You are on page 1of 129

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HỒ CHÍ MINH


………….

NGUYỄN NHÂN TÀI

KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG


(PERFORMATIVE ARCHITECHTURE)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HỒ CHÍ MINH
………….

NGUYỄN NHÂN TÀI

KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG


(PERFORMATIVE ARCHITECHTURE)

Chuyên ngành : Kiến trúc


Mã số : 60.58.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS.KTSTRƯƠNG THANH HẢI

TP. HỒ CHÍ MINH – 2015


PHẦN 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục tiêu nghiên cứu 6
4. Đối tượng của luận văn 6
5. Giới hạn và nội dung của đề tài 6
6. Phương pháp nghiên cứu 7

PHẦN 2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG

1.1 Giải thích các khái niệm liên quan đến Kiến trúc Hiệu năng 8
1.1.1 Sự biểu đạt - hiệu quả của kiến trúc (Architectural performance) 9
1.1.2 Hiệu ứng (Effects) và hành động (Action) 11
1.1.3 Hệ biến hóa của các yếu tố (The device paradigm) 13
1.1.4 Tính bền vững của công trình 14

1.2 Sự xuất hiện của Kiến trúc Hiệu năng 16


1.2.1 Sự ảnh hưởng của bối cảnh xã hội đương đại 16
1.2.2 Cơ sở triết học và sự ảnh hưởng đến tư duy thiết kế 19
1.2.3 Sự ảnh hưởng của công nghệ và các công cụ thiết kế dùng máy tính 22

1.3 Giới thiệu một số chuyên gia nghiên cứu và thiết kế hướng hiệu năng 25
1.3.1 Các kiến trúc sư tiêu biểu 25
1.3.2 Các kỹ sư tiêu biểu 27

1.4 Kết luận chương 1 28


CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG

2.1 Tiêu chí về hình thức, vỏ bao che 29


2.1.1 Sự vận hành của lớp vỏ bao che 29
2.1.2 Sự đồng nhất giữa hệ thống bao che và hệ thống kết cấu 30
2.1.3 Các công trình tiêu biểu 32
2.1.3.1 Dự án Bix và công trình Kunsthaus Graz 32
2.1.3.2 Các dự án nhà xưởng của Grimshaw 34
2.1.3.3 Các công trình của Lar Spuybroek (NOX) 36
2.1.3.4 Bảo tàng tại Milwaukee của Santiago Calatrava 37
2.1.3.5 Aegis Hyposurface của Mark Goulthorpe 37

2.2 Tiêu chí về sử dụng năng lượng và sự tương tác với môi trường 38
2.2.1 Sự biến đổi của năng lượng 38
2.2.2 Khả năng tương tác của hình khối công trình với môi trường 40
2.2.3 Các công trình tiêu biểu 41
2.2.3.1 Các công trình của Thomas Herzog 41
2.2.3.2 Các công trình của Norman Foster 43
2.2.3.3 Trung tâm văn hóa Tjibaou 44

2.3 Tiêu chí về tính toán kỹ thuật kết cấu 45


2.3.1 Sự thay đổi tư duy trong thiết kế kỹ thuật 45
2.3.2 Thiết kế theo quy cách (prescriptive design) và thiết kế tối ưu hóa
(optimization design) 46
2.3.3 Một số công cụ, chương trình ứng dụng cho tính toán kỹ thuật 48
2.3.3.1 Các chương trình tính toán kết cấu của Buro Happold 49
2.3.3.2 Chương trình tính toán khí - động lực học (CFD –
Computational Fluid Dynamics) 50
2.4 Tiêu chí về sinh học, nhân văn và tiện nghi 52
2.4.1 Mối liên hệ giữa sinh học và kỹ thuật 52
2.4.2 Phân khu chức năng theo kỹ thuật sinh học 54
2.4.3 Sự điều hòa trong công trình 56
2.4.4 Sự tiện nghi trong công trình 58
2.4.5 Tiêu chuẩn sống 59

2.5 Kết luận chương 2 60

CHƯƠNG 3 : TIẾP CẬNKIẾN TRÚC HIỆU NĂNG 61

3.1 Quy trình thiết kế theo hướng Kiến trúc Hiệu năng 61
3.1.1 Thiết kế ý tưởng - Tạo hình kiến trúc 62
3.1.2 Thiết kế kết cấu 65
3.1.3 Phân tích kỹ thuật – tính toán hiệu năng 68
3.1.4 Đánh giá - điều chỉnh phương án 70

3.2 Kiến trúc Hiệu năng trong bối cảnh Việt Nam 72
3.2.1 Khả năng ứng dụng của Kiến trúc Hiệu năng vào Việt Nam 72
3.2.2 Tinh thần “hướng hiệu năng” trong các công trình bằng tre của kiến
trúc sư Võ Trọng Nghĩa 75
3.2.2.1 Cà phê gió và nước 75
3.2.2.2 Cà phê Kontum Indochine 77

3.3 Kết luận chương 3 78

PHẦN 3
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1

1. Lý do chọn đề tài
Kiến trúc Hậu hiện đại(Post-Modern Architecture)manh nha xuất hiện từ
những năm 1950 và được xem như là một sự kế thừa, tiếp nối củaKiến trúc Hiện
đại(Modern Architecture). Nó đánh dấu sự trở lại của chi tiết trang trí trong kiến
trúc, và tính đa nguyên trong thiết kế hình khối. Kể từ khi nhà sử học kiến trúc
Charles Jencks(1977) chính thức khai tử Kiến trúc Hiện đại trong cuốn sách “The
Language of Post-Modern Architecture” (tạm dịch : Ngôn ngữ của Kiến trúc hậu
hiện đại), với thông cáo "Kiến trúc Hiện đại đã chết ở Saint Louis, Missouri ngày
15 tháng 7 năm 1972 vào hồi 15h32", thìKiến trúc Hậu hiện đại đã được công nhận
như một trào lưu trên toàn thế giới và tồn tại cho đến ngày nay. Trong hơn nửa thế
kỷ dẫn dắt nền kiến trúc thế giới,Kiến trúc Hậu hiện đại đã để lại rất nhiều những
thành tựu quan trọng và sản sinh ra những con người, những kiến trúc sư vô cùng
tài năng, cũng như những công trình mang tính biểu tượng cao.
Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội hiện nay,Kiến trúc Hậu hiện đại đang dần
mất đi sự hào nhoáng vốn có của mình. Giờ đây chúng ta không chỉ quan tâm đến
tính tượng trưng, sự phô trương hay vẻ đẹp thẩm mỹ đơn thuần của một công trình,
mà còn quan tâm đến tính hiệu quả, khả năng hoạt động hay “cách ứng xử”, phản
ứng của công trình đó với môi trường bên ngoài. Bởi lẽ, những vấn đề khủng hoảng
kinh tế, sự cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên cũng như các vấn đề về môi trường
cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ máy tính là những đề tài vô cùng
nóng bỏng, rất được quan tâm.Và lẽ dĩ nhiên kiến trúc đương đại không thể nào
đứng ngoài cuộc. Nó cần một sự thay đổikhi thập kỷ mới của chúng ta đang bắt đầu
với nền kinh tế thế giới trong tình trạng hỗn loạn và con người cần cân nhắc lại
những điều mà họ ưu tiên.
Cuộc cách mạng kiến trúc đương đại đang cần những tư duy, lý luận mới để
có thể đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết của xã hội.Chúng ta cần tìm ra một
cách tiếp cận thức thời hơn trong nghệ thuật thiết kế, mà tiêu chí cao nhất của nó là
khai thác tối đa “tính hiệu quả” của công trình ở tất cả các mặt: từ hình khối đến
công năng sử dụng;từ kỹ thuật thuần túy như vật liệu, kết cấu, điện lạnh đến bối
2

cảnh môi trường, văn hoá, kinh tế, xã hội. Ngày nay với sự giúp sức đắc lực của
công nghệ máy tính và công nghệ kỹ thuật số, chúng ta không khó để tạo ra được
những công trình thông minh, những thiết kế tương thích với môi trườngđồng thời
giảm được lượng vật liệu sử dụng,tiết kiệm năng lượng tiêu thụ,giảm lãng phí đến
mức tối đa nhưng vẫn hòa hợp với cảnh quan môi trường.VàKiến trúc Hiệu năng
(Performative Architecture) là một trong những xu hướng kiến trúc đương đại thỏa
mãn được những tiêu chí trên. Với sự khác biệt về tư duy và sự tiến bộ về mặt
phương pháp,Kiến trúc Hiệu năngrõ ràng không thể bị xem như một xu hướng hiện
đại nhất thời trong nền văn hoá kiến trúc hay một dạng thời trang theo trào lưu, mà
cần phải xem xét bản chất của nó trong một tầm nhìn bao quát hơn, gắn liền với sự
cách mạng trong thiết kế kiến trúc hiện đại.
Hiện nay trên thế giới tinh thần Kiến trúc Hiệu năngđang dần được giới thiệu
với công chúng qua các cuộc hội thảo, tham luận, các báo cáo khoa học cũng như
các công trình từ lý thuyết đến thực tiễn của giới chuyên môn. Chúng ta có thể kể
đến các kiến trúc sư như David Leatherbarrow, Branko Kolarevic, Michael U.
Hensel, Thomas Herzog,Matsys, Toyo Ito, các nhóm thiết kế OMA, LAVA,
OCEAN, Material Ecologyhay các kỹ sư kết cấu- những con người đã từng nhọc
công tính toán theo sau các kiến trúc sư, giờ đây đã có thể tham gia vào quá trình
thiết kế ngay từ đầu như Godfried Augenbroe, Harald Kloft, Jean-François Blassel,
Mahadev Raman, Cecil Balmond, Hanif Kara, Mutsuro Sasaki.
Tuy nhiên mọi thứ vẫn còn quá mới mẻ, Kiến trúc Hiệu năngvẫn chưa được
định nghĩa một cách thật sự rõ ràng do các nghiên cứu còn ít và mang tính độc lập,
riêng lẻ mặc dù những biểu hiện của nó ngày càng sắc nét. Ở Việt Nam khái niệm
Kiến trúc Hiệu nănggần như vẫn chưa được biết đến, vì vậy việc nghiên cứu xu
hướng kiến trúc này sẽ giới thiệu cho giới chuyên môn trong nước một cách tiếp
cận kiến trúc rất mới, rất hay và rất thời đại. Đây cũng chính là mục tiêu lớn nhất
mà học viên muốn đạt được thông qua bài luận văn này.
3

2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu liên quan


Ở Việt Nam Kiến trúc Hiệu năngvẫn chưa được nghiên cứu một cách chính
thức mà chỉ có những công trình khoa học với đề cập ở một số khía cạnh nhỏ,
những lĩnh vực có liên quan như cuốn “Kiến trúc tham số”, (2012) của Tô Bảo
Thanh. Đây là một nghiên cứu rất có giá trị về thiết kế thuật toán cũng như thiết kế
tham số, một công cụ rất quan trọng trong quá trình thiết kế hình khối và kết cấu
cho các công trìnhhướngKiến trúc Hiệu năng. Hay như cuốn “Nghiên cứu ứng dụng
phương pháp tính toán động lực học chất lưu (Computational Fluid Dynamics –
CFD) trong các bài toán kỹ thuật ”,(2012) của Nguyễn Trọng Tấn nghiên cứu về
các chương trình tính toán kỹ thuật hạ tầng của khí - động học của công trình một
cách tối ưu. Tuy nhiên thuật ngữ “Kiến trúc Hiệu năng” vẫn chưa từng được nhắc
đến trong các nghiên cứu trên nói riêng, cũng như các nghiên cứu có liên quan nói
chung.
Còn trên thế giới,Kiến trúc Hiệu nănghiện nay vẫn đang là một chủ đề được
bàn tán vô cùng sôi nổi bởi đặc điểm đáp ứng được những vấn đề cấp thiết của xã
hội. Điển hình là buổi hội nghị chuyên đề “Performative Architecture” được tổ chức
tại Đại học Pennsylvania trong tháng 10 năm 2003. Sự kiện đó đã tập hợp những
chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kiến trúc, xây dựng cũng như các ngành nghề
có liên quan khác như: các kiến trúc sư, các kỹ sư, các nhà lý thuyết, kỹ thuật viên,
các chuyện gia xã hội học, sinh học v.v…,với mục đích bàn luận, cung cấp thông tin
và quan điểm về Kiến trúc Hiệu năng. Và trên tinh thần của buổi hội nghị đó, một
chuyên gia nghiên cứu về đề tài này là kiến trúc sư Branko Kolarevic1 đã biên soạn,
tổng hợp và cho ra đời quyển “Performative Architecture: Beyond Instrumentality”
(tạm dịch: “Kiến trúc Hiệu năng-vượt lên trên tính công cụ”), (2005), đây là một
giáo trình rất quý giá và quan trọng dành cho giới nghiên cứu bởi nó đề cập một
cách đầy đủ nhất những khía cạnh của Kiến trúc Hiệu năng từ lý thuyết đến thực
tiễn.
Một cuốn sách rất mới không kém phần quan trọng trong khía cạnh lý luận
về đề tài này đó là “Performance-Oriented Architecture: Rethinking Architectural
Design and the Built Environment” (tạm dịch : “Kiến trúc hướng hiệu năng : tái tư

1
Branko Kolarevic: Xem mục 1.3.1
4

duy về thiết kế kiến trúc và môi trường xây dựng”), (2013) của Michael Hensel2 với
tham vọng thay đổi những quan niệm thiết kế cũ bằng một tư duy mới hướng về
hiệu năng của công trình. Qua đó vận dụng tư duy này để giải quyết các vấn đề của
kiến trúc về bối cảnh môi trường xây dựng, về quy trình thiết kế, về kiến trúc bền
vững, về tổ chức không gian và nhiều khía cạnh khác.
Về khía cạnh ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật số, Branko Kolarevic
cũng có nhiều nghiên cứu liên quan như cuốn “Architecture in the Digital Age:
Design and Manufacturing” (Tạm dịch : “Kiến trúc trong thời đại kỹ thuật số:
Thiết kế và xây dựng”), (2005) cuốn sách đề cập đến thực tiễn kiến trúc hiện đại,
trong đó công nghệ kỹ thuật số đang thay đổi nhanh chóng cách hình thành ý tưởng,
thiết kế và xây dựng các công trình. Nó còn đưa ra một tập hợp các ý tưởng đa dạng
như điều gì thích đáng hiện nay và điều gì thích đáng với ngày mai nhằmlàm nổi bật
lên các ứng dụng liên quan đến kiến trúc của thời đại kỹ thuật số.
Trong một nghiên cứu khác “Computational Architecture: Digital Designing
Tools and Manufacturing Techniques” (Tạm dịch: “Kiến trúc máy tính: Những
công cụ thiết kế số và công nghệ sản xuất”), (2012) của Asterios Agkathidis3 cung
cấp một cái nhìn tổng quan về các công cụ số và kỹ thuật số đã được sử dụng một
cách có hệ thống để khám phá không gian, kết cấu và điều kiện hình học, từ đó trừu
tượng hoá không gian.
Về khía cạnh nghiên cứu sâu về vật liệu ta có công trình nghiên cứu của
Rashida Ng, Sneha Patel4“Performative Materials in Architecture and Design”
(Tạm dịch: tính hiệu quả của vật liệu trong kiến trúc và thiết kế), (2013). Sách nói
đến sự hội tụ của nhiều tiến bộ cơ bản và quan trọng trong cách thức mà vật liệu và
môi trường được thiết kế, đánh giá và sử dụng trong kiến trúc và các ngành liên
quan. Sự nổi lên của các loại vật liệu mới, hệ thống xử lý tương tác, cùng những

2
Michael Hensel:Xem mục 1.3.1
3
Asterios Agkathidis: từng là giảng viên tại Đại học công nghệ Darmstadt, giảng viên hiện tại của Raffles
Education Corporation Trung Quốc.
4
Rashida Ng và Sneha Patel: là trợ lý giáo sư kiến trúc tại trường nghệ thuật Tyler của Đại học Temple. Họ
cùng nhau sáng lập ra SEAMLab, một viện chính sách phi lợi nhuận chuyên nghiên cứu và phổ biến những
kiến thức nền tảng thiết kế tập trung vào vật liệu.
5

công nghệ chế tạo và thiết kế số hoá đã kích thích sự phát triển của vật liệu, tổ hợp
lắp ráp và các hệ thống đi kèm với đặc tính hiệu quả. Sách cho thấy một cách tổng
quan về các dự án thiết kế tiêu biểu và những lý luận liên quan, giải thích sự tương
tác của những công nghệ này và vai trò của vật liệu trọng yếu trong nghiên cứu,
thiết kế và ứng dụng thực tiễn.
Về khía cạnh môi trường bài viết trong cuốn kỷ yếu của hội nghị quốc tế lần
thứ 13 về Computer Aided Design nghiên cứu ở châu Á “Performative
architecture: new semantic for new shapes?” (tạm dịch : “Kiến trúc Hiệu năng:
ngôn ngữ mới cho hình thức?”), (2008, tr.300-308) của G.Pellitteri, S.Concialdi và
R.Lattuca cho rằng : “Sự ảnh hưởng của môi trường được thể hiện bằng các tác
động hữu hình như lực hấp dẫn hay điều kiện thời tiết và các tác động vô hình như
các giá trị văn hóa, di sản. Do đó hình thức của công trình hoàn toàn liên quan đến
ảnh hưởng của môi trường và phải đạt được các mục tiêu cụ thể.”
Cho đến thời điểm hiện tại,Kiến trúc Hiệu năngtuy vẫn còn non trẻ, và chưa
có một khái niệm thật cụ thể, thế nhưng loại hình nàyvẫn đang đượccác chuyên gia
không chỉ trong lĩnh vực kiến trúc mà còn ở các lĩnh vực liên ngành khác trên thế
giới quan tâm, nghiên cứu rất nhiều với các cuộc hội thảo chuyên đề hàng năm, qua
các bài báo, các tham luận trên các tạp chí kiến trúc, khoa học uy tín. Điều đó chứng
tỏ rằng đề tài này hiện đang là một vấn đề nóng bỏng về mặt lý luận lẫn thực hành
kiến trúc.
Tuy nhiên ở Việt Nam, Kiến trúc Hiệu năngvẫn còn quá mới và chưa có một
công trình nghiên cứu nào chính thức đề cập đến, chính vì vậy đây vừa là sự khó
khăn, thách thức cũng vừa là một động lực thúc đẩy tác giả thực hiện đề tài luận văn
này với mục đích tìm hiểu, nhân định cũng như giới thiệu cho giới hành nghề về
một loại hình kiến trúc mới đang được quan tâm trên diễn đàn kiến trúc thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu những tiêu chí củaKiến trúc Hiệu năngtừ
đó giới thiệu và chứng minh đây là bước đi kế tiếp của kiến trúc trong bối cảnh xã
hội đương đại. Và để thực hiện điều này bài luận văn có các mục tiêu nhỏ sau đây:
6

 Tìm hiểu về cơ sở hình thành và phát triển của Kiến trúc Hiệu năng.
 Tìm hiểu về những tiêu chí, tính ưu việt của Kiến trúc Hiệu năng.
 Thông qua các đặc điểm, tiêu chí, tìm hiểu và xây dựng một quy trình thiết
kế theo Kiến trúc Hiệu năng.
 Nghiên cứu, nhận định sự phát triển và triển vọng của Kiến trúc Hiệu năng
 Giới thiệu đến cộng đồng Kiến trúc ở Việt Nam về Kiến trúc Hiệu năng, một
cuộc cách mạng trong kiến trúc đương đại, cùng với những tư duy, cách tiếp
cận mới của nó.

3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn


Các vấn đề về bối cảnh hình thành, tư tưởng triết học,các đặc điểm, tiêu chí,
nguyên tắc chung, cách tiếp cận công trình của giới chuyên môn theo tư duy
củaKiến trúc Hiệu năng.
Nhận định được sự phát triển của Kiến trúc Hiệu năng trong tương lai cũng
như tìm kiếm sự thay đổi về tư duy, quy trình, cách tổ chức thiết kế.

