáo.

Thực ra từ trước đó, thời các chúa Nguyễn (1558-1775), đặc biệt là ở giai đoạn
cuối, cùng với việc kiến thiết Huế trở thành Kinh đô của vương triều Đàng
10

Trong, vấn đề quy hoạch vị trí các lăng tẩm cho các chúa và phi đã được giải
quyết khá hoàn chỉnh. Quan sát kỹ khu vực Huế trên Bình Nam Đồ của Bùi Thế
Đạt vẽ năm Gíap Ngọ (1774), chúng ta có thể thấy rõ điều này. Khi ấy, Đô
thành Phú Xuân đã được xây dựng ở bờ bắc sông Hương (bên trong Kinh thành
hiện nay), xây mặt về hướng nam; các khu buôn bán và cảng thị Thanh Hà nằm
ở phía đông, phía hạ lưu sông Hương; còn đàn miếu của hoàng triều cùng lăng
mộ các chúa và phi đều được bố trí ở phía tây và tây-nam, trên thượng nguồn
sông Hương. Nghĩa là quy hoạch đô thị Huế lúc ấy đã gần tương tự như dưới
thời Nguyễn. Tuy nhiên, về mặt quy mô, lăng tẩm của các chúa ở thời kì này
chưa thể so sánh với lăng tẩm các vua Nguyễn sau đó. Đáng tiếc là hầu hết các
lăng tẩm chúa Nguyễn đều bị tàn phá dưới thời Tây Sơn và được tái cấu trúc lại
dưới thời vua Nguyễn nên rất khó có thể đưa ra các nhận xét cụ thể hơn. Nhưng
kết quả khảo sát các lăng tẩm này vẫn đủ để chúng ta khẳng định rằng, từ thời
các chúa Nguyễn, ứng dụng phong thủy trong việc xây dựng lăng tẩm đã được
rất chú ý.

Sau khi sáng lập ra triều Nguyễn, chính trên cơ đồ mà tổ tiên đã dày công xây
đắp, vua Gia Long (1802-1820) đã cho xây dựng kinh đô Huế với quy hoạch
gần tương tự như thời kỳ đô thành Phú Xuân của các chúa, nhưng quy mô lớn
hơn rất nhiều.

Đối với việc kiến trúc lăng tẩm, sau khi cho xây dựng lại hệ thống lăng tẩm các
chúa và phi bị tàn phá trong thời Tây Sơn, vua Gia Long đã tự chọn đất để xây
dựng cho mình một “ngôi nhà vĩnh cửu” ở trong khu vực mà tổ tiên ông đã chọn
làm nơi yên nghỉ cho họ Nguyễn, gọi là Thiên Thọ lăng, bắt đầu từ năm 1814 và
hoàn thành năm 1820. Khu lăng này về sau phát triển rộng ra, trở thành một
quần thể với 7 khu lăng mộ khác nhau , rộng đến 2.875ha, chủ yếu thuộc đất
làng Định Môn, huyện Hương Trà, cách trung tâm Kinh thành gần 16 km. Đây
cũng là vị trí xa nhất, vị trí tận cùng ở phía tây nam Kinh thành. Các vua
11

Nguyễn về sau đều chọn các địa điểm gần Kinh thành hơn và đều nằm hai bên
bờ sông Hương.

Có thể nói rằng, vua Gia Long là người sáng lập ra triều Nguyễn, là người cho
xây dựng Kinh thành Huế và đặt một số cơ sở đầu tiên cho các quy thức về kiến
trúc lăng tẩm. Tuy nhiên, những quy thức, định chế ấy về cơ bản là do vua Minh
Mạng đặt ra và chúng tiếp tục được bổ sung bởi các vua Nguyễn đời sau.

Năm 1840, vua Minh mạng bắt đầu cho khởi công xây dựng Hiếu Lăng cho
chính mình sau 14 năm đi tìm kiếm vùng đất tốt, tại núi Cẩm Kê cạnh ngả ba
Bằng Lãng. Tuy nhiên, việc xây cất mới bắt đầu thì nhà vua đột ngột băng hà.
Vua Thiệu Trị (1841-1847) tiếp tục xây dựng khu lăng tẩm này. Hiếu Lăng
được xây dựng chủ yếu từ năm 1840-1843, sau còn được hoàn chỉnh thêm. Tổng
thể Hiếu lăng theo quy hoạch, rộng gần 500ha.

Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà sau 7 năm trị vì, vị hoàng đế kế vị là vua Tự
Đức đã chọn vùng đất ở xã Cư Chánh, huyện Hương Thủy để xây dựng Xương
lăng cho cha mình. Công việc xây lăng chủ yếu thực hiện trong năm 1848, sau
có bổ sung thêm. Tổng thể lăng vua Thiệu Trị, bao gồm cả Hiếu Đông lăng
(lăng của bà Hồ Thị Hoa, thân mẫu nhà vua, được xây dựng từ trước, tôn tạo
thêm trong các năm 1841-1843) có quy mô 475ha.

Từ năm 1864-1867, sau khi chọn được vùng đất “vạn niên cát địa” ở làng
Dương Xuân, cách Kinh thành khoảng 7km, vua Tự Đức cho xây dựng Khiêm
Cung, chuẩn bị ngôi nhà vĩnh hằng cho chính mình. Khiêm Cung tồn tại như
một ly cung từ năm 1867-1883, rồi mới trở thành Khiêm Lăng sau khi nhà vua
băng hà và được an táng tại đây. Năm 1884, triều Nguyễn xây thêm Bồi Lăng
trong phạm vi Khiêm Lăng để an táng vua Kiến Phúc (vị vua này vốn là con
nuôi của vua Tự Đức và chỉ tại vị trong 4 tháng); năm 1902, lại xây thêm Khiêm
Thọ Lăng để an táng bà Lệ Thiên Anh hoàng hậu Võ Thị Duyên (chính thất của
12

vua Tự Đức). Như vậy, lăng Tự Đức có đến 3 khu khác nhau. Nếu tính chung cả
khu vực lăng vua Đồng Khánh thì tổng diện tích toàn khu vực này cũng gần 500
ha.

Lăng vua Dục Đức, tên chữ là An Lăng, được vua Thành Thái (con trai nhà vua)
cho xây dựng vào năm 1890 dưới chân núi Ngự Bình; sau đó bổ sung một số
công trình vào năm 1899. Đây là lăng được xây dựng đơn giản nhất, quy mô chỉ
có 3.445m2. Về sau, người ta an táng thêm vua Thành Thái (vào năm 1954) và
vua Duy Tân (cải táng năm 1987). Khu lăng này không chỉ an táng 3 vị vua
(cũng là ba thế hệ tiếp nối ông-cha-con) mà còn có nhiều thành viên trong gia
đình. Khu lăng này chỉ cách Kinh thành 3km về phía nam.

Lăng vua Đồng Khánh, tên chữ là Tư Lăng, được xây dựng từ năm 1889, sau
khi vị vua này băng hà, tuy nhiên điện thờ chính thì sử dụng luôn điện Truy Tư
vốn là điện thờ thân phụ nhà vua-ông Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai)
làm tẩm điện, (đổi tên là điện Ngưng Hy). Thời vua Khải Định (1916-1925),
triều đình cho xây dựng lại phần lăng mộ bằng các vật liệu mới, chủ yếu trong
các năm 1916-1917. Đây là khu lăng nằm kế bên lăng vua Tự Đức và vẫn được
xem là cùng khu vực bảo vệ của khu lăng này.

Lăng vua Khải Định, tên chữ là Ứng Lăng, ở vùng Châu Ê, được chính nhà vua
chọn đất và cho khởi công xây dựng từ năm 1920. Sau khi vua băng hà và được
an táng vào năm 1925, công trình được tiếp tục xây dựng đến năm 1931 mới
hoàn thành. Đây là khu lăng được xây dựng muộn nhất nhưng cũng có thời gian
lâu nhất của triều Nguyễn.

Về quy trình xây dựng các lăng tẩm, lăng tẩm thời Nguyễn bao gồm các công
đoạn sau:
13

- Tìm đất: Đây là công việc hết sức hệ trọng, tư liệu cho thấy hầu hết các lăng
đều được chọn lựa vị trí rất công phu. Triều Nguyễn gọi đây là cuộc đất Vạn
niên cát địa, nên dốc rất nhiều sức lực để kiếm tìm. Các thầy địa lý, quan lại đại
thần giỏi về phong thủy đều được huy động tham gia công việc này. Lăng vua
Gia Long do Lê Duy Thanh, con trai của Lê Quý Đôn tìm ra; lăng vua Minh
Mạng thì do đại thần Lê Văn Đức tìm ra sau 14 năm tìm kiếm! Qúa trình tìm
kiếm khu đất Vạn niên cát địa đều được tường thuật rõ trong văn bia Thánh đức
thần công dựng tại các lăng. Sau khi chọn được đất quý, đích thân hoàng đế sẽ
xem xét, quyết định phê duyệt, đổi tên đất, tên núi cho phù hợp.

- Vẽ bản đồ địa cuộc, xác định vị trí đặt huyệt, quy hoạch các khu vực. Công
việc này phần lớn do đích thân hoàng đế quyết định và bộ Công là cơ quan triển
khai (trừ lăng vua Thiệu Trị, Dục Đức và Đồng Khánh do họ đột ngột băng hà).

- Tiến hành xây dựng, bao gồm cả khâu chuẩn bị và chuyên chở vật liệu xây cất.
Các vật liệu chính là gỗ, tre, gạch đá, ngói lợp, gốm sứ… Và chủ yếu được vận
chuyển theo đường sông Hương để lên các khu lăng. Việc xây lăng bao giờ cũng
huy động tài lực của cả quốc gia, tập trung các vật liệu tốt, thợ khéo từ các địa
phương (như đá Thanh Hóa, gạch Bát Tràng, gỗ lim Thanh-Nghệ… Thời Khải
Định, triều đình còn nhập khẩu gốm sứ, ngói lợp từ châu Âu về). Lễ khởi công
được xem là thời điểm xây dựng lăng.

Người ta thường xây khu tẩm điện (phục vụ nghỉ ngơi, thờ cúng) trước, sau khi
nhà vua băng hà mới xây Huyền cung, an táng và hoàn chỉnh các công trình ở
khu vực lăng như nhà bia, tượng người, voi, ngựa. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp nhà vua băng hà đột ngột thì triều đình cho xây phần Huyền cung trước, sau
đó mới hoàn chỉnh các phần khác.
14

- Sau khi hoàn thành, triều đình tổ chức lễ tạ Sơn thần/Thổ thần (mỗi khu lăng
đều có miếu thờ Sơn thần, vị thần được giao nhiệm vụ trông giữ khu vực lăng
tẩm)

Nhìn chung các khu lăng tẩm thời Nguyễn đều được xây dựng trong thời gian
khá dài, lăng Gia Long 6 năm (1814-1820), lăng Minh Mạng 4 năm (1840-
1843), lăng Tự Đức 4 năm (1864-1867), lăng Khải Định 11 năm (1920-1931)...
và còn được bổ sung, tu bổ trong nhiều giai đoạn khác nhau.

Như vậy, các lăng tẩm của triều Nguyễn tại Huế được xây dựng trong hơn 100
năm, chủ yếu từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 (chưa kể các lăng tẩm của chúa
Nguyễn được xây dựng từ thế kỷ 18). Đây là giai đoạn đỉnh cao cuối cùng của
chế độ quân chủ Việt Nam, cũng là giai đoạn tiếp thu mạnh mẽ những yếu tố
văn minh bên ngoài, nhất là văn minh phương Tây. Chính vì vậy, quy thức lăng
mộ cũng mang nhiều đặc điểm độc đáo, vừa kế thừa những yếu tố truyền thống,
vừa có những điểm mới lạ do tiếp thu các yếu tố văn hóa nước ngoài.

1.3. Sơ lược lịch sử Việt Nam trong mối liên hệ với phương Tây dưới thời
Nguyễn và sự ra đời của lăng Khải Định

1.3.1. Sơ lược lịch sử Việt Nam trong mối liên hệ với phương Tây dưới thời
Nguyễn

Sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh-Nguyễn và cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII đã tạo những tiền đề lịch sử cho sự can
thiệp của nước ngoài ở Việt Nam. Nếu như vua Lê- chúa Trịnh là tác nhân trực
tiếp cho cuộc xâm lược của 29 vạn quân Thanh ở đất Bắc, thì Nguyễn Ánh lại là
người dẫn lối cho quân Xiêm tiến đánh miền Nam, và gây nên mối duyên nợ
lịch sử giữa Việt Nam và nước Pháp. Tuy các thế lực phong kiến Xiêm-Thanh
bị phong trào Tây Sơn đánh bại và phải từ bỏ ý đồ xâm lược, nhưng rốt cuộc
Nguyễn Ánh với sự giúp đỡ đắc lực của người Pháp lại lật đổ được triều đại Tây
15

Sơn, hoàn tất việc thống nhất đất nước. Sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đã làm
cho mối quan hệ giữa Việt Nam và nước Pháp xích lại gần hơn [11].

Khi thiết lập vương triều Nguyễn (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu Gia
Long và vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật với người Pháp [12]. Ngoài
việc trả công hậu hỉ cho những người Pháp từng theo giúp mình, vua Gia Long
còn dùng một số sĩ quan người pháp làm quan trong triều đình Huế với những
ưu đãi đặc biệt. Nhiều người vẫn ở tại triều đình Huế cho đến đầu thời Minh
Mạng. Các giáo sĩ Thiên chúa giáo không hề bị cấm đoán và được tự do đi
truyền đạo khắp nơi. Nhiều thuyền buôn Pháp được hưởng mức thuế quan nhẹ
nhàng khi đến buôn bán. Các phái bộ ngoại giao Pháp đến Việt Nam thường
được tiếp đón chu đáo và hậu đãi.

Tuy nhiên, trong thời Minh Mạng, sự kết giao Việt-Pháp có phần nhạt nhẽo, tới
đời Tự Đức thì hai bên hóa ra thù hằn nhau. Nguyên nhân là Pháp muốn chiếm
nước ta. Tự Đức hiểu dã tâm đó, ra lệnh cấm đạo. Năm 1858, dưới triều
Nappleon III, liên quân Pháp – Ý tấn công Đà Nẵng rồi Gia Định. Năm 1862,
triều đình phải cắt cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Việt, năm 1867, mất luôn
ba tỉnh miền Tây. Cao Miên trước vẫn thần phục ta, lúc đó bị Xiêm quấy nhiễu,
Pháp can thiệp, ép Xiêm phải để Pháp bảo hộ Cao Miên. Năm 1870 (triều Tự
Đức), Pháp phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine cho Phổ, càng nóng lòng muốn
kiếm thêm thuộc địa để bù lại, tỏ thái độ xâm lăng rõ ràng, gởi quân đội viễn
chinh qua với mật lệnh: “Bắc Việt tiếp giáp với những tỉnh Tây Nam Trung Hoa,
ta nên chiếm giữ lấy để cai trị ở Viễn Đông được chắc chắn”. Năm 1873, Pháp
tấn công Bắc Việt, thành Hà Nội thất thủ, nhưng quân Pháp vẫn chưa hoàn toàn
thắng thế. Năm 1883, Pháp lại tấn công Bắc Việt một lần nữa, chiếm Hà Nội rồi
chiếm luôn Thuận An. Năm sau, nhà Nguyễn ký một hiệp ước chịu để nước
Pháp bảo hộ và chủ trương việc ngoại giao. Đến năm 1897, thực dân Pháp cơ
bản đã hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về quân sự sau khi thiết lập
16

xong bộ máy cai trị và đến lúc có thể bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa một
cách quy mô.

Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm thay đổi sâu sắc bối
cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Ngay từ những thập niên cuối thế kỷ XIX,
nghĩa là sau khi đặt vững quyền cai trị, người Pháp đã bắt đầu lo những xây
dựng cơ bản, như: Hệ thống giao thông đường bộ và thủy liên tỉnh và giữa các
huyện, tổng. Hải hành và đường bộ xuyên Việt là hai công trình có quy mô lớn
đầu tiên. Sau hai tuyến ngắn đường sắt Saigon - Mỹ Tho và Lạng Thương -
Lạng Sơn, tới đường sắt Saigon - Hà Nội. Trong suốt thời gian khai thác thuộc
địa, ngành giao thông vận tải ở Việt Nam được Pháp liên tục tăng cường đầu tư
vốn và các trang thiết bị kỹ thuật. Có thể nói đến thời điểm những năm 40 của
thế kỷ XX, Việt Nam là một trong những nơi có hệ thống đường giao thông tốt
nhất khu vực Đông Nam Á.

Do chính sách đầu tư và sự tác động mạnh mẽ của các chính sách khai thác
thuộc địa của Pháp, dân số thành thị tăng lên nhanh chóng, nền kinh tế Việt
Nam từ nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp dần chuyển sang nền kinh tế thuộc
địa-tư bản chủ nghĩa. Cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn này tồn tại song song
hai khu vực: khu vực hiện đại bao gồm công nghiệp hiện đại, thương nghiệp,
các cơ sở tài chính, giao thông, các đồn điền công nghiệp và một bên là khu vực
truyền thống, tập hợp các phương thức hoạt động truyền thống như nông nghiệp
và thủ công nghiệp.

Song song với việc đầu tư phát triển kinh tế, thực dân Pháp đã có những chủ
trương chính sách về văn hoá giáo dục phù hợp với yêu cầu chính trị của từng
giai đoạn cụ thể. Thời kì đầu Pháp thực hiện chính sách ngu dân về giáo dục,
đầu độc về mặt văn hoá nhằm duy trì sự thống trị lâu dài của mình. Sau một thời
gian dài áp dụng chính sách duy trì hiện trạng, kìm hãm về mặt văn hoá-giáo
dục, từ năm 1905, trước nhu cầu thực tế cần phải đào tạo một tầng lớp viên chức
17

bản xứ phục vụ hữu hiệu cho công cuộc đô hộ, Pháp chuyển sang chủ trương cải
cách giáo dục, lập hội đồng cải cách giáo dục và Nha học chính Đông Dương.
Pháp bắt đầu xây dựng nhiều công trình phục vụ giáo dục như: mở thêm các
trường sư phạm ở Hà Nội, Nam Định, Huế, Gia Định, các trường chuyên nghiệp
và xưởng học nghề, các trường kỹ thuật và mỹ thuật thực hành, trường Cơ khí Á
Châu ở Sài Gòn, trường Y sĩ Hà Nội, trường đại học Đông Dương…Cuộc cải
cách giáo dục lần thứ hai thực hiện từ cuối năm 1917 chủ trương nhanh chóng
xoá bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho học, đồng thời tiếp tục mở rộng hệ thống
giáo dục Pháp-Việt. các trường nữ học Sài Gòn, Huế được mở vào năm 1917.
Cùng trong thời gian này Pháp thành lập thêm trường Pháp Chính, trường Sư
Phạm, Công Chính, Thương Mại, trường cao đẳng Nông nghiệp, trường cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, Pháp xây
dựng thêm một số cơ sở mới như Túc mễ cục, Viện Hải dương học, Hội nghiên
cứu khoa học, Viện Pasteur…

Cùng với việc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp mà mục tiêu chính là huy
động tối đa toàn bộ nhân lực, vật liệu, tài lực Đông Dương phục vụ cho lợi ích
của chủ nghĩa thực dân nhưng đồng thời cũng đã tác động tích cực đến nền kinh
tế Việt Nam, xuất hiện một số cơ cấu mới đang trên đường định hình và phát
triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Đó là sự hình thành một số ngành kinh tế
mới như ngân hàng, cơ khí, công nghiệp chế biến, các đô thị được mở rộng, sửa
sang, nâng cấp và đặc biệt là sự ra đời các lực lượng xã hội mới như công nhân,
tư sản, tiểu tư sản, các tầng lớp học sinh, sinh viên, công chức và trí thức ngày
càng thêm đông đảo.

Đối với lĩnh vực kiến trúc nói riêng, các trào lưu kiến trúc phương Tây bắt đầu
du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam. “Sự có mặt của người Pháp cùng với văn hoá
– văn minh Pháp, sự can thiệp của họ về kiến trúc – quy hoạch đã mang lại cho
18

các thành phố ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng sự thay đổi bộ
mặt đa dạng với nhiều phong cách, loại hình, kết cấu, vật liệu mới.”[13]

Cuộc cách mạng về vật kiệu và kỹ thuật xây dựng hiện đại đến từ phương tây là
cơ sở khoa học để làm thay đổi kiến trúc truyền thống dân tộc, đồng thời tạo
điều kiện cho kiến trúc Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Nhận định về điều này,
GS.TS. Trương Quang Thao cho rằng: “ Lịch sử kiến trúc ở các nước có nền
công nghiệp tiên tiến cho thấy rằng hễ có sự biến động trong công nghệ vật liệu
là có thay đổi trong quan niệm về kiến trúc”.

Từ quy mô xây dựng công trình không lớn, số lượng không nhiều, loại hình kiến
trúc không đa dạng đến sự tăng lên một cách đáng kể về quy mô cả về chất
lượng và số lượng, việc sử dụng thép và bê tông cốt thép trong tính toán kết cấu
đã mở rộng không gian kiến trúc : cao hơn, rộng hơn, tạo nhiều khả năng giải
quyết các yêu cầu về công năng. Chính vì vậy ở thời kì này “kiến trúc phong
phú về thể loại và hình thức mà trước đây chưa hề có.” [14]

Có thể nói từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1945 là một giai đoạn
lịch sử đặc biệt của dân tộc Việt Nam, một giai đoạn mang tính giao thời, tính
chuyển tiếp, là giai đoạn diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ trong nhiều
lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục,...Đây là “khởi đầu thời kỳ thâm
nhập của văn hoá phương Tây…, cũng là khởi đầu thời kỳ văn hoá Việt Nam hội
nhập vào nền văn hoá nhân loại. Sự giao lưu đó đã làm biến đổi nền văn hoá
Việt Nam về mọi phương diện, khiến cho lịch sử văn hoá Việt Nam lật sang
trang mới.” [15]

Trong bối cảnh lịch sử đó, các thành tựu về khoa học – kỹ thuật , các trào lưu
văn hoá – nghệ thuật, tư tưởng phương Tây, trong đó có kiến trúc đã du nhập
vào nước ta bằng nhiều hình thức, thúc đẩy và làm tăng cường sự tiếp xúc, giao
lưu giữa hai nền văn hoá Á – Âu, văn hoá Đông – Tây.
19

1.3.2. Vài nét về vua Khải Định và sự ra đời của lăng Khải Định

1.3.2.1. Vài nét về vua Khải Định

Sau khi kinh đô Huế bị thất thủ (7/5/1885) vua Hàm Nghi chạy ra vùng rừng núi
Quảng Bình – Hà Tĩnh, cầm đầu cuộc kháng chiến Cần Vương. Không chiệu dụ
được vua trở về, người Pháp đưa người con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là
hoàng tử Chánh Mông lên làm vua (19/9/1885), lấy hiệu là Đồng Khánh. Ở ngôi
được ba năm thì vua băng hà lúc mới 25 tuổi, và con còn bé , hoàng tử Bửu Đảo
mới hơn 3 tuổi. Dưới ảnh hưởng của người Pháp, triều đình Huế lập người con
của vua Dục Đức, hoàng tử Bửu Lân, lên làm vua, lấy hiệu là Thành Thái. Vua
Thành Thái có tư tưởng chống Phá, vì vậy năm 1907, lấy cớ nhà vua bị bệnh
tâm thần, người Pháp gây áp lực buộc vua thoái vị và lập người con trai thứ 7
của ông là hoàng tử Vĩnh San lên làm vua, lấy hiệu Duy Tân. Năm 1916, mới 16
tuổi, vua Duy Tân đã cùng với hai nhà cách mạng Trần Cao Vân và Thái Phiên
tổ chức một cuộc binh biến tại các tỉnh miền Trung lật đổ sự thống trị của người
Pháp. Cuộc binh biến thất bại vì bị nội phản, nhà vua bị bắt và bị đày cùng với
phụ hoàng sang châu Phi. Triều đình Huế và người Pháp lập Phụng Hoá Công
Bửu Đảo, con của vua Đồng Khánh, lên làm vua, lấy hiệu là Khải Định
(18/5/1916).