4. Giới hạn và nội dung của đề tài


Do Kiến trúc Hiệu năngliên quan đến nhiều lĩnh vực cũng như có một cách
tiếp cận rất rộng vì vậy luận văn bao gồm những nội dung cụ thể trong giới hạn như
sau:
 Tìm hiểu về bối cảnh hình thành và sự phát triển của Kiến trúc Hiệu năng.
 Các cơ sở triết học của Kiến trúc Hiệu năngqua tư duy của các nhà triết gia.
 Sự ảnh hưởng của khoa học và công nghệ tới Kiến trúc Hiệu năng.
 Giải thích một số thuật ngữ và các khái niệm cơ bản liên quan đến Kiến trúc
Hiệu năng.
 Giới thiệu các nguyên tắc, đặc điểm thiết kế và tư duy tiếp cận của Kiến trúc
Hiệu năngqua một số tiêu chí chính.
 Nhân định triển vọng, về tương lai của Kiến trúc Hiệu năng.
7

5. Phương pháp nghiên cứu


Để làm rõ mục tiêu, nội dung và giới hạn của đề tài, bài luận văn bao gồm
các phương pháp nghiên cứu như sau:
 Phương pháp lịch sử : dùng để nghiên cứu bối cảnh, quá trình hình thành
và phát triển của Kiến trúc Hiệu năng
 Phương pháp sưu tầm : tập trung vào các công trình nghiên cứu của các
chuyên gia, thông tin về các công trình tiêu biểu của Kiến trúc Hiệu năng
 Phương pháp chuyên gia : thông qua e-mail tham khảo và phỏng vấn ý
kiến của Neil Leach, người đặt nền móng cho những luận điểm của Chủ
nghĩa Vật chất mới (New Materialism) trong kiến trúc, một tư tưởng rất
quan trọng liên quan đến Kiến trúc Hiệu năng
 Phương pháp hệ thống hóa và thống kê : Kiến trúc Hiệu năng tuy mới
hình thành nhưng các công trình nghiên cứu về nó cũng như các vấn đề liên
quan rất phong phú và đa dạng nên phương pháp này giúp phân loại các tài
liệu một cách có hệ thống, đảm bảo cho luận văn có tính chặt chẽ thống nhất
và khoa học
 Phương pháp phân tích – tổng hợp : phân tích các tài liệu được sưu tầm,
thống kê để hình thành nên các luận cứ, luận chứng nhằm làm sáng tỏ nội
dung của đề tài
 Phương pháp so sánh : thông qua sự so sánh Kiến trúc Hiệu năng với các
trào lưu khác để có những đánh giá, nhận định sâu sắc và rõ ràng hơn
PHẦN 2

PHẦN NỘI DUNG


8

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC HIỆU NĂNGTRONG KIẾN


TRÚC ĐƯƠNG ĐẠI

1.1. Giải thích các khái niệm liên quan đếnKiến trúc Hiệu năng
Kiến trúc Hiệu năng là một khái niệm mới về kiến trúc trong bối cảnh kiến
trúc đương đại. Là một sự thay đổi về định hướng nhìn nhận kiến trúc từ lý thuyết
sang thực tế, từ cái mà kiến trúc được định nghĩa sang cái kiến trúc thực sự thể hiện.
Thông thường để tìm hiểu, phân tích một công trình kiến trúc ta có hai cách: một là
xem nó như là một vật thể ra đời từ quá trình thiết kế xây dựng để suy xét về mặt kỹ
thuật, định lượng; hai là xem nó như một vật thể là đại diện cho các hoạt động sáng
tạo và ý tưởng của con người để xem xét về mặt thẩm mỹ, định tính. Mặc dù những
cách đánh giá này sẽ giúp trình bày rõ ràng nguồn gốc, mục đích xây dựng cũng
như giá trị của một công trình kiến trúc, nhưng việc quá tập trung vào kỹ thuật và vẻ
đẹp thẩm mỹ của một công trình sẽ khiến nhìn nhận về kiến trúc của chúng ta bị hạn
chế. Nhiều phương diện quan trọng của một công trình sẽ được nhìn nhận rõ nét
hơn khi chúng ta tập trungtheo hướng vào những cái mà nó diễn tả, hay đúng hơn là
khả năng biểu đạt của nó.
NhưDavid Leatherbarrow5 đã từng viết về vấn đề này như sau: “giờ đây
chúng ta sẽ tìm hiểu tiền đề về lý luận cũng như cách phân tích công trình kiến trúc
theo một nhận định mới. Rủi ro của cách nhận định này chính là nó vượt ra ngoài
cách phân tích chuẩn mực của lý trí. Vì sẽ có nhiều cách biểu đạt của kiến trúc dựa
vào những điều kiện mà có vẻ như chẳng thể suy nghĩ một cách lý trí được. Nhưng
nó không có nghĩa là chúng ta không thể hiểu được, chỉ là chúng ta phải hiểu chúng
theo một cách hoàn toàn khác”.[11, tr.7]
Như vậy, để hiểu rõ hơn về Kiến trúc Hiệu năng, chúng ta cần phải tạm thời
bỏ qua các nhận định truyền thống mà thay vào đó là nhìn nhận kiến trúc theo một
cách mới hơn thông qua các khái niệm sau đây.

5
David Leatherbarrow: Xem mục 1.3.1
9

1.1.1. Sự biểu đạt – hiệu quả của kiến trúc (Architectural performance)
Vào cuối thập niên 1950, khái niệm về tínhbiểu đạt – hiệu
quả(performance)6 nổi lên, đặc biệt trong ngôn ngữ học và văn hoá nhân loại học
cùng những lĩnh vực nghiên cứu khác. “Khái niệm này đã thay đổi nhận thức văn
hoá, nó quan niệm sự vật trong thế giới quan (dù tĩnh hay động) đều có tương tác
với môi trường xung quanh qua nhiều giai đoạn có liên hệ mật thiết với nhau”. [11,
tr.205]
Trong kiến trúc thuật ngữ “Architectural performance”thật ra không quá
mới. Nguồn gốc của loại kiến trúc này xuất hiện từ giữa thế kỷ 20 qua những dự án
thiết kế của những người đi tiên phong trong ngành kiến trúc ở thập niên 1960 và
1970 như: “soft cities (thành phố mềm)” của Archigram, các công trình phỏng robot
(robotic metaphors) và cảnh quan đô thị phỏng hữu cơ (quasi-organic), tất cảđã vẽ
nên những hình ảnh giả tưởng dựa trên máy móc, thiết bị điện tửtrong nền văn hóa
đương thời.
Như vậy trong kiến trúc,chúng ta nên hiểu cụm từ “architectural
performance” như thế nào cho đúng? Là xem công trình “diễn” vai gì, biểu đạt như
thế nào hay phải xem công trình như một cỗ máy, một động cơ khổng lồ đang tự
thân hoạt động như trong định nghĩa “nhà là cái máy để ở” của Le Corbusier7? Điều
thú vị là trong Kiến trúc Hiệu năng cả hai cả hai lớp nghĩa trên đều đúng,một công
trình với sự kết hợp của tính hiệu quả cùng với tính biểu đạt sẽ tạo ra một sản phẩm
mới mang tính cách mạng (Lance Hosey8, 2010).
Như vậy chúng tacó thể hiểu rằng “Architectural performance” là cách
“diễn” của một công trình thông qua hoạt động và trải nghiệm của nó. Như “diễn”
vai một trường học, một căn bếp, một văn phòng,… Mặc dù trả lời như vậy cũng

6
Theo từ điển Oxford Mỹ từ “Performance” có thể hiểu theo hai nghĩa chính : một là sự trình chiếu, biểu diễn
hai là hiệu suất hoạt động của một sự vật
7
Le Corbusier (6 tháng 10 năm 1887 – 27 tháng 8 năm 1965): là một kiến trúc sư người Thụy Sĩ và Pháp nổi
tiếng thế giới. Ông là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu Kiến trúc hiện đại
của thế kỉ 20
8
Lance Hosey: Kiến trúc sư, nhà nghiên cứu người Mỹ nổi tiếng với các đầu sách thúc đẩy phát triển bền
vững trong thiết kế. Hiện nay ông là Giám đốc Phát triển bền vững với các công ty kiến trúc toàn cầu RTKL
Associates.
10

có nhiều điểm hợp lý, nhưng việc để cuộc đời của một công trình dựa hoàn toàn
vào công năng thì chỉ có thể được xem là “sự tồn tại nhất thời”9 vì tất cả mọi thứ
liên quan tới công trình đó đều phụ thuộc vào mong muốn của chúng ta dành cho
nó. Nghĩa là công trình đó “là cái gì” thì sẽ do con người chúng ta quyết định cho
nó thông qua công năng (như để ở thì là nhà, để học thì là trường,…) và quyết định
này có thể sẽ thay đổi theo thời gian. Như Aldo Rossi10 đã nghiên cứuqua thuyết
chức năng (functionalism),ông cho rằng công năng của một tòa nhà không cố định
mà có thể thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời của nó. Có khi một ngôi nhà dân có
thể trở thành phòng mạch, một khu chung cư có thể biến thành rạp chiếu phim,…
Chính vì vậy, theo AldoRossi, do công năng có thể biến đổi liên tục và không cố
định nên không thể sử dụng nó để định nghĩa một công trình. Trong bài nghiên cứu,
Aldo đã quyết định chọn định nghĩa công trình theo các thể loại (Type) của
chúng.[9]
Không thể chối cãi sự thật rằng một công trình được xây dựng là để phục vụ
con người- như một nông trại để phục vụ cuộc sống của người nông dân, một
trường học là để con người có chỗ học tập,… Hay tương tự như định nghĩa của
Aristotle11 rằng một công trình kiến trúc là thứ để thể hiện sinh hoạt và cuộc sống
của con người. Như vậy, chúng ta đương nhiên không thể loại bỏ những yếu tố liên
quan tới con người và công năng, rồi văn hóa, lịch sử,…khi phân tích một công
trình. Nhưng liệu có một góc độ nhỏ nào đó, chúng ta có thể phân tích công trình
theo hướng hoàn toàn không dính dáng gì tới việc con người là tác động lớn
nhất tới bản chất của nó? Liệu khi chúng ta cắt đi sợi dây kết nối giữa con người
và một công trình thì chúng ta sẽ có gì? Có phải chỉ con người chi phối đến công
trình kiến trúc ?

9
Thuật ngữ "sự tồn tại nhất thời": (borrowed existence) có nguồn gốc từ Jean-LucMarion trong cuốn Excess:
Studies of Saturated Phenomena” (tạm dịch : các nghiên cứu về hiện tượng bão hòa), (2002). Trong cuốn
sách thuật ngữ này xuất hiện nhiều nhất ở chương 2
10
Aldo Rossi (03/05/1931 – 04/09/1997) là một kiến trúc sư nổi tiếng người Ý, ông đạt được sự công nhận
quốc tế trong bốn lĩnh vực riêng biệt: lý thuyết, hội họa, kiến trúc và thiết kế sản phẩm
11
Aristoteles (384 – 322 TCN)là một nhà triết học và bác học và là một trong ba cột trụ của văn minh thời Hy
Lạp cổ đại, học trò của Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lãnh vực.
Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học.
11

Đây là câu hỏi rất đáng quan tâm vì thật ra có nhiều trường hợp công trình
hoặc phòng ốc được xây xong rồi chúng ta mới quyết định nó sẽ là gì (tức là công
trình tồn tại trước khi con người áp công dụng cho nó). Chưa kể, công trình cũng sẽ
vẫn luôn tồn tại ở đó khi đã hoàn thành chức năng của người sử dụng (như một gia
đình chuyển chỗở thì ngôi nhà vẫn ở đó, chuyển bệnh viện thì bệnh viện có mất đi
nhưng tòa công trình vẫn sẽ còn tồn tại …)Nhưng khi chúng ta nhìn một tòa nhà bỏ
hoang, chúng ta vẫn sẽ thấy nó vẫn sống mặc dù không hề liên quan tới con người
và nó hoàn toàn không mang bất cứ định nghĩa nào mà con người gán ghép hay tự
nó định nghĩa chính nó.
Như vậy, Theo David Leatherbarrow:“architectural performance là một
khái niệm mà sự hoạt động hay sự biểu đạt sẽ là yếu tố chủ chốt để định nghĩa một
công trình hay nói cách khác là ta sẽ định nghĩa một công trình trước khi nó mang
những định nghĩa có liên quan tới con người.”[11,tr.8]

1.1.2. Hiệu ứng (Effects) và Hoạt động (Action)


Như đã nói ở trên thông thường có hai cách để xem xét một công trình: cách
thứ nhất là xem một công trình như nhữngthành phần được khởi nguồn từ những
bản vẽ thiết kế và định hình sau khi được thi công. Cách thứ hai là xem một công
trình thông qua những góc nhìn, những cảm nhận riêng của con người được khơi
gợi bởi những hình thù kiến trúc của nó. Cả hai cách này, một cách xem kiến trúc
như kết quả của tư duy về kỹ thuật và cách thứ hai xem kiến trúc là sự tư duy về
thẩm mỹ. Xuyên suốt lịch sử, các nhà kiến trúc sư và nghiên cứu đã luôn tranh cãi
về hai khía cạnh kỹ thuật và thẩm mỹ này. Một nhóm cho rằng ít có sự liên kết giữa
kỹ thuật và thẩm mỹ (những chi tiết đẹp, mang tính thẩm mỹ trong một công trình
thường không mang tính công năng cao), một nhóm lại cho rằng yếu tố thẩm mỹ có
thể liên kết, giúp bù đắp những thiếu sót của kỹ thuật trong việc thể hiện những chi
tiết về văn hóa, lịch sử,…và điều này đã làm nảy sinh ra rất nhiều phong cách kiến
trúc mới với các tiêu chí hướng hình thức hay hướng công năng.
12

Tuy nhiên đối với Kiến trúc Hiệu năng ta phải nghĩ theo một cách khác, thay
vì tập trung vào các yếu tố trênta tập trung vào cách mà công trình đó “vận hành”
và những “hiệu quả” mà nó tạo ra[11]. Những công trình đứng im gần như là thụ
động, phải chăng chúng cũng có “cử động”, cũng có “biểu cảm” của riêng mình?
Tòa nhà và người sử dụng phải chăng chỉ có một mối quan hệ một chiều? Phải
chăng một công trình chỉ đứng im chờ đợi con người đến và sử dụng, chỉ sống khi
chúng ta đặt chân vào nó? Vậy tại sao chúng ta đôi khi lại có cảm giác thân thuộc
hay xa lạ, ấm cúng hay lạnh nhạt khi bước vào một công trình? Tại sao một công
trình lại có khi làm ta cảm thấy vui, có khi làm ta thấy vô cùng tuyệt vọng?Như vậy,
ta có thể thấy được rõ rằng công trình còn chi phối, tác động ngược lại đến người sử
dụng
Một tòa nhà là một sản phẩm mang tính kỹ thuật và thẩm mỹ. Tuy nhiên, với
tư duy của Kiến trúc Hiệu nănghai tính chất này được thể hiện qua cách mà nó vận
hành, qua những trang thiết bị, qua những bộ phận cấu tạo nên nó. Nói cách khác,
“một công trình kiến trúc được định nghĩa bởi “hiệu ứng” mà nó tạo ra, bởi “hoạt
động” hay cách mà nó biểu hiện”[11, tr.11]. Cũng giống như con người, tính cách
được bộc lộ qua cách cư xử, qua cử chỉ, qua cách đưa ra quyết định, cách giải quyết
một vấn đề. Điều giúp chúng ta nhận ra bản chất tính cách của một vật chính là qua
hành động, chứ không phải qua những tính cách bề ngoài mà người ta gán ghép cho
nó.
Ngoài ra, “hoạt động” của một công trình sẽ tạo ra những “hiệu ứng” vẫn
với mục đích cao nhất làđể phục vụ con người. Tuy nhiên, từ “con người” ở đây
quá rộng vì mỗi người khác nhau lại có một cảm nhận, một mong đợi riêng.Cho nên
chúng ta sẽ nhìn “hoạt động” hay chính xác hơn là “sự biểu đạt” của một công
trình không phải là “sự biểu đạt”trong kiến trúc mà sự “sự biểu đạt”của kiến trúc.
Tức là những hoạt động này không phải là những diễn biến xảy ra bên trong công
trình mà nó là những hoạt động, những sự biến đổi tự thân của công trình đó thông
qua các yếu tố đặc biệt.
13

1.1.3. Hệ biến hóa của các yếu tố (The device paradigm)12


Sự vận hành của một công trình thường được thể hiện rõ ràng nhất ở những
bộ phận mang tính linh hoạt (ví dụ như những tấm màn che, nội thất). Những thứ
này đa phần đều được điều chỉnh bằng tay hoặc bằng thiết bị máy móc. Và nhiệm
vụ chính của nó chính là để thích nghi và phù hợp với sự thay đổi của rất nhiều thứ,
như môi trường bên ngoài hay ý thích của con người. Ví dụ như công trình Aurora
Place của kiến trúc sư Renzo Piano13 ở Úc vớivỏ bao che được thiết kế để có thể cử
động được (Hình 1.01a),hay có thể kể tới một trong những công trình kiến trúc nổi
tiếng với những cấu kiện có thể di chuyển được là Maison d’Alsace của kiến trúc sư
Pierre Chareau14, Casa del Fascio của Giuseppe Terragni15, Palace of the Soviets
của Le Corbusier (Hình 1.01b, 1.01c, 1.01d),
Những thiết kế theo dạng này thường phải dựa vào “hệ biến hóa của cácyếu
tố”tức là những vị trí mà từng bộ phận trong công trình có thể di chuyển, nâng lên
hạ xuống, qua trái qua phải, đóng hay mở …Tuy nhiên, mức độ thông minh của
những bộ phận này không phải được đo bằng việc nó có thể di chuyển xa hay nhanh
tới mức nào mà đo bằng khả năng di chuyển để thích nghi với những tình huống đã
được đoán trước hoặc không đoán trước được.
Như vậy “hệ biến hóa” này có thể hiểu như là một hệ quy chiếu mà sự biến
đổi của các yếu tố có thể tùy biến trong một phạm vi nhất định để có thể đáp lại với
những biến đổi có thể và không thể đoán trước được của môi trường[11].Chính vì
thế mà bước đầu tiên trong việc phát triển những công trình theo phong cách Kiến
trúc Hiệu năngchính là nghiên cứu và đưa ra các phương án, giải pháp sự tự điều
chỉnh của công trình. Và hơn hết sự biến hóa này phải thỏa mãn cũng như đáp ứng
được những sự thay đổi không thể đoán trước được của môi trường và ta gọi dó là
“tính tương tác”

12
The device paradigm: Thuật ngữ này còn có thể được tìm thấy với một cách sử dụng cởi mở hơn trong
cuốn “Technology and the Character of Contemporary Life” (tạm dịch : Công nghệ và các đặc điểm của
cuộc sống đương đại), (AlbertBorgmann, 1984), đặc biệt trong chương 9
13
Renzo Piano (14/09/1937) kiến trúc sư nổi tiếng người Ý, đoạt giải Pritzker năm 1998
14
Pierre Chareau (04/08/1883 – 24/08/1950) Kiến trúc sư, nhà thiết kế người Pháp
15
Giuseppe Terragni (18/04/1904 – 19/07/1950) Kiến trúc sư, nhà thiết kế người Ý
14

1.1.4. Tính bền vững của công trình


Theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA), tính bền vững nghĩa là tạo
ra và duy trì các điều kiện mà con người và thiên nhiên có thể tồn tại trong sự hài
hòa, đáp ứng được các nhu cầu về kinh tế, xã hội của hiện tại và các thế hệ tương
lai. Trong kiến trúc tính bền vững được hình thành từ những phần giúp công trình
giữ sự thăng bằng từ cấu trúcđến năng lượng, tiện nghi cũng như sự vững chắc của
các hạng mục,… Trong Kiến trúc Hiệu năng khi nói đến những phần này (như cột,
xà, tường, móng nhà, hệ thống mái,..) giờ đây chúng ta sẽ nói đến “hành vi” của nó,
mà lần này thì không chỉ ở hiên tại, mà còn phải là tiên liệu, đoán trước những gì
mà nó sẽ thể hiện trong tương lai.
Như vậy tính bền vững của công trình theo hướng hiệu năngnói theo cách
đơn giản chính là:“làm sao để cho toàn bộ công trình tồn tại và hoạt động một cách
hiệu quả nhất trong một giai đoạn lâu dài”[11]. Như công trình Neurosciences của
2 kiến trúc sư Tod Williams và Billie Tsien16nó không chỉ quan tâm tới những tác
động của môi trường mà còn cả tác động của con người qua thời gian (Hình 1.02a).
Khả năng thích nghi của một công trình dần dần có thể xem là một đặc điểm và bản
chất của nó.
Như vậy để phát triển tính bền vững của công trình, điều quan trọng không
phải là đi phân tích những dụng cụ hay thiết bị mà là phân tích hệ biến hóa của địa
hình, các yếu tố địa thế học. Và “hệ biến hóa” ở đây không chỉ là việc thay đổi vị
trí lên xuống, cao thấp như phía trên mà cử động ở đây là việc thay đổi “tình
trạng”.Sự thích nghi của công trình sẽ tạo ra sự điều chỉnh về hình dáng. Nó thể
hiện hiệu quả của công trình trong việc đáp ứng biến đổi của môi trường.
Việc thực hiện một công trình từ trong ra ngoài phụ thuộc rất nhiều thứ như
thời gian thi công, môi trường, thời tiết và quan trọng nhất là ý thích của chủ nhà.
Chưa kể, một công trình là sự lắp ghép của rất nhiều bộ phận và thiết bị khác nhau
lại. Thông thường, chúng ta thường chẳng lấy làm lạ khi qua thời gian, nhiều bộ

16
Tod Williams (1943) và Billie Tsien (1949) : Vợ chồng kiến trúc sư người mỹ, chủ nhiệm khoa kiến trúc
của nhiều trường đại học nổi tiếng như Pennsylvania (1998), Michigan (2001 – 2002)
15

phận của công trình bị xuống cấp. Do sự ảnh hưởng của môi trường tới nhiều bộ
phận cũng cực kì khác biệt, việc bảo dưỡng từng bộ phận hay toàn bộ căn nhà để
luôn ở tình trạng tuyệt vời nhất là điều gần như không thể thực hiện. Tuy nhiên,
kiến trúc luôn là sự cố gắng để xây dựng một thứ vững chắc và bền vững trong một
môi trường liên tục thay đổi và không ổn định.
Điều khó khăn ở đây là, chúng ta dường như không thể nào đoán trước được
chính xác một công trình sẽ phản ứng như thế nào với sự thay đổi không thể đoán
trước được của môi trường. Chính vì thế màPeterZumthor17 gọi phần “biểu hiện”
này của kiến trúc là “không theo kịch bản”[35]. Nói tóm lại, việc xây dựng và phát
triển một công trình chính là tạo cho nó khả năng đối phó lại được những tình
huống có thể hoặc không thể đoán trước được. Nói cách khác, một công trình được
xem là công trình không đạt yêu cầu khi nó không thể thích nghi với môi trường.
Mặc dù môi trường là yếu tố bên ngoài nhưng chúng ta hoàn toàn không thể
bỏ qua nó vì không một công trình nào có thể tồn tại tách biệt với môi trường. Như
kiến trúc sư Jean Nouvel18 cho rằng bề mặt các kiến trúc của ông đẹp và độc đáo vì
nó không chỉ nhờ vào bản vẽ hay kỹ thuật xây dựng mà nhờ vào ánh sáng tự nhiên
của môi trường. Ông đã tìm ra cách để lợi dụng ánh sáng tự nhiên để tạo ra độ phản
chiếu, độ bóng, độ chắn sáng và cả màu sắc cho công trình. Kiểu xây dựng này là
một sự kết hợp giữa một thứ mà bạn có thể xây dựng và chi phối với một thứ bạn
hoàn toàn không thể tác động được. Giống như công trình của bạn phải sẵn sàng
làm việc và kết hợp với một thứ không thuộc về nó. (Hình 1.02b)
Khi chúng ta loại bỏ hết những yếu tố về công nghệ cũng như ý đồ thẩm mỹ,
thì chúng ta sẽ cảm nhận đượcmối liên kếtrõ ràng nhất giữa công trình và môi
trường xung quanh nó. Sự liên kết này không phải do con người tạo ra và rất ít khi
là do thiết kế hay dự định có sẵn. Và chính sự liên kết này là một phần tạo ra “tính
biểu đạt - hiệu quả” của một công trình, dù rằng có đôi khi nó không theo đúng
những phác thảo hay dự định, ý đồ có trước của nhà thiết kế.

17
Peter Zumthor (26/3/1943): là một kiến trúc sư Thụy Sĩ. Ông giành giải thưởng Pritzker năm 2009
18
Jean Nouvel (12 /08/1945): là một kiến trúc sư người Pháp .
16

1.2. Nguyên nhân xuất hiện của Kiến trúc Hiệu năng
1.2.1. Sự ảnh hưởng của bối cảnh xã hội đương đại
Kiến trúc hậu hiện đại sau hơn nửa thế kỷ dẫn dắt nền kiến trúc thế giới,
đang mất dần sự hào nhoáng vốn có của mình, Lucas Gray19 đã viết trong bài tham
luận trong tạp chí Design Exchange như sau : “Thời đại của những công trình to lớn
hơn và hào nhoáng hơn đã kết thúc. Trào lưu Blobitecture20đã đánh mất sự huy
hoàng từng có. Trong những năm khủng hoảng gần đây, ảnh hưởng kinh tế đã làm
suy yếu tâm lý cho rằng hào nhoáng là cần thiết, thừa mứa dư dả so với nhu cầu là
sự lựa chọn tốt nhất. Các tổ chức và cá nhân đang cắt giảm lối sống lại, sự tập
trung của họ chuyển dần sang chất lượng hơn là số lượng, sang giá trị đích thực
hơn là tổng thể bên ngoài, sang đời thế hơn là tiếng tăm vài phút đầu.” [26, tr.19].
Như vậy yếu tố đầu tiên của bối cảnh xã hội hiện đại làm ảnh hưởng đến sự
phát triển của kiến trúc đó chính là sự khủng hoảng về kinh tế. Kiến trúc với tính
biểu tượng đã từng được khai thác một cách triệt để, các thành phố, các quốc gia đã
từng bỏ ra những khoảng chi phí rất lớn để thuê các kiến trúc sư danh tiếng về thiết
kế nhằm tạo nên những công trình có tình biểu tượng cao cho đất nước họ và tin
rằng các công trình này sẽ tạo được sự chú ý, sẽ được xuất hiện trên các trang bìa
của tạp chí cũng như các phương tiện truyền thông nhằm đem về danh tiếng cũng
như lợi nhuận. Tuy nhiên nền kinh tế ngày càng suy thoái, cái giá phải trả không có
điều kiện để thu lại được những thành quả tương xứng, các công trình đó trở thành
gánh nặng về tài chính và chịu sự thờ ơ của người dân địa phương. Và những kiến
trúc sư danh tiếng ấy với sự táo bạo về ý tưởng, với thù lao được chi trả bởi một
nguồn ngân sách hào phóng lại dễ dàng bị trở thành nạn nhân của những lời chỉ
trích “Ví dụ như những công trình tạo hình gợi cảm nhưng không có mục đích của
Zaha Hadid và tạo hình xiên xéo nhiều góc cạnh của Libeskind bỏ qua tầm quan
trọng của bối cảnh, môi trường, chức năng và vật chất để đổi lấy hình ảnh gợi cảm

19
Lucas Gray : Thạc sĩ kiến trúc của đại học University of Oregon, Mỹ. Ông từng tham gia nhiều cuộc thi
quốc tế, từng giành được giải thưởng trong cuộc thi thiết kế tại Đức, cộng tác với nhiều công ty khác nhau
trong việc thiết kế và cải tạo công trình ở Berlin, nhà tư vấn tổ chức các cuộc triển lãm kiến trúc và nghệ
thuật. Ông đồng thời là tác giả các bài báo trên nhiều tạp chí, website về thiết kế
20
Blobitecture : kiến trúc phỏng tế bào, loại hình kiến trúc có kết cấu tự do như hình dạng giọt nước
17

và tính biểu tượng táo bạo. Ngay tạo hình các công trình của Gehry vẫn thiếu sự
quan tâm đến bối cảnh, có tính hài hước trẻ con. Những nhân vật nổi tiếng ấy chỉ là
một vài tiêu biểu trong số nhiều những mục tiêu dễ dàng cho những lời chỉ trích về
những thiết kế khoa trương mang tính cá nhân.” [26, tr.20]. Chính vì lẽ đó kiến trúc
đương đại ngày nay đang cần một sự thay đổi, khi mà thập kỷ mới của chúng ta bắt
đầu với nền kinh tế thế giới trong tình trạng hỗn loạn và con người cân nhắc lại
những điều mà họ ưu tiên. Giờ đây chúng ta không chỉ quan tâm đến tính tượng
trưng của một công trình mà còn quan tâm đến tính hiệu quả, khả năng hoạt động
của công trình đó. Tức là từ những câu hỏi “Công trình mang ý nghĩa gì, chất chứa
điều gì, có biểu tượng j? ”, thì giờ đây “công trình có hiệu quả hay không, có đáp
ứng được các nhu cầu xã hội hay không, có kinh tế hay không?” đang là những vấn
đề được đặt ra hàng đầu.
Bên cạnh vấn đề khủng hoảng kinh tế, sự cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên
cũng như các vấn đề về môi trường đang là một đề tài vô cùng nóng bỏng mà trong
bối cảnh đó, kiến trúc không thể đứng ngoài cuộc. “Hãy nghĩ về những đứa trẻ thế
hệ sau của chúng ta sẽ nhìn Burj Khalifa, toà siêu tháp phủ kính ở giữa sa mạc
Dubai. Hãy nghĩ về gánh nặng này và những dinh thự vô ích khác mà chúng sẽ thừa
kế. Những toà nhà đó đã tiêu thụ các nguồn tài nguyên to lớn để xây dựng nên, làm
phá sản các nhà đầu tư, ngân hàng và chính phủ. Chúng sẽ tiếp tục rút cạn kiệt các
nguồn tài nguyên miễn là chúng ta tiếp tục bơm điều hoà vào những văn phòng quá
nóng, tưới các bãi cỏ xanh rạng rỡ và đổ nước vào các đài phun nước xa hoa, nơi
vốn dĩ từng là một sa mạc. Đây là những gia tài lãng phí mà thập kỷ kiến trúc vừa
qua để lại, xây nên bởi một tầng lớp với tầm nhìn thiển cận mà không có suy nghĩ
về tương lai.” [26, tr.20].
Và thực tiễn này đã buộc chính quyền của các quốc gia tiên tiến đề ra các tiêu
chuẩn cắt giảm năng lượng cho công trình. Theo Số liệu từ Cơ quan Thông tin Năng
lượng Mỹ (EIA), các tòa nhà chịu trách nhiệm gần một nửa lượng khí nhà kính phát
thải mỗi năm. Năm 2003 và 2004, ba hội nghị chuyên đề đã được tổ chức tại Los
Angeles, Santa Fe và thành phố New York mang tên “Key to the Global
18

Thermostat” (Tạm dịch : “Chìa khóa cho việc điều nhiệt toàn cầu”). Đây là lần đầu
tiên các kiến trúc sư, nhà quy hoạch, các nhà khoa học, chính trị gia và phương tiện
truyền thông ngồi lại với nhau để tìm hiểu và thảo luận về ngành xây dựng và vai
trò của nó đối với sự nóng lên toàn cầu. Theo đó ngành Xây dựng là nguyên nhân
chủ yếu của hiện tượng phát thải khí nhà kính và nếu ổn định được sự phát thải này,
ta có thể cải thiện được hiện tượng nóng lên toàn cầu trong tương lai. Để thực hiên
được điều này vào năm 2007 “The 2030 Challenge” (Tạm dịch: “thách thức trong
năm 2030”) được ban hành, yêu cầu ngành kiến trúc và xây dựng toàn cầu khi thiết
kế các công trình mới phải kiểm soát được việc sử dụng các nguyên liệu hóa thạch
cũng như lượng khí nhà kính phát ra, cụ thể phần trăm cắt giảm như sau :
 60% trong năm 2010
 70% vào năm 2015
 80% vào năm 2020
 90% trong năm 2025
 Trung hòa carbon vào năm 2030 (không sử dụng nhiên liệu hóa thạch, không
có khí nhà kính phát ra )
Với một bối cảnh như vậy, kiến trúc đương đại đang mang trong mình những
vấn đề cấp thiết và cần được giải quyết một cách thoả đáng bởi các chuyên gia. Nó
phải đáp ứng, thích nghi được với những biến đổi của môi trường xung quanh về
mặt tự nhiên cũng như kinh tế xã hội. Nó cần một cuộc cách mạng, cần một quy
trình thiết kế mới phù hợp hơn, hiệu quả hơn. Và trên hết sự thay đổi tư duy về mặt
thiết kế của các kiến trúc sư, kỹ sư, nhà thiết kế là một điều rất cần thiết. Với tiêu
chí tập trung giải quyết các vấn đề về mặt tương tác, thích nghi lâu dài giữa công
trình với môi trường xung quanh, Kiến trúc Hiệu năng đang là một sự lựa chọn rất
đúng đắn.
Bên cạnh đó, tư duy của Kiến trúc Hiệu năngcòn rất phù hợp với các cở sở triết
học hiện đại với những tư tưởng rất tiến bộ, mà tiêu biểu đó chính là Chủ nghĩa vật
chất mới (New Materialism).
19

1.2.2. Cơ sở triết học và sự ảnh hưởng đến tư duy thiết kế


Chủ nghĩa vật chất mới, hay cái chết của chủ nghĩa hậu hiện đại
(New Materialism, Or the Death of Postmodernism)

Đây là chủ đề của bài giảng đầu tiên trong các cuộc hội thảo giới thiệu sách
“Scripting the Future” (tạm dịch : kịch bản cho tương lai) (2012) tại các trường đại
học của Neil Leach21. New Materialismlà mộtquan điểm triết họcbắt nguồn từ các
công trình nghiên cứu của triết gia Gilles Deleuze22về cách tư duy khoa học mới.
Ông đã nghiên cứu vấn đề này trong rất nhiều lĩnh vực như: triết học, lý thuyết văn
hóa, nữ quyền cũng như về nghệ thuật. Và trong số các bài viết của mình, có một số
tài liệu có thể ứng dụng được vào lĩnh vực kiến trúc. Đặc biệt rõ ràng nhất là cuốn
“A Thousand Plateaus” (tạm dịch : “hàng nghìn đường bình đoạn”), (1980) của
ông và Félix Guattari23 đã có đề cập một cách chính xác đến sự thay đổi về cảm
quan trong thiết kế kiến trúc. Theo đó toàn bộ lịch sử kiến trúc có thể chia làm hai
quan điểm, một là các quan điểm về mỹ học phát triển theo xu hướng áp đặt các
hình thức lên trên vật liệu xây dựng theo một mẫu có trước, phần còn lại là sự phát
triển của một hệ cấu trúc rất hiệu quả mà bản thân nó cho phép hình thức tự thân
xuất hiện để tạo ra các yếu tố thẩm mỹ một cách có tính toán.
Với quan điểm đầu tiên Deleuze đặt tên nó là “Roman” thuật ngữ này tuy có
phần hơi hạn chế bởi nhưng nó thể hiện được cách tiếp cận kiến trúc của một số
phong cách tập trung vào ngoại hình hơn hiệu quả công trình. Quan điểm thứ hai
ông gọi là “Gothic” nó được định nghĩa như là một phương pháp trang trí đặc biệt
trong đó tính trang trí trở nên tinh tế hơn hòa lẫn vào sự hiệu quả của kết cấu. Như
vậy Deleuze không chỉ phân tích Gothic và Romanesque như là sự khác biệt đơn
thuần của hai phong cách kiến trúc mà ông đang đang muốn giới thiệu hai tinh thần
mang tính khoa học đối lập nhau. Một mô hình tĩnh và một mô hình năng động của

21
Neil Leach: một kiến trúc sư và nhà lý luận. Ông là một giáo sư giảng dạy tại Đại học Nam California, Học
viện Kiến Trúc Nam California giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Harvard, Đại học Brighton, Đại học Tongji và
nhiều trường đại học danh tiếng khác trên thế giới.
22
Gilles Deleuze: (18/ 1/1925 - 04/11/ 1995) là một nhà triết học người Pháp.
23
Félix Guattari : (30/4/ 1930 - 29/8/ 1992) là một chiến binh Pháp, một nhà tâm lý học, triết học, và ký hiệu
học. Ông được biết đến là người cộng sự, hợp tác trí tuệ với Gilles Deleuze
20

sự hiểu biết kiến trúc. Và tinh thần “Gothic” của Deleuze ngày càng được quan tâm
bởi các kiến trúc sư đương đại một lý thuyết kiến trúc mới về “hiệu suất”
(performative)từ đó được hình thành [17]
Và trên tinh thần đó nhà triết học đương thời người Mỹ, gốc Mexico Manuel
De Landa chính là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ NewMaterialismđể mô tả về
quan điểm của Deleuze. Ông đã chứng minh tính hiệu quả của vấn đề này thông qua
các công trình nghiên cứu của riêng mình trong các lĩnh vực xã hội, con người. Các
tác phẩm như “A Thousand Years of Nonlinear History” (tạm dịch: “Ngàn Năm
Lịch Sử Phi Tuyến Tính”) (1997) đã đúc kết lại toàn bộ lịch sử quá trình phát triển
của đô thị trong quá trình phát triển của vật chất .Hay như cuốn “Intensive Science
and Virtual Philosophy” (tạm dịch: “Khoa học chuyên sâu và triết học ảo”) (2002)
trong đó xem xét vai trò của lý thuyết khoa học của NewMaterialismtheo quan điểm
của Deleuze. Riêng về lĩnh vực kiến trúc, DeLanda đã viết một loạt bài báo rút ra
khái niệm về "Gothic" theo tư duy của Deleuze, và khám phá những vấn đề liên
quan để suy nghĩ về cách xử lý vật chất. Gần đây nhất, ông đã xuất bản một chuỗi
các bài báo về New Materialism trên tạp chí Domus, tập trung vào phỏng sinh học,
vật liệu thông minh và mối quan tâm vật chất hiện đại khác.
New Materialism đối lập với thuyết duy vật biện chứng của Karl Marx. Ở
một khía cạnh nào đó cả hai đều dựa trên nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Marx,
rằng những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là sản phẩm bề nổi của một quá trình sâu sắc
hơn ẩn đằng sau đó. Với New Materialism, nguyên lý này đã vượt qua phạm vi kinh
tế, và đúng với cả những phạm trù văn hóa. New Materialism muốn nhấn mạnh
rằng kiến trúc không nên quá chú trọng vào tính tượng trưng mà nên quan tâm
nhiều đến những hiệu suất và cách ứng xử. Theo DeLanda chúng ta cần phải hiểu
môi trường xây dựng của mình về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị để có
thể thiết kế kiến trúc một cách hiệu quả trong sự phát triển của vật chất
Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù thuật ngữ New Materialismvẫn được sử dụng
nhiều hơn trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, nhưng những đóng góp của nó vào
21

lĩnh vực kiến trúc là không thể phủ nhận. Và người có công đi đầu, đặt nền móng
cho những luận điểm của chủ nghĩa này trong kiến trúc đó chính là Neil Leach.
Gần đây Neil Leach đã tập trung nghiên cứu và phát triển học thuyết về New
Materialism cũng như việc sử dụng thuật toán trong thiết kế kiến trúc, lấy cảm hứng
từ những công trình nghiên cứu của Manuel De Landa và tư tưởng của Gilles
Deleuze. Ông có rất nhiều bài nghiên cứu, nhiều đầu sách cũng như chủ trì nhiều
cuộc triễn lãm, hội thảo khoa học để bàn về các chủ để kiến trúc liên quan đến New
Materialism. Theo Neil Leach các yếu tố thống trị nền kiến trúc hậu hiện đại đang
nhường chỗ cho một lối tiếp cận mới trong nghệ thuật thiết kế, có lẽ được thể hiện
rõ nhất trong hình thái kết cấu và trang trí. Theo ông sự nhấn mạnh vào “trang trí”
mà Venturi, Scott Brown và Izenour24 đã đấu tranh rất nhiều trong cuốn sách
chuyên đề của họ, “Learning from Las Vegas” (tạm dịch : “học tập từ Las Vegas”),
đã từng chi phối sự ra đời của nhiều công trình kiến trúc trong vài thập kỷ qua, cuối
cùng cũng dần trở nên suy yếu. “Những gì chúng ta đang chứng kiến là một biểu
hiện mới mà kết cấu không còn phụ thuộc vào vật trang trí hay ẩn bên dưới bề mặt
hoàn thiện, và mặt tiền không còn bị chi phối bởi vỏ bao che. Điều này không có
nghĩa rằng kết cấu đóng vai trò quan trọng hơn bề mặt trang trí của công trình.
Thay vào đó, mối quan hệ giữa kết cấu và trang trí đang được cấu hình lại, đem kết
cấu trở thành đặc trưng trang trí, và bề mặt trang trí mang hình hài kết cấu. Kết
cấu và trang trí kết hợp hài hoà và tương hỗ cho nhau”. [28, tr.33-34]
Như vậy chủ nghĩa vật chất mớitrong kiến trúcvới các tư duy về
“Gothic” của Deleuze, khái niệm “New Materialism” của De Landa, cũng như các
công trình nghiên cứu của Neil Leach cung cấp một hệ tư tưởng rất tiến bộ, là
những tài liệu vô cùng quý giá để giới chuyên gia nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng.
Và với tư duy thiết kế của mìnhKiến trúc Hiệu năngđang mang đầy đủ các đặc
điểmưu việt của hệ tư tưởng trên.