Người ta nói rằng vua Khải Định là một người có vẻ “màu mè”, đỏm dáng. Có
lẽ người ta căn cứ vào những tấm hình của vua với đầy đủ áo mão cân đai, huy
chương, bội tinh đầy ngực, mà phán đoán như thế. Tuy nhiên, việc trên hai bàn
tay của vua có đến tám chiếc nhẫn mặt ngọc là điều khác thường, và so với hình
ảnh của mấy ông vua khác như Thành Thái, Duy Tân, Hàm Nghi thì rõ ràng vua
Khải Định có phần đỏm dáng hơn. Việc tiếp xúc với Tây phương, trực tiếp là
người Pháp, đã ảnh hưởng lớn đến cảm quan của vua Khải Định. Trong cách ăn
mặc của vua, ảnh hưởng này thấy rất rõ. Chỉ có bộ phẩm phục đại triều là thuộc
về lễ nghi truyền thống, có tính cách thiêng liêng, nên vua không dám đụng tới,
20

còn ngoài ra thì vua mượn cảm hứng từ phương Tây để chế tác thoải mái. Điển
hình là bộ võ phục của vua, như trong các hình ảnh còn sót lại ngày nay. Trong
bộ võ phục này, căn bản là chiếc áo dài đàn ông, may chẽn, nhưng là áo của vua
nên phải thuộc loại gấm vóc, thêu rồng, vẽ phượng khác hơn người thường.
Điều đáng nói là vua đã cho gắn thêm hai cái ngù vai – là thứ thường thấy trên
lễ phục của sĩ quan Pháp. Ngoài ra, thay vì mang hia, vua đi ủng da láng bóng,
có trang trí hoa văn bằng bạc, ngang lưng mang đai cẩn ngọc, mang kiếm Pháp,
tay mang bao tay trắng, quần tây trắng, nhưng đầu vẫn bịt khăn đóng và có khi
đội nón chóp. Cái nón này lợp bằng lông vũ, bọc lụa vàng, có chóp bằng vàng.
Vua cũng có một cái nón chóp khác màu đen. Chính lỗi phục sức nửa Tây nửa
Ta này, cùng với hai bàn tay mang tám chiếc nhẫn mặt ngọc, đã làm cho nhiều
người đương thời dè bỉu, bài bác (hình 1.1a). Phan Châu Trinh, trong Thư thất
điều năm 1922, đã đem khoản ăn mặc này kết thành tội thứ năm, gọi là “Phục
sức lố lăng”, làm mất thể thống quốc gia.

Việc vua Khải Định được người Pháp dựng lên ngai vàng đã trở thành nhân vật
chủ chốt trong việc đưa kiến trúc phương Tây vào trong quần thể di tích Huế.
Thực ra trước đó, sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Patenôtre với Pháp
(6/6/1884), thì dòng kiến trúc truyền thống ở kinh đô Huế đã bị tổn hại [16].
Cuộc chiếm đóng của quân Pháp trong khu vực Trấn Bình Đài (Mang Cá nhỏ)
cùng với việc họ xây dựng một khu thành hình thoi tương đương Mang Cá nhỏ,
mà về sau được nhân rộng gấp 3 lần vào năm 1888, với vòng tường thành hình
vuông cao 4m và hệ thống lỗ châu mai phòng thủ đã làm biến dạng một phần
kinh thành Huế. Việc thiết lập toà Khâm Sứ Trung Kỳ ở bờ nam sông Hương và
sự ra đời của khu phố Tây vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với các công
trình tiêu biểu như: dinh Công Sứ, nhà Dây Thép, nhà Thương, nhà Đoan, nhà
Đèn, kho Bạc, ga Huế, trường Quốc Học, trường Đồng Khánh… đã tạo ra hệ
quả: các trại thuỷ binh của triều Nguyễn ở bờ nam sông Hương bị xoá sổ và một
kiểu thức kiến trúc dân sự mang tính chất của một đô thị hiện đại kiểu châu Âu
21

xuất hiện và tác động trực tiếp đến diện mạo kinh đô Huế, len lỏi vào tận chốn
cung điện vàng son ở bờ bắc sông Hương hay lan toả đến nơi yên nghỉ của các
vị vua nhà Nguyễn ở vùng rừng núi heo hút phía tây nam kinh thành, mà người
tạo ra sự biến đổi ấy không ai khác là vua Khải Định.

Trong 9 năm tại vị, vua Khải Định đã cho xây dựng và sửa sang nhiều cung điện,
lăng tẩm, và chính qua những công trình này ông được người dân Huế tặng cho
cái biệt danh “Vua mảnh sành”, do việc tận dụng mảnh sành, sứ, thuỷ tinh để
trang trí, tạo nên nét độc đáo một thời. Theo De Tessan, ngay khi đang còn sống
cuộc đời khiêm tốn của một ông hoàng nghèo, Khải Định đã tỏ ra là một người
có cảm quan nghệ thuật tao nhã, một người khéo tay, thích hội hoạ và âm nhạc,
thích chăm sóc cây kiểng. Ông cũng là người sành về nuôi ngựa, ngựa đua cũng
như ngựa kéo xe. Những chi tiết nhỏ bé này giúp cắt nghĩa vì sao chỉ làm vua
trong một thời gian ngắn, vua Khải Định lại khuyến khích phát triển các ngành
nghề thủ công và thực hiện nhiều công trình xây dựng khác hơn người trước.

Công trình đầu tiên vua Khải Định cho xây dựng theo phong cách mới, kỹ thuật
mới với các chất liệu phi truyền thống như bê tông cốt sắt, thuỷ tinh màu, gạch
xi măng…là khu vực mộ vua Đồng Khánh, thân phụ vua Khải Định, vào năm
1917. Tiếp theo là việc cải chế, sửa chữa nâng cấp các công trình kiến trúc
truyền thong trong khu vực Hoàng Thành như lầu Kiến Trung, cửa Hiển Nhơn,
cửa Chương Đức, cửa Trường An, Duyệt Thị Đường…Bên ngoài Kinh Thành,
công trình Tây hoá tiêu biểu nhất do vua Khải Định chủ xướng xây dựng là An
Định Cung nằm ven bờ sông An Cựu, và đặc biệt là việc xây dựng Ứng Lăng,
hay vẫn gọi là lăng Khải Định,sơn phần tương lai của nhà vua, là sự góp mặt
hoàn hảo nhất, đầy đủ nhất của một công trình được kiến trúc theo phong cách
châu Âu, với kỹ thuật và chất liệu hiện đại trên một bố cục mặt bằng tuân theo
các nguyên tắc của dịch lý Đông phương, kết hợp với những kiểu thức và mô típ
22

trang trí chịu ảnh hưởng của ý thức hệ Nho giáo. Đó là một khuôn mặt mới lạ
trong diện mạo kiến trúc thời Nguyễn lúc bấy giờ.

Khi viết và nói về vua Khải Định, đa phần chỉ thấy chê, có khi chê thậm tệ, đến
mức khắc nghiệt kết án, như Phan Châu Trinh, qua Thư thất điều. Dư luận
đương thời và thậm chí ngay cả bây giờ, đã tặng cho vua Khải Định một biệt
hiệu là “vua bù nhìn”. Tuy nhiên, nhà biên khảo Nguyễn Hữu Thông trong cuốn
“Huế, nghề và làng nghề thủ công truyền thống” đã có một cái nhìn khác về ông
vua này: “Vào những triều đại cuối Nguyễn, nhất là thời vua Khải Định (1916-
1925), đội ngũ thợ thủ công không chỉ riêng ngành thêu mà hàng loạt các ngành
nghề khác rất phát triển.” Tác giả còn nói rõ thêm rằng: “Bởi nhiều nguyên
nhân, nhưng theo chúng tôi vua Khải Định trên ngai vàng trong những năm đầu
thế kỷ XX là nhân vật chính trong vỡ kịch đau thương của đất nước lẫn cuộc đời
riêng tư. Vua không có thực quyền vì đất nước trong tay người Pháp, cá nhân
lại gặp những bất trắc và bất thường về thể lực ngoài ý muốn. Vua Khải Định
hướng đến nghệ thuật như là một cứu cánh để quên đi thực tế phũ phàng. Nghệ
thuật thời Khải Định tất nhiên có nhiều điều phải bàn, nhưng có điều ai cũng
nhận ra là chính sách ưu đãi, cũng như đội ngũ những thợ thủ công (trong đó
có những nghệ nhân đặc biệt nổi tiếng ở nghề trang trí xây dựng như các ông
Kiềm Khả, Cửu Tánh…) phát triển và đã để lại nhiều tác phẩm, tạo nên dấu ấn,
nét đặc thù một giai đoạn trong quá trình phát triển mỹ thuật Huế.” [17]

Trong hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ, người cầm đầu triều đình Huế chỉ có
hai con đường để chọn: hoặc chống lại sự thống trị của người Pháp, như vua
Duy Tân đã làm và không có kết quả vì chưa hội tụ được những điều kiện cần
và đủ; hoặc tạm thời hợp tác với người Pháp để cho đất nước được ổn định, như
vua Khải Định đã làm. Không có một lựa chọn nào khác. Và trong khả năng cho
phép, vua đã làm những việc nho nhỏ có ích. Qua những chuyến đi xa gần, đây
đó, và việc xây dựng cung điện, lăng tẩm, vua đã tỏ ra là người xông xáo, ham
hiểu biết những điều mới lạ, thích mở rộng tầm hiểu biết hòng đáp ứng tình thế
23

mới cho đất nước (hình 1.1b). Trong hào quang anh hùng của các vua Hàm
Nghi, Thành Thái và Duy Tân, người yêu nước có lời lẽ chê trách vua Khải
Định thì cũng không có gì là lạ. Nhưng trong chiều dài lịch sử, khi nhiều tài liệu
được khám phá, nhiều sự thật được phân tích và so sánh kỹ càng, người đời sau
có thể có những phê bình khách quan hơn và đúng đắn hơn về một ông vua khá
đặc biệt trong lịch sử.

1.3.2.2. Sự ra đời của lăng Khải Định

Như vậy, qua phân tích ở bên trên, ta có thể thấy sự khác biệt của lăng Khải
Định so với các lăng khác là kết quả của hai yếu tố. Một là ảnh hưởng của sự
xâm nhập văn hóa phương Tây trong buổi giao thời đầy biến động của lịch sử.
Hai là cá tính của vua Khải Định, một ông vua đầy hiếu kì, chuộng cái mới
nhưng chưa có sự sàng lọc nên không có sự e dè trong việc thâu tóm những cái
hay cái lạ của phương Tây vào trong lăng của mình. Ý tưởng của ông vua này
đã được đưa vào trong lăng thông qua sự thông minh và bàn tay tài hoa của
những người thợ Việt Nam thời kì đó như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả…

Vua Khải Định (1916-1925) là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là người cuối
cùng xây dựng lăng tẩm. Bước lên ngai vàng vào giữa tuổi 31, Khải Định say
sưa với việc xây dựng cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc
như điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa
Chương Đức, đặc biệt là Ứng Lăng. Những công trình này làm hao tổn nhiều
nhân lực, của cải của binh dân, song đó cũng là những công trình có giá trị văn
hóa, nghệ thuật đặc sắc.

Trị vì được một thời gian, vua Khải Định đã lo nghĩ việc tạo dựng sinh phần cho
mình. Sau khi tham khảo nhiều tấu trình của các thầy Địa, Khải Định chọn triền
núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) làm vị trí để xây cất lăng mộ. Lăng khởi công
ngày 4-9-1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn tất. Tiền quân Đô thống phủ
Lê Văn Bá là người chỉ huy với sự trưng tập nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi
24

tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu
Sừng... Để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ
cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng.
Hành động nay của Khải Định đã bị lịch sử lên án gay gắt. Khải Định cho người
sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise...,cho thuyền sang Trung Hoa,
Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.

1.3.3. Đặc điểm kiến trúc lăng Khải Định

Mặt bằng xây dựng lăng hình chữ nhật (117m x 48,5m), có hàng rào cao 3m bảo
vệ. Toàn bộ khu tẩm và khu lăng hòa chung với nhau thành 1 trục thống nhất, bố
trí trên 7 tầng sân với 127 bậc cấp xây gạch. Tầng dưới cùng là con đường chạy
qua trước mặt lăng, vượt qua 37 bậc cấp mới đến cửa chính. Hệ thống bậc cấp
chia thành 3 lối đi, 2 bên thành bậc đắp nổi 4 con rồng rất lớn, tư thế bò từ trên
xuống. Qua khỏi cửa chính là tầng sân thứ 2, hình chữ nhật (47m x 24,5m), lát
gạch ca rô. Hai bên sân có 2 nhà Tả, Hữu tòng tự, tục gọi là nhà Xanh, đều 3
gian, xây vách, mái lợp ngói liệt; trong thờ bài vị các công thần. Qua tiếp 29 bậc
cấp nữa là sân Bái đình (47m x 40,5m). Nghi môn kiểu tam quan đồ sộ ở phía
trước. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng gồm quan văn, quan võ, binh lính,
ngựa, voi tạc bằng đá, đứng chầu. Bi đình đặt ở giữa phía cuối sân. Nhà bia xây
hoàn toàn bằng bê tông, chia hai tầng mái, lợp ngói ardoise. Trong bi đình là
tấm bia bằng đá Thanh đặt trên bệ đá kiểu chân quỳ khắc bài văn ca ngợi công
đức vua Khải Định. Bia cao 3,1m, rộng 1,2m, bệ bia cao 0,76m, rộng 0,85m, dài
2,1m. Cả bia và bệ đều chạm khắc công phu, hình thức kiểu bia đá Huế truyền
thống. Sau Bái đình là 3 tầng sân cũng hình chữ nhật, lát gạch carô, mỗi tầng
cách nhau 13 bậc cấp, thành bậc đều đắp 4 con rồng cùng tư thế bò từ trên
xuống. Trên sân có các bồn hoa hình chữ nhật trồng các loại cây cảnh, đặc biệt ở
tầng sân thứ 2 còn có 2 cột cờ bằng bê tông khá hiện đại dùng để treo cờ vào dịp
lễ tết. Cung Thiên Định nằm ở tầng sân thứ 7, phía cuối trục thần đạo, và cũng
là vị trí cao nhất của lăng. Đây là một tòa nhà đồ sộ kiêm cả chức năng điện thờ
25

và nơi đặt thi hài của nhà vua. Cung Thiên Định có mặt bằng hình chữ nhật
(34,5m x 26,4m), nền lát đá cẩm thạch, không gian chia làm 5 phòng. Hai bên là
Tả, Hữu trực phòng, tường quét giả màu đá cẩm thạch. Ba phòng giữa xếp theo
hình chữ tam. Phòng phía trước đặt án thờ đúc bằng bê tông, phía trên có bức
hoành đề tên điện (Khải Thành Điện). Toàn bộ 4 mặt tường được trang trí hết
sức công phu bằng mảnh sành sứ ghép nổi với các đề tài bát bửu, tứ thời, ngũ
phúc ghép với các câu thơ. Trần nhà trang trí bằng bức tranh Cửu long ẩn vân
vẽ rất hoành tráng. Phòng giữa đặt bức tượng đồng mạ vàng vua Khải Định (tỉ lệ
1,7/1) ngồi trên ngai vàng, đúc năm 1920 tại Pháp. Trên đầu tượng là chiếc Bửu
tán bằng bê tông, sau lưng tượng là hình mặt trời đang lặn xuống. Phía dưới
tượng, ở độ sâu 9 mét là nơi cất giữ thi hài nhà vua. Phòng trong cùng có nền
cao hơn các gian ngoài 1,7m. Đây là gian đặt bàn thờ và bài vị vua Khải Định
cùng các đồ tự khí, ngự dụng.
26

CHƯƠNG II – QUAN NIỆM VỀ SỰ HÀI HOÀ TRONG KIẾN TRÚC VÀ


CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI HOÀ VĂN HOÁ ĐÔNG – TÂY
TRONG KIẾN TRÚC LĂNG KHẢI ĐỊNH

2.1. Quan niệm về sự hài hoà trong kiến trúc

Kiến trúc được con người tạo ra để phục vụ cho chính nhu cầu của họ. Trong
một thời gian dài, việc xây dựng hầu như không có bản vẽ chi tiết như ngày nay
mà mọi thứ đều diễn ra tại công trường. Mặc dù khác nhau về không gian và
thời gian lẫn quan điểm sáng tác nhưng các công trình kiến trúc đó vẫn đạt được
sự hài hoà mà ngày nay con người vẫn đang tiếp tục khám phá và học hỏi. Các
đền thờ thần Hy-La ở phương Tây, các lăng mộ kim tự tháp ở Ai Cập, hay các
lâu đài, cung điện, thành quách ở phương Đông đều đã đạt đến sự hài hoà với
kích thước, hình dáng, màu sắc và tâm lý sử dụng. Tất cả hoà quyện với nhau
thành một thể thống nhất không thể thêm hay bớt bất cứ một thành phần nào bởi
đôi khi sự thêm bớt đó sẽ phá vỡ tính hài hoà vốn có. Vậy vấn đề ở đây là làm
thế nào để kiến trúc đạt đến sự hài hoà ? Sự hài hoà trong nghệ thuật kiến trúc
liệu có phải được con người tạo ra theo quy luật của riêng họ hay tất cả đều nằm
dưới sự chi phối của tự nhiên ?

Thiên nhiên tự thân nó vốn đã đẹp, bởi sự hài hoà, sự cân bằng là quy luật sống
còn của tự nhiên. Con người là một sản phẩm của tự nhiên cho nên không nằm
ngoài những quy luật này. Điều này không chỉ xảy ra trên hình thể của con
người mà còn nằm trong các tế bào vi mô cấu tạo nên các hình thể. Cấu trúc
phân tử của axit amin tạo nên tế bào sống, cấu trúc của chuỗi xoắn kép dạng
helix đối xứng quay theo một trục của AND và ngay cả các ngũ quan của con
người cũng tuân theo một hệ trục đối xứng. Cho nên, tính đối xứng hay cảm
giác cân bằng là điều kiện căn bản trong thẩm mỹ của con người.

Trong quá trình tương tác với tự nhiên, con người làm ra sản phẩm kiến trúc, là
không gian ở và sinh hoạt của họ. Vì vậy, sự biểu hiện của kiến trúc liên quan
27

đến tự nhiên là một điều tất yếu được thừa nhận, không chỉ về hình thức mà còn
là tính thẩm mỹ của hình thức do con người tạo ra. Mối quan hệ này cũng là lý
do để giải thích đặc tính thoả mãn về mặt tinh thần của con người – sự hài hoà
trong cảm xúc, luôn là nhu cầu trong việc cảm thụ thực thể kiến trúc. Như vậy,
liệu con người tạo ra kiến trúc là để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng theo một
nguyên tắc ngẫu nhiên? Con người tạo ra kiến trúc, cái không gian bên trong
hay không gian bên ngoài thông qua hình học, đạt đến sự hài hoà là một khuynh
hướng tự nhiên đã có sẵn trong tiềm thức. Họ được sinh ra và lớn lên trong thế
giới tự nhiên, cảm xúc cân bằng mà con người có được khi chiêm ngưỡng tự
nhiên đã ăn sâu vào tiềm thức và hình thành nên những kí ức cảm xúc về thẩm
mỹ. Như lời của Plato, thế giới là hình bóng của ý niệm, cho nên những kí ức
này là một không gian động trong não bộ. Các thành phân tạo nên không gian kí
ức đó bao gồm các thành phần của tự nhiên như cây cỏ, mặt nước, bầu trời, địa
hình,…kể cả kiến trúc và con người trong đó. Sự trật tự giữa các thành phần
trong không gian này, đã tạo nên các đường nét giữa thành phần này lên thành
phần kia. Tuỳ thuộc vào các vị trí con người quan sát mà các đường nét này là
đường thẳng, gãy khúc, đường cong liên tục,…, một quãng ngắn hay kéo dài
đến vô tận.

Các kí ức về cảm xúc có thể phai mờ theo thời gian, các không gian cũng không
còn rõ nét, nhưng các hình dáng của các thành phần không gian kí ức đó thì vẫn
được lưu giữ, chỉ là không còn khả năng hiện diện hiện hành. Không gian trong
tự nhiên gây cho con người cảm xúc cân bằng nhiều vô kể, việc làm mờ đi các
không gian kí ức đó cũng chỉ là cách tiết kiệm của não bộ con người. Kiến trúc,
nếu được người thiết kế tạo ra đường nét hình khối gần giống với các đường nét
tạo nên các hình dáng đang lưu trong não bộ của người xem, thì các không gian
kí ức sẽ được khơi gợi; hàng loạt các cảm xúc cân bằng trước đó được phục hồi
trở lại. Có thể vào thời điểm này, với sự dẫn đường của kiến trúc thực tại, con
người sẽ chìm đắm trong những cảm xúc trong quá khứ đang ùa đến, tạo nên
28

cảm xúc thẩm mỹ. Kết quả là, con người sẽ cho rằng không gian đó đẹp, trong
trạng thái tâm lý cân bằng.