24
Venturi (1925), Scott Brown (1931) và Izenour (1940 – 2001) : các kiến trúc sư người mỹ và tác phẩm của
họ “học tập từ Las Vegas” là cuốn sách lý thuyết kiến trúc có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XX
22

1.2.3. Sự ảnh hưởng của công nghệ và các công cụ thiết kế dùng máy tính
Theo quan điểm của Kiến trúc Hiệu năng,tất cả các khâu trong một quy trình
thiết kế phải có một sự phối hợp nhịp nhàng, tương hỗ lẫn nhau. Cách thiết kế công
trình truyền thống giờ đây đã thay đổi, các kỹ sư có thể tham gia vào quá trình thiết
kế ngay từ đầu thay vì chỉ tính toán thụ động sau khi phương án thiết kế hoàn thành,
thậm chí họ còn có một sự ảnh hưởng quan trọng đến quá trình tìm ý, tạo hình của
các kiến trúc sư. Và các công cụ thiết kế, phân tích bằng máy tính ngày nay chính là
cầu nối tốt nhất để tạo ra sự đồng bộ, thống nhất đó. Nó mang lại một quy trình thiết
kế mới khép kín, chính xác và hiệu quả hơn.
Hỗ trợ kỹ thuật cho công trình thiết kế dựa trên hiệu năng và thiết kế hiệu
năng là trung tâm của các cuộc nghiên cứu phần mềm hỗ trợ thiết kế trong suốt
nhiều thập kỷ.Nhiều khái niệm cơ sở và kỹ thuật tiên phong đã xuất hiện vào cuối
thập niên 1960, đầu 1970. “Có thể kể đến các ví dụ như lần đầu tiên sử dụng hình
ảnh máy tính để đánh giá công trình vào năm 1966, gói tích hợp dành riêng cho
đánh giá thiết kế công trình hiệu năng xuất hiện vào năm 1972, bản vẽ phối cảnh
công trình bằng máy tính lần đầu tiên vào năm 1973. Thập niên 1970 là thời đại mà
sự hỗ trợ bằng máy tính cho phép các kiến trúc sự đạt được những dự tính chính
xác về việc đo lường hiệu năng của công trình như thất thoát nhiệt, biểu đồ chiếu
sáng hằng ngày, bóng đổ và hiệu suất trang âm” [39, tr.2-3]. Khó khăn lớn nhất lúc
đó là sự không tương thích giữa các công cụ dựng hình với các công cụ tính toán
dân đến sự thiếu tính đồng bộ, tính chính xác của sản phẩm sau khi thiết kế, tuy
nhiên công nghệ ngày phát triển đã thúc đẩy khả năng tạo ra các phần mềm tốt hơn
có khả năng kết nối nhiều lĩnh vực, tăng tính phối hợp giữa các khâu trong quy
trình.[32, tr.274]
Một trong những công cụ phân tích hiệu năng đầu tiên xuất được kể đến là
PACE (Package for Architectural Computer Evaluation), được giới thiệu vào năm
1970 như một ứng dụng tính toán bằng máy tính dùng cho các giai đoạn quan trọng
trong quá trình thiết kế kiến trúc, “khác với những nỗ lực khác vào thời điểm đó,
công cụ này không có mục đích đề tối ưu hoá một thông số đơn lẻ mà sản xuất ra
23

một hệ đo lường đa năng và toàn diện cho việc đánh giá công trình”[37]. PACE
tính toán về giá thành, không gian, môi trường và các phạm vi hoạt động của hiệu
năng. (Ví dụ như những tính toán về môi trường về sự tích tụ và thất thoát của nhiệt
độ sẽ đưa ra kích thước mảng xanh phù hợp với điều kiện của môi trường đó).
Chương trình sẽ hướng dẫn người thiết kế cách thay đổi hình khối hoặc các thông
tin về xây dựng, để làm tăng hiệu năng. Sau quá trình lặp đi lặp lại, sự tương tác
giữa con người và máy tính sẽ dẫn đến một giải pháp thiết kế hội tụ được những đặc
tính tối ưu. Một đặc điểm thú vị của chương trình chính là khả năng “tiếp thu, học
hỏi” được tích hợp bên trong nó. Nếu người thiết kế đã cảm thấy hài lòng với quy
cách làm việc, chương sẽ cập lưu lại những giá trị có ý nghĩa để dùng trong quá
trình đánh giá về sau.
Hầu hết những ý tưởng ban đầu trong quá trình thiết kế hiệu năng bằng kỹ
thuật số đã vượt xa thời đại của nó cả về mặt khái niệm lẫn công nghệ. Và thời đại
thực sự của khái niệm này đang đến, như ta thấy thiết kế hiệu năng, mặc dù tiến
triển chậm nhưng chắc chắn, đang trở thành vấn đề hàng đầu trong các cuộc đàm
luận về kiến trúc.Ngày nay, khái niệm định tính vàđịnh lượng bằng kỹ thuật số dùng
để mô phỏng hiệu năng công trìnhđãđược phát triển đáng kể. Các công nghệ phân
tíchmới(công nghệ phân tích hữu hạn - Finite-element analysis –FEA)bằng máy
tính có thể phân chia khối công trình thành những phần tử lưới phối hợp chặt chẽ,
tiếp theo mô hình này tiếp tục được dùng để phân tích chính xác kết cấu, năng
lượng và những biến động của những công trình phức tạp. Từ đó các thông tin sẽ
được truyền lại bước thiết kế ban đầu để thay đổi hính dáng công trình sao cho hiệu
quả nhất.
Chúng ta có thể kể đến Future System, một công ty thiết kế ở London, sử
dụng phần mềm tính toán khí – động lực học (CFD)25 dùng cho dự án ZED của họ,
dự án là một tòa nhà đa chức năng ờ London (1995) (Hình 1.03a). Tòa nhà được
yêu cầu phải tự cung cấp năng lượng cho mình bằng cách phối hợp các tế bào quang
điện gắn trên các lá sách với 1 tua bin gió khổng lồ đặt ở khoảng trống lớn tại vị trí
trung tâm công trình. Độ cong của vỏ bao che công trình đã cho phép thiết kế giảm

25
Chương trình tính toán khí - động lực học (CFD – Computational Fluid Dynamics)xem mục 2.2.3.2
24

thiểu những tác động của gió lên xung quanh công trình đồng thời hướng các tác
động gió này vào trung tâm. Kỹ thuật phân tích động lực học trong dự án là vô cùng
cần thiết trong việc tăng hiệu suất hoạt động vỏ bao che, thể hiện rõ sự tác động của
yếu tố kỹ thuật đến hình thức của công trình này
Một ví dụ nữa là hình khối giọt nước ban đầu của Peter Cook và Colin
Fournier trong dự án thắng giải của thiết kế cổng vào Kunsthaus Graz, Austria sau
đóđãđược điều chỉnh một phần sau khi phân tích kết cấu bằng kỹ thuật số bằng cách
tách nhỏ và phân tích kết cấu của lớp vỏ bao che (tư vấn bởi kỹ sư Bollinger +
Grohmann đến từ Frakurt) (Hình 1.03b). Tương tự, Foster và cộng sự khi thiết kế
khối tháp của tòa thị chính London đã thay đổi đáng kể phương án sau khi các kỹ sư
của Arup tiến hành phân tích hiệu năng các loại lực tác động bằng cách dùng phần
mềm mô phỏng lựcđặc biệt.(Hình 1.03c)
Qua các ví dụ trên ta có thể thấy được lý thuyết mới về phương pháp thiết kế
dựa trên kỹ thuật số cho phép phát triển kỹ thuật mô hình hóa dựa trên thời gian.
Tức là cho phép chúng ta dự đoán được tương lai hoạt động của công trình như thế
nào trước sự biến đổi của môi trường, từ đó điều chỉnh phương án sao cho hiệu quả
nhất. Bởi dưới sự phát triển của khoa học, ngày nay trong quá trình lên ý tưởng
chúng ta có nhiều phương tiện để hình ảnh hóa những động lực tác động lên công
trình trong suốt quá trình hoạt động, chúng ta có thể bắt đầu định hình những tác
động nàyvà trong một số lĩnh vực kỹ thuật nào đó, có thể định lượng chúng.
Như vậy trong bối cảnh kiến trúc đương đại, công nghệ kỹ thuật số đã mở ra
những chân trời mới cho việc thiết kế nhằm tạo ra một hình thái kiến trúc có khả
năng thích ứng với môi trường xung quanh. Lấy nên tảng từ các quy chuẩn truyền
thống, tạo hình kỹ thuật số không thiết kế theo lối hiểu thông thường, thay vì làm
việc trên một lĩnh vực, người thiết kế xây dựng một hệ thống tính toán thực sự, điều
khiển những biển hiện của nó theo thời gian công trình tồn tại , lựa chọn hình dáng
trong quá trình vận hành. Từ đó cố gắng hướng đến việc thay đổi khái niệm “tạo ra
hình khối”(making of form)thành “ tìm ra hình khối”(finding of form).
1.3. Giới thiệu một số chuyên gia nghiên cứu và thiết kế hướng hiệu năng
25

Kiến trúc Hiệu năng hiện vẫn đang là xu hướng rất mới, hệ thống cơ sở lý
thuyết và thực tiễn vẫn đang được xây dựng bởi các chuyên gia. Vì vậy phần này sẽ
tập trung giới thiệu một số cá nhân, tổ chức tiêu biểu đang quan tâm về vấn đề này.
(phần giới thiệu và phân tích sâu về các công trình sẽ được đề cập đến trong các
phần sau)

1.3.1. Các kiến trúc sư tiêu biểu


David Leatherbarrow (Giáo sư, Kiến trúc sư của đại học Pennsylvania
Philadelphia, USA).Trong sự nghiệp nghiên cứu, ông đã xuất bản một số sách trong
đónổi tiếng nhất là hai cuốnTopographical Stories: Studies in Landscape
andArchitecture(tạm dịch : Chuyện về địa thế học : Các nghiên cứu cảnh quan và
Kiến trúc), (2004) và Surface Architecture(tạm dịch : Kiến trúc bề mặt),(2002)
đồng tác giả với Mohsen Mostafavi, giành giải thưởng CICA International Book:
Bruno ZeviPrize. Nghiên cứu của ông tập trung vào các chủ đề lịch sử và lý thuyết
về kiến trúc; gần đâycông việc của ông tập trung vào tác động của công nghệ hiện
đại. Ông là người đã đưa ra một hệ thống lý thuyết, một cách nhìn mới về kiến trúc
trong đó đưa tính hiệu năng của công trình lên làm yếu tố chính yếu, ông đã xem xét
và nghiên cứu rất sâu về sự biến đổi của các yếu tố trong công trình để phù hợp với
sự biến đổi của môi trường xung quanh từ năng lượng, các loại tác động tự nhiên,
xã hội cũng như về địa thế học. Ông đã và đang đặt một nền móng lý thuyết vững
chắc và đầy hứa hẹn cho Kiến trúc Hiệu năng.
Branko Kolarevic(Phó Giáo sư, Kiến trúc sư của Đại học
PennsylvaniaPhiladelphia, USA) Branko Kolarevic là giảng viên củaĐại học
Pennsylvania vào năm 1999, nơi ông dạy các khóa học về thiết kế kỹ thuật số,
như"kỹ thuật số hình thái (Digital Morphogenesis)"và "Chế tạo kỹ thuật số (Digital
Fabrication)”. Ông còn là trưởng khoa Thiết kế tích hợp (Integrated Design) tại đại
học Calgary, Canada và cũng từng giảng dạy tại các trường đại học trên khắp Bắc
Mỹ (Boston, Los Angeles, Miami), châu Á (Hồng Kông). Ông đãgiới thiệu học
thuyết của mìnhvới thế giới trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ số trong thiết kế và
sản xuất, gần đây nhất là "thiết kế thực tế ảo", "thiết kế dựa trên các mối quan hệ"
26

và "kiến trúc kỹ thuật số."Năm 2000, ông thành lập Trung tâm nghiên cứu và thiết
kế kỹ thuật số (Digital Design Research Lab). Ông đã nhận bằngThạc sĩ(1989) và
Tiến sĩ (1993) về lĩnh vực thiết kế tại Đại học Harvard và bằng kỹ sư kiến trúc của
đại học Belgrade. Ông là tác giả của cuốn sách “Performative Architecture: Beyond
Instrumentality” (2005). Một tài liệu quan trọng và tập hợp đầy đủ nhất những kiến
thức cần thiết cho những học giả cần nghiên cứu về Kiến trúc Hiệu năng .
Michael U. Hensel(Giáo sư, tiến sĩ, kiến trúc sư, nhà nghiên cứu, nhà giáo
dục và nhà văn) Trong hoạt động chuyên nghiệp của mình, ông kết hợp thực hành,
giáo dục và nghiên cứu trong kiến trúc theo một quỹ đạo liên ngành. Michael đã
nhận bằng tốt nghiệp củaĐại học Khoa học Ứng dụng Colognevào năm 1992 và
bằng thiết kế của Hiệp hội Kiến trúc ở London vào năm 1993. Năm 2007, ông nhận
được một khoản trợ cấp DTA để theo đuổi luận án tiến sĩ tại khoa Quản lý Xây
dựng và Kỹ thuật tại Đại học Reading với đề tài “Performance-oriented
Architecture: A Biological Paradigm for Design and Sustainability” (tạm dịch :
Kiến trúc hướng hiệu năng : mô hình sinh học cho thiết kế và tính bền vững) được
trình duyệt năm 2011. Các nghiên cứu của ông bao gồm việc xây dựng một khuôn
khổ lý thuyết và phương pháp luận cho “kiến trúc hướng hiệu năng” tái tư duy về
lịch sử kiến trúc với sự nhấn mạnh vào hiệu suất và mối quan hệ giữa kiến trúc và
sinh học. Ông là một nhà tư tưởng hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu của thiết kế
kiến trúc.Ông là người đồng sáng lập của OCEAN (1994) và đang là chủ tịch của
Hiệp hội Nghiên cứu Thiết kế OCEAN tại Na Uy (2008). Từ năm 2007, ông trở
thành thành viên hội đồng quản trị của BIONIS (Biomimetics Network for
Industrial Sustainability). Mục tiêu chính bao gồm: nghiên cứu các phương pháp
tiếp cận mô phỏng sinh học để thu hút đầu tư và hợp tác trong nghiên cứu và ứng
dụng và phối hợp, tăng cường trao đổi giữa các nhà nghiên cứu của các lĩnh vực
liên ngànhđể khám phá sự hợp tác học thuậttrong tương lai.
27

1.3.2. Các kỹ sư tiêu biểu


Godfried Augenbroe (Phó Giáo Sư của Georgia Institute of Technology
Atlanta, USA) Ông nhận bằng thủ khoa thạc sĩ kỹ sư từ TU Delft ở Hà Lan vào năm
1975. Ông là chủ trì của các tổ chức nghiên cứu hàn lâm và các nhà phát triển công
nghiệp nghiên cứu dự án COMBINE (Mô hình máy tính cho các tòa nhà Công
nghiệp ở châu Âu), một dự án kéo dài từ 1990-1995. Phó giáo sư Augenbroe hiện
đang dạy các khóa học sau đại học và tiến hành nghiên cứu trong các lĩnh vực xây
dựng các khái niệm hiệu năng và mô phỏng, kiểm soát hệ thống thông minh. Ông
có tên trong hội đồng khoa học của năm tạp chí quốc tế, là người Mỹ đồng biên tập
của hai tạp chí khoa học. Ông đã chủ trì ba hội nghị và có sáu bài giảng bài phát
biểu tại các hội nghị quốc tế. Ông đã dành phần lớn thời gian nghiên cứu của mình
ở châu Âu, nơi ông đi tiên phong cho việc nghiên cứu một mô hình mô phỏng và
quản lý dự án cũng như khả năng tương tác kỹ thuật trong xây dựng một lĩnh vực
đang ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với hiệu quả của ngành công nghiệp xây
dựng.
Jean-François Blassel(Giám đốc và là Kỹ sư Tư vấn cho RFR, Paris, Pháp).
Trong hơn mười năm, Jean-François Blassel giữ chức Giám đốc của RFR, ôngquản
lý các kỹ sư thiết kế kết cấu của các kiến trúc độc đáo. Jean-François Blassel được
đào tạo như một kiến trúc sư và mộtkỹ sư, ôngđã phối hợp đan xen việc thiết kế
kiến trúc, và kết cấu ngay từ những giai đoạn bắt đầu của dự án. Ông ứng dụng
phương pháp thiết kế này ở châu Âu, Bắc Phi, châu Á vàHoa Kỳ trên các tòa với
quy mô lớn. Nhữngdự án bao gồm các sân bay quốc tế Kansai với PeterRice và
Renzo Piano, một số trạm tàu cao tốc, các cầu cạn cho các cơ quan đường sắt Pháp
và các dự ánnhỏ hơn theo định hướng hiệu năng.
Mahadev Raman(Kỹ sư xây dựng,điều hành nhóm Kỹ thuật Arup, New
York) Arup cung cấp các giải pháp thiết kế kỹ thuật, lãnh đạo các nhóm đa ngành
trên một loạt cácdự án trên toàn thế giới. Trước khi đến New York, ônglàm việc tại
London và Cambridge. Chuyên môn của ông là giải pháp kết cấu cho các thiết kế
bền vững,hiệu suất cao và các tòa nhà tiết kiệm năng lượng. Ông đi tiên phong
28

trong việc sử dụng các kỹ thuật phân tích tinh vi đểcải thiện hiệu suất của các thiết
kế năng lượng thấp.Mahadev Raman là giảng viên thường xuyên tại Princeton và
các trường Đại học Columbia về thiết kế bền vững và môi trường. Ông có bằng Cử
nhân Khoa học Kỹ thuật từĐại học Durham, Anh (1978) và bằng Thạc sĩ Khoa học
Năng lượng ứng dụng của Viện Công nghệ Cranfield, Anh.

1.4. Kết luận chương 1


Như vậy thông qua định nghĩa về một số yếu tố liên quan cũng như bối cảnh
ra đời của Kiến trúc Hiệu năng ta đã có thể hiểu được đây là một cuộc cách mạng
mới của kiến trúc về tư duy lý luận cũng như thực tiễn. Bởi trước sức ép của điều
kiện kinh tế xã hội cùng với một sự hỗ trợ đắc lực của các tư duy triết học tiên tiến
và sự bùng nổ của công nghệ, Kiến trúc Hiệu năng mang trong mình những đặc
điểm rất khả thi và nổi trội mà các trào lưu chủ nghĩa kiến trúc trước đó chưa đạt
được. Kiến trúc Hiệu năng là cả một sự thay đổi về mặt tư duy, phương pháp tiếp
cận công trình. Như Branko Kolarevic đã viết : “Khác với những định nghĩa khác
về kiến trúc, Kiến trúc hiệu năng có thể được xem là có khả năng đáp ứng lại những
điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá và kỹ thuật đang thay đổi từng ngày bằng cách
không ngừng cải thiện bản thân nó. Không gian mà Kiến trúc Hiệu năng tạo ra
không đơn lẻ, cố định, mà đa dạng, linh động và đan xen, chịu ảnh hưởng từ sự
dịch chuyển không ngừng của môi trường xung quanh. Trong Kiến trúc Hiệu năng,
tự nhiên, văn hoá, công nghệ và không gian tạo thành một mạng lưới năng động,
phức tạp, liên hệ chặt chẽ. Một mạng lưới mà các thành phần xây dựng có tương
quan với nhau, đồng thời liên tục tác động lẫn nhau. Trong Kiến trúc Hiệu năng,
không gian mở ra vô hạn, tương phản với sự cố định của những hoạt động, vật
dụng đãđược định trước”[11, tr.205]. Tóm lại, Kiến trúc Hiệu năngđặt sự quan tâm
lớn nhất vào hiệu quả của công trình hay nói rõ hơn là nó xem công trình như một
sinh vật sống có khả năng tương tác với con người, thích nghi với sự biến đổi- đặc
biệt là những biến đổi không lường trước được của môi trường xung quanh.
Các công trình kiến trúc
Hình 1.01
với những cấu kiện có thể di chuyển được

a.Aurora Place, Sydney, Australia (1996–2000), kiến trúc sư Renzo Piano

b. Maison d’Alsace, Pháp c. Casa del Fascio, Ý (1932 – d. Palace of the Soviets, Nga
(1932), kiến trúc sư Pierre 1936), kiến trúc sư Giuseppe (1933 - 1935), kiến trúc sư
Chareau và cộng sự Terragni Le Corbusier

a–[47] c–[43]
Nguồn
b–[54] d–[55]
8

Các công trình kiến trúc


Hình 1.02
tương tác với môi trường xung quanh

a.Viện Khoa học thần kinh, La Jolla , California ( 1992-1995 ), các kiến trúc sư Tod Williams và
Billie Tsien .

b. L’Institut du MondeArabe, Paris, Pháp (1981–1987), Kiến trúc sư Ateliers Jean Nouvel.

Nguồn a–[60] b–[52]


Hình ảnh mô phỏng công trình bằng các phầm mềm tính toán
Hình 1.03
hiệu năng

a. Dự án ZED, London(1995), thiết kế Future Systems. Ảnh phối cảnh (trái) và ảnh tính toán tác
động của gió của chương trình CFD

c. Hình ảnh
Phân tích ngoại
lựu tác động
của Tòa nhà
Swiss Re,
London (1997
- 2004), bởi
Arup , kiến
trúc sư Foster
và các đối tác .

b. Hính ảnh mô phỏng kết cấu của Kunsthaus Graz, Austria


(2000– 2003), Kiến trức sư Peter Cook and Colin Fournier

Nguồn a,c–[58] b – [56]


29

CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG


Kiến trúc Hiệu năng chia kiến trúc thành hai dạng: Một dạng là dựa theo
những thứ vô cùng chính xác và lý tính. Dạng còn lại là theo kiểu ứng biến, tùy vào
tình hình mà thay đổi. Tuy nhiên, chúng ta cũng không phải tách bạch cả hai dạng
ra mà là tìm điểm giao nhau của chúng. Nghĩa là chúng ta vừa phải quan tâm tới sự
hợp lý và đúng như tính toán của nó, nhưng cũng phải quan tâm tới sự biến hóa và
tính thực tế. Đó chính là tư duy tiêu biểu nhất để ta có thể hiểu rõ về tinh thần của
Kiến trúc Hiệu năng.Qua đó, nó cũng đặt ra những tiêu chí đặc biệt ở mọi mặt của
kiến trúc như hình thức, kết cấu, kỹ thuật, từ năng lượng, sinh học, nhân văn, tiện
nghi, v.v... Và trong khuôn khổ có giới hạn, luận văn này chỉ bàn về một số tiêu chí
chủ yếu.

2.1 Tiêu chí về hình thức, hệ thống bao che


2.1.1 Sự vận hành của lớp vỏ bao che
Hầu hết những công trình xung quanh chúng ta đều bất biến vì vậy để điều
chỉnh phù hợp với những thay đổi, chúng cần được tái xây dựng hoặc bị đập bỏ.
Với tư duy mới theo Kiến trúc Hiệu năng nhiều kiến trúc sư và kỹ sưđã mơ về
những công trình có thể thích nghi nhanh chóng với những nhu cầu hoặc hoàn cảnh
khác nhau bằng cách thay đổi hình dạng sẵn có, thay đổi hình thể không gian và
chức năng, mức độ hấp thụ, phát xạ ánh sáng tự nhiên và nhân tạo,đồng thời tạo
tính thẩm mỹ cho toà nhà. Sự thay đổi đó có thể là sự thay đổi rõ ràng về mặt kích
thước, vị trí của các yếu tố, cũng có thể là sự thay đổi về chất cảm, màu sắc, mức độ
phản xạ hay khúc xạ của vật liệu ốp ngoài, hay đơn giản chỉ là sự thay đổi về mặt
chiếu sáng. Và những thay đổi này có thể diễn ra dưới sự điều khiển, tương tác của
con người hoặc hoàn toàn tự động bằng máy tính thông qua các bộ phận cảm ứng.
Tất cả tạo nên một hệ thống bao che có khả năng vận hành, những công trình khô
cứng theo quan niệm cũ sẽ trở nên “sinh động” hơndưới tinh thần của Kiến trúc
Hiệu năng.
30

Tuy nhiên có một điều rất quan trọng cần phải để ý đến đó là sự vận hành
này của lớp vỏ bao che phải mang tính thích nghi. Tức là sự thay đổi trên không
phải là một sự tùy tiện, vô ý mà nó phải phù hợp với sự biến đổi của môi trường
xung quanh từ các yếu tố tự nhiên như bức xạ mặt trời, gió, nhiệt độ, độ ẩm, các
loại ngoại lực tác động đến các yếu tố xã hội, văn hóa như các sự kiện xảy ra trong
và ngoài công trình hay là sự chuyển động của người đi bộ hoặc lái xe đi ngang.
Trong quá khứ, điều này tưởng chừng như là quá xa vời, bất khả thi nhưng giờ đây
dưới sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thì việc biến vỏ ngoài công
trình thành một lớp “da sinh học” có khả năng phản ứng, tương tácdưới sự tác động
của môi trường là điều hoàn toàn có thể đạt được
Và thực sự khái niệm “tương tác” (interactive)đãvà đang được đưa ra với
những đề xuất rất hấp dẫn. “Vỏ ngoài công trình vừa có thể vận hành, vừa có thể
biểu đạt được những hoạt động bên trong công trình, vừa có khả năng giao tiếp với
con người tất cả sẽ được đặt dưới sự hỗ trợ của một vài thiết bị do phần mềm máy
tính điều khiển”[11,tr.152]. Rõ ràng vấn đề được đặt ra là với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật ngày nay là vỏ bao che của công trình cần phải có một sự cách mạng,
nó không chỉ được dùng để phát những thông tin cứng nhắc mà còn phải có sự
tương tác, phản ứng với các yếu tố xung quanh vốn đang thay đổi liên tục không
ngừng.

2.1.2 Sự đồng nhất của hệ thống bao che và hệ thống kết cấu
Chính lớp bề mặt – lớp vỏ bao công trình – với hình thái lẫn cấu tạo phức tạp
của nó đãđã chiếm nhiều thời gian làm việc của những người đi tiên phong trong
việc tìm kiếm những hình khối mới. Quá trình này được thúc đẩy bởi những phần
mềm dựng hình vi tính hiện đại. Tuy nhiên cũng có những người với lối tư duy và
suy nghĩ táo bạo hơn, như Santiago Calatrava26đã loại bỏ lớp vỏ bao trong nhiều dự
án của ông, thay vào đó, tìm kiếm cách khai thác, phối hợp năng lực biểu hiện của
bề mặt kiến trúc, cả về mặt hình thái lẫn mặt kỹ thuật kết cấu. Ý tưởng chủ đạo là
kết hợp lớp kết cấu và lớp vỏ bao thành một bộ phận chung.

26
Santiago Calatrava Valls (28/07/1951 ) là một kiến trúc sư nổi tiếng người Tây Ban Nha , ông còn là một
kỹ sư kết cấu, nhà điêu khắc và họa sĩ . Ông có văn phòng tại thành phố New York , Doha , và Zürich , nơi
mà hiện nay ông đang cư trú .
31

Nhìn từ góc độ lịch sử, khối dáng của công trình thường bị hạn chế bởi kết
cấu, mà kết cấu lại bị hạn chế bởi vật liệu. Chỉ khi những cuộc cách mạng về khoa
học, kỹ thuật bùng nổ dẫn tới việc xuất hiện những vật liệu mới, kết cấu công trình
thay đổi kéo theo hình thức công trình thay đổi (ví dụ như sự xuất hiện của gạch hay
bê tông cốt thép đã thay đổi rõ rệt hỉnh ảnh kiến trúc trong thời kỳ đó). Giờ đây, với
tư duy mới của Kiến trúc Hiệu năng, việc tìm kiếm các vật liêu mới lại càng trở nên
cấp thiết, bởi hình khối và kết cấu sẽđan xen vào nhau dựa theo vật liệu và khả năng
chịu nén và chịu lực của nó. Như Gilles Deleuze và Felix Guattari đã minh họa hai
cách tiếp cận khác nhau này bằng hai thuật ngữ“Roman” và “Gothic”27 từ “mối
quan hệ tĩnh, hình thức – vật chất” (static relation, form-matter)sang “mối quan hệ
động, vật liệu – lực tác động” (dynamic relation, material-forces). Họ đã viết như
sau trong cuốn A Thousand Plateaus: Capitalismand Schizophrenia: “Việc cắt và
sắp xếp một viên đá đúng cách có thể biến nó thành một loại vật liệu mới có khả
năng chịu lực tốt hơn, như vậy hình thức được tạo ra phụ thuộc vào khả năng chịu
lực của vật liệu trong điều kiện tính toán tối ưu” [17,tr.364]
Việc tìm kiếm tính biểu hiện trong hình khối và kết cấu thúc đẩy việc tìm
kiếm những vật liệu mới ( foam , cao su, nhựa tổng hợp và các chất phức hợp chịu
được nhiệt độ cao). Những loại vật liệu này cho đến gần đây vẫn ít khi được sử
dụng trong ngành công nghiệp xây dựng. Lấy ví dụ, vật liệu hỗn hợp polymer nhiệt
hoạt động tốt đem lại hứa hẹn sẽ có thể dùng làm lớp bao che, trong đó, các nhân tố
khả biến của vật liệu có thể tối ưu hoá để đáp ứng tiêu chí về hiệu năng, mở ra
những cơ hội xây dựng hoàn toàn mới lạ trong kiến trúc. Điển hình như có thể điều
chỉnh độ trong suốt ở một mặt của vật liệu và có thể điều chỉnh bằng tính biểu hiện
của kết cấu,cách thay đổi số lượng và kiểu mẫu của những sợi cáp, v.v.

2.1.3 Các công trình tiêu biểu


2.1.3.1 Dự án Bix và công trình Kunsthaus Graz
Đây là ví dụ tiêu biểu nhất cho thấy sự biến đổi của vỏ bao che bằng một hệ
thống chiếu sáng để thể hiện những hoạt động bên trong công trình. BIX là hệ thống

27
Xem lại mục 1.2.2
32

lập trình truyền thông và ánh sáng cho bảo tàng nghệ thuật đương đại Kunsthaus
Graz28. BIX có tiềm năng trở thành một dự án tham khảo trong những cuộc thảo
luận về Kiến trúc Hiệu năngbởi sự thống nhất giữa công năng kiến trúc và hình thức
mang tính truyền thông của nó. Hệ thống này chuyển đổi mặt tiền phía đông của toà
nhà thành một lớp màng bao có tính biểu hiện đa dạng và có thể thay đổi được, nó
có thể truyền đạt đến công chúng những những hoạt động triển lãm nghệ thuật đang
diễn ra bên trong. Nó là hệ thống sắp đặt màn hình cố định kích thước siêu lớn đầu
tiên, được thiết kế độc nhất, chỉ chuyên dùng để thể hiện những tác phẩm nghệ
thuật. Đây được xem là một ví dụ tiêu biểu cho một thể loại ngôn ngữ, một phong
cách giao tiếp đô thị độc nhất, nó đồng bộ hoá kiến trúc và người sử dụng, đồng
thời dựa trên bối cảnh đô thị sẵn có . Và một bảo tàng nghệ thuật đương đại đãđược
chọn là nơi triển khai dự án lắp đặt, bởi vì người ta trông đợi rằng loại hình công
trình này với tính chất phi thương mại có thể là nơi thử nghiệm hiệu quả nhất và
đồng thời vạch ra tiềm năng của các công cụ giao tiếp mới như BIX.
Kunsthaus Grazlà một công trình với thiết kế ngoạn mục với hình dạng bất
quy tắc, kết cấu phỏng sinh học, giống một trái bóng bay đặt chồng lên tiền sảnh
bọc kính bên dưới (HÌnh 2.01a). Bề mặt ngoài sáng bóng lung linh màu xanh biển là
đặc trưng nổi bật của công trình. Được biết đến như “Người hoài hành tinh thân
thiện”, công trình được xây dựng từ hơn 1000 tấm kiếng acrylic trong suốt được tạo
hình đặc biệt từng tấm một, bao bọc quanh toàn công trình. (Hình 2.01b)
Một studio kiến trúc có trụ sở tại Berlin đãđưa lớp vỏ bọc công trình này lên
một bước cao, biến nó thành một màn hình thông tin khổng lồ gọi là BIX. Bên dưới
bề mặt acrylic nhìn ra sông Mur và trung tâm thành phố, bộ phận thiết kế đã triển
khai một hệ thống lưới gồm 930 đèn huỳnh quang dạng hình khuyên 40W tiêu
chuẩn với đường kính 40cm bao phủ một diện tích ước tính chiều cao khoảng 20m
và dài 40m (Hình 2.01c, 2.01d, 2.01e). Mỗi bóng đèn đóng vai trò như một đơn vị
pixel. Mức sáng của đèn có thể điều chỉnh thông qua máy tính và có độ thay đổi rất

28
Kunsthaus Graz : là một bảo tàng nghê thuật đương đại tại Áo, nơi tổ chức các cuộc triển lãm quốc tế về
nghệ thuật đương đại và hiện đại, khánh thành vào tháng 9 năm 2003
33

lớn ở mức 18 khung hình một giây. Bằng cách này, những hình mẫu (pattern) ánh
sáng có độ phân giải thấp có thể phát ra khắp toàn bộ bề mặt công trình (Hình 2.01f,
2.01g).Từ đó, với một khoảng cách đáng kể, cư dân ở khắp thành phố vẫn có thể
nhìn thấy được. Trong buổi lễ công bố người chiến thắng năm 2000tại London,
Kiến trúc sư Cook29 và Fournier30, những người thiết kế công trình, đã mô tả lớp vỏ
bao của bảo tàng như sau: “Phần lớn vỏ bao là kính chắn sáng, nhưng lúc nào cũng
có những mảnh trong suốt lộ ra cho thấy dấu hiệu của những hoạt động bên trong.
Nhiều thứ xuất hiện rồi biến mất trên lớp vỏ bao như kí hiệu, thông báo, đoạn phim
ngắn hay hình ảnh hiện thoáng qua trong thời gian ngắn rồi sau đó mờ đi” Dự án
BIX chọn hình thức biểu hiện kiến trúc này vào thời điểm người ta dần nhận thấy
rằng cần thay đổi ý tưởng về lớp vỏ bao gần như trong suốt ban đầu vì lý do kỹ
thuật. Áp dụng cách này, BIX thật sự hoà hợp với thiết kế kiến trúc ban đầu.
Hệ thống BIX được vận hành theo ý khách hàng. Có những phần mềm
chuyên dụng đóng vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả và độ chính xác của
những sản phẩm sáng tạo được trình chiếu ở mặt tiền công trình. Có hai phần mềm
chính, đó là “BIX Director” và “BIX Simulator”. Phần mềm BIX Director cho phép
người dụng biên soạn và sắp xếp những gì sẽ được trình chiếu ở mặt ngoài công
trình. Có thể sử dụng nó để thiết lập những màn trình chiếu phức tạp cho những
ngày đặc biệt hoặc vào mỗi cuối tuần một cách đơn giản và nhanh chóng. Phần
mềm thứ hai, BIX Simulator, vô cùng thiết yếu nếu dùng để trình diễn những màn
nghệ thuật. Nó cho phép nhà thiết kế kiểm tra và xem trước được kết quả trình
chiếu hiển thị trên công trình dưới dạng giả lập trong không gian ảo 3D như
thật.Thông qua đó, nhà thiết kế có thể đảm bảo rằng sản phầm của mình phù hợp để
trình chiếu thực tế trên công trình thật hay không(Hình 2.01h).

29
Giáo sư Peter Cook (22/10/1936) là một kiến trúc sư nổi tiếng người anh Anh, giảng viên về các chủ đề
kiến trúc. Ông đã được phong tước hiệp sĩ vào năm 2007 bởi nữ hoàng cho các dịch vụ của mình để kiến trúc
và giảng dạy
30
Colin Fournier(1944) kiến trúc sư người Anh. Ông là giáo sư danh dự và là chủ nhiệm khoa kiến trúc tại
Trường Kiến trúc Bartlett, Đại học College London, và hiện là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Trung Quốc
của Hồng Kông
34

Hệ thống sắp đặt truyền thông BIX và kiến trúc của toà nhà Kunsthaus Graz
có một mối quan hệ cộng sinh gắn bó chặt chẽ với nhau. Mặt ngoài công trình như
một phần mở rộng thêm khả năng truyền đạt giao tiếp của bảo tàng, tạo ra sự kết
hợp hài hoà tương hỗ giữa nghệ thuật, kiến trúc và truyền thông (Hình 2.01i). Vì
vậy, BIX trở thành một đặc trưng nhận dạng quan trọng, một nhân tố kiến trúc của
toà nhà Kusthaus Graz. Peter Pakesch, giám đốc toà Kusthaus Graz, nhận xét :“Tôi
cho rằng kiến trúc sư và đặc biệt là những người tạo ra BIX đã thành công trong
việc đưa ra một loại vật liệu hoàn toàn khác lạ. Không phải là loại trong suốt của
một ngôi nhà kính, vốn chẳng có ích lợi gì cho một bảo tàng nghệ thuật, mà chính
là sự trong suốt của thông tin, của nội dung, và hiện những điều này vẫn đang trong
quá trình phát triển và cũng chính bởi thế mà kiến trúc là một thử thách.”31
2.1.3.2 Các dự án nhà xưởng của Grimshaw
Grimshaw là một công ty tiêu biểu vận dụng hiệu quả phương pháp thiết kế
vỏ bao che một cách linh hoạt đáp ứng được sự thay đổi công năng trong tương lai
của công trình. Công trình ban đầu vào năm 1976, vốn thuộc về lĩnh vực kiến trúc
công nghiệp, một nhà máy ở Bath, Anh, chủ đầu tư là công ty Herman Miller, một
công ty sản xuất đồ nội thất. Khách hàng muốn một nhà máy có khả năng thay đổi
được, bởi vì công ty không biết được sẽ dùng đến dây chuyền sản xuất gì trong
vòng hai mươi hay ba mươi năm tới. Giải pháp được đưa ra là sử dụng những tấm
sợi thủy tinh để tạo ra một lớp vỏ bao che để dễ thích nghi và có tính linh hoạt.
Cùng với hệ thống lớp bao che ở bên ngoài, người ta sử dụng giải pháp bố trí rất
linh hoạt ở bên trong. Sự kết hợp này giúp cho công trình có thể ứng xử như một
sinh vật, tự thích ứng phù hợp với những nhu cầu khác nhau. Sau hơn mười lăm
năm đưa vào sử dụng, nhà máy đãđược tái sắp xếp lại năm lần. Bằng cách tích hợp
khả năng thích ứng vào trong thiết kế của tòa nhà và hệ thống của nó, công trình
kiến trúc không chỉ vận hành lâu dài mà còn tạo sự thoải mái cho những người sử
dụng công trình đó. (Hình 2.02)

31
Trích từ một cuộc phỏng vấn với Peter Pakesch trong phim tài liệu do coop99sản xuất, “Kunsthaus Graz,
Người ngoài hành tinh thân thiện”, 2003, Vienna, xuất bảnbởi Kunsthaus Graz tại Landesmuseum Joanneum
GmbH, Graz.
35

Đối với dự án thứ hai xây dựng cho công ty Herman Miller tại Chippenham,
cũng ở phía tây nam nước Anh, Grimshaw đã xây một công trình có thể dự đoán sự
thay đổi. Công trình đó phải có nhịp lớn với vai trò cơ bản là một nhà xưởng lớn,
nhưng mục tiêu trong tương lai là có thể chuyển đổi thành văn phòng. Tính linh
động lâu dài phải được dự liệu trước. Công ty đã thiết kế một hệ thống bao che đáp
ứng được những tiêu chí về tính hiệu quả, bởi vì một nhà xưởng không quan trọng ở
lớp vỏ bao bên ngoài trong khi một văn phòng lại là đối tượng phức tạp hơn, phải
có cửa sổ, cửa ra vào và thông gió tự nhiên. Giải pháp đưa ra là phải cố gắng thiết
kế lớp vỏ bao có thể dự tính sự thay đổi đó và có thể điều chỉnh lại cho phù hợp với
mục đích sử dụng. Và phương án được đưa ra là một lớp vỏ bao che với những tấm
panel làm từ nhôm ép đặc chế với các vị trí cửa sổ có thể thay đổi được. (Hình 2.03)
Nhiều công trình đãđược ứng dụng phương pháp này, ví dụ như nhà máy linh
động do IGUS thiết kế. Đây là nơi mà tính hiệu năng của lớp vỏ bao tốt hơn nữa vì
được truyền cảm hứng từ Jean Prouve32. Công trình này ngày nay đãđược nâng cấp
đến lần 5 và đã phát triển lên 400% so với kích thước ban đầu trong vòng 10 năm
qua. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được bởi công trình được xây dựng trong
khu vực sân vườn và dựa theo thiết kế đã dự đoán sự thay đổi. Hệ thống lấy sáng từ
trên mái đưa ánh sáng vào sâu trong công trình. Một loạt những cấu kiện môđun
được lắp đặt bên trong tòa nhà và có thể chứa đựng một loạt các chức năng khác
nhau, chẳng hạn như không gian văn phòng hoặc nhà vệ sinh. Công nghệ điều áp
trong nhà hát được sử dụng trong các đơn vị dầm đỡ dưới các môđun, vì có thể di
chuyển thủ công từng môđun quanh sàn nhà máy. Người ta có thể sắp xếp lại toàn
bộ tòa nhà giống như một bàn cờ. Các bộ phận trong công trình có thể tiếp cận ánh
sáng và thông gió tự nhiên bất kể chúng nằm ở nơi đâu (Hình 2.04).