Có thể thấy rằng, trong suốt chiều dài lịch sử, con người đã không ngừng tìm
hiểu và khái quát những tri thức về tự nhiên. Tri thức về sự hài hoà được đề cập
như một nguyên tắc sống còn trong triết lý phương Đông lẫn phương Tây. Theo
thời gian, những triết lý này có nhiều thay đổi, được bổ sung và hoàn thiện dần.
Để có thể hiểu rõ hơn những quan niệm về sự hài hoà trong kiến trúc, chúng ta
sẽ phân tích khái quát những triết lý về sự hài hoà của tự nhiên trong quan niệm
phương Đông và phương Tây.

2.1.1. Triết lý về sự hài hoà của phương Đông

Đối với người phương Tây, ngay từ thời Cổ, từ “phương Đông” chỉ tất cả những
gì nằm ở phía đông. Về mặt địa lý, nó bao trùm cả Viễn Đông, Trung Đông và
Trung Á. Trong lĩnh vực lịch sử của những ý tưởng và khoa học nhân văn, thì
“Đông phương học” lại đi theo một hướng hoàn toàn khác: nó chỉ sự nghiên cứu
ngôn ngữ và các văn hóa Châu Á. Chính trên cơ sở này, bộ môn khoa học Đông
phương và những thể chế gắn liền với nó đã được xây dựng. Cuối cùng, chỉ mới
gần đây thôi, thuật ngữ “tư duy phương Đông” mới xuất hiện để chủ yếu chỉ
những tinh thần ra đời ở Châu Á: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo,
Thần đạo và nhiều nhánh của chúng. Trong phạm vi luận văn này, người viết chỉ
xin đề cập chủ yếu đến những quan niệm về sự hài hoà trong quan niệm của
Trung Quốc, đất nước có nền văn hoá ảnh hưởng sâu đậm đến Việt Nam.

Một trong những giá trị tinh thần chúng ta có thể tìm thấy trong văn hóa Trung
Quốc là sự tìm kiếm hài hòa phổ quát giữa con người với chính bản thân mình,
giữa cá nhân với người khác, giữa con người và tự nhiên cũng như giữa con
người với vũ trụ thiên địa mang tính siêu nhiên. Khái niệm "hòa" trong Nho
giáo thể hiện rất rõ quan điểm này.
29

Ngay từ thời cổ đại, khái niệm "hòa" đã xuất hiện trong "Kinh Thư", kinh Thi"
và "Kinh Dịch". Trong Cố Cung tại Trung Quốc, cả ba điện lớn nhất đều được
đặt tên có chữ "hòa" để khẳng định tầm quan trọng của sự hài hòa: "Bảo hòa",
"Trung hòa" và "Thái hòa" . Khổng Tử đã từng đưa ra một câu nói nổi tiếng:
"Hòa hợp nhưng không hòa tan" (hòa nhi bất đồng), ông nói: "Người quân tử
hòa hợp nhưng không hòa tan, kẻ tiểu nhân hòa tan nhưng không hòa hợp"
(Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa) [18]. Khái niệm "hòa"
trong "hòa nhi bất đồng" một mặt chủ trương sự đa dạng, một mặt chủ trương
sự cân bằng, trong bất cứ điều kiện nào, đối với những ý kiến khác nhau, sự vật
sự việc khác nhau đều phải giữ thái độ khoan dung, rộng lượng, vị tha. Đây
cũng chính là quan niệm "lấy đức lớn để bao chứa muôn vật" (hậu đức tải vật)
của Dịch học, bởi vì, "Thiên hạ dù đường đi tuy khác nhau nhưng đều quy về
một mối, tính toán trăm lối nhưng đạo lý chỉ tóm vào một lẽ" (Đồng quy nhi thù
đồ, nhất trí nhi bách lự) [19]. "Hòa" không chỉ là một loại đức hạnh, một tiêu
chuẩn cho hành vi con người trong mối quan hệ xã hội mà còn là một căn cứ xác
đáng để hoạch định chiến lược cũng như đưa ra các chính sách lớn của đất nước.

Có thể nói, chú trọng vào mối quan hệ giữa con người và tự nhiên (Thiên nhân
quan hệ) là một trong những đặc điểm nổi bật của tư tưởng Trung Quốc truyền
thống. Nhìn từ góc độ lịch sử triết học Trung Quốc, chúng ta có thể thấy một
hiện tượng là hầu như nhà tư tưởng nào của Trung Quốc từ thời Tiên Tần cho
đến cuối nhà Thanh đều có quan niệm trời - người của riêng mình. Các quan
niệm trời - người này có thể quy về ba hệ thống lớn: một là, học thuyết thuận
theo tự nhiên, quay về tự nhiên của Lão Tử; hai là, học thuyết khắc chế tự nhiên
của Tuân Tử; ba là, học thuyết hài hòa giữa con người và tự nhiên của Kinh
Dịch.

"Dịch truyện" cho rằng con người và vạn vật giống nhau ở một điểm cơ bản -
đều là sản phẩm của thiên địa, tự nhiên; xã hội loài người là kết quả của quá
30

trình phát triển tự nhiên, con người là một bộ phận của tự nhiên: "Có trời đất rồi
mới có vạn vật, có vạn vật rồi mới có nam nữ, có nam nữ rồi mới có vợ chồng,
có vợ chồng rồi mới có cha con, có cha con rồi mới có vua tôi, có vua tôi rồi
mới có trên dưới" [20]. Như vậy, có nghĩa trời đất là căn nguyên của vạn vật, có
vạn vật thì mới có các quan hệ xã hội nam nữ, vợ chồng, cha con, vua tôi, trên
dưới, nghĩa là mới hình thành xã hội. Con người là một sản phẩm của tự nhiên,
là một bộ phận không thể tách rời của tự nhiên.

Theo quan niệm của Dịch học, trời có đạo của trời, đất có đạo của đất, con
người có đạo của con người: “Để thành đạo trời thì có âm và dương, để thành
đạo đất thì có nhu và cương; còn thành đạo người, thì có nhân và nghĩa” (Lập
thiên chi đạo viết âm dữ dương, lập địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi
đạo viết nhân dữ nghĩa) [21]. Đạo của trời đất ở đây có thể được hiểu là quy tắc,
quy luật âm dương, cương nhu của giới tự nhiên, còn đạo người chính là quy
phạm đạo đức và nguyên tắc trị quốc. Đạo người cần và phải thuận theo đạo trời,
nói một cách khác, con người phải tuân thủ các quy luật chung. "Hệ từ thượng
truyện" có viết: "Trời sinh ra thần vật (Hà đồ, Lạc thư) thì thánh nhân áp dụng
theo; trời đất biến hoá thì thánh nhân bắt chước theo." (Thị cố thiên sinh thần
vật, thánh nhân tắc chi; thiên địa biến hoá, thánh nhân hiệu chi) [22].

Quan niệm hài hòa giữa trời và người được nhắc đến nhiều lần trong "Dịch
truyện". Muốn đạt đến sự hài hòa giữa trời và người thì vấn đề phải giải quyết
đầu tiên là "Nghiên cứu đến cùng thần diệu của sự vật để nhận rõ sự biến hóa
của sự vật" (Cùng thần tri hóa). "Hệ từ thượng truyện" viết: "Thánh nhân nhờ
Dịch mà nhận thức sâu sắc và xét được sự việc từ khi mới manh nha. Nhờ nhận
thức sâu sắc nên mới thông hiểu được cái chí của thiên hạ, nhờ xét được sự việc
từ khi mới manh nha nên mới hoàn thành được mọi việc trong thiên hạ." (Phù
Dịch thánh nhân chi sở dĩ cực thâm nhi nghiên cơ dã. Duy thâm dã cố năng
thông thiên hạ chi chí, duy cơ dã cố năng thành thiên hạ chi vụ) [23]. Cái gọi là
31

sâu sắc (“thâm”) ở đây là chỉ sự thần diệu trong biến hóa của vạn vật, cái gọi là
manh nha của sự việc ("cơ") là chỉ cái mầm mống hay tiềm năng của sự vận
động biến hóa đó. Nhận thức sâu sắc và xét đoán từ lúc manh nha chính là
"Nghiên cứu đến cùng thần diệu của sự vật để nhận rõ sự biến hóa của sự vật"
(Cùng thần tri hóa). Quan điểm “cùng thần tri hóa” này đã khẳng định năng lực
nhận thức của con người, xác nhận lại khả năng của con người trong quá trình
nhận thức tự nhiên, nhận thức bản thân, mở ra hướng lý giải sự ảo diệu của thiên
nhiên. Điều này cũng thể hiện một lần nữa không chỉ triết học phương Tây mới
chú trọng đến lĩnh vực nhận thức luận, mà triết học Nho giáo, đặc biệt là Dịch
học (mà sau này là Lý học, Tâm học đời Tống và đời Minh) cũng rất chú trọng
đến vấn đề này. [24]

Tư tưởng trời người hài hòa trong Nho giáo truyền thống một mặt nhấn mạnh
đến sự thống nhất và tương tác giữa trời, đất và người, mặt khác lại nhấn mạnh
đến tính đặc thù của con người, xác lập quan hệ giữa con người với tự nhiên là
một loại quan hệ tích cực và hài hòa chứ không chủ trương con người chinh
phục tự nhiên. Nho giáo khẳng định sức sáng tạo của đạo trời đầy rẫy trong vũ
trụ, và con người "cố gắng theo đức của trời đất, phấn đấu theo sự sáng suốt
của nhật nguyệt, tuân theo trật tự của bốn mùa" (Dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ
nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự) [25], trên cơ sở đó đẩy mạnh,
mở rộng tinh thần của đạo “nhân” ra cả xã hội, thậm chí ra toàn bộ giới sinh vật
“thảo mộc cầm thú”, tạo ra một cảnh giới, một thể duy nhất bao gồm cả trời đất
vạn vật và con người mà Nho giáo thường gọi là "thiên địa nhân hợp nhất" hay
"thiên địa nhân hợp đức". Các học giả Trung Quốc khi nghiên cứu theo hướng
này thường muốn khẳng định giá trị tích cực của quan niệm trời người hài hòa
trong Nho giáo, để từ đó tạo ra một động lực cho quá trình xây dựng xã hội hài
hòa xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, trên sự gợi mở của triết học Nho giáo, con người
và tự nhiên vốn là cùng một gốc, con người không được phép làm hại tự nhiên,
mà phải tôn trọng tự nhiên, và hơn nữa, là phải thật sự yêu thương tự nhiên,
32

dùng lý trí để khống chế và điều chỉnh hành vi bản thân, khôi phục lại mối quan
hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Trong việc giải quyết mối quan hệ với tự
nhiên, con người trải qua ba giai đoạn: sùng bái tự nhiên, chinh phục tự nhiên và
hài hòa với tự nhiên. Đặc trưng của mỗi một giai đoạn thể hiện trình độ văn
minh của con người trong giai đoạn đó, và cũng chính vì vậy sự phát triển của
các giai đoạn chứng minh sự phát triển không ngừng của văn minh nhân loại, sự
nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn đối với giới tự nhiên. Con người
có coi tự nhiên là một phần thân thể của mình thì mới có thể đạt tới mục tiêu hài
hòa giữa con người và tự nhiên.

Đạo Lão cũng có những cống hiến rất lớn trong việc đưa ra những quan niệm về
hài hòa giữa con người và tự nhiên. Sự hài hòa giữa con người và tự nhiên được
các nhà tư tưởng sáng lập Đạo gia bàn đến với những sắc thái riêng biệt. Sự hài
hòa giữa con người và tự nhiên này mở ra một không gian mới, hay cung cấp
những ý tưởng mới cho sự hài hòa trong xã hội. Nhân vật đại diện của Đạo gia
là Lão Tử đã có ý niệm về một xã hội hài hòa "Nước nhỏ dân ít, có nhiều khí cụ
mà không dùng, khiến dân trọng sự chết mà không đi xa; tuy có xe cộ cũng
không đi; tuy có áo giáp, giáo nhọn cũng không động đến; khiến người ta trở lại
thắt nút dây mà dùng" [26]. Ở đây, Lão Tử cho rằng tiền đề của xã hội hài hòa
là loại trừ tất cả kỹ thuật, cởi bỏ mọi thứ mà văn minh đã trói buộc con người.
Dưới cách nhìn này, xã hội hài hòa là sự thống nhất giữa con người với tự nhiên,
con người phải quy thuận tự nhiên, quay trở về với tự nhiên.

Với những quan niệm bên trên, hình học và con số trong kiến trúc phương Đông
là sự thiêng liêng hoá các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, xem như là đại diện
cho thế lực thần thánh để tôn thờ. Hay nói cách khác, người phương Đông tìm
kiếm các biểu hiện của tự nhiên thông qua hình học và các con số ở những nơi
của các vị thần, và từ đó họ đưa chúng vào trong các sản phẩm kiến trúc được
họ tạo ra, như là một sự tôn kính, lời cầu nguyện bình an, phát đạt cho những
33

sinh hoạt trong cuộc sống thường ngày. Vì thế, kiến trúc phương Đông thường
dựa vào tính cân xứng, từ đó hình vuông và hình tròn thường được sử dụng để
biểu nghĩa hơn là biểu hình như trong kiến trúc phương Tây. Chẳng hạn, hình
bán cầu trên hình lập phương tượng trưng cho trời ở trên đất. Hệ thống kết cấu
ngoài việc được bố trí hợp lý bởi nguyên tắc truyền lực còn được điêu khắc nổi
trực tiếp lên bề mặt, mô tả thần thoại, thiên nhiên. Do vậy, kiến trúc như là một
thực thể của thiên nhiên hơn là sản phẩm lý tính do con người tạo ra.

2.1.2. Triết lý về sự hài hoà của phương Tây

Sự nông cạn của trí tuệ con người thời mông muội trước các hiện tượng tự nhiên
đã hình thành nên các triết lý tôn giáo nhuốm đầy màu sắc huyền bí. Các hiện
tượng vận động không ngừng nghỉ của tự nhiên khiến cho con người ngày càng
thấy mơ hồ, bất an trong cuộc sống bấp bênh hàng ngày. Để được an lòng trong
môi trường sống, họ không còn cách nào khác hơn là cụ thể hoá các hiện thực
phức tạp để nắm bắt tự nhiên, và kiến trúc là sự biểu hiện rõ nét nhất. Tuy mang
đầy tính huyền bí bằng các công trình tôn giáo, nhưng bước đầu cũng đã hình
thành các ý niệm từ các lý lẽ của tự nhiên. Thực vậy, kiến trúc phương Tây, đa
phần là tương tự nhau giữa các nền văn minh, đều chịu ảnh hưởng của bầu trời.
Hình học được quy giản từ tự nhiên, điển hình nhất vẫn là hình vuông và hình
tròn tượng trưng hoàn hảo của trời và của đất, để từ đó vận dụng trong kiến trúc,
tuỳ theo triết lý mỗi nền văn minh mà biểu hiện quy luật vận động của tự nhiên
bằng các hình thể khác nhau.

Sau đó, theo thời gian, với khát vọng tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh,
con người bắt đầu hồ nghi và đi tìm bản chất thực sự của vật chất với niềm tin
thế giới là có thể điều tra, suy luận, đồng nhất và có thể diễn giải bằng các
nguyên tắc tổng quát. Chẳng hạn, Thales thì cho nước là nguồn gốc sinh ra vạn
vật, Heraclitus cho là lửa (thế giới là một ngọn lửa sống bất diệt), Euripides cho
34

rằng thế giới được sinh ra từ không khí và đất, Empedocles, Pythagore và các
triết gia khác khẳng định từ bốn nguyên tố: không khí, lửa, đất và nước.

Cuối cùng, Plato kết hợp bốn yếu tố vật chất cơ bản đất, nước, không khí, lửa
của Empedocles tương ứng với sự hiện diện của những hạt bất khả phân của
Democritus – lý thuyết nguyên tử về vật chất, để đưa ra sự hình thành của thế
giới từ năm dạng hình học đều cơ bản. Theo đó, hình lập phương vững chải
tượng trưng cho đất, khối tứ diện nhọn tương trưng cho tính chất sắc sảo của lửa,
hình tám mặt biểu hiện cho sự linh động của gió, và hình hai mươi mặt đại diện
cho sự muôn hình vạn trạng của nước. Toàn thể vũ trụ được Plato tượng trưng
bằng khối mười hai mặt – theo đúng sự diễn đạt của ông thì “ thượng đế dùng
khối mười hai mặt để đính các chòm sao lên bầu trời.” Archimedes đã từ năm
dạng hình học của Plato bằng cách cắt đi các góc hình thành mười ba dạng hình
học cụ thể đối xứng khác. Chúng được dùng để mô tả sự tương hợp các hình
dạng thiên nhiên và được con người sử dụng để tạo nên các công trình kiến trúc.

Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng nâng cao tính
nhận thức và tự nhận thức. Con người đã nhận thức được rằng, sự tồn tại là sự
vận động hỗn độn không ngừng của vật chất, chuyển hoá thành các dạng khác
nhưng thống nhất, trật tự và hài hoà trong toàn vũ trụ. Trong đó, hình học là các
hiển hiện hữu hình cho sự tồn tại, còn con số là đại diện cụ thể mối liên hệ giữa
các vật chất. thực vậy, Socrates đã nói rằng, “mọi giải pháp tạo hình cái đẹp đều
được vay mượn từ hình học và nó sẽ hướng linh hồn đến sự thật và sáng tạo ý
nghĩa đích thực của triết học.” [27] Plato cũng đã khẳng định, con số là nguyên
lý và là nguồn gốc của mọi sự tồn tại. Điều này cũng được Gallile, 22 thế kỷ sau,
đã hưởng ứng bằng câu nói “ cuốn sách về tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ
toán học”. Sự hưởng ứng tiếp tục được nhân lên, vào thế kỷ 20, Eugene
Wingner cũng đã bày tỏ sự ngạc nhiên của ông về “hiệu quả của hình học và số
học trong việc mô tả sự hài hoà của thế giới hiện thực”. [28]
35

Ngay trong kiến trúc của người cổ đại cũng đã thể hiện rõ điều này. Như kim tự
tháp của người Ai Cập, với hình dáng những chóp tam giác đồng dạng, ẩn tàng
trong đó là con số π, kiến trúc đền Pathenon của Hi lạp lại khớp với Tỉ lệ vàng,
các công trình kiến trúc La Mã thì tuân theo sự cân đối, đối xứng bằng các thao
tác: thức cột (order), sự bố trí (arrangement), nhịp điệu (eurythmy), sự đúng
mực (Property) và kinh tế (Economy). Trong kiến trúc hiện đại thì hầu hết công
trình dựa vào tính cân xứng, tỉ lệ vàng thông qua tỉ lệ kích thước của con người.

Trong tác phẩm “Mười cuốn sách về kiến trúc”, Vitruvius cho rằng, sự cân đối,
đối xứng là sự hoà hợp thích đáng giữa các bộ phận trong bản thân công trình,
giữa các mối quan hệ của những thành phần khác, và tổng thể phù hợp với một
phần nào đó được chọn làm tiêu chuẩn. Như ở cơ thể con người là sự hài hoà
cân đối, đối xứng giữa cẳng tay, bàn tay, ngón chân tay, và các bộ phận khác;
con người làm tiêu chuẩn cho toà nhà. Đối với toà nhà hoàn hảo cũng vậy, sự
hoàn hảo của thức cột có thể làm tiêu chuẩn cho cả kích thước công trình. Có lẽ,
vì vậy mà hình học đều và tỉ lệ vàng khiến cho con người có cảm giác hoà hợp,
ưa nhìn. Vì thế, hình học đều, có nguồn gốc từ tự nhiên, luôn có mặt trong
những công trình kiến trúc vĩ đại bởi sự hài hoà của nó mà cho đến nay mọi
người công nhận.

Tóm lại, sự tồn tại của các dạng vật chất trong tự nhiên, theo quan điểm của
người phương Tây, là những dạng hình học đối xứng, sự hài hoà có được là do
sự tương hợp của bộ phận với cái toàn thể. Nghĩa là giữa các dạng hình học đối
xứng của các dạng vật chất, theo Heraclitus, có một tỉ lệ hay mức độ nào đó
được định sẵn và ẩn tàng sau các mối quan hệ tỉ lệ tưởng chừng như là mâu
thuẫn, là sự cân đối.

Như vậy, có thể nói, đối xứng là nền tảng làm nên các hiện tượng phức tạp trong
thiên nhiên. Theo Plato thì “các hiện tượng phức tạp trong tự nhiên có nền
móng chính là các đối xứng cơ bản, chúng không bao giờ thay đổi”, vì thế quy
36

luật đối xứng của tự nhiên là bất biến, không bao giờ thay đổi kể cả trong bất kì
không gian hay thời gian nào. Đây cũng là nguyên do mà mọi tri thức con người
khám phá luôn đúng ở bất kì nơi đâu, vị trí địa lý nào. Tư tưởng này là sự nhận
thức lý tính đầy đủ về sự hài hoà của tự nhiên, xuyên suốt trong các nền văn
minh phương Tây, ở tri thức của khoa học tự nhiên và biểu hiện ở các ngành
nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật kiến trúc.

2.1.3. Kết luận

Triết lý của người phương Tây dù có rộng lớn đến đâu cũng nằm trong phạm vi
của thế giới tự nhiên, con người có thể dùng tai mắt để cảm thấy, ý thức con
người có thể nhận ra. Trong khi đó, triết lý phương Đông không bị cái cụ thể chi
phối, không bị cái trừu tượng của suy tưởng đẩy đến tư tưởng thuần tuý biểu
hình, mà chỉ dựa vào chúng để luận giải về tính vận động vô hạn của tự nhiên
qua sự tương tác cân bằng.

Sự khác biệt của triết lý về kiến trúc của hai nền văn hoá phương Đông và
phương Tây khác nhau chỉ là về phương thức diễn đạt, nhưng mục đích cuối
cùng vẫn là dựa vào vũ trụ. Đó là sự cân xứng và sự vận động hỗn độn để
chuyển hoá không ngừng nhưng hài hoà của các thành phần kiến trúc được
tượng trưng cụ thể bằng hình học và số học dựa trên nền tảng đối xứng. Như
Einstein từng nói, đối xứng là nguồn gốc quyết định dạng tương tác. Vì vậy, sự
phong phú, đa dạng của kiến trúc dựa vào tính đối xứng của tự nhiên.

Có thể nói rằng, sự hài hoà trong kiến trúc có nguồn gốc từ sự hài hoà vốn có
của tự nhiên. Thông qua hoạt động sáng tạo của con người trong môi trường
sống, kiến trúc được sinh ra và tồn tại. Trải qua khoảng thời gian rất dài, hàng
ngàn năm, con người nhận thức được các yếu tố hình học, bao gồm điểm, đường,
mặt, khối từ các hình dáng trong tự nhiên, như hình dáng của các phiến đá xếp
chồng lên nhau Stonehenge ở Anh quốc, và hơn thế nữa, con người còn nắm bắt
được các nguyên tắc truyền lực cơ bản của các bộ phận từ các mô hình này.
37

Các yếu tố hình học và các nguyên tắc lực hình thành nên hai thành phần chủ
yếu tạo nên không gian kiến trúc, đó là các thành phần thẳng đứng và các thành
phần nằm ngang. Trong chúng có : hệ kết cấu – bộ phận chịu lực và vỏ bao che
– bộ phân ngăn chia giữa không gian kiến trúc với tự nhiên. Không gian kiến
trúc được kiến tạo nên bởi hai thành phần này cũng là sự mô phỏng từ tự nhiên,
hệ khung xương chịu lực và hệ bao che.