2.1.3.3 Các công trình của Lars Spuybroek (NOX)33

32
Jean Prouvé (08/04/1901 – 23/0 3/1984) kiến trúc sư tự học người Pháp. Thành tựu chủ yếu của ông
đãđược chuyển giao công nghệ sản xuất từ công nghiệp đến kiến trúc. Trong suốt sự nghiệp của ông Jean
Prouvé đã tham gia thiết kế kiến trúc, thiết kế công nghiệp, thiết kế kết cấu và thiết kế đồ nội thất.
33
Lars Spuybroek (16/09/1959) là một kiến trúc sư, họa sĩ, người Hà Lan. Năm 2001 Lars Spuybroek được
bổ nhiệm làm giáo sư Thiết kế kỹ thuật số tại Đại học kỹ thuật Kassel ở Đức, ông cũng giảng dạy tại Đại học
36

Vài dự án gần đây của Lars Spuybroek (NOX), như tháp D-Tower tại
Doetinchem, Hà Lan (1998-2003) và MaisonFolie tại Lille, Pháp (2001–2004) đều
có thể xem như là những công trình có lớp vỏ bao che mang tính biểu hiện – hiệu
năng bởi tính tương tác cao giữa công trình với con người. D-Tower là một sản
phẩm của công nghệ và vật liệu, có kết cấu tự do.Một trang web và bảng câu hỏi
được tạo nên để thành lập một hệ thống quan hệ tương tác trong đó “chiều sâu (về
cảm giác, chất lượng) và chiều rộng(về không gian, số lượng) bắt đầu thay đổi vai
trò”34. Bề mặt phức tạp của tháp 12m được làm từ những tấm epoxy, tạo hình từ
khuôn đúc theo chương trình máy tính. Những tấm epoxy vừa là kết cấu vừa là vỏ
bao che, thực hiện nhiều công năng cùng lúc (Hình 2.05b). Toà tháp thay đổi màu
sắc dựa theo trạng thái cảm xúc phổ biến của người dân thành phố, điều này được
máy tính phản hồi sau khi thu thập dữ liệu người dân thông qua bảng câu hỏi online
về cảm xúc hàng ngày của họ : ghét, yêu, hạnh phúc hay lo sợ. Những cảm xúc này
được áp vào 4 màu (xanh lá, đỏ, xanh dương và vàng) cùng với đèn tương ứng,
chiếu sáng bề mặt hình khối tự do của toà tháp (Hình 2.05a). Do đó, dù nhìn vào toà
tháp hay nhìn vào trang web tương ứng, ai cũng có thể biết đâu là cảm xúc nổi trội
trong ngày hôm nay. Toà tháp còn thiết kế một nơi mà người dân có thể để thư tình,
hoa và các thứ khác vào đó.
Ở dự án MaisonFolie tại Lille, một nhà máy dệt cũ đãđược chuyển đổi thành
trung tâm nghệ thuật thành phố mới, hội trường đa năng được thêm vào có một
phần lớp vỏ bao trong suốt màu đen, phần còn lại là vỏ bọc kim loại. Sự kết hợp của
những lưới kim loại phức tạp tạo ra những hình phản chiếu khi có người di chuyển
dọc theo mặt tiền. Hiệu ứng này sẽ thay đổi mức độ tuỳ theo vị trí của mặt trời.
Ngoài ra còn có đèn chuyển động và thay đổi đặt sau lớp vỏ kim loại. (Hình 2.06)
2.1.3.4 Bảo tàng tại Milwaukee của Santiago Calatrava

Columbia ở New York. Từ năm 2006, ông là chủ nhiệm thiết kế kiến trúc tại Viện Công nghệ Georgia ở
Atlanta, nơi ông bắt đầu một loạt sách về nghiên cứu và thiết kế.Lars Spuybroek là giám đốc của văn phòng
NOX nơi tạo ra nhiều công trình mang tính nghệ thuật cao
34
Theo web site của NOX : http://www.noxarch.com
37

Toà nhà bảo tàng tại Milwaukee, Santiago Calatrava là một ví dụ nữa cho
tiêu chí biến hóa của vỏ bao che của Kiến trúc Hiệu năng. Ông đã thiết kế một mái
che nắng khổng lồ có hình dạng nhưđôi cánh có thể di động, một hệ thống lam che
nắng phủ lên phía trên sảnh đón che bằng kính. Được làm từ những thanh sườn có
độ dài khác nhau, mái che bằng lam có thể điều khiển này có thể nâng lên hoặc hạ
xuống để điều chỉnh lượng ánh sáng (và nhiệt) vào khu vực tiếp khách. “Đôi cánh
hải âu" này gồm 72 thanh chắn dài từ 8-31m, nặng khoảng 90 tấn, chuyển động nhờ
hệ thống 22 xilanh thủy lực. Sải cánh của hai lá chắn này lên đến 66m, có khả năng
gập lại hết cả chiều dài, gấp cong vào buổi tối hoặc những lúc thời tiết khắc nghiệt,
buổi sáng được mở bung ra với công năng của hai tấm che nắng uốn lượn rất nghệ
thuật. Tuy nhiên giờ đóng mở cố định thường là 5g chiều và 9g sáng. Mất 3 phút
rưỡi mỗi lần để đóng mở đôi cánh này. (Hình 2.07)

2.1.3.5 Aegis Hyposurface của Mark Goulthorpe35


Ngoài hiệu quả chuyển động, lớp vỏ bao của công trình cũng có thể thay đổi
hình dáng của nó một cách đa dạng nhằm phản hồi những tác động môi trường khác
nhau, như dự án Aegis Hyposurface do Mark Goulthorpe thiết kế là một điển hình.
Dự án này ban đầu được đầu tư phát triển nhằm tham dự cuộc thi tuyển chọn tác
phẩm nghệ thuật tương tác triển lãm tại sảnh đợi của nhà hát Birmingham
Hippodrome. Aegis Hyposurface là một lớp màng cao su có thể thay đổi hình dạng,
điều khiển qua hệ thống máy tính, được phủ lên các mảnh kim loại tam giác. Lớp
màng này có thể thay đổi hình dạng tuỳ theo kích thích điện tử do sự di chuyển và
thay đổi mức độ âm thanh và ánh sáng trong môi trường của nó, hoặc thông qua
những kiểu mẫu được tạo ra theo thông số có sẵn. Sức biểu hiện đa dạng của lớp vỏ
công trình có thể được lập trình trước hoặc là thay đổi tự do theo phản ứng với môi
trường ngoài. (Hình 2.08)
2.2 Tiêu chí về sử dụng năng lượng và sự tương tác với môi trường

35
Mark Goulthorpe (1963) : Kiến trúc sư người Mỹ, ông là Phó giáo sư tại, giảng dạy trong các chương trình
sau đại học đại học, sau đại học và nghiên cứu và trải qua trong thiết kế kỹ thuật số và chế tạo.
38

2.2.1 Sự biến đổi của năng lượng


Năng lượng từ môi trường có nhiều lợi ích khác nhau như chiếu sáng, thông
thoáng khí, sưởi ấm và cả tạo năng lượng điện qua những tấm pin mặt trời hay
tuabin gió v.vv. Nhưng khi môi trường thay đổi như buổi sáng và buổi tối, mùa này
qua mùa kia, trời nóng hay lạnh,… thì cũng sẽ có nhiều nhu cầu khác nhau trong
việc chống chọi cũng như sử dụng năng lượng từ môi trường. Theo tư duy của Kiến
trúc Hiệu năng, một công trình hiệu quả về mặt năng lượng không chỉ đơn giản là
việc lắp đặt các hệ thông tận dụng được các nguồn năng lượng tự nhiên đó mà còn
phải có khả năng biến đổi để thích nghi với sự thay đổi không ngừng của chúng và
để tạo sự cân bằng, hài hòa trong công trình.
Ta có thể lấy ví dụ về việc khai thác năng lượng từ mặt trời ở các nước có khí
hậu lạnh. Trong quá khứ, năng lượng mặt trời được xem là một cách để giảm lượng
năng lượng cần để sưởi ấm một căn nhà hoặc năng lượng cần để làm ấm nước. Kiến
trúc cũng đã có nhiều bước tiến để xử lý, chống chọi (như các dạnglam che nắng,
kính hai lớp hoặc tạo nên diện tích tiếp xúc lớn của ngôi nhà với hướng nam và xây
phần tường ở phía bắc cực dày) hay để khai thác, sử dụng nguồn năng lượng vô tận
này (sự phát triển của công nghệ kỹ thuật đã giúp đảm bảo việc 60% lượng nước
nóng sử dụng trong một ngôi nhà sẽ được sản xuất nhờ năng lượng mặt trời thu
được bởi các thiết bị thu năng lượng).
Nhưng từ khoảng những năm 1980, đã bắt đầu có những tranh cãi xung quanh
việc xây dựng những công trình ở những vùng có khí hậu lạnh, nơi mà những tòa
nhà có tiết diện tiếp xúc hoặc có cửa sổ lớn ở phía nam để lấy năng lượng mặt trời.
Khi ấy, người ta không nghĩ việc lấy nhiều năng lượng sẽ ảnh hưởng tới sự cân
bằng nhiệt của ngôi nhà mà chỉ xem năng lượng mặt trời là cách tuyệt vời nhất để
cắt giảm chi phí cho năng lượng từ chất đốt. Cái nhìn này có thể được xem là rất
thiển cận khi nó hoàn toàn không hiểu được rằng một công trình kiến trúc là một
tổng thể cực kì phức tạp được liên kết bằng nhiều chức năng, công nghệ kỹ thuật và
cả tính thẩm mỹ. Dù ở khu vực có khí hậu ôn hòa nhất thì việc hấp thụ nhiều nhiệt
vào công trình cũng sẽ gây ảnh hưởng tới việc làm dịu mát tòa nhà. Theo thống kê,
39

trong một cao ốc văn phòng bình thường, chỉ tốn khoảng 10% năng lượng trong
việc sưởi ấm. Thế nhưng chi phí để làm mát lại chiếm từ 10% tới 20%. Sự thật thì
năng lượng cần để làm mát công trình luôn gấp 3 lần năng lượng cần để sưởi ấm. 36
Hiện nay, sự phát triển của những vật liệu mới với độ thẩm thấu năng lượng
mặt trời (g-value) khác nhau đã trở thành một công cụ đắc lực trong việc xây dựng
các bức tường giúp ích cho việc chống chọi với sự biến đổi của mặt trời. Nhiều hệ
thống làm mát thế hệ mới cũng đang được phát triển tuy nhiên việc sử dụng những
thiết bị này cũng tiêu tốn nhiều năng lượng. Dù vậy, cần phải suy xét đếnnếu hạn
chế những không gian đón ánh mặt trời nhằm tránh nóng cũng sẽ dẫn tới việc sử
dụng nhiều ánh sáng nhân tạo hơn trong nhà. Như ở châu Âu, theo khảo sát cho
thấy hơn 30% năng lượng sử dụng của một căn nhà là dành cho việc chiếu sáng.
Trong thời đại mới với những sự phát triển vượt bậc của xã hội, một công trình
kiến trúc phải là một khối hòa quyện giữa công nghệ kỹ thuật với môi trường xung
quanh và cả trách nhiệm với xã hội (như bảo vệ môi trường, giảm tiêu thụ điện
năng,…). Công nghệ máy tính cũng đang giúp ích rất nhiều trong việc xử lý các yếu
tố trong quá trình xây dựng như thông thoáng công trình hay cân bằng ánh sáng,
nhiệt năng. Nhiều vật liệu mới đã ra đời như lớp cách nhiệt hay một loại kính mới
có khả năng chuyển từ trong sang mờ bằng điều khiển từ xa nhằm phù hợp với nhiệt
độ khác nhau trong ngày. Qua đó người ta tính tới việc xây dựng những hệ thống
thông minh có thể thích nghi với sự biến đổi của môi trường cũng như có thể điều
khiển được việc sử dụng năng lượng trong môi trường đó. Tuy nhiên, việc sử dụng
hệ thống này cho tới nay cũng còn nhiều vấn đề như giá thành cao, việc lắp đặt, bảo
trì khó khăn cũng như việc chưa thật sự nghiên cứu kỹ lưỡng tới tác động của nó
với con người. Như vậy, các kiến trúc sư cần phải phối hợp và liên kết chặt chẽ với
chuyên gia từ nhiều ngành khác để có thể có những bước tiến tối ưu hơn trong
tương lai.
2.2.2 Khả năng tương tác của hình khối công trình với môi trường

36
Theo điều tra được thực hiện bởi giáo sư Nick Baker, được trình bày trong một bài giảng tại Cambridge,
Anh.
40

Ngày nay càng lúc càng có nhiều đòi hỏi phải tạo ra những công trình với
hình khối bên ngoài (trông nó thế nào) và công năng (nó làm gì) hoà hợp, dựa trên
hiệu năng với môi trường, như: cân nhắc đến ánh sáng, nhiệt, năng lượng, chuyển
động và âm thanh. Trong nền kiến trúc đương đại, đang có sự cách biệt về mặt thẩm
mỹ giữa những nhà thiết kế hướng về hình khối hoặc biểu hiện văn hoá (Frank
Gehry37, Greg Lynn38, v.v.) và những nhà thiết kế mà mục tiêu làm việc của họ
hướng về khả năng tương tác với môi trường (Thomas Herzog, Michael U. Hensel,
v.v.). Mặt khác, có một nhóm những nhà thiết kế khác kết hợp cả hai điều này trong
các thiết kế của mình (Foster39, Grimshaw, Piano, v.v.). Các chiến lược thiết kế
trong những dự án của nhóm sau cùng có sự khác biệtđáng kể vì công trình của họ
phản ứng theo những bối cảnh môi trường và văn hóa khác nhau. Trong nhiều dự án
của họ, những vấn đề biểu hiện môi trường và hình khối đều được theo đuổi song
song nhau một cách thành công.
Như vậy theo tư duy của Kiến trúc Hiệu năng, bên cạnh một lớp vỏ bao che
có thể vận động, tương tác thì hình khối công trình cũng phải chịu tác động rất lớn
từ những điều kiện tự nhiên luôn biến đổi xung quanh, việc thiết kế hình khối công
trình giờ đây phải đảm bảo được các yêu cầu về mặt khai thác năng lượng, chống
chọi với những yếu tố tự nhiên một cách tối ưu nhất.Điều khó khăn ở đây là dường
như không có một quy tắc chung cụ thể nào bởi mỗi công trình khác nhau sẽ có
những cách giải quyết khác nhau. MàKiến trúc Hiệu năng không cũng phải là cách
sáng chế ra một loạt giải pháp thực tế nhằm giải quyết một loạt vấn đề thực tế. Nó
là một câu chuyện kể nhiều tầng lớp nhằm mục đích chung đó là tạo ra một sự biểu
hiện dựa trên tất cả những khía cạnh liên quan đến dự án đó.
2.2.3 Các công trình tiêu biểu

37
Frank Owen Gehry (28/02/1929) là một kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ. Các công trình của ông nổi tiếng
bằng các đường cong tròn trịa, thường bọc bằng những vật liệu kim loại phản xạ.
38
Greg Lynn (1964) kiến trúc sư người Mỹ, công việc của ông hiện tại là bắt đầu khám phá làm thế nào để
tích hợp cấu trúc và hình thức với nhau. Và nghiên cứu về các khối dáng phỏng sinh học
39
Norman Robert Foster (01/06/1935) là một kiến trúc sư người Anh. Ông được phong tặng tước hiệu Nam
tước của bờ sông Thames, tước Hiệp sĩ và được tặng thưởng Huân chương danh dự (Anh). Phong cách kiến
trúc của ông nguyên gốc đặc sắc và thời trang, ảnh hưởng máy móc của phong cách High-tech, nhưng dần
dần ông đã chuyển sang một phong cách tinh tế và hiện đại, sắc nét hơn.
41

2.2.3.1 Các công trình của ThomasHerzog40


Từ trước tới nay, công ty kiến trúc Herzog + Partner luôn là công ty thực
hiện nhiều công trình phục vụ xã hội cũng như khai thác những bước tiến mới của
khoa học trong kiến trúc, họ nổi tiếng với việc sử dụng các hệ thống tái tạo năng
lượng ứng dụng vào hình thức công trình.Tất cả đều theo phương pháp: “nhiệm vụ”
sẽ quyết định “hình thức” của một công trình . Và ta gọi đó là “hình thức dựa vào
hiệu năng”.
Nhà khách mới trong khuôn viên Trung tâm giáo dục thanh niên của tu viện
Windberg là một công trình tiêu biểu cho việc sử dụng hiệu quả năng lượng trong
thiết kế (Hình 2.09a). Trong quá trình xây dựng, người ta dựa vào tính chất cũng
như thời lượng sử dụng của từng nhóm phòng để quyết định phương án năng lượng
của tòa nhà. Những căn phòng được sử dụng nhiều hơn trong ngày sẽ thành một
nhóm riêng so với những căn phòng chỉ được sử dụng một khoản thời gian ngắn.
Vật liệu xây dựng của từng nhóm phòng cũng khác nhau.Ở phía nam và đông của
tòa nhà là khu vực sảnh tiếp khách cũng như dãy phòng ngủ được phân chia theo
nhiều cách khác nhau. Những phòng ở phía này sẽ được xây dựng đẹp mắt hơn với
không gian mở, có thể nhìn ra cảnh vật xung quanh nhờ những tấm cửa kính lớn
(Hình 2.9b, 2.9c). Việc tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời cũng sẽ giúp cho
việc chiếu sáng và sưởi ấm cho khu vực được sử dụng với thời gian nhiều hơn này
của tòa nhà. Để giảm thiểu tác động mạnh của môi trường cũng như lưu trữ được
năng lượng nhiệt thì vật liệu ở đây chủ yếu là vật liệu nặng và tỏa nhiệt chậm. Phần
mờ đục của những bức tường quay mặt về phía nam cũng được phủ những vật liệu
cách nhiệt chỉ cho ánh sáng đi qua và cản lại toàn bộ bức xạ mặt trời. Như vậy,
phần tường này sẽ hút nhiệt rồi tỏa nhiệt ra môi trường xung quanh sau năm tới sáu
tiếng. Điều này đồng nghĩa với việc buổi tối, khi khí hậu lạnh lẽo thì những bức
tường này sẽ tỏa nhiệt vào bên trong để giữ ấm cho căn phòng. Còn vào mùa hè thì
đã có mái nhà rộng cũng như cửa sổ kiểu lá sách để giảm tác động của mặt trời. Ở
phía bắc của tòa nhà là khu vực nhà kho và phòng chứa đồ đạc cũng như lối đi dọc

40
Xem mục 1.3.1
42

tòa nhà (Hình 2.9d). Vì đây là khu vực có thời lượng sử dụng ít hơn nên nhiệt độ
trung bình ở khu vực này cũng được giữ thấp hơn khu vực còn lại. Ví dụ như khu
vực nhà tắm, nhiệt độ cao chỉ xuất hiện trong khoảng từ 3 đến 5 tiếng trong ngày.
Chính vì thế mà ở đây có lắp đặt hệ thống làm ấm cấp tốc. Và để ngăn việc nhiệt độ
tỏa hết ra ngoài, trên khu vực áp mái có gắn các thiết bị thu hồi nhiệt (heat
recovery). Ngoài ra, nước nóng để tắm được tạo ra bởi nguồn năng lượng mặt trời
thu được từ những tấm pin năng lượng trên nóc nhà.Như vậy tòa nhà này ngoài
chức năng thông thường, còn có chức năng giáo dục cho thế hệ trẻ một cái nhìn dễ
hiểu hơn về việc vận dụng môi trường một cách “chủ động” và “bị động” trong kiến
trúc. Nó sẽ giúp mọi người hiểu rằng chúng ta có thể cân bằng năng lượng của một
kiến trúc bằng việc thiết kế một cách thông minh, có tính toán.
Công trình tiếp theo là một công trình khổng lồ làm bằng kính ở Linz đánh
dấu một cách nhìn nhận hoàn toàn khác về ý tưởng khi nhìn lại những công trình
tương tự như thế trong lịch sử (như Crystal Palace ở Anh, Glaspalast ở Munich).
Những công trình đótuyđem lại sự bảo vệ vững chắcnhưng lạiđặt ra những dấu
chấm hỏi về chất lượng ánh sáng bên trong tòa nhà. Với trung tâm thiết kế
Sprawling ở Linz, tiêu chí đầu tiên khi thiết kế và xây dựng chính là giảm tối đa
diện tích không khí bên trong để dễ kiểm soát việc lưu thông khí. Chiều cao tối đa
của phần bên trong tòa nhà được hạn chế tới mức 12 mét. Tuy nhiên, chiều cao ở
bên ngoài thì không cần tuân theo kích thước này nên mới có phần mái được thiết
kế uốn cong sang hai bên (Hình 2.10a).Phần dàn sắt thép chính của mái nhà dài
76m và chiếm phần diện tích 16,800 m2. Để tận dụng tối đa diện tích, khu trưng
bày và khu quốc hội sẽ cùng dùng chung một cầu và lối vào của khách xem trưng
bày cònđại biểu quốc hộiđược thiết kế riêng biệt khi lên cầu thang (Hình 2.10b).
Ngoài ra, nhiều khu vực trong tòa nhà được ngăn cách bởi những vách ngăn có thể
di chuyển được nên toàn bộ không gian có thể thay đổi uyển chuyển tùy vào mục
đích sử dụng (hình 2.10c).Vấn đề nan giải của kiến trúc bằng kính khổng lồ này
chính là làm sao có được lượng ánh sáng hoàn hảo cho phòng trưng bày mà không
cần phải tốn quá nhiều chi phí và năng lượng. Các kiến trúc sưđã vận dụng một vật
43

liệu xây dựng hoàn toàn mới giúp cho việc lọc ánh sáng của mái nhà. Một lớp nhựa
đặt biệt được chèn vào giữa lớp mái để khai thác ánh sáng gián tiếp đi vào tòa nhà
(Hình 2.10d). Từ đó mà không gian bên trong kiến trúc không bị nóng quá mức vào
mùa hè.Về việc thông khí và điều hòa nhiệt độ của tòa nhà: không khí từ bên ngoài
sẽ được cho vào tòa nhà nhờ vào những lỗ thông khí ở hai bên hông tòa nhà. Còn
không khí nóng trong tòa nhà sẽ được ống dẫn tới bộ phận tản nhiệt. Ngoài ra,
không khí nóng có thể thoát ra ngoài nhờ những cửa sổ mái (Hình 2.10e).Phần mái
nhà cũng được thiết kế và kiểm tra sức chịu đựng trước những cơn gió (Hình 2.10f).

2.2.3.2 Các công trình của Norman Foster


Norman Foster là một kiến trúc sư tiêu biểu đã cải tiến khả năng tương tác
môi trường của những công trình có bề ngoài nổi bật của ông. Như trong dự án
Swiss Re ở Luân Đôn của Foster và cộng sự, công trình được thiết kế với rất nhiều
yếu tố kiến trúc hiện đại để tiết kiệm năng lượng. Khoảng trống giữa các tầng được
thiết kế để tạo thành hệ thống thông gió tự nhiên. Tòa bộ tòa nhà được phủ hai lớp
kính để tăng cường chiếu sáng cho các phòng làm việc và tạo thành một "quả dưa
chuột" phủ kính khổng lồ. Mặc dù phủ toàn bộ kính để tạo thành một đường cong
nhưng chỉ có duy nhất tấm kính trên đỉnh tòa nhà được uốn cong, còn lại là các tấm
kính phẳng. Thiết kế chính của tòa nhà là nhằm vào việc tối đa hoá ánh sáng ban
ngày và thông gió tự nhiên để giảm đáng kể (phân nửa) số năng lượng cần để vận
hành. Hình khối xoắn của lớp ngoài công trình chạy suốt chiều cao của nó được
thiết kế để tạo ra sự khác biệt áp suất giúp hỗ trợ rất nhiều cho chiều lưu chuyển tự
nhiên của không khí. Hình khối cong, dựa theo khí động lực ngoài việc khiến công
trình có hình dáng cao mang tính biểu tượng còn cho phép gió thổi trôi chảy quanh
cao ốc này, giảm tối thiểu sức tải gió lên kết cấu và lớp vỏ ngoài, cho phép sử dụng
kết cấu hiệu quả hơn. Thêm vào đó, gió không chệch hướng xuống đất, việc vốn
thường xảy ra với những công trình thẳng, điều này giúp giữ được sự thoải mái cho
khách bộ hành ở tầng trệt của toà nhà. (Hình 2.11a)
44

Một công trình nổi tiếng tiếp theo cũng ở Luân Đôn do Foster thiết kế đó là
Tòa thị chính London. Đây là nơi ở của thị trưởng thành phố London, Nghị viện
London và chính quyền thành phố London. Công trình có hình dạng mang tính biểu
tượng được tạo thành dựa trên tính biểu hiện, khả năng tương tác với môi trường từ
trong giai đoạn thiết kế41. Hình dáng sau cùng giống như viên đá cuội của công
trình là kết quả từ việc tối ưu hoá hiệu quả năng lượng thông qua giảm tối thiểu diện
tích bề mặt ngoài trực tiếp phơi dưới ánh sáng mặt trời.Sự không cân xứng của tòa
nhà cũng có ích cho hiệu quả năng lượng: những phần nhô ra ở sườn phía Nam bảo
đảm những cửa sổ ở đây được che bóng bằng các tầng trên, vì vậy giảm nhu cầu
làm mát trong mùa hè. Thực tế, tòa nhà hoàn toàn không yêu cầu làm mát và được
báo cáo sử dụng một phần tư năng lựơng so với những không gian văn phòng tương
đuơng. Hình khối của công trình là một hình cầu biến dạng, có diện tích bề mặt ít
hơn 25% so với hình hộp với cùng thể tích, đem lại hiệu quả giảm thiểu sức hấp thu
nhiệt mặt trời và nhiệt thất thoát thông qua lớp ngoài của công trình. (Hình 2.11b)

2.2.3.3 Trung tâm văn hoá Tjibaou


Một ví dụ nữa về một dự án gần đây dường nhưđã giải quyết được những
vấn đề của kiến trúc biểu hiện, từ biểu hiện môi trường tới biểu hiện văn hoá, là dự
án trung tâm văn hoá Tjibaou của Renzo Piano (1991–1998;). Hình dáng dự án lấy
ý tưởng (nhưng không phải mô phỏng) từ túp lều của người Kanak với hình dạng
gần giống cái nón. Hình dáng này đạt được tính biểu hiện văn hoá đặc biệt trong
tâm trí người xem. Túp lều bị cắt xén phần trên để đạt được khả năng tương tác hiệu
quả với môi trường tốt hơn. Luồng khí tự nhiên di chuyển trong công trình được
tăng cường bởi một hệ thống mái hắt do máy tính điều khiển được lắp đặt bên trong
lớp bao ngoài của “túp lều”. Nó được thiết kế và phát triển thông qua việc mô
phỏng vi tính các luồng gió bởi những kỹ sư của Arup và Trung tâm Khoa học và
Kỹ thuật Batiment tại Pháp. (Hình 2.12)

41
Thiết kế ban đầu của dự án rất quy cách, tuy nhiên sau khi được tính toán về mặt hiệu năng, cũng như tính
tương tác với môi trường, khối dáng dự án đã thay đổi để phù hợp hơn.
45

2.3 Tiêu chí về tính toánkỹ thuật – kết cấu


2.3.1 Sự thay đổi tư duy trong thiết kế kỹ thuật
Áp lực về tính kinh tế, tính đảm bảo, tiến độ xây dựng trong thiết kế kỹ thuật
hạ tầng từ xưa đến nay đã khiến các kỹ sư phải dựa vào những tiêu chuẩn nhằm giải
quyết các vấn đề về hệ thống kết cấu và môi trường. Nhưng đối với Kiến trúc Hiệu
năng khi các giải pháp kiến trúc ngày càng trở nên phức tạp nhờ vào sự bùng nổ của
các phần mềm kiến trúc và công nghệ xây dựng ngày càng hiện đại, các kỹ sư buộc
phải đưa ra những giải pháp phù hợp hơn để đưa lĩnh vực thiết kế xây dựng tới chân
trời mới cao và xa hơn.
Theo Craig Schwitter42:“Những cải tiến mới trong thiết kế của Kiến trúc
hiệu năng cần một giải pháp kỹ thuật nhanh chóng, phương pháp này sẽ được các
kỹ sư sử dụng vào các thời điểm thích hợp ngay từ đầu trong quá trình thiết kế
(không như phương pháp truyền thống là các kỹ sư sẽ tính toán sau khi phương án
công trình được thiết kế hoàn tất), qua đó có thể phát triển chất lượng của các giải
pháp thiết kế vượt trên hẳn những giải pháp phổ biến thông thường đãđược sử
dụng”[11,tr.113]. Các kỹ sư hạ tầng và kỹ sư công trình đang ngày càng bắt kịp với
những thay đổi của các loại công cụ kỹ thuật, những thay đổi đó có thể tăng cường
khả năng thiết kế và hỗ trợ tư duy thiết kế, giúp công việc sáng tạo hơn cũng như
phù hợp với từng hoàn cảnh. Cộng đồng kiến trúc đang ý thức được sự phát triển
này và đang bắt đầu tận dụng các phần mềm máy tính mới vào thiết kế công trình.
Những công việc tính toán kết cấu, tính toán nhiệt điện lạnh, thiết kế phòng cháy
chữa cháy đều luôn trong tư thế sẵn sàng để tận dụng sự hỗ trợ của công cụ máy
tính cải tiến trong tương lai. Đây là một nền tảng mới cho kiến trúc, bởi ngày nay
thị trường tồn tại những yêu cầu khác nhau, quy chuẩn tiêu chuẩn thiết kế khác
nhau, cũng như những thử thách kỹ thuật khác nhau nhiều hơn là chúng ta có thể
hình dung được.

42
Craig Schwitter (1967), một kỹ sư trẻ xuất sắc người Mỹ. Một trong những niềm đam mê lớn nhất của
Schwitter là sự tương tác giữa kiến trúc và kỹ thuật. Ông được bổ nhiệm làm trưởng ban về kiến trúc và kỹ
thuật tại các phòng ban kỹ thuật kiến trúc và dân sự của Viện Bách khoa Rensselaer ở New York vào tháng
Giêng năm 2001. Schwitter có bằng cử nhân khoa học ngành kỹ sư dân sự từ Đại học Johns Hopkins và một
bậc thầy của khoa học trong ngành kỹ sư dân sự từ Viện Công nghệ Massachusetts.
46

Khó khăn ở đây là các kỹ sư thường có xu hướng chống lại sự thay đổi cách
tân, thế nhưng bản chất của thiết kế chính là thay đổi. Cuộc cách mạng xây dựng
công trình đòi hỏi chúng ta liên tục phát triển những phương pháp thiết kế mới phục
vụ cho sự phát triển để tạo ra được một môi trường kiến trúc và hạ tầng tốt hơn.
Nhưng làm thế nào để người kỹ sư có thể chấp nhận và tạo nên sự thay đổi? Đây là
một câu hỏi lớn bởi kỹ sư thường dựa vào kinh nghiệm bản thân hoặc những quá
trình đãđược sử dụng quen thuộc. Đây là một lý do có thể hiểu được, vì nhiệm vụ
của người kỹ sưđôi khi phải dè dặt cẩn trọng trong các sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, thay đổi là điều không thể tránh khỏi – nó là một phần của sự phát
triểncơ bản của nhân loại. Bên cạnh đó những giải pháp tính toán xây dựng ngày
nay đang dần trở nên lạc hậu theo thời gian. Tính tò mò, trí tuệ và sự sáng tạo trong
thiết kế tính toán kỹ thuật công trình là những yếu tố có tiềm năng nhất để tạo ra
cách mạng trong thiết kế công trình. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta sẽ
quay lưng với các phương pháp truyền thông bởi khi đấu tranh để thay đổi, chúng ta
cũng phải nhìn lại nhiều như khi chúng ta nhìn tới. Những công trình thiết kế theo
tiêu chuẩn được xây dựng nhiều năm trước cùng với nền tảng kỹ thuật đã từng sử
dụng là thứ không cần phải dẹp bỏ để dọn đường cho tư duy kiểu mới. Thay vào đó,
chúng ta phải cải tiến, kết hợp các phương thức tính toán trên với những công cụ
máy tính để bắt đầu khám phá một tư duy thiết kế mới dựa trên hiệu năng trong kết
cấu, kỹ thuật xây dựng.

2.3.2 Thiết kế theo quy cách (prescriptive design) và thiết kế tối ưu hóa
(optimization design)
Phương pháp thiết kế theo quy cách là phương pháp được áp dụng phổ biến
nhất trong thiết kế kết cấu xây dựng. Nó có một hệ thống quy tắc cần tuân theo.
Những quy tắc này thường được vạch ra bởi tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn hoặc hướng
dẫn thiết kế dựa trên kiến thức khoa học và kinh nghiệm thu được trước đây. Ví dụ
đơn giản là thiết kế một cái dầm trong bê tông cốt thép. Thiết kế kết cấu bê tông cốt
thép ra đời từ đầu những năm 1900, đòi hỏi một mức độ tin tưởng của nhiều giải
47

pháp và những phương pháp tính toán khác nhau lúc đó. Ngày nay, thiết kế dầm bê
tông tuân theo những quy tắc chuẩn mực nhiều đến nỗi chúng ta có thể nhìn vào
một bảng biểu thống kê số liệu mà không cần tính toán. Điều này cho phép những
người kỹ sư xây dựng, xử lý một số khía cạnh thiết kế một cách nhanh chóng.
Chúng ta đang đứng trên vai của những người đi trước và sử dụng kiến thức này là
điều quan trọng để tăng tốc quá trình thiết kế. Tuy nhiên thường do áp lực kinh tế
và thời gian, thiết kế theo quy cách tạo ra một hình khối công trình đơn giản nhằm
giảm những dữ liệu đầu vào cho kỹ sư. Những kinh nghiệm hay công nghệ phát
triển từ những loại công trình này được tận dụng để tạo ra những thiết kế kinh tế,
thông thường và nhanh chóng cho các công trình tương tự tiếp theo. Quá trình thiết
kế diễn ra rất suôn sẻ bởi vì thông tin đầu ra của thiết kế rất dễ hiểu còn nguy cơ thì
được giảm thiểu tối đa. Trong một số những thể loại công trình, đặc biệt là các công
trình thương mại, phương pháp này thống trị bởi vì nó có hiệu quả về mặt thời gian
hơn và ít vướng mắc rủi ro.
Tuy nhiên cần phải nhận ra rằng thiết kế kết cấu ngày càng quan tâm đến
việc tối ưu hoá hệ thống, nhất là đối với kiến trúc hướng hiệu năng. Những công cụ
thiết kế kết cấu ngày nay cũng thường hướng chủ yếu mục tiêu vào quá trình tối ưu
hoá. Công việc thiết kế kết cấu thông thường hay bị quá trình tối ưu hoá lấn át,
trong khi đó công việc này có thể là một phần quan trọng trong quy trình thiết kế
ngay từ đầu. Nhiều cải tiến quan trọng đang diễn ra, nó thoát khỏi các giải pháp
cùng với thông số tích hợp có sẵn. Đơn vị đo lường cũng được tối ưu hoá, chúng có
thể thay đổi khi điều kiện thị trường mở rộng, để lại những giải pháp cũ hay được
sử dụng trước đây ở phía sau.Phương pháp theo quy cách có thể giúp giảm thiểu
nguy cơ, nhưng nó cũng có thể dẫn đến giảm thiểu những gì thu được. Trong khi đó
thiết kế tối ưu dựa trên hiệu năng cung cấp một quá trình hoàn toàn phụ thuộc vào
kỹ năng của kỹ sư trong việc giải quyết những vấn đề sáng tạo của thiết kế và áp đặt
những nguyên tắc đầu tiên cho thiết kế. Đặc biệt nó không phủ định việc áp dụng
kiểu thiết kế có quy cách ở một số nơi có thể áp dụng được. Cần lưu ý trong quá
trình thiết kế tối ưu dựa trên hiệu năng, những dữ liệu đầu vào của thiết kế phải
48

được phát triển cẩn thận và được hiểu rõ ràng. Quá trình phản hồi của thiết kế cũng
rất quan trọng đối với thành công trong việc thiết kế tối ưu hóa. Cuối cùng, dữ liệu
thiết kế đầu ra (thông tin cuối cùng thu được sau khi xử lý bằng tay hoặc máy)
không thể được kết luận vội vã hay thiên lệch mà phải được đối chiếu nhiều lần với
dữ diệu đầu vào cũng như những sự thay đổi của thiết kế trong suốt quá trình tính
toán. Bằng cách này, những công cụ vi tính cụ phục vụ việc tối ưu hoá ngày càng
được ứng dụng rộng rãi đóng vai trò rất quan trọng nhằm hỗ trợ kỹ thuật và giải
quyết những vấn đề phức tạp.

2.3.3 Một số công cụ, chương trình ứng dụng cho tính toán kỹ thuật
Ngày nay công cụ thiết kế của kỹ sư ngày càng phức tạp và được nâng cao,
cải tiến, tạo ra nhiều cơ hội hơn so với sử dụng các phương pháp thiết kế theo quy
cách trước đây.Theo Craig Schwitter có ba lý do cho sự phát triển này :
 Thứ nhất là vì công tác hành nghề của kỹ sư xây dựng và kỹ sư hạ
tầng thườngđược hưởng lợi ích từ công nghệ chuyển giao của những
ngành khác (ví dụ như kỹ thuật hàng không đem lại sự phát triển cho
các mô hình vi tính). Những phần mềm hỗ trợ thiết kế càng lúc càng
được được nhiều người sử dụng, đến tận bây giờ thì việc dùng những
công cụ vi tính công nghệ cao đãtrở thành vật bất ly khai trong các
văn phòng kỹ sư công trình
 Thứ hai, sự gia tăng nhanh chóng năng lực của máy tính cùng với
ngành công nghiệp phần mềm phát triển chưa từng có từ trước đến
nay đã truyền năng lượng cho các công cụ thiết kế. Cuộc cách mạng
này sẽ còn tiếp diễn và chúng ta nên ý thức được rằng thứ tạo nên sự
thay đổi này sẽ mang lại cho chúng ta khả năng tạo dựng những mô
hình chính xác hơn đểphục vụ cho công tác hành nghề
 Cuối cùng, và cũng là điều quan trọng nhất thách thức đối với những
kiến trúc sư ngày nay là phải tìm kiếm những cách thiết thực để
chuyển các công cụ máy tính từ việc đơn giản chỉ là phương tiện hỗ
49

trợ ý tưởng thiết kế trở thành bộ phận có thể hỗ trợ nhập dữ liệu thiết
kế nhanh chóng và nhiều lần để hỗ trợ cho công tác tính toán của các
kỹ sư [11]
Các công cụ máy tính rõ ràng đang chiếm được chỗ đứng trong nhiều công
dụng khác nhau, ứng dụng thực tiễn của những công cụ này ở nhiều vị trí trong thiết
kế kỹ thuật công trình giúp đẩy giới hạn chất lượng và độ phức tạp của kiến trúc và
hạ tầng lên một tầng cao hơn. Sau đây là một vài công cụ tính toán kỹ thuật kết cấu
và hạ tầng tiêu biểu.
2.3.3.1 Các chương trình tính toán kết cấu của Buro Happold43
Trong công việc của kỹ sư kết cấu, những cải tiến gần đây trong những phần
mềm mô hình CAD44 và đồ họa đã hỗ trợ hình khối kiến trúc phát triển năng động
hơn. Đối với những lĩnh vực chuyên sâu hơn trong công việc của kỹ sư kết cấu,
nhiều công ty đã phát triển phần mềm dựa trên hiệu năng phù hợp với mục đích sử
dụng đặc thù. Trên cơ sở đó Buro Happold đã phát triển một chương trình gọi là
Tensyl, phục vụ cho mục đích ban đầu là phân tích mạng lưới dây cáp và kết cấu
màng căng. Kết cấu màng căng là một ví dụ điển hình thích hợp đối với thiết kế kết
cấu dựa theo hiệu năng. Hình khối của những công trình loại này không được thiết
kế sẵn mà chúng được tạo thành từ đường bao và bề mặt. Những bề mặt này không
phải là dạng hình học cơ bản bởi vì chúng không tuân theo trật tự toán học nào.
Những kết cấu dạng này chỉ có thể đạt được với kinh phí có thể chấp nhận nếu có
sự hỗ trợ của máy vi tính để phân tích các loại lực tác động và tính toán bề mặt căng
của vải. (Hình 2.14)
Gần đây hơn, Tensylđã phát triển thành một công cụ mạnh mẽ dùng để phân
tích kết cấu của kiến trúc có hình khối vô định, như từng được sử dụng trong dự án
Stuttgart 21 (2001). Trong dự án đó, các mô hình thủ công phức tạp được đội ngũ
kiến trúc làm ra đãđược vẽ lại thành mô hình vi tính để bắt đầu giai đoạn phân tích

43
BuroHappold: Công ty tư vấn kỹ thuật chuyên nghiệp. Nó được thành lập vào năm 1976, bởi Edmund
Happold ở Bath ở phía tây nam của nước Anh.
44
CAD: Computer-aided design (thiết kế được sự hỗ trợ của máy tính), thuật ngữ được dùng rộng rãi trong
các thiết bị máy tính hỗ trợ cho các kỹ sư, kiến trúc sư và các chuyên viên thiết kế khác. Các phần mềm bao
gồm từ hệ thống nền tảng vectơ 2D đến các bề mặt và hình khối 3D.
50

trong những bước đầu tiên của dự án. Mô hình lưới căng tìm ra được sau quá trình
này được áp dụng để phát triển lớp mái che bề mặt vỏ sò của nhà ga chính mới tại
Stuttgart, Đức. Bề mặt dạng vỏ sò này sau khi tính toánđược sửa đổi thành một số
chỗ mở lấy sáng từ trên cao xuống mặt đất so với thiết kế ban đầu (Hình 2.15)
Những người nỗ lực trong việc nghiên cứu,xây dựng hình khối vô định đã áp
dụng thiết kế dựa trên hiệu năng trong việc sử dụng những hệ lưới cong (tức là chia
bề mặt cong ra từng tấm phẳng),để tránh phải sử dụng kính cong đắt tiền hay những
vật liệu bao che hỗn hợp khác. BuroHappold lại phát triển một chuỗi phần mềm
đặc biệt để sử dụng hiệu quả phương pháp này trong những dự án tính toán tới kết
cấu bề mặt. Ví dụ như trong thiết kế dự án mái che kính rộng 20.000 foot2 (gần
1860 m2) của công trình Roppongi Canopy (Hình 2.15)
Vật liệu mở đường cho những cải cách thú vị nhất trong thiết kế dựa trên
hiệu năng, khi mà những quá trình và dự án thiết kế có thể được phát triển đặc biệt
để phù hợp với đặc tính vật liệu. Việc sử dụng giấy hay bìa cứng tiêu chuẩn trong
xây dựng đãđược BuroHappold áp dụng trong vài dự án, bao gồm Pavilion Nhật
Bản tại Hanover, Đức (2000). Tuy nó chịu lực tốt theo chiều dọc nhưng bịhạn chế
áp dụng do độ cứng chắc của nó và xu hướng không cố định theo thời gian. Thế
nhưng, vật liệu này có thể tái chế hoàn toàn và là vật liệu có sẵn trên toàn thế giới
với giá thành không đắt đỏ. Giải pháp dựa trên hiệu năng là điều cần thiết khi vật
liệu bìa cứng không có hướng dẫn thiết kế mang tính quy cách nào được xuất bản.
Thông qua nhiều kiểm tra giới hạn chịu lực và độ cứng của vật liệu, BuroHappold
đã có thể phát triển phương pháp thiết kế và phân tích phù hợp đối với vật liệu và tự
tin xây dựng bằng loại vật liệu đó ở quy mô lớn (Hình 2.16)