Bên cạnh đó, sự khám phá về tương quan kích thước từ sự hài hoà của các thành
phần trong tự nhiên gọi là đẹp – Tỉ lệ vàng, tương thích với sự hài hoà trong các
nền kiến trúc mẫu mực xa xưa. Cũng như ứng dụng con số này kết hợp với kích
thước con người để làm đẹp trong kiến trúc hiện đại, đã một lần nữa khẳng định,
sự hài hoà của kiến trúc có nguồn gốc tự nhiên.

2.2. Các tiêu chí đánh giá sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc
lăng Khải Định

2.2.1. Các tiêu chí về mặt văn hoá – phong tục

Việt Nam là một đất nước có nền văn minh lúa nước từ xa xưa, khoảng 2000
năm trước Công Nguyên. Cuộc sống thường ngày của người Việt luôn luôn gắn
liền với thiên nhiên cây cỏ, với cách hình ảnh như áng mây, bầu trời, đồng
ruộng, con trâu, thuyền bè, biển cả, các vật dụng nông nghiệp quen thuộc hằng
ngày, vv… Một điều hiển nhiên là những hình ảnh kể trên sẽ đọng lại trong kí
ức, từ đó hiển hiện trong tâm trí của họ sẽ là những đường nét suy biến từ những
hình ảnh của thiên nhiên. Điều này đã được gợi nhắc ở các đầu đao, các điêu
khắc trang trí chim muông hoa lá cây cỏ tiêu biểu trong kiến trúc đình, chùa,
cung điện, lăng tẩm…

Bên cạnh đó, trong hoàn cảnh mưu sinh hằng ngày với thế giới tự nhiên chung
quanh, để tồn tại và phát triển, tư tưởng sống của họ phải tuân theo triết lý âm
dương hài hoà, theo thuyết phong thuỷ (sẽ phân tích ở bên dưới). Hơn nữa,
38

trong cuộc sống thường ngày họ luôn đối diện với thiên tai, địch hoạ. Do vậy,
trong tâm tính người Việt, thiên nhiên là người bạn cần phải được tôn trọng. Bởi
thiên nhiên là nơi cung cấp lương thực nuôi sống con người, không những thế
họ còn lợi dụng vào địa thế tự nhiên để chống lại sự tấn công của kẻ thù.

Như vậy, có thể thấy, sở dĩ có sự hài hoà và gắn bó ấy là vì kiến trúc chịu sự chi
phối từ nền văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá Huế nói riêng. Đó là thái
độ ứng xử của con người đối với thiên nhiên, là quan niệm thẩm mỹ được quy
định bởi nền văn hoá bản địa. Con người Việt Nam nói chung và Huế nói riêng
từ ngàn xưa đã luôn luôn tôn trọng và yêu quý thiên nhiên. Thiên nhiên là người
mẹ đã nuôi dưỡng và che chở họ. Quan niệm thẩm mỹ về kiến trúc của người
Việt bao giờ cũng nằm trong sự gắn bó với thiên nhiên. Cái đẹp của công trình
kiến trúc không phải chỉ ở tự thân nó mà còn quan trọng hơn là ở trong sự hài
hoà với thiên nhiên. Quan niệm này dần hình thành trong họ như là một đặc
điểm của nền văn hoá. Điều ấy càng phù hợp hơn với cư dân xứ Huế, những con
người hằng ngày sống trong những khung cảnh thiên nhiên đầy thơ mộng của
miền sông Hương, núi Ngự…

Với quan niệm như vậy, cùng với sự sáng tạo và tài năng của mình, các nghệ
nhân chỉ cần đặt đúng chỗ một công trình kiến trúc, dù nhỏ bé, vào khung cảnh
thiên nhiên được uốn nắn đôi chút đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật có giá trị
vượt ra ngoài khuôn khổ công trình.

Mặt khác, sự hài hoà gắn bó giữa kiến trúc và thiên nhiên còn là hệ quả của tâm
lý khiêm tốn. Người Việt Nam trong đối nhân xử thế biết nể nhưng không biết
sợ, biết giữ lễ nên biết tự hào. Tính cách này đã tạo nên một phong cách kiến
trúc đặc thù. Đó là sự khiêm tốn trong quy mô. Quy mô khiêm tốn của công
trình làm cho nó dễ dàng hoà nhập vào thiên nhiên, với quy mô khiêm tốn, công
trình kiến trúc mới có thể núp bóng dưới tán cây cổ thụ hay soi bóng trên mặt hồ
yên ả. Sự khiêm tốn không làm cho công trình mất đi giá trị, bởi vì giá trị của
39

công trình kiến trúc cổ ở Việt Nam và tại Huế nói riêng không phải ở quy mô
mà do những đặc điểm khác trong xử lý không gian và trang trí. Trong ý nghĩa
về mặt bố cục và cảnh quan, nhìn chung, sự khiêm tốn làm cho kiến trúc trở nên
gần gũi và dễ dàng hoà quyện với thiên nhiên, dễ trở thành một bộ phận không
thể tách rời của cảnh quan. Cũng do quy mô khiêm tốn, hay nói cách khác, do
không phô diễn cái đồ sộ, hoành tráng, người ta phải tìm cách gửi gắm ý đồ
nghệ thuật và tâm tư của mình trong trang trí, trong nghệ thuật phong cảnh,
trong cái đẹp của sự hài hoà, gắn bó giữa kiến trúc và thiên nhiên. Sự khiêm tốn
trong quy mô còn giúp cho công trình gần gũi hơn với con người. Đi vào công
trình, con người không cảm thấy mình trở nên nhỏ bé, bị áp chế nặng nề mà bản
thân con người được xem như một yếu tố quan trọng chi phối đến công trình,
nhằm đạt đến một sự hài hoà bền vững giữ trời, đất và con người.

Với tâm thế con người như vậy, hình học trong kiến trúc cổ người Việt là những
hình học đều hoặc là những hình học cân bằng, không rõ ràng hình dáng (bị phá
vỡ đối xứng trong hình cơ sở), bởi các đường bao của chúng là những đường
gãy khúc vay mượn từ tự nhiên. Khía cạnh hình học không rõ ràng hình dáng
này chúng ta có thể tìm thấy ví dụ trong các kiến trúc thành luỹ trong quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chẳng hạn như thành Cổ Loa với 3 vòng
thành xoắn trôn ốc, được xây dựng dựa vào sông ngòi và đầm lầy xung quanh,
hoàng thành Huế hay thành Sài Gòn được xây zíc zắc theo lối Vaubalt. Còn
hình học đều, với người Việt, hình vuông và hình tròn là hình tượng cụ thể của
việc trừu tượng hoá từ triết lý sống cân bằng với tự nhiên, theo Trần Ngọc Thêm
đó là “có vuông có tròn tức là có âm dương” [29]. Đồng thời đây cũng là hai
dạng hình học hoàn hảo. Chúng ta có thể nhận thấy sự hoàn hảo của chúng qua
các câu ca dao dân gian của người Việt như “Lạy trời cho đặng vuông tròn, trăm
năm cho đặng lòng son với chàng.”, cầu cho “Mẹ tròn con vuông” hay trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du “ trăm năm tính cuộc vuông tròn, phải dò cho đến
ngọn nguồn lạch sông.” Hoặc cách lý giải trong truyền thuyết về Sự tích bánh
40

chưng bánh giày ở quan niệm vuông tròn “Trời như cái bát úp, đất như cái mâm
vuông”. Không những thế, hai dạng hình học đều này cùng với các dẫn xuất của
chúng lại hiện diện rõ trong việc tạo lập không gian đối xứng qua trục của các
thể loại kiến trúc như Đình, Đền (hình vuông làm đơn vị cơ sở), Chùa (thể hiện
ở bố cục chữ Công, chữ Tam, hay Nội công ngoại quốc), Tháp, thành quách (sử
dụng hình học đều: hình vuông, bát giác, hình Vaubalt), Cung điện, Lăng tẩm
(tổ hợp hình học đối xứng theo trục Bắc – Nam)…

Nói tóm lại, từ xa xưa, người Việt bằng trực giác hài hoà vốn có đã nghĩ đến sự
hài hoà với tự nhiên trong nghệ thuật Kiến trúc. Nguyên lý đối xứng và hình học
hài hoà đã hiện diện trong kiến trúc cổ Việt Nam qua nhiều thời kì. Vậy nên,
chúng ta có thể khẳng định rằng, tri thức về nguyên lý đối xứng và sử dụng hình
học đều đã được người Việt nắm rõ trong lẽ sống hài hoà với tự nhiên.

2.2.2. Các tiêu chí về mặt triết lý hài hoà

2.2.2.1. Các tiêu chí hài hoà trong kiến trúc đối với những biểu hiện bên
ngoài

Theo GS.TS.KTS. Nguyễn Đức Thiềm thì “Nhận thức vẻ đẹp kiến trúc không
đơn giản, không ai giống ai, nhưng không phải không thể định lượng, không thể
đánh giá. Cũng như các bộ môn nghệ thuật khác, sức truyền cảm của hình
tượng kiến trúc cũng có những quy luật, những quy chuẩn của nó, chỉ ai biết lợi
dụng, khai thác mới làm cho cái đẹp lên tiếng.” [30] Đó chính là những quy luật
về nhịp điệu, tương phản, vi biến, các quan hệ tỷ lệ, tỷ xích, sự phối hợp hài hoà
các đường nét, các mảng màu và chất liệu, sự hỗ trợ của các phương tiện tạo
hình khác…mà khoa học đã khám phá ra trong quá trình nghiên cứu về sự hài
hoà

-Vần luật hay nhịp điệu trong kiến trúc


41

Khi nghe đọc một bài thơ, hoặc thưởng thức một bản nhạc, những ấn tượng hài
hoà du dương, sự dễ chịu có được từ các câu chữ theo âm hưởng vần luật, từ các
giai điệu có tiết tấu và nhịp điệu. Ấn tượng nghệ thuật của kiến trúc khi ngắm
nhìn một công trình cũng thường bắt đầu từ sự cảm nhận vần luật trong tổ chức
phối trí các bộ phận trên tổng thể.

Tiết điệu là sự lặp lại đơn giản các bộ phận hình thức giống nhau có khả năng
gây ấn tượng một quy luật, một ý đồ về trật tự. Chẳng hạn như các cột trong một
hàng cột, hàng cuốn, chuỗi cửa sổ, dãy bao lơn,…Còn nhịp điệu thì ở đó có sự
lặp lại phức tạp hơn, bộ phận được lặp có hình thức, kích thước có thể không
giống nhau, sự lặp lại cũng có thể không đều đặn nhưng vẫn gây được ấn tượng
về quy luật, sự trật tự diễn tiến mang ý đồ rõ rệt có tính thống nhất cần thiết. Có
thể gặp các dạng nhịp điệu sau: nhịp điệu dạng sóng hình sin, nhịp điệu tiệm
biến với cao trào, thoái trào, nhịp điệu biến hoá theo tuyến, nhịp điệu giao thoa
theo diện, theo khối, nhịp điệu tương giao.

Việc tổ chức các nhịp điệu có thể theo kiểu đối xứng hay không đối xứng. Trong
kiến trúc trục đối xứng có thể là điểm, đường hay diện. Nhịp điệu không chỉ có
tác dụng gây cảm giác điều hoà mà còn giúp tạo ra sự nhấn mạnh cho bộ phận
chủ thể hay nhân tổ hợp của kiến trúc, tạo điểm nhấn trong bố cục.

-Vi biến và tương phản

Quan hệ vi biến đôi lúc còn được gọi là biến hoá, sắc độ là làm cho hai bộ phận
đặt gần nhau hoà nhập với nhau hơn như chỉ có sự khác biệt nhỏ, nghĩa là cố tạo
ra tính gần gũi thống nhất về hình thức, kích thước, cách xử lý bề mặt, màu
sắc…Ví dụ, sắc độ giữa hai mảng tường nâu và đen, giữa mảng kẻ rãnh ô lớn và
ô nhỏ, giữa mặt tường xây đá và gạch trần…

Quan hệ tương phản là tạo sự cách biệt rõ, sự đối chọi mạnh, thậm chí trái
ngược, với sự chuyển tiếp thật bất ngờ giữa hai bộ phận, hai hình thức kiến trúc
42

đặt gần nhau, nhằm gây ấn tượng hấp dẫn, sức hút, phá vỡ sự nhàm chán, đơn
điệu. Tương phản trong kiến trúc có những dạng sau : tương phản về hình thái
khối hình, tương phản về chiều hướng khối, tương phản về đặc rỗng, thực hư, về
chất cảm, tương phản về màu sắc, tương sảng về ánh sáng – bóng tối.

Sự phối hợp vi biến và tương phản trong tổ hợp hình khối hay xử lý mặt đứng
kiến trúc làm cho kiến trúc phong phú, hấp dẫn, giàu sức truyền cảm, vừa đa
dạng vừa thống nhất, có chính phụ rõ ràng.

-Tỷ lệ và tỷ xích

Tỷ lệ trong có nghĩa là sự tương xứng giữa các kích thước. Tỷ lệ trong kiến trúc
khoongc hỉ là các biện pháp nhằm đạt đến sự tương xứng hài hoà về mặt kích
thước của từng bộ phận mà cả của toàn bộ, tức làm cho tổng thể các bộ phận
trong kiến trúc nói chung có sự đối sánh liên quan chặt chẽ mang sức truyền
cảm thẩm mỹ tốt, sự bắt mắt hay sự thuận mắt dễ coi nhờ có một hệ thống tương
quan nào đó. Nó được xem là biện pháp quan trọng để tạo ra cái đẹp trong tạo
hình nghệ thuật nói chung.

Còn tỷ xích là muốn nói đến mối tương quan so sánh của kích thước cụ thể của
các bộ phận hay tổng thể kiến trúc với tầm vóc con người để qua hệ thống so
sánh này mà cảm nhận được độ lớn, tầm cỡ của công trình kiến trúc, chất hoành
tráng đồ sộ hay tính gần gũi thân thiết, sự xinh xắn và ấm cũng hay choáng ngợp
xa lạ của không gian và hình khối.

-Sự hài hoà – thống nhất giữa bộ phận và tổng thể

Hiệu quả thẩm mỹ kiến trúc không chỉ đạt được khi chọn hợp lý kích thước các
bộ phận để có quan hệ tỷ lệ xích đúng mà phải tạo cho các mảng, các bộ phận
kiến trúc thống nhất hài hoà với nhau với kích thước chung của tổng thể ngôi
nhà. Kết quả này có được thường thông qua các giải pháp sau:
43

-Sử dụng chùm tia điều hoà và quan hệ hô ứng.

-Sử dụng quan hệ đường song song, đường vuông góc tạo các hình thức gần gũi,
tương tự của quan hệ đồng dạng, quan hệ liên tưởng, gắn bó chặt chẽ, khó xê
dịch tuỳ tiện.

-Tìm mối quan hệ hài hoà các mảng và đường nét trong quan hệ nội tiếp hợp lý
trong các hình đẹp chuẩn ( vuông, tròn, tam giác đều, đa giác đều, sao năm
cánh…).

-Tìm kiếm sự hỗ trợ của các bộ môn nghệ thuật khác

Có thể vận dụng sự hỗ trợ từ các bộ môn nghệ thuật khác như trang trí điêu khắc,
hội hoạ, trang trí tiểu cảnh cây xanh, hồ nước, vòi phun, vận dụng hiệu quả các
màu sắc, chất liệu, ánh sáng nhân tạo, hỗ trợ của âm nhạc…để làm tăng thêm
sức truyền cảnh và sự hài hoà cho công trình kiến trúc.

-Sự cân bằng thị giác

Có 3 giải pháp tổ chức cân bằng:

-Cân bằng đối xứng qua trục, diện : cân bằng đối xứng cho ta cảm giác hài hoà,
tĩnh định, bình ổn, trang nghiêm, hoành tráng dễ tạo điểm nhấn và cũng dễ kết
thúc. Cân bằng đối xứng cũng dễ thiết lập điểm nhìn. Đối xứng gồm có đối
xứng hình dáng, đối xứng khối tích, đối xứng vị trí

-Cân bằng xuyên qua tâm (qua điểm, trục đứng).

-Cân bằng không đối xứng : là tìm sự cân bằng khi tổ hợp các đối tượng tương
nghịch về dáng khối, kích thước, màu sắc, sắc độ, chất liệu, sáng tối, xa
gần…Kiểu cân bằng này như có tính huyền bí, cán cân nặng nhẹ hoàn toàn đo
bằng cảm xúc thị giác.

-Chất cảm
44

Chất cảm là đặc thù chất liệu mà thị giác cảm nhận được của một cấu trúc ba
chiều thể hiện trên bề mặt vật liệu. Chất liệu bề mặt của vật liệu tạo cảm nhận về
sự trơn láng, bóng, nhám, gồ ghề…diễn tả bản chất tự nhiên của vật liệu. Chất
liệu bề mặt còn cho biết chất lượng của vật liệu và thậm chí tuổi thọ tồn tại của
chính nó. Ánh sáng, màu, khoảng cách nhìn, góc nhìn…luôn ảnh hưởng trực
tiếp tới nhận thức cảm xúc thị giác, thông qua chủ yếu chất lượng bề mặt của vật
liệu. Các đơn vị hình thức cơ bản của kiến trúc được hình thành bởi sự tổ chức
lặp đi lặp lại và triển khai các loại vật liệu trên bề mặt kiến trúc, có thể cấu thành
các loại hoa văn chất cảm có các loại cá tính rõ nét.

2.2.2.2. Các tiêu chí hài hoà trong kiến trúc đối với những triết lý ẩn tàng
bên trong

Khác với kiến trúc phương Tây, kiến trúc phương Đông được hình thành dựa
vào tính ước lệ nhiều hơn (thiên về tính biểu cảm hơn biểu hình), cho nên cấu
trúc tự nhiên hiện diện trong nghệ thuật kiến trúc ở khía cạnh triết lý với ý nghĩa
rộng hơn là ở nghĩa thực cụ thể. Các triết lý chi phối sâu sắc các nguyên tắc thiết
kế kiến trúc ở phương Đông, nhằm tạo nên sự hài hoà với tự nhiên có thể kể đến
đó là triết lý âm – dương, tam tài, ngũ hành, thuyết phong thuỷ.

-Triết lý âm – dương

Quan niệm âm dương trong triết học cổ phương Đông hình thành từ rất xưa và
có nguồn gốc từ phương Nam. Triết lý âm – dương xuất hiện trong nền văn hoá
Nam Á – Bách Việt với địa bàn cư trú từ Nam sông Dương Tử cho đến đất Việt
Nam ngày nay. Do vậy, theo TS. Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hoá
Việt Nam”, triết lý âm – dương đã trở thành cơ sở cho việc hình thành tính cách
người Việt sau này.

Triết lý âm – dương thể hiện ở trong các cặp phạm trù đối lập, bắt nguồn từ hai
cặp đối lập gốc là Mẹ - Cha và Đất – Trời rồi từ đó có vô số các cặp đối lập phổ
45

biến khác. Theo triết lý này, mọi sự vật đều từ hai dạng vật chất âm – dương cấu
thành và tuân theo hai quy luật cơ bản : “Không có gì hoàn toàn âm cũng như
hoàn toàn dương, trong âm có dương, trong dương có âm.” Và “Âm – dương
luôn gắn bó mật thiết, vận động và chuyển hoá cho nhau : âm cực thịnh sinh
dương, dương cực thịnh sinh âm.” [31]

Do sự chi phối của triết lý âm – dương, thái độ ứng xử của người Việt trong đời
sống là yêu thích sự hài hoà và quân bình âm dương. Điều này thể hiện rõ trong
các công trình kiến trúc của người Việt. Chẳng hạn như trong bố cục tổng thể
của công trình, nếu có thành phần hình tròn tượng trưng cho trời là yếu tố dương
thì sẽ có thành phần hình vuông tượng trưng cho đất là yếu tố âm đối lại. Hoặc
cụ thể hơn, trong đình làng, mái đình lớn chắc khoẻ tượng trưng cho tính dương
thì ngược lại yếu tố đao đình cong cong mềm mại sẽ khắc chế bớt sự to lớn nặng
nề của bộ mái đó. Có thể nói yếu tố hài hoà âm – dương là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá sự hài hoà của công trình.

-Tam tài và ngũ hành

Đó là khái niệm bộ ba Thiên – Địa – Nhân (trời – đất – con người). Tam tài xuất
phát từ triết lý âm – dương. Người xưa đã sớm nhận ra rằng các cặp âm – dương,
trời – đất, trời – người, đất – người thực ra lại có mối liên hệ rất chặt chẽ với
nhau tạo nên một thể thống nhất. Con người và trời đất gắn bó, hoà quyện với
nhau. Đó là sự nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. Bản thân con
người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ mênh mông.

Ngũ hành được phát triển trên cơ sở tam tài và Hà đồ - Lạc thư. Ngũ hành gồm
5 yếu tố tạo nên vạn vật đó là : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Giữa các hành này
có mối quan hệ tương sinh, tương khắc với nhau và nó được vận dụng để giải
thích các hiện tượng thiên nhiên và xã hội. Các tính chất, đặc trưng của vạn vật,
các hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người đều có liên quan đến ngũ hành.
46

Trong thiết kế xây dựng kiến trúc cổ của Việt Nam, các yếu tố này cũng ảnh
hưởng khá sâu sắc. Chẳng hạn như nhà ở dân gian của người Việt là nhà ba gian
với ba bậc tam cấp, đình chùa với cổng tam quan, yếu tố 5 tầng bậc sân trong
lăng tẩm vua Nguyễn…Dường như trong mỗi bộ phận của công trình đều ẩn
tàng những con số mà đằng sau con số đó là cả một triết lý về sự hài hoà.

-Thuật phong thuỷ

Định nghĩa về Phong Thuỷ, giáo sư Phan Cốc Tây Trường Ðại học Ðông Nam
Trung Quốc trong quyển "Nguồn gốc Phong Thuỷ" viết: "Nội dung chính của
Phong Thuỷ là một loại học vấn mà người ta dùng để xử lý và chọn lựa hoàn
cảnh ăn ở, cung thất, chùa chiền, lăng mộ, thôn xóm, thành thử; lăng mộ thì gọi
là âm trạch. Phong Thuỷ và hoàn cảnh ăn ở, ảnh hưởng chủ yếu trên ba mặt:
Một, sự lựa chọn địa điểm, tức tìm một địa hình thỏa mãn cả hai mặt tâm lý và
sinh lý; Hai, xử lý về mặt hình thái trong cách bố trí, bao gồm lợi dụng và cải
tạo hoàn cảnh thiên nhiên, hướng nhà, vị trí, cao thấp to nhỏ, cửa ra vào,
đường đi, nguồn cấp nước, thoát nước..v.v.., Ba, trên cơ sở nói trên, thêm vào
một dấu hiệu, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý tránh cái dữ, lấy cái lành cho con
người".[32]

Thuật phong thuỷ cho rằng, cũng như trong cơ thể con người, trong đất cũng có
đường khí mạch mang khí lực của đất đi khắp nơi. Trên đường mạch có điểm
huyệt, nơi tụ khí của đất làm nơi “đất kết”. Nơi đất kết chia ra kết âm phần để
chôn người chết và kết dương cơ để xây dựng nhà, đình, chùa, đô thị…để người
sống được thịnh vượng do tụ khí của vùng đất kết đó.

Thuật phong thuỷ cũng quan tâm đến gió và nước, vì đó là những yếu tố có tác
động lớn đến công trình. Gió được tạo ra bởi khí lực của đất. Nước được sinh ra
từ mạch đất chạy theo thế đất. Tình hình lưu chuyển nước trên mặt đất và dưới
mặt đất đều quan trọng như nhau.
47

Trong phong thuỷ, một vị trí địa lý thường có những nhân tố được quan tâm và
đặt dưới những tên gọi:

-Tay Long, tay Hổ, dưới dạng đồi núi hay có khi chỉ là bờ ruộng

-Án là cái che phía trước, có khi là một quả núi

-Chẩm là chỗ dựa phía sau, có khi là lưng đồi

-Minh đường là chỗ trũng, có nước ở phía trước

-Não đường là chỗ trũng , có nước ở phía sau

Thuật phong thuỷ du nhập vào Việt Nam khá lâu đời. Chính vì vậy, nó được sử
dụng rất phổ biến và tham gia vào hầu hết các hoạt động xây dựng như là một
khâu quan trọng mang tính truyền thống. Nó càng đặc biệt quan trọng đối với
các công trình của vua chúa Nguyễn.

2.2.3. Các tiêu chí về mặt biểu tượng kiến trúc

Khi phân tích về mặt biểu tượng, TS. Nguyễn Thế Cường trong bài “Kiến trúc
và các thuộc tính văn hoá” đã viết : “Một dạng đặc biệt của kí hiệu là biểu
tượng. Các nhu cầu nội tâm và khát vọng, những xúc cảm, nỗi niềm, những
quan niệm về nhân sinh và thế giới, về chân, thiện, mĩ, những hiểu biết, suy tư,
tưởng tượng, những ước định, quy chuẩn, quan hệ, những ứng xử…của con
người được diễn đạt bằng những ý niệm trong đầu óc, và con người biểu hiện ý
niệm ra bên ngoài thông qua biểu tượng. Biểu tượng do con người sáng tạo ra,
gồm cái mang nghĩa (cái biểu đạt) và cái có nghĩa (cái được biểu đạt), trong đó
con người mượn những cái có trong thế giới thực tại (sự vật, hiện tượng, không
gian, thời gian, từ ngữ, con số, màu sắc, âm thanh, mùi vị…) hoặc hình tượng
của chúng làm cái biểu đạt, tức làm hình thức tồn tại, cho cái cần được biểu đạt
là những ý niệm trong đầu óc con người. Từ đó, mỗi biểu tượng gợi ra một ý
niệm nhất định.” [33]
48

Như vậy, con người sáng tạo ra thế giới biểu tượng là để làm cầu nối giữa thế
giới thực tại bên ngoài và thế giới ý niệm trong đầu óc. Vì vậy, nó có khả năng
tác động lên tinh thần của con người, gây ra xúc cảm cho người chiêm ngưỡng.
Trong cuộc sống của chúng ta, dù ít hay nhiều luôn gắn liền với các biểu tượng.
Nó có thể là quốc kỳ, cột mốc biên giới, hoa sen, thập tự giá...Các nhà nhân học
nghiên cứu về biểu tượng cho rằng biểu tượng cần được tìm hiểu và giải mã ý
nghĩa của nó. Theo quan điểm của ngành nhân học diễn giải (Interpretive
Anthropology), một biểu tượng phải được lý giải và thông hiểu để tìm ra ý nghĩa
của nó trong một khung cảnh xã hội nhất định. Chúng ta chỉ có thể hiểu một
biểu tượng khi đặt nó trong bối cảnh xã hội nó được sinh ra và trong mối liên hệ
thế giới quan của tộc người sáng tạo ra nó. Và nó được hiểu rõ nhất thông qua
diễn giải của người trong cuộc gán cho nó. Trong những nền văn hóa khác nhau
thì biểu tượng có ý nghĩa khác nhau. Chính vì vậy, trong các công trình kiến
trúc, việc sử dụng hệ thống biểu tượng phải được cân nhắc kĩ lưỡng. Hệ thống
biểu tượng đó phải là hệ thống biểu tượng quen thuộc trong tâm tưởng của cộng
đồng địa phương. Nếu có yếu tố ngoại lai xuất hiện thì rõ ràng trong tâm thức
của người sử dụng sẽ có những phản kháng bài trừ nhất định. Điều đó có nghĩa
là, sự hài hoà của công trình, trên một phương diện nào đó, đã bị ảnh hưởng.

Dưới triều đại nhà Nguyễn, các tư tưởng triết học như Nho giáo, Lão giáo, Phật
giáo, triết lý âm dương ngũ hành không xung đột đối kháng lẫn nhau mà tồn tại
song hành với những mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có thể nói, sự hỗn dung
giữa ba tôn giáo chính Nho – Phật – Đạo trong đời sống xã hội Việt Nam dưới
thời Nguyễn là một vấn đề đã được chứng minh và thừa nhận rộng rãi với những
thuật ngữ như “tam giáo đồng hành”, “tam giáo đồng quy” hay “tam giáo đồng
nguyên”. Chính vì vậy, hệ thống biểu tượng rất phong phú của các hệ tư tưởng
nói trên đều được thừa nhận và có thể cùng tồn tại hài hoà trong một không gian
kiến trúc mà không hề có sự xung đột hay bài trừ.
49

CHƯƠNG III – PHÂN TÍCH SỰ HÀI HOÀ VĂN HOÁ ĐÔNG - TÂY
TRONG KIẾN TRÚC LĂNG KHẢI ĐỊNH

3.1. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong kiến trúc lăng Khải Định

3.1.1. Sự hài hoà văn hoá Đông - Tây trong mặt bằng tổng thể lăng Khải
Định

Xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn là xã hội phong kiến thời mạt kì. Nền tảng
tư tưởng được đặt trên cơ sở ý thực hệ Nho giáo với những thiết chế “tam cương,
ngũ thường”. Vào đầu thời Nguyễn, vua Gia Long đã xây dựng bộ Hoàng Việt
luật lệ dựa trên luật Mãn Thanh và bộ luật Hồng Đức thời Lê, đề cao đạo Nho,
hạn chế đạo Lão, đạo Phật. Tuy nhiên trong thực tế, Nho giáo thời Nguyễn đã
không còn giữ đúng nguyên trạng của Nho giáo nguyên thủy. Dưới thời các
chúa Nguyễn, Phật giáo đã được các chúa Nguyễn sử dụng như một chất keo để
đoàn kết nhân dân, xây dựng đất nước xứ Đàng Trong, vì thế đạo Phật rất được
coi trọng. Bản thân các vua Nguyễn sau này từ Gia Long cho đến Thành Thái
đều nhiều lần bỏ tiền của để tu sửa và mở mang chùa chiền. Khi xã hội rơi vào
rối ren, nhiều quan lại, quý tộc như Nguyễn Công Trứ, Tùng Thiện Vương,
Nguyễn Khuyến…đã lui về ở ẩn, sống cuộc sống như của một đạo sĩ, ẩn dật và
yếm thế. Vì vậy, những tư tưởng Phật, Lão đó cũng xâm nhập vào tư tưởng của
chốn cung đình, tạo ra một hệ ý thức thường được gọi là “tam giáo đồng
nguyên”. Bên cạnh đó, các thuyết về phong thủy, âm dương ngũ hành, tam tài
cũng ảnh hưởng sâu đến nhiều mặt của đời sống cung đình lẫn dân gian, đặc biệt
trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng. Lăng tẩm nào của triều Nguyễn cũng đều chú
trọng đến các nguyên tắc của thuật phong thủy, liên quan đến các yếu tố địa lý
tự nhiên như ao, hồ, sông, núi…Vị thế khu đất được lựa chọn xây lăng phải có
hướng lành, sơn triều thủy tụ, có tiền án hậu chẩm vững vàng, có tả thanh long,
hữu bạch hổ, huyền thủy, minh đường…Tất cả những điều này đều thể hiện rất
rõ trong lăng Khải Định.
50

Trước hết, chúng ta sẽ phân tích địa thế nơi lăng Khải Định toạ lạc. Vị trí xây
dựng lăng Khải Định được lựa chọn hết sức kĩ lưỡng theo những nguyên tắc
phong thủy nghiêm ngặt như những khu lăng được xây dựng trước đó. Sau khi
tham khảo nhiều tấu trình của các thầy Địa, Khải Định chọn triền núi Châu Chữ
(còn gọi là Châu Ê) làm vị trí để xây cất lăng mộ. Tọa lạc tại vị trí này, lăng
Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và
Kim Sơn chầu trước mặt làm “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”; có khe Châu Ê
chảy từ trái qua phải theo thế “huyền thủy chi lưu” làm “minh đường”. Nhà vua
đổi tên núi Châu Chữ - vừa là hậu chẩm, vừa là nơi tọa lạc của lăng - thành Ứng
Sơn và gọi tên lăng theo tên núi: Ứng Lăng (hình 3.1). Tất cả những yếu tố này
tạo cho lăng Khải Định một ngoại cảnh hùng vĩ và tráng lệ. Có thể nói, khi vào
lăng Khải Định, chúng ta không chỉ chú mục đến những thực thể kiến trúc trong
phạm vi công trình mà còn ấn tượng với phong cảnh thiên nhiên bao quanh nó,
vẻ đẹp hùng vĩ của cả tổng thể rộng lớn chung quanh mà nó chi phối. Hầu hết
các núi đồi, khe suối, sông hồ, cây cỏ đều được sử dụng để làm bối cảnh cho
khu lăng. Lăng Khải Định như nằm lẫn vào thiên nhiên một cách hài hoà, thiên
nhiên và công trình gắn kết với nhau trong một bố cục thẩm mĩ chặt chẽ không
thể tách rời. Nói về vấn đề này, trong quyển “Mỹ thuật Viễn Đông”, Jeannine
Auboyer nhận xét rằng “Người Việt Nam đã biết lựa chọn những khung cảnh
thiên nhiên xinh đẹp nhất để xây dựng những công trình kiến trúc thờ phụng của
mình. Điều này được chứng thực rõ ràng nhất qua nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm
Huế. Nơi đây, công trình kiến trúc nào cũng nằm trên một ngọn đồi cỏ non dưới
rừng thông yên ả, ẩn mình sau những cây đại thọ cành lá sum suê hay soi mình
xuống một mặt hồ trong xanh phẳng lặng. Và toàn cảnh được bao phủ một màu
xanh tươi mát chan hoà”. Hay năm 1918, Phạm Quỳnh đã nhận xét trên tạp chí
Nam Phong : “Lăng đây là gồm cả màu giời, sắc nước, núi cao, rừng rậm, gió
thổi ngọn cây, suối reo hang đá…Lăng đây là bức cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp
ghép thêm một bức cảnh nhân tạo tuyệt khéo. Lăng đây là cái nhân công tô
51

điểm cho sơn thuỷ…Không biết lấy nhời gì mà tả được cái cảm lạ, cái êm đềm
vô cùng…Không đâu cái công dựng đặt của người ta với cái vẻ thiên nhiên của
giời đất khéo điều hoà nhau bằng ở đây, cung điện đình tạ cùng một màu, một
sắc như núi non, cây cỏ…” [34]. Có thể nói rằng, người xưa đã thấu cảm được
vẻ đẹp của thiên nhiên để từ đó, khi xây dựng công trình kiến trúc, công trình
không hề lấn át thiên nhiên mà luôn hài hoà với thiên nhiên.

Về bố cục, lăng tẩm các vua Nguyễn có thể chia thành 3 loại: 1- Bố cục theo
chiều dọc theo một tổng thể xuyên suốt; 2-Bố cục thành 2 phần Lăng và Tẩm
song song với nhau; 3-Bố cục thành 3 phần Lăng –Tẩm- Nhà bia song song với

nhau. Loại đầu theo kiểu chữ Nhất (一), loại thứ hai kiểu chữ Nhị (二), loại thứ

3 vừa giống chữ Tam (三) vừa giống chữ Nhất (theo chiều ngang). Những cách

sắp xếp bố cục trên có lẽ đều xuất phát từ sự cải biến bố cục của khu lăng đầu
tiên –lăng Thiên Thọ, nhưng thực sự đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của kiến
trúc lăng tẩm Nguyễn, nhất là khi mỗi khu lăng đều biết gắn liền với điều kiện
tự nhiên để tạo dựng các công trình cho phù hợp. Ngoài ra, một nguyên tắc
trong bố cục tổng thể mà phần lớn các lăng tẩm triều Nguyễn đều tuân theo, ảnh
hưởng từ tư tưởng Nho giáo đã đề cập ở trên, đó là bố cục đăng đối, chặt chẽ và
trật tự. Trong quan niệm của Nho giáo, cái đẹp trước hết phải là cái đẹp của sự
ngay thẳng (trung chính). Trong lăng tẩm của triều Nguyễn, cho dù bố cục mỗi
lăng mỗi khác, thủ pháp tạo cảnh quan mỗi khác, thì sự uy nghi, đăng đối, chặt
chẽ, trật tự trong bố cục phải được đảm bảo. Điều này thể hiện rõ trong sự đăng
đối của toàn bộ khu lăng, trong từng khu vực, từng bộ phận công trình, trong các
lớp lang thứ tự của các bộ phận công trình.

Xem xét bố cục tổng thể lăng Khải Định, tuy có nhiều sự pha trộn trong hình
thức kiến trúc, nhưng bố cục đăng đối của Nho giáo vẫn được tôn trọng. Lăng
được tổ hợp đối xứng theo một trục đường trong một tổng thể xuyên suốt kiểu
chữ Nhất. Trục đường này gọi là trục Thần đạo. Lăng gồm 5 bậc sân với cao độ
52

khác nhau đi dần lên cao nhằm tác dụng nhấn mạnh quyền lực. Đồng thời con số
5 cũng tượng trưng cho ngũ hành và hào cửu ngũ trong Kinh Dịch ứng với mạng
thiên tử. Mặt bằng lăng hình chữ nhật với quy mô rất nhỏ so với các lăng khác
(117m x 48,5m). Từ ngoài vào trong là hệ thống bậc cấp dài dẫn đến bậc sân
đầu tiên, trên đó có Tả Hữu Tùng tự. Một hệ thống bậc cấp nữa dẫn lên Bái đình
với Bi đình ở giữa và bốn hàng tượng quan văn võ, lính hầu, voi ngựa hai bên.
Tiếp theo là ba bậc sân tế. Cuối cùng, ở vị trí cao nhất là cung Thiên Định. Tính
đối xứng chặt chẽ này của lăng Khải Định giúp cho khu lăng có một sự hài hoà
trong bố cục tổng thể. (hình 3.2 )

Một điều rất thú vị khi nghiên cứu mặt bằng tổng thể của lăng Khải Định đó là
các tầng bậc sân của lăng Khải Định có kích thước là sự sắp xếp của nhiều hình
chữ nhật tỷ lệ vàng. Điều này giúp cho tổng thể khu lăng có sự hài hoà giữa
từng bộ phận tầng bậc với tổng thể chung. Vào thời điểm đó, những người xây
dựng khu lăng có thể chưa có khái niệm về tỷ lệ vàng trong toán học, nhưng họ
đã biết cách bố trí để tạo nên sự hài hoà cần thiết. (hình 3.3)

Có thể thấy, trong bố cục mặt bằng của lăng Khải Định hàm chứa những tư
tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, ở đây ta vẫn bắt gặp đặc điểm của cách tổ chức
không gian cảnh quan theo kiểu phương Tây. So với các khu lăng khác, các
công trình bên trong thường nằm hoà lẫn vào cây xanh, mặt nước của nghệ thuật
sân vườn. Để thấy rõ hơn điều này, ta hãy đặt bố cục lăng Khải Định và lăng
Minh Mạng trong mối tương quan so sánh. Lăng Minh Mạng cũng được tổ hợp
đối xứng theo kểu chữ Nhất và cũng bao gồm 5 tầng bậc sân. Các thành phần
kiến trúc lần lượt trải ra theo trục dọc của hệ công trình là : Đại hồng môn, sân
chầu, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân, sau đó đến một loạt cầu đá và Bửu
Thành – nơi đặt mộ phần nhà vua. Tuy nhiên lăng có diện tích rộng hơn với
18ha và có yếu tố mặt nước bao quanh tạo cảnh quan cùng một số công trình
tiêu khiển được bố trí tự do. Chính hồ nước với đường bao tự do, cây xanh và
các công trình nhỏ đi kèm này đã làm cho tính đối xứng bớt cứng nhắc, khu lăng
53

trở nên mềm mại hơn (hình 3.4 – 3.5). Riêng lăng Khải Định, chúng ta không
thấy yếu tố cảnh quan sân vườn được tổ chức theo kiểu truyền thống. Lăng là
một trục cảnh quan đối xứng với các tầng bậc sân cao dần lên, nhấn mạnh sự uy
nghi của cung Thiên Định – công trình chính của lăng ở cuối trục đối xứng. Hai
bên là các ô hộc hình kỉ hà trồng cây cảnh loại nhỏ theo hàng. Đặc điểm này
khiến chúng ta nhớ đến cách tổ chức trục cảnh quan của các công trình tưởng
niệm hay cung điện của phương Tây. Chẳng hạn như cung điện Versailles với
trục cảnh quan đối xứng, sân vườn được bố trí theo hình kỷ hà và cuối cùng, cao
nhất và nổi bật nhất trong trục cảnh quan chính là toà cung điện (hình 3.6).

Như vậy, chung quy lại, về mặt bố cục tổng thể và cảnh quan, lăng Khải Định
có những đặc điểm sau đây:

-Lăng toạ lạc trên địa thế được lựa chọn một cách nghiêm ngặt theo nguyên tắc
phong thuỷ. Chính vì vậy, lăng có một tầm nhìn cảnh quan hùng vĩ. Bản thân
công trình hài hoà với khung cảnh thiên nhiên chung quanh nó.

-Bố cục tổng thể đối xứng, cao dần lên theo trục dọc tạo cảm giác công trình sâu
hơn, quy mô hơn (mặc dù diện tích không lớn) và phù hợp với địa hình được
chọn. Cách nhấn mạnh cung Thiên Định – công trình quan trọng nhất trong tổng
thể ở cuối trục cảnh quan, là công trình cao nhất và được chăm chút kĩ lưỡng
nhất là đặc điểm mà có thể các nhà xây dựng thời kì đó học tập và bị chi phối
bởi cách tổ chức cảnh quan của phương Tây.

-Bố cục tổng thể và cảnh quan mang chủ đề tư tưởng rõ rệt. Các thành phần của
công trình đều hàm chứa những tư tưởng triết lý đằng sau nó.

-Các thành phần công trình kiến trúc bên trong hầu hết đều là các dạng hình học
đều đặn như vuông, tròn, bát giác.
54

3.1.2. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong các công trình của lăng Khải
Định

Lăng Khải Định có diện tích tổng mặt bằng tương đối khiêm tốn nên số lượng
các hạng mục công trình bên trong không nhiều, nếu không nói là ít hơn nhiều
so với các lăng khác. Các công trình có trong tổng thể lăng có thể kể đến ở đây
là Thiên Định cung, bi đình, trụ biểu và Tả Hữu Tòng Tự, trong đó Thiên Định
cung là công trình quan trọng nhất, nơi đặt điện thờ của nhà vua.

-Cung Thiên Định

Trước khi phân tích không gian của cung Thiên Định, người viết xin được phân
tích sơ lược về đặc điểm chung của không gian điện thờ trong lăng tẩm triều
Nguyễn để người đọc có thể có một cái nhìn tương quan so sánh. Điện thờ là
thành phần kiến trúc quan trọng và cơ bản nhất trong khu vực tẩm, là trung tâm
của khu vực tẩm cũng như tổng thể bố cục lăng. Trong lăng tẩm triều Nguyễn
các điện thờ thường được xây dựng theo lối “trùng thiềm điệp ốc” (mái chồng
mái, nhà nối liền nhà), các ngôi điện thường có 8 mái. Đây là một đặc trưng của
kiến trúc cung đình Huế. Điện thờ là một ngôi nhà kép ghép hai ngôi nhà rường
lại với nhau trên một mặt bằng rộng và tạo thành một không gian đồng nhất.
Nhà trước (tiền điện) và nhà sau (chính điện) nối với nhau bằng một hệ thống vì
kèo thứ ba, đỡ một hệ thống trần được uốn cong gọi là trần vỏ cua.Bên trên trần
này không có mái nhà mà chỉ có một máng xối lớn để dẫn nước mưa. Mặt bằng
các ngôi điện thường là năm gian hai chái. Không gian bên trong được xử lý rất
khéo léo. Phần tiền điện không đóng trần, vừa tạo một không gian thoáng đãng
lúc cúng tế, vừa để lộ ra hệ kết cấu chạm khắc công phu. Phần chính điện được
đóng trần, không gian được giới hạn lại tạo nên một không khí thâm nghiêm phù
hợp với nơi đặt bệ thờ và bài vị của nhà vua. Chuyển tiếp giữa hai không gian
này chính là trần vỏ cua hình cung làm không gian thêm sinh động. Có thể lấy
Sùng Ân điện của lăng Minh Mạng để làm ví dụ minh hoạ. Sùng Ân điện cũng
55

làm theo kiểu nhà kép “trùng thiềm điệp ốc” như đã phân tích, với mặt nền
23.45m x 22.05m), bên trong thờ vua Minh Mạng và Hoàng Hậu. Sàn của
không gian chính điện được nâng lên 30cm bằng ván gỗ sơn bóng và trần cũng
được đóng thấp xuống nhằm tạo không khí trang nghiêm hơn.

Nếu so sánh với các không gian điện thờ khác trong lăng tẩm triều Nguyễn,
chẳng hạn như Sùng Ân điện của lăng Minh Mạng, thì Thiên Định cung có
nhiều đặc điểm mới mẻ, hiện đại theo kiểu phương Tây. Thiên Định cung nằm ở
vị trí cao nhất trong bố cục tổng thể của lăng. Chúng ta không còn thấy bóng
dáng của ngôi nhà rường kép nữa mà thay vào đó, vua Khải Định đã quyết định
bao gộp nhiều chức năng vào chung trong một không gian của cung Thiên Định
(hình 3.7). Giờ đây, nó được chia thành 5 không gian chức năng, đó là :

-Tả, Hữu Trực Phòng, nằm ở hai bên : dành cho lính hộ lăng và người thờ tự.

-Điện Khải Thành, nằm ở phía trước : Khác với Sùng Ân điện, không gian này
chỉ chia làm 3 gian, gian giữa có đặt hương án bằng bê tông khảm sành sứ, đây
có thể xem là không gian hành lễ như tiền điện.

-Phòng đặt thi hài, là không gian tiếp nối ngay sau điện Khải Thành: ở đây vua
Khải Định cho đúc một tượng đồng của chính mình đang ngồi trên ngai vàng,
bên trên có bửu tán bằng bê tông khảm sành sứ, ở độ sâu 9m bên dưới là thi hài
của nhà vua.

-Phòng thờ vua, nằm ở sau cùng, tiếp ngay sau phòng đặt thi hài: không gian
này được nâng sàn lên cao 1,7m, được chia làm 3 gian, gian ở giữa đặt bài vị
của vua.

Có thể thấy trong bố cục của lăng Minh Mạng thì các không gian chức năng
Sùng Ân điện, Tả Hữu Tùng Phòng, Mộ vua là những không gian riêng biệt,
mỗi không gian là một công trình riêng biệt cách xa nhau. Còn ở Thiên Định
cung thì các không gian liên hệ với nhau một cách trực tiếp, không gian được
56

ngăn chia bởi hệ thống tường và cửa kiểu phương Tây. Chúng ta cũng không
còn thấy không gian thấp và tối như trong điện thờ kiểu truyền thống mà thay
vào đó, Thiên Định cung có trần cao, không gian tràn ngập ánh sáng với các ô
cửa lớn như các công trình kiến trúc Đông Dương vào thời điểm đó (hình 3.8).
Việc bao gộp các chức năng trên vào cùng một không gian như ở lăng Khải
Định liệu có dụng ý gì chăng? Người viết xin đưa ra một số nhận định về vấn đề
này như sau:

-Nguyên nhân đầu tiên có lẽ là do địa thế địa hình mà khu lăng toạ lạc. Các thầy
phong thuỷ nghiên cứu và đề xuất tổng thể lăng chỉ gói gọn trong một quy mô
rất nhỏ. Chính vì vậy việc gộp các chức năng vào chung một không gian là điều
dễ xảy ra.

-Vua Khải Định là một ông vua chuộng cái mới, có tư tưởng cởi mở và rất thực
tế. Việc gộp các chức năng có liên quan đến nhau vào cùng một công trình sẽ
giảm bớt bán kính phục vụ.

-Việc đưa thi hài vua vào ngay bên dưới ngôi điện chính của khu lăng là một
việc làm rất mới so với các khu lăng tẩm trước. Điều này khiến chúng ta liên
tưởng đến việc đặt thi hài của các Pharaoh vào bên dưới kim tự tháp Ai Cập. Thi
hài vua sẽ được bảo vệ chặt chẽ hơn so với việc khu mộ vua nằm riêng rẽ ở một
khu vực khác.

Dù là nguyên nhân gì chăng nữa thì chúng ta thấy rằng, việc bao gộp các không
gian chức năng vào trong một công trình như thế này chắc chắn sẽ mang nhiều
yếu tố thích dụng. Mặt khác, dù có sự đổi mới trong cách tổ hợp không gian,
nhưng Thiên Định cung vẫn tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc đăng đối của Nho
giáo. Năm không gian này vẫn đối xứng qua trục Thần đạo và con số 5, như đã
từng phân tích, là tượng trưng cho ngũ hành và hào cửu ngũ trong Kinh Dịch
ứng với mạng thiên tử. Không gian điện Khải Thành và không gian thờ vẫn
được chia thành 3 gian, con số của tam tài. Hay trục thẳng đứng thi hài vua bên
57

dưới đất – bầu trời bên trên và tượng đồng ngồi trên ngai vàng, phải chăng với
dụng ý thể hiện mối quan hệ hài hoà Thiên – Địa - Nhân? Có thể thấy rằng, dù
có lối thể hiện mới mẻ ảnh hưởng từ cách tổ hợp không gian của phương Tây
nhưng cung Thiên Định vẫn nằm trong guồng quay tác động của những ý thức
hệ thời Nguyễn.

Tiếp đến, chúng ta sẽ phân tích sự hài hoà trong mặt đứng của cung Thiên Định.
Như đã phân tích ở bên trên, cung Thiên Định có sự thay đổi về mặt không gian
chức năng bên trong nên dẫn đến hình khối cũng có sự thay đổi. Trong các khu
lăng khác, chẳng hạn như lăng Minh Mạng hay lăng Tự Đức, phần điện thờ sẽ là
tổ hợp của hai khối nhà kế tiếp nhau theo lối “trùng thiềm điệp ốc” với hệ khung
kết cấu gỗ. Vì vậy, mặt đứng của nó sẽ mang phong cách truyền thống, thể hiện
không gian 5 gian 2 chái bên trong, với hai lớp mái có cổ diềm, không quá cao
và có hệ thống cửa thượng song hạ bản. Với cung Thiên Định, người ta lại tổ
chức thành một khối duy nhất với không gian rộng và cao hơn, tuy nhiên, vẫn
giữ hình thức mái chồng mái có cổ diềm (hình 3.9). Có thể nói, nếu đi từ nhìn
ngắm không gian điện thờ theo kiểu truyền thống sang cung Thiên Định, chúng
ta sẽ không khỏi bỡ ngỡ bởi sự mới lạ về hình thức của nó.

Với không gian cao và rộng hơn so với điện thờ của các khu lăng khác, những
người thiết kế lúc đó đã tìm cách để xử lý mặt đứng sao cho hài hoà, thanh thoát.
Mặt đứng cung Thiên Định được chia làm 3 phần, thể hiện rất rõ không gian
chức năng bên trong. Hai bên là hai khối Tả Hữu trực phòng, ở giữa là điện
Khải Thành. Hai khối Tả Hữu Trực phòng cao hơn và nhô ra phía trước. Điện
Khải Thành có bậc cấp đi lên với rồng chầu hai bên, được chia làm ba gian đều
nhau với ba cửa vào. Với cách phân chia mặt đứng như trên, chúng ta thấy rằng
cung Thiên Định vẫn giữ nét truyền thống trong việc chia điện Khải Thành ra
làm 3 gian. Tuy nhiên, cách xử lý hai khối hai bên nhô ra phía trước là một nét
mới. Hình thức này khiến chúng ta liên tưởng đến cách xử lý hình khối mặt
đứng của một số công trình kiến trúc Đông Dương vào thời kì đó, chẳng hạn
58

như Dinh Toàn Quyền Đông Dương (nay là Phủ chủ tịch). Dinh Toàn Quyền
Đông Dương cũng nhấn mạnh hai khối hai bên, cộng thêm với tính đối xứng
tuyệt đối làm cho công trình trở nên vững chãi và uy nghi (hình 3.10). Bên cạnh
đó, những người xây dựng cung Thiên Định cũng rất khéo léo trong việc xử lý
tỷ lệ hài hoà. Phần bậc nền có tỷ lệ bằng 1/3 phần thân công trình. Kích thước
mỗi gian của điện Khải Thành là kích thước của hình chữ nhật tỉ lệ vàng. Kích
thước cửa đi với vòm cuốn bên trên cũng tương tự như thế. Riêng hai khối Tả
Hữu Tùng Phòng hai bên được chia thành hai tầng mái, tầng mái bên trên có tỷ
lệ bằng 1/3 so với phần thân bên dưới, khiến cho hai khối này mặc dù cao hơn
nhưng hết sức duyên dáng (hình 3.11a).

Bên cạnh việc xử lý về tỷ lệ, mặt đứng của cung Thiên Định còn được xử lý
bằng nghệ thuật trang trí. Toàn bộ mặt đứng cung Thiên Định được trang trí hoa
văn với đủ loại chủ đề bằng nghệ thuật đắp nổi vôi vữa. Đặc biệt, mặt đứng
cung Thiên Định còn có các chi tiết kiến trúc ảnh hưởng từ phương Tây như các
thức cột nối với nhau bằng cung Roman biến thể, hệ thống cửa đi theo kiểu
Pháp. Nhưng các chi tiết này được xử lý một cách khéo léo với các hoa văn
trang trí theo kiểu truyền thống khiến tất cả hoà quyện vào nhau trong một tổng
thể hài hoà (hình 3.11b). Điều đó khiến cho chúng ta cảm nhận cung Thiên Định
vừa quen mà vừa lạ, vừa truyền thống nhưng cũng vừa mới mẻ. Đó chính là
cách xử lý khéo léo của người thiết kế lắng Khải Định, một sự hài hoà văn hoá
Đông – Tây rất tinh tế.

-Bi đình

Bi đình có thể được xem là công trình quan trọng thứ hai sau cung Thiên Định
bởi nơi đây ghi khắc ca ngợi sự nghiệp của vua trong thời gian tại vị. Hầu hết bi
đình trong các lăng tâm triều Nguyễn đều có mặt bằng hình vuông với hai lớp
mái. Bi đình của lăng Khải Định vẫn giữ hình thức hai lớp mái này nhưng đã có
sự biến thể trong hình thức mặt bằng của nó. Thay vì bố trí mặt bằng hình vuông,
59

vua Khải Định đã cho xây dựng bi đình với mặt bằng hình bát giác, tuy nhiên, là
một hình bát giác không đều. Ở bốn cạnh lớn là các lối tiếp cận, còn ở 4 cạnh
nhỏ được xây tường (hình 3.12a). Sự biến thể dạng mặt bằng từ kiểu hình học
cơ bản này giúp cho bi đình lăng Khải Định vẫn giữ được sự đăng đối hài hoà
theo kiểu truyền thống, nhưng bên cạnh đó lại tạo ra được hình thức mới lạ hơn.
Ngoài ra, mặt bằng bi đình hình bát giác này gợi nhắc chúng ta nhớ đến tính
cách vua Khải Định, một ông vua ham chuộng cái mới, thích làm mới những
yếu tố truyền thống. Ở trung tâm của bi đình là tấm bia bằng đá thanh được
trang trí chạm khắc theo lối truyền thống, trong quan niệm của Kinh dịch thì nó
tượng trưng cho thiên tử ở trung tâm vũ trụ (hình 3.12b).

Bi đình của lăng Khải Định tuy là một công trình có quy mô không lớn nhưng
nó lại toạ lạc ở vị trí chủ đạo trong sân chầu, nằm trên trục chính Thần đạo của
lăng. Có lẽ chính vì vị trí quan trọng của bi đình mà các nhà xây dựng thời đó đã
rất chú ý đến nó, từ nội dung tư tưởng cho đến việc xử lý không gian, về quan
hệ tỉ lệ của chính bản thân nó và quan hệ với tầm vóc con người.

Công trình gồm phần đế với hai bậc cao độ, phần thân cũng được chia làm 2
tầng với 2 lớp mái. Người ta cho rằng cấu trúc như trên hàm chứa những tư
tưởng của Nho giáo: đỉnh của bộ mái là thái cực, hai lớp mái là lưỡng nghi, tiếp
cận theo 4 mặt là tứ tượng, tám mái là bát quái. Việc bi đình được xây dựng làm
hai tầng mái, ngoài ý nghĩa về mặt tư tưởng như vậy, còn thể hiện sự tinh tế
trong việc xử lý không gian và tỷ lệ. Nếu chỉ xây một tầng mái thì không tương
xứng với tấm bia vốn có kích thước rất lớn. Việc có thêm một tầng mái nhỏ hơn
ở bên trên khiến cho bi đình trở nên cân bằng, thanh thoát và duyên dáng hơn.
Nếu quan sát kĩ, chúng ta có thể thấy phần trên và phần dưới của bi đình có
quan hệ tỷ lệ 1/3 và 2/3 so với toàn công trình. Đây chính là một tỷ lệ đẹp
thường được sử dụng trong hội hoạ và kiến trúc, trong trường hợp này sẽ thể
hiện tính kiêu sa, duyên dáng (hình 3.12c).
60

Bi đình ở các lăng khác thường được xây dựng với hình khối chắc khoẻ. Sự
chắc khoẻ của hình khối của bi đình cùng với bậc nên tôn cao, được xây bao bọc
bởi một lớp tường hơi nghiêng như tường thành, chẳng hạn như ở lăng Minh
Mạng, tạo nên cảm giác vững chải, uy nghi, đường bệ. Bi đình lăng Khải Định
lại cho chúng ta cảm nhận đây là một tác phẩm điêu khắc mang hơi hướng
phương Tây đầy duyên dáng với những trang trí đắp nổi khắp trên các mặt
tường. Tương tự như Thiên Định cung, mặt đứng của bi đình lăng Khải Định sử
dụng các cột trụ tròn trang trí rồng mây với đầu cột hoa lá kiểu phương Tây, nối
với nhau bằng vòm cuốn dạng Roman biến thể có mặt hổ phù. Trên mỗi tầng
mái là 8 con rồng bay theo 8 hướng trên các bờ nóc. Tất cả đã tạo cho công trình
bi đình một nét hài hoà, nhẹ nhàng, thanh thoát.

-Trụ biểu

Trụ biểu trong lăng tẩm triều Nguyễn nói chung và trong lăng Khải Định nói
riêng là một thành phần công trình chịu ảnh hưởng từ yếu tố Chăm trong nền
văn hoá. Đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất được chức năng và ý
nghĩa của các trụ biểu ở lăng tẩm các vua Nguyễn. Có lẽ với hình dáng vươn
cao nổi bật hẳn lên, chúng tạo nên tính trang nghiêm của sân bái đình, nhấn
mạnh khu vực lăng như một thủ pháp trong nghệ thuật cảnh quan. Chúng ta có
thể thấy rằng chính vị trí đặc biệt của các trụ biểu đã giúp định hình được không
gian trong bố cục tổng thể, từ đó, tạo được điểm nối kết giữa không gian với
không gian trong tổng thể toàn khu vực.

Trụ biểu của lăng Khải Định có tiết diện hình vuông và càng lên cao càng nhỏ
dần (hình 3.13a). Cấu trúc gồm ba phần đế, thân và đầu. Ở mỗi phần đều được
trang trí đắp nổi hoa văn hoa lá tỉ mỉ. Ở bốn góc của phần thân được trang trí
bằng 4 thức cột có hình thức ảnh hưởng bởi các thức cột cổ điển phương Tây
(hình 3.13b). Chung quanh đỉnh trụ lớn ở giữa còn có 4 đỉnh trụ nhỏ ở phần đế,
tượng trưng cho ngũ hành. Và đặc biệt, chúng ta có thể thấy tương quan tỷ lệ
61

giữa phần đầu và phần thân, phần đế và phần thân đều là 2/3. Chính vì có tương
quan tỷ lệ đẹp nên mặc dù có kích thước cao lớn nhưng trụ biểu vẫn hài hoà,
thanh thoát (hình 3.13c). Các trụ biểu này, trong chừng mực nào đó, đã gây nên
những ấn tượng thẩm mỹ một cách trực tiếp và lôi cuốn thị giác rất mạnh vì nó
nằm ở vị trí không quá gần với công trình chính và ít bị che khuất. Có thể nói,
mặc dù có sự độc lập tương đối về kích thước và hình thức, nhưng các trụ biểu
này vẫn hài hoà, gắn bó với tổng thể của khu lăng.

-Tả Hữu Tòng Tự

Tả Hữu Tòng Tự là hai công trình đối xứng nhau qua trục Thần Đạo, có hình
khối và cấu trúc giống nhau, nằm ở tầng sân thứ nhất của tổng thể công trình.
Về chức năng, đây là nơi thờ bài vị của các vị công thần trong triều. Hai công
trình này có cấu trúc kiểu ba gian hai chái theo truyền thống. Bên trên là hình
thức “mái chồng mái” có cổ diềm (hình 3.14a). Tuy nhiên, có sự khác biệt ở đây
là kiểu cửa thượng song hạ bản đã được thay thế bằng cửa lá sách, các cánh cửa
cũng không được bố trí liên tục trên suốt mặt đứng như vẫn thường thấy mà chỉ
bố trí đúng ba ô cửa ở mỗi gian. Vị trí bức vách có các cánh cửa được dời vào
bên trong để tạo ra một khoảng hành lang với hàng cột phía trước. Hình thức
cửa lá sách và việc tạo ra một khoảng hành lang phía trước công trình như thế
này vốn là đặc điểm của phong cách kiến trúc Đông Dương nhằm tạo ra sự
thông thoáng và tránh bớt nhiệt đưa vào trong công trình. Ở đây, ta có thể thấy
được sự kết hợp giữa kiến trúc truyền thống và kiến trúc phương Tây một cách
hài hoà, tạo nên một không gian vừa quen thuộc nhưng cũng vừa mới mẻ ở vào
thời điểm đó. Xét về mặt tỉ lệ, mặt đứng công trình gồm ba phần : phần nền,
phần thân và phần mái. Nếu quan sát ta thấy rằng phần nền có tỷ lệ bằng 1/3
phần thân. Phần mái trên có tỷ lệ bằng 1/3 mái dưới. Phần mái và phần thân
chiếm tỷ lệ bằng nhau (hình 3.14b). Phần mái có độ dốc 3/4 (hình 3.14c). Tất cả
những tỷ lệ này đã giúp cho các bộ phận có sự hài hoà trong tổng thể toàn công
trình
62

3.1.3. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong vật liệu và kết cấu của kiến trúc
lăng Khải Định

Dưới thời thực dân Pháp đô hộ, sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hoá phương Tây
vào Việt Nam đã làm xã hội Việt Nam thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực, trong
đó phải kể đến kĩ thuật và vật liệu xây dựng. Sự ra đời các vật liệu mới, đặc biệt
là xi măng và thép đã làm thay đổi quan niệm về không gian kiến trúc. Thép và
bê tông cốt thép đã giúp cho các nhà xây dựng có nhiều lựa chọn hơn trong giải
pháp tổ chức không gian. Không gian có thể cao và rộng hơn, với khoảng vượt
xa hơn, giải phóng mặt bằng khỏi quá nhiều cột.

Trong kiến trúc truyền thống, người ta thường chỉ dùng tam hợp chất (vôi, cát,
mật) để xây dựng, đó là loại vật liệu mà độ cứng, độ kết dính, độ bền không thật
cao, nhất là khi chịu tác động của mưa, nắng. Hơn nữa, người ta cũng chỉ dùng
tam hợp chất để xây mộ, miếu mà hầu như không dùng để xây nhà ở. Nhà ở
thường chỉ dùng các vật liệu tre, gỗ, vách nhà tre thường là vách đất, vách nhà
rường thường là vách lụa bằng gỗ. Vách có hiên che xung quanh nên hầu như ít
chịu tác động của mưa, nắng. Với vật liệu xi-măng, cộng với lối kiến trúc mới
do Pháp du nhập, cách xây dựng theo lối cổ truyền có một số thay đổi nhất định.
Người ta vẫn giữ nguyên vẹn lối cấu trúc nhà cổ truyền với dàn, khung gỗ chịu
lực đỡ mái, nhưng vật liệu xi-măng đã được đưa vào để xây dựng vách, lan can
nhà. Sử dụng loại vật liệu mới này ít nhiều cũng hài hòa theo kiến trúc truyền
thống.

Lăng Khải Định được xây dựng trong bối cảnh lịch sử như vậy nên ở công trình
này chúng ta có thể tìm thấy nhiều vật liệu mới được sử dụng thay vì các vật
liệu truyền thống. Đập vào mắt khách tham quan đầu tiên phải kể đến các cánh
cổng sắt uốn hoa văn thay thế cho cánh cửa gỗ truyền thống thường thấy. Toàn
bộ các tầng bậc sân được lát gạch ca-rô. Mái của bi đình và Thiên Định cung lợp
ngói Ardoise, là loại ngói khai thác từ đá trầm tích của Pháp, có màu đen nhánh
63

như than đá, hình dáng như kiểu ngói vẩy cá hoặc có hình chữ nhật. Sàn của
Thiên Định cung cũng lát đá cẩm thạch nhập từ Pháp về. Toàn thể khu lăng
phần lớn sử dụng xi măng để xây dựng (hình 3.15a).

Việc sử dụng vật liệu mới từ phương Tây với những ưu điểm vượt trội, tiêu biểu
là xi-măng, là một xu hướng tất yếu. Mặt khác, theo người viết nhận định, ở
lăng Khải Định đã có sự kết hợp hài hoà giữa vật liệu mới và vật liệu truyền
thống, dựa trên tinh thần bổ khuyết cho nhau. Xi măng với độ kết dính cao sẽ
giúp cho công trình chịu lực tốt, tồn tại lâu hơn với thời gian nhưng lại gây ra
một cảm giác nặng nề, khô cứng cho bề mặt kiến trúc. Còn gốm sứ, với đặc tính
được nung qua lửa, nên gốm sứ khá cứng và chắc. Do đó, khi được dùng để
trang trí ở những bộ phận kiến trúc thường xuyên tiếp xúc với điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt, thì gốm sứ không chỉ đóng vai trò trang trí mà còn có tác
dụng bảo vệ công trình. Thêm vào đó, gốm sứ tráng men, với màu sắc và tính
phản quang tốt, sẽ tạo nên sự sinh động cho bề mặt công trình. Có thể thấy việc
sử dụng vật liệu gốm sứ truyền thống trang trí lên bề mặt công trình vừa có tác
dụng che lấp những khuyết điểm mà xi-măng đem lại, vừa góp phần làm cho
hình khối kiến trúc trở nên mềm mại và hài hoà. Ngay bản thân nghệ thuật khảm
sứ cũng tiếp nhận vật liệu mới thuỷ tinh màu, để có thể xử lý tinh tế hơn những
sắc độ mà gốm sứ truyền thống còn hạn chế. Hoặc một ví dụ rất sinh động khác,
đó là sự kết hợp giữa xi-măng và bột màu truyền thống. Các nghệ nhân đã dùng
bột màu đen để tạo nên những lớp vân trên xi-măng trắng, tạo nên những mảng
tường giả đá cẩm thạch rất đẹp ở Thiên Định cung hay trên thân trụ biểu (hình
3.15b). Vật liệu vôi vữa truyền thống cũng được sử dụng để đắp nổi trang trí
trên mặt đứng công trình, làm cho công trình trở nên sinh động và hài hoà với
thiên nhiên nhờ những hoạ tiết trang trí mềm mại, uyển chuyển.

Về kết cấu, lăng Khải Định vắng bóng hình thức kết cấu gỗ truyền thống trong
kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Kết cấu bê-tông cốt thép đã được sử dụng để
xây dựng các công trình trong khu lăng. Với việc sử dụng hệ kết cấu mới, không
64

gian cung Thiên Định được giải phóng khỏi hệ thống cột gỗ truyền thống, trở
nên cao và rộng hơn so với không gian điện thờ ở các khu lăng khác. Vật liệu
xi-măng được đưa vào để xây dựng lớp tường khá dày, giằng bởi hệ thống đà
kiềng bê-tông cốt thép, tạo thành hệ tường chịu lực đỡ lớp mái bên trên (hình
3.16a). Tương tự, cấu trúc 2 phần của bi đình cũng được áp dụng kết cấu bê-
tông cốt thép. Ta có thể thấy 4 trụ bê tông cốt thép đỡ phần dầm sàn của phần
thân trên bi đình (hình 3.16b). Đối với Tả Hữu Tòng Tự, hệ thống tường và
hàng trụ hiên có chức năng đỡ lớp mái. Phần mái vẫn sử dụng hệ khung gỗ để
lợp ngói liệt lên trên (hình 3.16c). Trong một chừng mực nào đó, người ta đã có
sự phối kết và dung hoà giữa hệ thống kết cấu mới và kết cấu truyền thống.

3.1.4. Sự hài hoà văn hoá Đông – Tây trong nghệ thuật trang trí của kiến
trúc lăng Khải Định

- Các yếu tố trang trí nội thất

Trước tiên, nội thất lăng Khải Định rất phong phú về đề tài trang trí. Có thể nói
rằng, nội thất lăng Khải Định là nơi hội tụ của phần lớn các đề tài trang trí dưới
thời Nguyễn, từ những mô-típ truyền thống trong cung đình như tứ linh, tứ
bình..., đến những đề tài dân gian được du nhập vào chốn cung đình như mười
hai con giáp, những loài vật nuôi, cây trồng gần gũi với đời sống người dân,
những mô-típ trang trí mang tinh thần của đạo Nho, Phật, Lão đến những kiểu
thức trang trí du nhập từ phương Tây…Tất cả được kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ và hài hoà. Trong cuốn “L’Art à Hué” linh mục Cadière có lần đánh giá
các mô-típ trang trí “…được nghệ nhân cố gắng nghiền ngẫm, nhào nặng, nên
dường như đã có một tiềm lực, có sức mạnh phóng khoáng, làm cho nó có bộ
mặt mới”. [35]

Ở đề tài truyền thống của trang trí cung đình, như trong nhiều lăng tẩm khác,
hình tượng con rồng chiếm vị trí quan trọng. Có thể kể đến đầu tiên là trần nhà
của ba phòng chính giữa cung Thiên Định là ba bức hoạ “cửu long ẩn vân” do
65

hoạ sĩ Phan Văn Tánh thể hiện. Trên tất cả các vòm cửa và tường sau hậu điện
đều có trang trí những đầu rồng đắp nổi bằng sành sứ. Quanh các cây cột hình
trụ đều có đồ án rồng mây theo lối “long vân đồng trụ” (hình 3.17 - 3.18 - 3.19).
Các linh vật khác trong tứ linh cũng xuất hiện nhiều trong các khám thờ, án thờ,
bửu tán. Các đồ án hoa lá, tứ bình xuất hiện trên khắp các mặt tường của cung
Thiên Định. Ở bốn góc điện Khải Thành là hệ thống 16 bức tranh trong bộ tứ
bình với mai, sen, cúc, liễu. Trên mỗi bức tranh đều có thơ chữ Hán (hình 3.20).
Các bức tranh lớn khác cũng xuất hiện hình ảnh cây tùng, cây trúc, cây liễu...Bộ
bát bửu của đạo Nho và đạo Lão với trân châu, đồng tiền, mao tiết, phương
trượng, ngòi bút, cuốn thư, phất trần cũng xuất hiện ở nhiều nơi.

Những đề tài dân gian trong nội thất lăng Khải Định có vị trí khiêm tốn hơn
nhưng không kém phần đa dạng và tinh xảo. Hình tượng con dơi vốn được du
nhập từ dân gian tượng trưng cho ngũ phúc. Ở các băng ngang chạy quanh phần
tường trên của điện Khải Thành xuất hiện những con vật trong 12 con giáp như
hổ, dê, gà, những cảnh trông-mái, dê và cây so đũa…Những hình thức trang trí
phổ biến trong các đình chùa như mai- điểu, tùng- lộc, mẫu đơn-trĩ, liên-áp cũng
được sử dụng trong nội thất của lăng.

Chữ Hán cũng được dùng như một đề tài trang trí. Toàn bộ nội thất có 178 ô
trang trí chữ Hán, trong đó có 6 ô câu đối và 164 ô chữ Thọ, ngoài ra là các chữ
Hỉ và chữ Vạn. Toàn bộ mảng tường sau và hai bên hậu điện được trang trí liên
hoàn với rất nhiều chữ Vạn nối tiếp nhau (hình 3.21).

Trong lăng Khải Định còn có các yếu tố trang trí ảnh hưởng từ Phương Tây. Các
vòm cuốn theo kiểu Roman biến thể và các đầu cột mang hơi hướng Corinthien
phía sau hậu điện là những yếu tố mới lạ. Các chi tiết này lại được khảm sành sứ
với những đề tài trang trí của phương Đông. Ngoài ra, vua Khải Định còn tạc
tượng chân dung của chính mình để đặt vào trong lăng. Góp thêm vào đó là các
vật dụng trang trí từ phương Tây như đèn chùm, đồng hồ để bàn…Những yếu tố
66

mới này làm cho không gian nội thất của lăng Khải Định thêm ấn tượng và
mang đậm dấu ấn cá nhân của nhà vua (hình 3.22).

Thứ hai, nội thất lăng Khải Định có nhiều nét mới trong cách thể hiện. Nổi bật
nhất trong trang trí nội thất của lăng Khải Định chính là nghệ thuật khảm sành
sứ. Có thể nói, nghệ thuật khảm sành sứ đã chiếm lĩnh cả không gian nội thất
công trình chính của lăng Khải Định : điện Khải Thành (hình 3.23). Vẻ đẹp và
những ưu điểm của sành sứ đã được đưa vào nội thất của lăng Khải Định với
những kỹ xảo, phương pháp tạo hình, trang trí khác lạ và ấn tượng.

Nghệ thuật khảm sành sứ vốn đã xuất hiện từ lâu đời trên thế giới. Ở Việt Nam,
các dấu tích mỹ thuật cho thấy nghệ thuật khảm sành sứ xuất hiện tron đời sống
thẩm mỹ dân gian từ thời Hậu Lê, nó tồn tại cùng với nghề nề, dùng để trang trí
kiến trúc, hiện diện ở các cổng làng, cổng chùa, bình phong, và các mô-típ trang
trí kiến trúc. Trong “Phủ biên tạp lục”, Lê Quý Đôn đã mô tả thể loại nghệ thuật
khảm sứ được sử dụng trong trang trí kiến trúc “Tường trong tường ngoài đều
xây dày mấy thước, lấy vôi mật và sành sứ đắp thành hình rồng, phượng, lân, hổ,
cỏ hoa…”. Đến thời nhà Nguyễn, do yêu cầu xây dựng cung đình mới, việc đưa
nghệ thuật khảm sứ vào trang trí kiến trúc đã được phổ biến và có tính tập trung,
chắt lọc và nâng cao hơn. Dưới thời Khải Định, nghệ thuật khảm sành sứ được
sử dụng rất nhiều trong các công trình kiến trúc như cửa Hiển Nhơn, cửa
Chương Đức, cung An Định, điện Kiến Trung và đặc biệt là lăng Khải Định,
được một số nhà chuyên môn đánh giá là đỉnh cao của nghệ thuật khảm sành sứ.

Để một mảng trang trí đạt được tính biểu hiện sâu sắc, người ta phải đập vỡ
nhiều vật dụng sành sứ để chọn màu cho tương ứng với phác thảo. Nếu như việc
chọn lựa sành sứ vẫn còn mang chút ít tính ngẫu nhiên, thì trong yêu cầu cụ thể
của trang trí, nghệ nhân phải dùng thuỷ tinh ốp lên màn vữa, tạo ra những sắc
màu mà bản thân sành sứ không có hoặc thiếu. Màu sắc sành sứ là một trong
những yếu tố đem lại hiệu quả nghệ thuật rất cao cho các hoạ tiết trang trí kiến
67

trúc. Cùng với sự vận động của nét, màu sắc đã làm lộng lẫy hơn cho các công
trình kiến trúc. Những mảng màu sành sứ đã góp phần tạo nên sự hài hoà của
không gian nội, ngoại thất. Chính khảm sứ đã làm cho các khối kiến trúc trở nên
“xốp”, nhẹ nhàng và hoà đồng hơn mối quan hệ kiến trúc – con người – thiên
nhiên.

Ưu điểm của nghệ thuật khảm sành sứ là nó có thể bù lấp, che giấu các chi tiết
kiến trúc khiếm khuyết mà những người thợ đã vô tình mắc phải trong quá trình
xấy dựng. Đồng thời, nó sẽ tôn nổi hoạ tiết, làm sinh động và rực rỡ những hoạ
tiết trọng tâm. Tuy nhiên, bản thân sành sứ, thuỷ tinh là những vật liệu cứng,
nếu không đạt được độ nhuần nhuyễn, tinh tế trong tạo hình thì hoạ tiết sẽ trở
nên khô cứng, nặng nề. Trước đây, người ta chỉ ghép sảnh sứ lên trên một cái
khung họa tiết nào đó để tạo hình, chứ bản thân mảnh sành sứ đó không phải là
một họa tiết độc lập. Ở lăng Khải Định, các mảnh sành sứ, thủy tinh được cắt
gọt tỉ mỉ và tinh xảo, tạo thành những cánh hoa, cái lá, vảy rồng…nghĩa là bản
thân nó trở thành một họa tiết. Cách thể hiện mới mẻ này giúp cho những chi
tiết trang trí trở nên vô cùng sống động.

Tất cả các mảng tường của 3 phòng giữa trong cung Thiên Định đều được trang
trí bằng sành sứ và thuỷ tinh màu dưới các hoạ tiết trang trí. Đây là một không
gian đầy sắc màu rực rỡ được tổng hoà từ những mảng màu khó phai. Việc sử
dụng thuỷ tinh màu và sành sứ để trang trí có tác dụng làm cho hoạ tiết giữ được
màu sắc nguyên vẹn. Đồng thời, dưới tác động của ánh sáng mặt trời từ bên
ngoài đưa vào công trình, các mảnh thuỷ tinh và sành sứ sẽ trở nên lung linh với
hiện tượng phản quang và khúc xạ. Hiệu ứng này không phải vật liệu nào cũng
có thể tạo ra được.

Bột màu cũng được sử dụng nhiều trong việc trang trí và đã mang lại hiệu quả
nghệ thuật rất cao. Việc sử dụng bột màu đen tạo vân trên nền xi măng trắng giả
đá cẩm thạch ở Tả Hữu Trực Phòng đã khiến chúng ta cứ tưởng rằng không gian
68

này được ốp đá cẩm thạch thật sự. Bột màu cũng là chất liệu để hoạ sĩ Phan Văn
Tánh thể hiện bức hoạ “cửu long ẩn vân” nổi tiếng (hình 3.24). Một số nhà
nghiên cứu đánh giá bức hoạ của Phan Văn Tánh trong cung Thiên Định đã đặt
một mốc quan trọng trong lịch sử hội hoạ Việt Nam.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, sự mới mẻ ở đây chỉ là trong cách thể hiện, còn về
bố cục và màu sắc thì vẫn theo kiểu truyền thống. Đó là việc đặt các họa tiết
trang trí bên trong các đơn vị ô hộc theo phong cách “nhất thi, nhất họa” – đây
là phong cách xuyên suốt trong trang trí của triều Nguyễn. Tất cả các mảng
tường trong nội thất cung Thiên Định đều theo phong cách ô hộc này. Về màu
sắc, ngoài việc đưa thêm một vài màu mới như nâu đen và xanh thẫm, bảng màu
chủ yếu vẫn là vàng, đỏ, xanh lục theo bảng màu của Pháp lam Huế.

Thứ ba, tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” cũng thể hiện rất rõ trong trang trí ở
lăng Khải Định. Từ ngoài vào trong, trang trí lăng Khải Định như đánh dấu ba
giai đoạn phát triển ý thức trong đời sống của nhà vua. Ở Khải Thành điện,
những đề tài của đạo Nho chiếm vị trí chủ đạo, đó là giai đoạn đầu tiên của một
ông vua – nho sĩ. Tiến vào chính điện, xuất hiện những đề tài trang trí của Lão
giáo, để có thể ngầm hiểu đến lúc cuối đời, con người nho sĩ đó muốn có một sự
an nhàn, vô vi, muốn xa lánh thế tục. Tuy nhiên, hình ảnh vầng mặt trời đang
lặn xuống sau lưng tượng vua Khải Định vẫn khẳng định rằng vua là thiên tử, là
mặt trời. Vua băng hà thì như mặt trời lặn xuống phía Tây. Ở hậu điện, nơi thờ
bài vị vua, lại có sự xuất hiện của hơn 400 chữ Vạn, một biểu tượng của nhà
Phật, thể hiện ước muốn cuối cùng cả nhà vua, đó là được siêu thoát trong cõi
Niết Bàn, một tư tưởng phổ biến trong đa phần người dân đương thời chịu sự
ảnh hưởng sâu đậm của triết lý nhà Phật.

- Các yếu tố trang trí ngoại thất

Nếu như trong trang trí nội thất cung Thiên Định là đỉnh cao của nghệ thuật
khảm sành sứ thì trong trang trí ngoại thất, đó là một thành quả tuyệt vời của
69

nghệ thuật đắp nề vôi vữa truyền thống. Trong các thành phần kiến trúc của lăng
tẩm các vua triều Nguyễn, trang trí nề vữa đắp nổi đóng vai trò quan trọng trong
trang trí ngoại thất và rất phổ biến. Trang trí nề vữa đắp nổi dùng để trang trí
nóc mái, đầu hồi, bệ cấp, trụ biểu, nhất là ở các cổng. Ngoài nóc mái, bệ cấp
được đắp theo dạng tượng cách điệu, còn lại ở các vị trí khác đều được thể hiện
theo dạng phù điêu. Có thể thấy trên toàn bộ các mặt đứng của công trình lăng
Khải Định, người thợ thủ công tài hoa đã khéo léo sử dụng những mô-típ điêu
khắc truyền thống để trang trí đắp nổi bằng vôi vữa, làm cho bề mặt công trình
trở nên mềm mại, uyển chuyển và hài hoà với thiên nhiên hơn.

Trước hết, về mặt đề tài, có thể thấy hình tượng con rồng hầu như chiếm vị trí
chủ đạo trong trang trí ngoại thất với nhiều chủ đề. Ở các vị trí cao như mái, bờ
nóc hay cổng tam quan, con rồng xuất hiện với chủ đề lưỡng long triều nhật
(hình 3.25a). Tuy nhiên do khoảng cách quan sát khá xa nên người thợ thường
chú ý dáng vẻ chung của rồng chứ ít trau chuốt về chi tiết. Trên phần thân công
trình, rồng chủ yếu được trang trí ở các cột trụ tròn theo đề tài thống nhất là
“long vân thuỷ ba” hoặc trên các vòm cửa theo kiểu “rồng ngang” (hay còn gọi
là “hổ phù”) (hình 3.25b). Ở phần nền móng, con rồng hầu như chỉ xuất hiện 2
bên thành bậc cấp của phần nền công trình. Rồng được tạo hình duỗi dài theo
bậc cấp, đầu hướng xuống phía dưới. Độ dài của rồng phụ thuộc vào chiều cao
của hệ thống bậc cấp hay tầng sân (hình 3.25c). Có thể thấy, hình tượng con
rồng được biểu hiện một cách rất sinh động với nhiều hình dáng khác nhau và
chủ đề khác nhau, tuỳ thuộc vị trí và cấp độ mà nó được thể hiện. Các linh vật
khác dường như không thấy xuất hiện ở ngoại thất lăng Khải Định. Chỉ có hình
tượng con dơi là có xuất hiện trên bi đình với đồ án 5 con dơi tượng trưng cho
ngũ phúc và trên mặt đứng điện Khải Thành với hình ảnh con dơi ẩn trong hoa
lá, miệng ngậm vòng tròn (hình 3.26).

Đề tài hoa lá cũng phổ biến trên mặt đứng của công trình. Tuy nhiên, dường như
chúng không xuất hiện cụ thể thành một chủ đề rõ ràng như trong nội thất công
70

trình mà chỉ đóng vai trò như một yếu tố trang trí làm nền cho hình tượng chủ
đạo là con rồng nổi bật lên. Đó là hoa lá trên các đầu cột hay chân cột, hoa lá
trên các vòm cửa, hoa lá trên các đường diềm trang trí, hoa lá trong các ô hộc
(hình 3.27). Đặc biệt phải kể đến đó là sự xuất hiện của hình ảnh búp sen trên
mặt đứng điện Khải Thành, trên các đầu trụ lan can thể hiện sự ảnh hưởng của
tư tưởng Phật giáo lên lăng Khải Định. Các đồ án trang trí của Lão giáo và Nho
giáo vẫn xuất hiện nhiều nhưng khiêm tốn trong các ô hộc nhỏ (hình 3.28).

Mô-típ trang trí bằng chữ Hán cũng được sử dụng trên mặt đứng của công trình
(hình 3.29). Nổi bật ở hai bên Tả Hữu Trực Phòng là 2 câu đối bằng chữ Hán,
trong đó 2 câu ở Tả Trực Phòng ca ngợi cảnh thiên nhiên ở vị trí lăng toạ lạc
như sau:

Tứ diện hiến kỳ quan, phong cảnh biệt khai vũ trụ

Ức niên chung vượng khí, giang sơn trường hộ trừ tư

Dịch nghĩa:

Bốn mặt đều là kỳ quan, phong cảnh mở ra một vũ trụ biệt lập
Muôn năm hun đúc nên vượng khí, núi sông giúp đỡ mãi hoài [36]

Các chữ Vương, chữ Hỉ, chữ Thọ cũng xuất hiện ở khắp nơi. Đặc biệt, ở đây có
sự nhắc lại của hình ảnh chữ Vạn tiếp nối nhau trên mặt đứng của công trình.

Đến đây, ta có thể thấy rằng, trang trí ngoại thất lăng Khải Định có đề tài phong
phú nhưng chủ yếu tôn lên vẻ đẹp của con rồng để thể hiện quyền uy của nhà
vua. Các đề tài khác vẫn xuất hiện đầy đủ nhưng đóng vai trò như là yếu tố trang
trí nền. Mặt khác, sự nhắc lại các mô-típ trang trí (chẳng hạn như chữ Vạn trên
mặt đứng công trình) giúp cho các đề tài có một sự chuyển tiếp hài hoà và thống
nhất về nội dung giữa ngoại thất và nội thất công trình. Khách tham quan sẽ có
một sự dẫn dắt về tâm lý, khi nhìn ngắm các chủ đề trang trí từ bên ngoài vào
bên trong. Rõ ràng đây là một sự khéo léo của các nghệ nhân thời đó.
71

Thứ hai, trong trang trí ngoại thất lăng Khải Định có nhiều yếu tố mới mẻ. Như
đã phân tích ở chương I, vua Khải Định là một ông vua rất ham chuộng cái mới.
Chính vì vậy trong khu lăng của mình, ông đã đưa vào một số các chi tiết của
kiến trúc phương Tây. Đó là các cột hình trụ tròn với đầu cột trang trí hoa lá làm
ta liên tưởng đến thức cột Corinthien của Hi Lạp. Đó là các thức cột hình vuông
với thân cột kẻ rảnh, đầu cột trang trí hoa văn hoa lá nối với nhau bằng các cung
nguyên Roman biến thể. Đó là hệ thống cửa đi kiểu lá sách trong kiến trúc Đông
Dương ở Tả Hữu Tùng Tự, hay hệ thống cửa đi trên mặt chính điện Khải Thành
với nhưng song sắt uốn hoa văn theo kiểu phương Tây. Vua Khải Định còn cho
gắn các chi tiết trang trí hình thập giá cách điệu với hoa văn hoa lá trên hệ thống
lan can. Đặc biệt, đối với cổng chính dẫn vào lăng, mặc dù vẫn giữ nguyên cách
bố trí cửa kiểu “tam khẩu” nhưng kiểu thức đã chịu ảnh hưởng rõ nét của kiến
trúc châu Âu. Chúng ta không còn thấy cánh cửa gỗ theo kiểu truyền thống mà
thay vào đó là các cánh cửa sắt uốn hoa văn hoa lá như trong các lâu đài hay biệt
thự châu Âu (hình 3.30). Một điều chúng ta phải thừa nhận khi đến lăng Khải
Định đó là các chi tiết kiến trúc phương Tây mặc dù được đưa vào trong kiến
trúc lăng tẩm phương Đông nhưng chúng không hề đối chọi hay phá vỡ bố cục
trang trí mà tất cả lại hài hoà với nhau trong tổng thể. Lý giải điều này, người
viết có những nhận định như sau:

-Mặc dù học tập từ phương Tây, nhưng các người thợ Việt Nam không đưa
nguyên gốc của chúng vào công trình. Tất cả các chi tiết đó đã được biến
chuyển một cách nhuần nhuyễn và khéo léo.

-Yếu tố gắn kết hài hoà các chi tiết ngoại lai này vào tổng thể công trình đó
chính là trang trí. Mặc dù chúng là chi tiết kiến trúc phương Tây, nhưng trên chi
tiết chúng được trang trí bằng các chủ đề truyền thống. Chính vì vậy, chúng như
hoà vào trong tổng thể.
72

-Số lượng các chi tiết kiến trúc ảnh hưởng phương Tây không quá nhiều. Dường
như chúng chỉ vừa đủ để chúng ta nhận ra sự khác biệt và nét riêng cá tính của
lăng Khải Định.

Như vậy, ta có thể kết lại một số đặc điểm trong trang trí kiến trúc lăng Khải
Định như sau:

-Trang trí trong lăng Khải Định rất phong phù về đề tài, từ đề tài cung đình
truyền thống đến các đề tài dân gian, thậm chí còn có các yếu tố trang trí
phương Tây.

-Đằng sau lớp trang trí đó là sự dung hoà của nhiều hệ tư tưởng.

-Mặc dù có nhiều đổi mới trong cách thể hiện và học tập những đặc điểm của
kiến trúc phương Tây nhưng người thợ tài hoa của Việt Nam đã biến chuyển
chúng một cách hài hoà trong tổng thể.

3.2. Những giá trị nghệ thuật của kiến trúc lăng Khải Định cần được gìn
giữ và phát huy

-Trong quy hoạch mặt bằng tổng thể, thuật phong thuỷ được áp dụng vào lăng
Khải Định cũng như tất cả các lăng khác của triều Nguyễn đã mang lại giá trị
nghệ thuật cảnh quan rất lớn. Với các yếu tố như “sơn triều thuỷ tụ”, “tiền án
hậu chẩm”, “tả thanh long, hữu bạch hổ”, “huyền thuỷ, minh đường”…được lựa
chọn và cân nhắc một cách nghiêm ngặt, lăng Khải Định đã nằm giữa một
khung cảnh thiên nhiên hết sức hùng, vĩ tráng lệ. Có thể vào thời điểm đó, các
thầy phong thuỷ địa lý chưa có khái niệm cũng như lý luận về kiến trúc cảnh
quan như ngày nay. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kĩ về phong thuỷ, chúng ta sẽ
thấy đối tượng và kết quả mà phong thuỷ hướng đến cũng là đối tượng và kết
quả mà kiến trúc cảnh quan ngày nay muốn đạt được. Thuật phong thuỷ luôn
yêu cầu phải thận trọng khi đặt công trình hài hoà trong một tổng thể không gian
thiên nhiên mà không gian đó phải phù hợp với tính chất của công trình, nhằm
73

tạo ra sự hoà hợp bền lâu giữa thiên nhiên, con người và công trình. Xem xét
những mô hình của thuật phong thuỷ xưa, chẳng hạn như kinh thành Huế, ta
thấy rằng đó là những tổng thể có cảnh quan rất đẹp. GS. Ngô Huy Quỳnh nhận
xét : “Cái đẹp nổi lên từ những công trình mà địa hình và phong cảnh xung
quanh đã làm người bạn đồng hành không bao giờ rời nhau đối với kiến trúc.
Từ đó toát ra đặc điểm truyền thống trong kiến trúc cổ của dân tộc là sự hài hoà
với địa hình, phong cảnh và thiên nhiên nhiệt đới, trong đó ẩn náu những Tay
Long, Tay Hổ, những án, những chẩm, những minh đường, não đường, và cả
những mặt nước tự tạo hoà với sông hồ thiên nhiên theo những “đồ án quy
hoạch” mà đồ đệ của Tả Ao – ông tổ của thầy địa lý – tạo ra.” [37]. Trong thời
gian gần đây, thuật phong thuỷ cũng thu hút được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu phương Tây trong mối liên hệ của nó với kiến trúc hiện đại. Có thể
nói, thuật Phong Thuỷ là một “khoa học huyền linh” mà chúng ta cần nghiên
cứu, gìn giữ và phát huy.

-Trong tổ chức không gian mặt bằng các công trình của lăng Khải Định, chúng
ta thấy rằng các nhà xây dựng thời kỳ đó đã rất linh hoạt trong việc tổ hợp
không gian chức năng, biết cách làm mới không gian mà vẫn giữ lại được những
đặc trưng và nguyên tắc tổ chức vốn rất nghiêm ngặt của dòng kiến trúc cung
đình Huế. Việc làm mới, sáng tạo, là yêu cầu không thể thiếu đối với những nhà
thiết kế kiến trúc. Tuy nhiên, sự làm mới, sáng tạo đó phải được tính toán, cân
nhắc, phải đặt nó trong mối liên hệ với yếu tố truyền thống.

-Trong hình khối công trình, lăng Khải Định đã giải quyết thành công mối quan
hệ tỷ lệ hài hoà giữa bộ phận và toàn thể công trình, giữa công trình với tổng thể
và giữa công trình với con người. Có thể nói rằng, cho dù là kiến trúc phương
Đông hay phương Tây, thì quá trình thiết kế xây dựng công trình kiến trúc,
chung quy lại, là một quá trình đi tìm kiếm sự hài hoà cho công trình đó, hài hoà
giữa công trình với thiên nhiên, hài hoà giữa các công trình với nhau và hài hoà
giữa công trình với con người. Nghệ thuật tổ chức hình khối công trình và cách
74

xử lý mặt đứng của kiến trúc cung đình Huế nói chung và của lăng Khải Định
nói riêng, ẩn chưa nhiều bài học về tìm kiếm sự hài hoà này.

-Trong việc sử dụng vật liệu và kết cấu, chúng ta cần phải học tập các nghệ nhân
ngày trước cách sử dụng và phối hợp một cách hài hoà giữa vật liệu và kĩ thuật
xây dựng tiên tiến, hiện đại với các vật liệu và kĩ thuật xây dựng truyền thống.
Lăng Khải Định đã rất thành công trong sự phối hợp vật liệu, tạo nên một thành
quả vừa mang yếu tố mới vừa mang nét cổ truyền. Vật liệu và kĩ thuật tiên tiến
luôn luôn mang tính cách mạng và hàm chứa nhiều ưu điểm vượt trội, nó sẽ tạo
ra những nét mới cho công trình kiến trúc. Trong khi đó, những vật liệu truyền
thống, thường là có sẵn ở địa phương, sẽ tạo cho công trình cảm giác gần gũi,
thân thuộc và thậm chí lớn lao hơn, đôi khi nó sẽ giữ cho công trình bản sắc văn
hoá của từng vùng miền. Có thể nói, bài học về việc phối hợp vật liệu sao cho
hiệu quả trong kiến trúc là một bài học không bao giờ cũ.

-Trong trang trí của lăng Khải Định, nghệ thuật khảm sành sứ được đánh giá cao
về giá trị nghệ thuật. Tiếp nhận những thành tựu chế tác màu men hiện đại, tạo
được sự phong phú về màu và độ bền của vật liệu, nghệ thuật khảm sứ dưới thời
Khải Định vừa tiếp thu yếu tố truyền thống, vừa tận dụng những phương pháp,
kỹ thuật mới để khảm sứ màu. Hệ thống màu thuỷ tinh đã làm tăng sự biểu hiện
của khảm và làm phong phú hơn việc chuyển sắc, điều này rất có ý nghĩa đối
với trang trí nội thất, nơi mà sự tiếp nhận ánh sáng cần sự tinh tế. Có thể nói
thuỷ tinh màu đã được các nghệ nhân đưa vào các hệ thống nghệ thuật khảm cổ
truyền một cách rất tự nhiên và hài hoà. Không những thế, họ còn khai thác
được các yếu tố chất liệu, độ bóng sáng, phản chiếu, lộng lẫy của thuỷ tinh để
thực hiện các đồ án trang trí, đặc biệt là sự lột tả, cảm nhận chiều sâu của các đề
tài mây trời, bóng nước, hoa lá, quả cành. Mô- típ trang trí nội thất lăng Khải
Định luôn gây cảm giác động, biển đổi bợi sự tạo dựng các đường xoắn, đường
viền xoáy đa chiều, gắn với phong cách trang trí Baroque thời kì muộn ở Pháp,
nhưng tinh thần của đề tài, lối ứng xử ngôn ngữ, những triết lý biểu hiện bên
75

trong thì hoàn toàn mang đậm sắc thái Á Đông. Vì vậy không gian nội thất vẫn
tạo được cảm giác gần gũi, cho dù sức biểu hiện của hoa lá, rồng, mây
nước…vẫn làm chúng ta bị lôi cuốn, làm quên đi cảm giác đây là không gian
của chốn địa mộ u buồn. Có thể nói, nghệ thuật khảm sành sứ là một mảng quan
trọng trong trang trí kiến trúc cung đình Huế, không thể nghiên cứu mỹ thuật
nhà Nguyễn mà bỏ qua thể loại nghệ thuật độc đáo này.
76

KẾT LUẬN

1. Lăng Khải Định ra đời trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đang có nhiều
mâu thuẫn và biến chuyển sâu sắc, chế độ phong kiến trong giai đoạn mạt kì và
đất nước nằm dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Quá trình khai thác thuộc địa là
một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến việc tạo ra quá trình giao lưu văn hoá
mạnh mẽ giữa văn hoá truyền thống bản địa và văn hoá phương Tây. Quá trình
giao lưu này đã khiến kiến trúc truyền thống Việt Nam có những chuyển biến
mạnh mẽ khi sử dụng những vật liệu mới, kĩ thuật xây dựng tiên tiến và chịu
ảnh hưởng từ phong cách kiến trúc phương Tây. Có thể xem lăng Khải Định là
một minh chứng hùng hồn cho sự biến chuyển này, một công trình mang đậm
dấu ấn đổi thay của lịch sử xây dựng kiến trúc triều Nguyễn.

2. Kiến trúc lăng tẩm triều Nguyễn có lịch sử hình thành và phát triển khá dài.
Trong quá trình phát triển đó, kiến trúc lăng tẩm triều Nguyễn đã hình thành nên
những đặc trưng riêng với những quy chế tổ chức xây dựng hết sức nghiêm ngặt.
Do vậy, khi phân tích và nghiên cứu lăng Khải Định, người nghiên cứu không
thể tách rời nó ra khỏi hệ thống lăng tẩm triều Nguyễn mà phải đặt nó trong mối
liên hệ so sánh.

3. Vua Khải Định luôn bị xem là một ông vua bù nhìn bất tài. Chính vì vậy, khi
nhận xét về lăng Khải Định, người đương thời cũng như một số học giả sau này
vẫn xem xét nó trong những định kiến thiếu thiện cảm, thiếu tính lịch sử cụ thể.
Đó là một điều cần phải tránh khi nghiên cứu khoa học bởi nó sẽ khiến chúng ta
bỏ sót những giá trị của đối tượng nghiên cứu. Thật vậy, sau khi nghiên cứu và
phân tích lăng Khải Định, chúng ta thấy rằng công trình này có sự hài hoà văn
hoá Đông – Tây trong kiến trúc của nó, biểu hiện rất sinh động trong việc tổ
chức không gian cảnh quan, tổ chức mặt bằng, hình khối cũng như sử dụng vật
liệu. Đặc biệt, Lăng Khải Định là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí nội thất. Sự
77

hài hoà ở đây không chỉ ở những biểu hiện của hình thức kiến trúc bên ngoài mà
còn là sự hài hoà của những hệ tư tưởng ẩn chứa đằng sau nó.

4. Qua việc làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật của lăng Khải Định, chúng ta
thấy rõ sự tài hoa của những nghệ nhân thời trước. Họ đã đạt được những thành
công đáng kể trong việc tìm kiếm sự hài hoà cho công trình kiến trúc, học tập
những cái mới từ phương Tây trong sự chọn lọc và biến chuyển cho phù hợp với
kiến trúc truyền thống bản địa. Đây chính là bài học cho những kiến trúc sư Việt
Nam trong lý luận cũng như thực tiễn thiết kế kiến trúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[01] Nguyễn Hữu Châu Phan (2012), Nghiên cứu Huế, NXB Thuận Hoá .
[02] Nguyễn Trọng Huấn, Kiến trúc sư, họ là ai?, đại hội kiến trúc sư Việt
Nam tháng 4 -1987, http://www.vanchuongviet.org/
[03] Phan Thuận An (2001), Kiến trúc cố đô Huế, NXB Thuận Hoá.
[04] Phan Thanh Hải , Lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế, Trung
tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, http://www.hueworldheritage.org.vn/
[05] Phan Quý Linh (1999), Lăng tẩm các vua Nguyễn – Sự ảnh hưởng
của văn hoá, triết học, Luận văn thạc sĩ, TP.HCM.
[06] Trần Đức Anh Sơn (2004), Huế - Triều Nguyễn một cái nhìn, NXB
Thuận Hoá.
[07] Đào Duy Anh (2005), Hán Việt từ điển, NXB Văn Hoá Thông Tin,
tr.395 .
[08] Viện ngôn ngữ (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức, tr.476 .
[09] Phan Thanh Hải , Lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế, Trung
tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, http://www.hueworldheritage.org.vn/
[10] Phan Thanh Hải , Lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế, Trung
tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, http://www.hueworldheritage.org.vn/
[11] Nguyễn Quang Trung Tiến (2002), Tuyển tập những bài nghiên cứu
về triều Nguyễn, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, tr.7.
[12] Nguyễn Thế Thoại, Giao lưu văn hoá Việt – Âu thời Nguyễn,
http://www.vanchuongviet.org/
[13] Vũ Tam Lang, “Kiến trúc Pháp ở Hà Nội và Việt Nam (thế kỷ XIX-
XX)”, Tạp chí kiến trúc và đời sống, số tháng 12/1997.
[14] Nguyễn Bá Đang, “Truyền thống và đổi mới trong kiến trúc Việt
Nam, Tạp chí kiến trúc Việt Nam, số tháng 04/1998 .
[15] Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB TP
HCM.
[16] Trần Đức Anh Sơn, Phan Thanh Hải (2002), Tuyển tập những bài
nghiên cứu về triều Nguyễn, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
[17] Nguyễn Hữu Thông (1994), Huế, nghề và làng nghề thủ công truyền
thống, NXB Thuận Hoá, tr.108.
[18] Nguyễn Hiến Lê dịch (2003), Khổng Tử và Luận Ngữ, NXB Văn Học.
[19] Nguyễn Hiến Lê dịch (2012), Kinh dịch, đạo của người quân tử,
NXB Văn Học.
[20] Trần Trọng Sâm (2010), Kinh dịch diễn giải, NXB Văn học, tr.85.
[21] Trần Trọng Sâm (2010), Kinh dịch diễn giải, NXB Văn học, tr.102.
[22] Trần Trọng Sâm (2010), Kinh dịch diễn giải, NXB Văn học, tr.120.
[23] Trần Trọng Sâm (2010), Kinh dịch diễn giải, NXB Văn học, tr.135.
[24] Nguyễn Tài Đông, "Bước đầu tìm hiểu một số vấn đề nhận thức luận
trong Chu Dịch", Tạp chí Triết Học, số tháng 2/2002.
[25] Nguyễn Hiến Lê dịch (2012), Kinh dịch, đạo của người quân tử,
NXB Văn Học.
[26] Nguyễn Hiến Lê dịch (2012), Lão Tử, đạo đức kinh, NXB Tổng Hợp
TP HCM.
[27] Mario Livio, Nguyễn Minh Hoàng dịch (2007), Tỷ lệ vàng, NXB Trẻ.
[28] Jacques Vauthier, Phạm Văn Thiều dịch (2005), Trò chuyện với nhà
vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận, NXB Trẻ.
[29] Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.
[30] Nguyễn Đức Thiềm (2010), Khái niệm kiến trúc và cơ sở sáng tác,
NXB Xây Dựng .
[31] Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục
[32] Trung tâm nghiên cứu lý học Đông Phương, Giới thiệu phong thuỷ
Lạc Việt, http://www.lyhocdongphuong.org.vn
[33] Nguyễn Thế Cường,“Kiến trúc và các thuộc tính văn hoá”, Tạp chí
Kiến Trúc số tháng 07/2011.
[34] Phan Thuận An (2001), Kiến trúc cố đô Huế, NXB Thuận Hoá.
[35] Phan Thanh Bình, (2002), Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều
Nguyễn, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, tr.327.
[36] Trần Đức Anh Sơn, Lăng Khải Định, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô
Huế, http://www.hueworldheritage.org.vn/
[37] Ngô Huy Quỳnh (2000), Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam, NXB
Xây Dựng.
ĐỊA THẾ CỦA LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.1
Nguồn: Google Map
MẶT BẰNG TỔNG THỂ LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.2
Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế
MẶT BẰNG TỔNG THỂ LĂNG KHẢI ĐỊNH VỚI TỈ LỆ
VÀNG Hình 3.3
Nguồn: người viết
MẶT BẰNG TỔNG THỂ LĂNG MINH MẠNG
Hình 3.4
Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế
KHÔNG ẢNH LĂNG KHẢI ĐỊNH VÀ MINH MẠNG
Hình 3.5
Nguồn: internet

Không ảnh Lăng Khải Định

Không ảnh Lăng Minh Mạng


TRỤC CẢNH QUAN TRONG CUNG ĐIỆN VERSAILLES
Hình 3.6
Nguồn: internet

Cung điện Versailles nhìn từ trên cao

Toà cung điện là công trình nổi bật nhất trong trục cảnh quan
SO SÁNH CÁCH BỐ TRÍ CHỨC NĂNG GIỮA ĐIỆN THỜ
LĂNG KHẢI ĐỊNH VÀ LĂNG MINH MẠNG Hình 3.7
Nguồn: người viết

Bố trí chức năng trong cung Thiên Định – lăng Khải Định

Bố trí chức năng trong Sùng Ân điện – lăng Minh Mạng


SO SÁNH KHÔNG GIAN ĐIỆN THỜ
LĂNG KHẢI ĐỊNH VÀ LĂNG MINH MẠNG Hình 3.8
Nguồn: http://dulich360.com.vn/

Không gian bên trong cung Thiên Định – lăng Khải Định

Không gian bên trong Sùng Ân điện – lăng Minh Mạng


SO SÁNH MẶT ĐỨNG ĐIỆN THỜ
LĂNG KHẢI ĐỊNH VÀ LĂNG MINH MẠNG Hình 3.9
Nguồn: người viết

Mặt đứng cung Thiên Định – lăng Khải Định

Mặt đứng Sùng Ân điện – lăng Minh Mạng


SO SÁNH MẶT ĐỨNG ĐIỆN THỜ LĂNG KHẢI ĐỊNH VÀ
DINH TOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG Hình 3.10
Nguồn: người viết

Mặt đứng cung Thiên Định – lăng Khải Định

Mặt đứng dinh toàn quyền Đông Dương (nguồn : internet)


NGHỆ THUẬT XỬ LÝ MẶT ĐỨNG CUNG THIÊN ĐỊNH
Hình 3.11
Nguồn: người viết

Hình 3.11a - Mặt đứng cung Thiên Định với tỷ lệ vàng

Hình 3.11b - Mặt đứng cung Thiên Định với các chi tiết ảnh
hưởng phương Tây
BI ĐÌNH LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.12
Nguồn: người viết

Hình 3.12a – Mặt bằng bi đình Hình 3.12b – Bia trong bi đình

Hình 3.12c - Mặt đứng bi đình với tỷ lệ hài hoà


TRỤ BIỂU LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.13
Nguồn: người viết

Hình 3.13a – Mặt bằng trụ biểu

Hình 3.13b – Chi tiết trang trí Hình 3.13c – Trụ biểu với tỷ lệ hài hoà
HỮU TÒNG TỰ LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.14
Nguồn: người viết

Hình 3.14a – Mặt bằng Hữu Hình 3.14c – Độ dốc mái


Tòng Tự

Hình 3.14b – Hữu Tòng Tự với tỷ lệ hài hoà


VẬT LIỆU KIẾN TRÚC TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.15
Nguồn: người viết

Xi măng Gạch ca rô Đá cẩm thạch

Ngói Ardoise Sắt thép uốn

Hình 3.15a – Vật liệu mới trong lăng Khải Định

Phối hợp giữa sành sứ & thuỷ Phối hợp giữa xi măng & bột màu
tinh để giả đá cẩm thạch
Hình 3.15b – Sự phối hợp vật liệu mới & truyền thống ở lăng Khải Định
KẾT CẤU CÁC CÔNG TRÌNH TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.16
Nguồn: người viết

Hình 3.16a – Tường chịu lực ở cung Thiên Định

Hình 3.16b – Cột bê tông cốt thép Hình 3.16c – Tường và cột bê tông
chịu lực trong bi đình cốt thép đỡ hệ khung mái gỗ trong
Tả Hữu Tòng Tự
TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.17
Nguồn: người viết

Hình 3.17 - Biểu tượng con rồng với đề tài “Lưỡng long triều nhật”
TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.18
Nguồn: người viết

Hình 3.18 - Biểu tượng con rồng theo kiểu “Hổ phù”
TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.19
Nguồn: người viết

Hình 3.19 - Biểu tượng con rồng theo kiểu “Long vân đồng trụ”
TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.20
Nguồn: người viết

Hình 3.20 - Các bức tứ bình với thơ chữ Hán theo kiểu “Nhất thi nhất hoạ”
TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.21
Nguồn: người viết

Hình 3.21 - Đề tài trang trí bằng chữ Hán


TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.22
Nguồn: người viết

Cung Roman biến thể và Thức cột ảnh hưởng


cửa đi kiểu Pháp phương Tây

Tượng Khải Định Đèn trần hiện đại của phương Tây

Hình 3.22 - Các chi tiết trang trí ảnh hưởng phương Tây
TRANG TRÍ NỘI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH Hình 3.23
Nguồn: người viết và 3.24

Hình 3.23 – Nội thất điện khải thành với nghệ thuật khảm sứ

Hình 3.24 – Bức tranh trần bột màu “Cửu long ẩn vân”
TRANG TRÍ NGOẠI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.25
Nguồn: người viết

Hình 3.25a – Rồng trên mặt đứng Thiên Định cung và trên bờ nóc bi đình

Hình 3.25b – Rồng trên cung cuốn dạng “hổ phù” và trên cột dạng “long
vân đồng trụ”

Hình 3.25c – Rồng hai bên các bậc cấp


TRANG TRÍ NGOẠI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.26
Nguồn: người viết

Hình 3.26 – Hình tượng con dơi tượng trưng cho ngũ phúc trên bi đình và
trên mặt đứng cung Thiên Định
TRANG TRÍ NGOẠI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.27
Nguồn: người viết

Hình 3.27 – Đề tài trang trí hoa lá


TRANG TRÍ NGOẠI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH Hình 3.28
Nguồn: người viết và 3.29

Hình 3.28 – Hình ảnh búp sen của đạo Phật và các đồ án đạo Nho - Lão

Hình 3.29 – Các chi tiết trang trí bằng chữ Hán
TRANG TRÍ NGOẠI THẤT TRONG LĂNG KHẢI ĐỊNH
Hình 3.30
Nguồn: người viết

Cung cuốn Roman biến thể và các thức cột hoa lá ảnh hưởng từ phương Tây
trên mặt đứng Thiên Định cung và trên bi đình

Cây thập giá với Hàng rào theo kiểu Cổng chính với cánh cửa
hoa văn hoa lá phương Tây sắt uốn hoa văn hoa lá

Hình 3.30 - Các chi tiết trang trí ảnh hưởng từ phương Tây
CHÂN DUNG VUA KHẢI ĐỊNH
Hình 1.1
Nguồn: www.reds.vn

Hình 1.1a – Trang phục của vua Khải Định

Hình 1.1b – Vua Khải Đinh trong một chuyến đi Pháp

You might also like