2.3.3.2 Chương trình tính toán khí - động lực học (CFD)
“CFD (Computational Fluid Dynamics) là một lĩnh vực khoa học sử dụng
các phương pháp số kết hợp với công nghệ mô phỏng trên máy tính để giải quyết
các bài toán liên quan đến các yếu tố chuyển động của môi trường, đặc tính lý hóa
của các quá trình trong môi trường đang xét, đặc tính sức bền của môi trường, đặc
51

tính nhiệt động, đặc tính động học, hay đặc tính động lực học hoặc khí động lực
học, đặc tính lực, hoặc lực-mô ment và tương tác của các môi trường với nhau…
phụ thuộc vào từng đối tượng và phạm vi cụ thể của từng vấn đề, từng lĩnh vực
khoa học mà CFD có thể ứng dụng được.”[4,tr.9] Trong lĩnh vực kiến trúc, xây
dựng các chương trình CFD cũng đã có những ứng dụng quan trọng, tạo nên nhiều
thành tựu rực rỡ.
Thiết kế cơ khí và đặc biệt là nhiệt điện lạnh từ lâu đã có tính phản kháng
trước sự thay đổi và chậm áp dụng những công cụ vi tính. Những cải tiến quan
trọng trong những năm gần đây đã làm cho chương trình CFD trở thành một phần
quan trọng trong kỹ thuật công trình, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống nhiệt
điện lạnh cho những không gian mà các phương pháp quy cách hiện đại không phù
hợp để áp dụng.
Trong quá trình thiết kế phòng hoà nhạc cho một trung tâm biểu diễn nghệ
thuật của học viện Rensselaer Polytechnic, người ta đã dựng một mô hình mô
phỏng giả lập CFD phần bên trong của phòng hoà nhạc đónhằm tính toán giải quyết
vấn đề thông gió (Hình 2.17a). Chương trình CFD được sử dụng để cải tiến chiến
lược nhiệt điện lạnh và để đảm bảo rằng tiện nghi bên trong của hệ thống được tối
ưu. Một vài ví dụ khác như không gian sảnh chờ lớn và hệ thống tường hai lớp bề
mặt có nhiều lỗ thông gió cho công trình phục vụ nghiên cứu y sinh tại Đại học
Michigan. Trong công trình này chương trình CFD đãđược sử dụngđể củng cố các
chiến lược môi trường. (Hình 2.17b)
Bên cạnh đó nhiệt và ánh sáng cũng nhanh chóng trở thành mối quan tâmđối
với thiết kế những công trình có hiệu năng cao và tiêu thụ ít năng lượng. Những
hiệu ứng môi trường, cả ở mức độ vi mô lẫn vĩ mô, ngày nay có thể được kiểm tra
trước hiệu quả, có thể tạo hình và góp phần tạo nên những giải pháp thiết kế quan
trọng. Trong dự án BBC White City tại Luân Đôn (2002), người ta dựng mô hình
phân tán ô nhiễm và mô hình mô phỏng giả lập CFD này cho thấy trước được sự ô
nhiễm do các thiết bị phát điện trong khuôn viên tạo ra cũng như cho thấy tác động
của ô nhiễm ánh sáng trên khu đất. (Hình 2.17c)
52

2.4 Tiêu chí về sinh học, nhân văn và tiện nghi


Những đặc tính của môi trường trong Kiến trúc Hiệu năng luôn là một đề tài
được bàn tán sôi nổi nhất. Những công trình mới xây dựng luôn được chú trọng
nâng cao tính hiệu quả cũng như sự thoải mái cho người sử dụng. Các yếu tố tiện
nghi như: điều hòa không khí, ánh sáng nhân tạo, đường ống điện nước, viễn thông
v.v... phải được tính toán một cách hợp lý và hòa hợp với môi trường xung quanh.
Một lần nữa “sự thích nghi” lại được nhấn mạnh và lần này chính là sự thích nghi
giữa kỹ thuật với môi trường. Điều đó được Frederick Kiesler45 cô đọng lại bằng
một thuật ngữ mới đó là: “kỹ thuật sinh học” (Biotechniques)để miêu tả sự tương
quan giữa công nghệ sinh học và công nghệ kỹ thuật.[15]

2.4.1 Mối liên hệ giữa sinh học và kỹ thuật


Thuật ngữ kỹ thuật sinh học được sử dụng lần đầu bởi Frederick năm 1939,
vào thời điểm ông đã tham gia vào Hiệp Hội nghiên cứu về Xây Dựng của
Buckminster, thuật ngữ này được dùng để phân biệt với sự mô phỏng sinh học đơn
thuần của hình thức (Biomimicry). Frederick cho rằng nguyên nhân tạo nên kỹ thuật
sinh học là do chủ nghĩa tương tác (correalism) nghĩa là “Sự phát triển của việc
tương tác liên tục giữa con người và môi trường tự nhiên quanh nó cùng công nghệ”
[15.tr.68]. Đề tài này vào thời điểm đó cũng đã từng được nghiên cứu trong nhiều
lĩnh vực, nhưng Kiesler là người đầu tiên nhận ra được những ý nghĩa phù hợp hơn
và, đúng đắn hơn đối với kiến trúc. Theo Frederick có 3 yếu tố cấu thành nên kỹ
thuật sinh học :
 Sự tiến hóa của môi trường
 Sự phát triển công nghệ
 Sự thỏa mãn của người sử dụng
Theo William Braham , những kỹ thuật về công nghệ sinh học là những hệ
thống “sống” trong tòa nhà không chỉ về phạm vi sinh học mà còn về tài chính, kỹ

45
Frederick John Kiesler (22/12/1890 – 27/12/1965) Kiến trúc sư mang hai quốc tịch Mỹ - Áo , nhà lý thuyết,
thiết kế sân khấu, nghệ sĩ và nhà điêu khắc.
53

thuật, hay những hệ thống mang tính xã hội. Những điều đó có thể hoặc không thể
tạo ra những kết quả mang tính sinh vật học.Chúng ban đầu được triển khai theo
hình thức ẩn dụ để giải thích hoặc để hiểu được những công trình và những yếu tố
nhân tạo đã dần dần thay đổi để trở nên phù hợp như thế nào. Những điểm tương
đồng về sinh học giữa công trình với tự nhiên dần trở nên rõ ràng với việc đưa vào
sử dụng của những thiết bị và hệ thống có thể lưu động (flow) hoặc vận hành
(operated) như là hệ thống ống nước, điện, hệ thống sưởi, thông gió, và ánh sáng,
và đặc biệt là sự xuất hiện của kỹ thuật phản hồi như những hệ thống cảm ứng điều
hòa nhiệt độ, máy cảm ứng phát hiện CO2, đèn cảm ứng mặt trời v.v.. chúng có thể
giúp công trình thích nghi và đáp ứng một cách độc lập, không cần đến sự tác động
của con người.
Những kỹ thuật công nghệ như thế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong
suốt những thập kỷ sau thế chiến thứ 2 dẫn đến sự phát triển của điều khiển học và
những định lý mang tính tổng quát được áp dụng cho cả những hệ thống sinh vật và
hệ thống nhân tạo tương ứng, điều này đang xóa nhòa ranh giới giữa cơ học
(mechanical) và hữu cơ (organic), tăng cường tính cộng hưởng của hai yếu tố này
lại với nhau. Đây gọi là một điểm vô cùng quan trọng. Bởi nếu hệ sinh thái được
hiểu như là những hệ thống phản hồi, thì sự khác nhau giữa hệ thống cơ học và hữu
cơ hầu như biến mất. Gần như từ lúc bắt đầu nghiên cứu, những hệ thống thiên
nhiên và nhân tạo đãđược phân tích cùng nhau [27].
Các nghiên cứu của Jay Forrester , người đã phát triển ra mô hình “World
III” sử dụng trong cuốn “The limits of growth” (tạm dịch : “giới hạn của sự phát
triển”)[13] , được dùng để minh họa cho quá trình này. Sau khi làm việc trên những
hệ thống phòng không, ông đã dồn hết nỗ lực của mình vào cuốn nhữngIndustrial
Dynamics (tạm dịch:“tác động công nghiệp”), thẩm định những vấn đề về những
tác động cố hữu trong sản phẩm công nghiệp như : chu kỳ theo mùa, chính sách
ngược chu kỳ, sự ổn định giá cả, độ nhạy, những phản hồi không mong đợi tới tất cả
những sự kiện, hành động và quyết định [23]. Thông qua một cơ hội gặp gỡ với cựu
thị trưởng của thành phố Boston, Jay đã áp dụng những kỹ thuật tương tự cho cuốn
54

những Urban Dynamics (tạm dịch: “những tác động đô thị”) [24], rồi sau cuộc đối
thoại với The Club of Rome, Jay đã áp dụng chúng cho cuốn những World
Dynamics (tạm dịch: “những tác động toàn cầu”), khám phá ra sự liên kết giữa dân
số, sự công nghiệp hoá và sự ô nhiễm môi trường. Hình mẫu về thế giới và khí hậu
này là tâm điểm của sự phát triển về nhận thức của những ảnh hưởng toàn cầu về
môi trường để tạo nên những công trình phù hợp [25].
Đã có những sự chỉ trích về những nghiên cứu này, hầu hết là về những kết
quả Forrester có được vượt qua sự chính xác của những dữ liệu hiện có. Để bảo vệ
chính kiến, ông đã nói rằng “sự liên kết giữa những thành phần trong hệ thống có
thể trở nên quan trọng hơn là chính những đặc điểm của thành phần đó” [25,
tr.45]. Nhưng cũng giống như những nghiên cứu đương thời của cuộc sống nhân
tạo, điều mà những định nghĩa này còn thiếu là những phát triển mang tính đột biến
và sáng tạo, chúng không thể biến hóa theo những tác động ngoài dự đoán. Tuy
nhiên ưu điểm lớn nhất trong nghiên cứu này chính là chỉ ra rằng, nguồn gốc quan
trọng của những vấn đề về môi trường, sinh học cuối cùng vẫn là vấn đề xã hội, văn
hóa, chính trị, được đúc kết từ những quan niệm về sức khỏe, về tài chính và sự hài
lòng.

2.4.2 Phân khu chức năng theo kỹ thuật sinh học


Sự tăng tốc của kỹ thuật sinh học sau Thế chiến II thể hiện khá rõ qua những
chương trình nghiên cứu và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ kỹ thuật số.
Điển hình cho vấn đề này là một nhóm tư vấn quản lý Quickborn của Đức đã âm
thầm nghiên cứu sáng tạo ra một hình thức mới trong bố trí văn phòng mang tên :
“The Burolandschaft or office landscaping” (tạm dịch: “cảnh quan trong văn
phòng”)[34]. Dựa trên sự phân tích chặt chẽnhững mô hình giao tiếp của các nhân
viên, các bộ phận trong văn phòng, thông qua việc phỏng vấn toàn diện, họ đã hủy
bỏ những bức tường, điều đã khiến cho những văn phòng lúc bấy giờ trông như một
55

dây chuyền sản xuất cơ khí (mechanized offices)46 và bố trí lại các bộ phận làm việc
theo một mô hình hữu cơ tương đồng với một phong cảnh thiên nhiên. Điều này đã
tạo một hiệu quả khá rõ rệt bởi sự thoải mái của các nhân viên tạo ra một năng suất
làm việc hiệu quả hơn. Và một điều đặc biệt của dạng bố trí văn phòng theo kiểu
này đó chính là nó không thể được thiết kế máy móc từ ban đầu, mà phải qua một
quá trình phân tích tìm hiểu. Các kiến trúc sư phải ghi chép lại, vẽ lại một sơ đồ
chuyển động của các nhân viên trong văn phòng từ đó đưa ra một kiểu bố trí thích
hợp nhất. (Hình 2.18a)
Những ý tưởng đó đã nhanh chóng hấp dẫn các chủ đầu tư. Và vào năm
1964, công ty nội thất Herman Miller đã chính thức hóa những ý tưởng đó trong
công cuộc đổi mới thiết bị văn phòng mang tên Action Office I. Dưới sự hướng dẫn
của người đứng đầu nghiên cứu, Robert Probst47, họ đã phát triển những tấm panel
chuyển động đầu tiên và xử lý bề mặt để xác định phân khu và tạo nên cảnh quan
cho văn phòng. Vào cuối thập niên 1960, hiệu ứng này đã được nhìn thấy khắp mọi
nơi và khái niệm về quy hoạch văn phòng hữu cơ (organic office) đã cho ra đời một
tỷ lệ cân xứng mới mẻ hay nói khác đi chính là hệ thống điều tiết để bố trí văn
phòng. Và nó đã trở thành tiêu chuẩn, thay thế cho kiểu bố trí truyền thống của
những năm 1960.
“ Những ý tưởng truyền thống đã thất bại cũng từ chính nội tại của mình. Hệ
thống cổ điển vốn dĩ không linh hoạt vì nó thể hiện những lý tưởng mang tính trí
tuệ, thẩm mỹ của sự hài hòa và trật tự nên nếu phá vỡ bất kỳ một yếu tố cũng sẽ dẫn
để phá vỡ toàn bộ hệ thống. Thay đổi không được chấp nhận trong trường hợp này.
Một văn phòng hoạt động hiệu quả nhất khi nó là một hệ thống mang tính hữu cơ
tức là một hệ thống mà các bộ phận thể hiện tốt nhất chức năng của nó dưới một sự
tương tác, thông tin hợp lý. Cho nên khi một trật tự cổ điển được áp đặt trên một hệ
thống hữu cơ thì mọi thứ trở nên hỗn loạn”[36,tr.100]

46
Các mô hình mechanized offices lúc bấy giờ dường như đã được xây dựng tràn ngập trên khắp nước Mỹ.
Là kiểu bố trí văn phòng chuẩn mực gần như vuông vắn theo kiểu caro
47
Robert (Bob) Propst (1921-2000) : Ông làm việc cho Herman Miller năm 1958, là nhà phát minh bố trí văn
phòng theo kiểu năng động
56

Mô hình này nhận được sự tán đồng rất nhiều từ các chuyên gia trong lĩnh
vực nhân chủng học và xã hội học. "Nhân chủng học với các kỹ thuật so sánh khắt
khe, những mô hình giao thoa văn hóa giữa các tạo vật, hành vi, chuẩn mực xã hội
và công nghệ là một mô hình rõ ràng dành cho nghiên cứu kiến trúc. Trong đó, ba
yếu tố có mối liên hệ tương tác là xây dựng, con người và công nghệđã được xác
định một cách chắc chắn”[14,tr3].Các nguyên tắc của việc lập kế hoạch truyền
thông, tầm quan trọng của việc thích ứng và tất nhiên những phân khu đã làm nên
cốt lõi cho kỹ thuật sinh học tân tiến hiện nay (Hình 2.18b)

2.4.3 Sự điều hòa trong công trình


Năm 1957, người đứng đầu của tập đoàn máy lạnh Carrier đã nhận xét thấy
rằng "Bất kể khi nào vào bất kể ở đâu, chỉ cần 20% các tòa nhà văn phòng dùng
máy điều hòa không khí thì các tòa nhà còn lại cũng phải sử dụng để giữ được hiện
trạng ban đầu.”[16,tr.54] Mất 10 năm để chứng minh được điều này, đó là sau cuối
thập niên 1960, một toà nhà văn phòng cao cấp tại một thành phố của Mỹ đã được
trang bị hệ thống điều hòa. Công nghệ này dù đã có sẵn vài thập kỷ nhưng phải đến
khi bị ảnh hưởng bởi cuộc chạy đua công nghệ và quá trình phát triển bất động sản
sau chiến tranh thì nó mới trở thành một nhu cầu cần thiết. Đây là một trong những
hiệu ứng tất yếu xảy ra trong sự cạnh tranh giữa những chủ đầu tư lúc bấy giờ. Họ
nhanh chóng tiếp nhận những sản phẩm mới, những chiếc lược mới và những công
nghệ xa xỉ nếu như khách hàng của họ đang có những chọn lựa khác chờ đợi. Ai sẽ
tới một rạp chiếu phim hay là thuê một văn phòng nóng nực nếu như đã có sẵn một
nơi khác mát mẻ hơn?
Những cuộc khủng khoảng về nguồn cung cấp năng lượng vào thập niên
1970 đã thúc tiến cho việc sử dụng máy điều hoà không khí và tạo thành những thói
quen xã hội mới, những tư duy của việc bảo toàn năng lượng đã nhanh chóng biến
mất khi giá thành thiết bị giảm đi. Việc điều hoà nhiệt độ giúp con người tránh nóng
đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tình huống cạnh tranh, khiến yêu cầu của
con người ngày một tăng lên. Từ đó, vấn đề cũng nảy sinh nhiều hơn.
57

Nói cách khác, khi yếu tố điều hoà trở thành tiêu chuẩn của những công trình
thương mại thì quy mô và hình dạng của những công trình đó sẽ nhanh chóng thay
đổi để áp dụng. Những công trình thương mại được thiết kế không có hệ thống điều
hoà không khí trước kia yêu cầu buộc phải có lối đi tới cửa sổ để nhận ánh sáng và
không khí. Ngày nay những tòa nhà chọc trời không còn những không gian này nữa.
Với những hệ thống điều hoà nhiệt độ và ánh sáng, những công trình này sẽ thoải
mái mở rộng (bề ngang lẫn dọc) cho tới khi chúng chạm tới tỷ lệ giới hạn của tòa
nhà.Khi đó sự thoát nhiệt trở nên quan trọng dẫn đến cửa sổ sẽ được bít lại và được
thiết kế để hạn chế ánh sáng mặt trời nhiều nhất có thể. Tất cả tạo ra một môi
trường nội thất có tính hiệu quả hơn, nhưng lại làm giảm đi tính thoải mái, dễ chịu
của người sử dụng. [12]
Từ những lý do đó, giờ đây các tiêu chuẩn tiện nghi cao hơn được nghiên
cứu trong những năm gần đây, đã có những nỗ lực để giới thiệu cây xanh và ánh
sáng tự nhiên vào trung tâm của các tòa nhà mới với quy mô lớn để cân bằng năng
lượng. Những cây xanh này ban đầu xuất hiện với vai trò là một phần của phong
trào cảnh quan văn phòng (Bürolandschaft) và nhanh chóng tìm thấy được một vị
trí quan trọngkhi được tập trung nghiên cứu trở lại trong những năm gần đây trong
trào lưu kiến trúc xanh. Nó trở thành một kỹ thuật cân bằng năng lượng trong những
năm cuối thập niên 1970, 1980 và trở thành một dấu hiệu của sự tiện nghi chất
lượng cao, của các tòa nhà văn phòng có hiệu quả.
Mục đích của việc tóm tắt lịch sử của các tòa nhà được điều hoà này là để
minh họa cho mức độ quan trọng của môi trường đối với thiết kế xanh nói riêng
cũng như các thiết kế quan tâm đến tiện nghi sử dụng nói chung, chúng cho thấy sự
liên quan đến cả những yếu tố văn hóa, xã hội, thói quen và cả lý do tại sao chúng
lại có sự thay đổi như vậy. Tóm lại, điều hòa môi trường trong công trình không chỉ
là một tập hợp các thiết bị có hiệu suất cao,nó là những hệ thống phức tạp biểu hiện
sự tương tác giữa tòa nhà, con người và tự nhiên.
58

2.4.4 Sự tiện nghi trong công trình


Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã phân biệt các triệu chứng liên
quan đến công trình không thể chuẩn đoán được, trong đó hội chứng Sick
BuildingSyndrome (SBS),"người cư trú bị ảnh hưởng đến sức khỏe và có những
dấu hiệu dần xuất hiện theo thời gian ở nhưng không có bệnh cụ thể hay xác định
được nguyên nhân.” là một trường hợp tiêu biểu. Hội chứng SBS thuộc về một lớp
các bệnh về môi trường (Environmental Illnesses - EIs).Từ đó đã nảy sinh một cuộc
tranh luận giữa hai bên, một cho rằng hội chứng đó hoàn toàn xuất phát từ vấn đề
soma (do nội tại cơ thể con người),tức là do những vấn đề tâm lý gây ra. Nhóm còn
lại thì cho rằng những triệu chứng đó là do nguyên nhân môi trường và họ vẫn đang
tiếp tục nghiên cứu để đưa ra bằng chứng. Tuy nhiên, điều hiển nhiên mà cả hai bên
đều phải chấp nhận chính là do chất lượng và độ trong lành của không khí lưu thông
trong nhà kể cả sự thoải mái hay không khi làm việc chính là nguyên nhân chính
gây ra hội chứng SBS. [18]
Vào những năm 1930, các nhà nghiên cứu thông gió đã sớm phát hiện được
vấn đề vào lần đầu tiên bắt tay vào điều tra mức độ thông gió qua sự trong lành của
không khí bao gồm cả việc đánh giá cường độ mùi và chất lượng của nó. Cũng
giống như âm thanh, mùi có thể làm dễ chịu trong trường hợp này nhưng cũng có
thể gây khó chịu trong trường hợp khác.Điều này cho thấy tâm lý để định hướng
nghiên cứu là cảm giác mùi có thể kích thích "các quá trình lan toả tâm lý xã hội,
với các bệnh lý và triệu chứng lây từ người này sang người khác và hội tụ ở các
nhóm người có các triệu chứng tương tự tại cùng một thời điểm."[8]
Ở một góc nhìn khác, sự nhạy cảm của mũi cho thấy khả năng của các quá
trình nhiễm độc hoặc dị ứng và vẫn chưa được xác định rõ. Các mối tương quan đã
được thống kê giữa hội chứng SBS và hệ thống thông gió đã cung cấp bằng chứng
về những nguyên nhân vật lý có liên quan, và chúng đã nhanh chóng được xử lý bởi
các chuyên gia thiết kế. Đối với các kiến trúc sư, điều này cuối cùng cũng tạo nên
một sự thay đổi, cho dù đây là do vấn đề môi trường hay do vấn đề soma thì nó
cũng là những hệ thống được thiết kế để cung cấp sự thoải mái cho con người.[33]
59

Theo một nghiên cứu xã hội học gần đây cho thấy, những người mắc bệnh
EIS được miêu tả là "cơ thể có phản ứng với đồ nội thất được thiết kế để thư giãn;
Cơ thể có phản ứng với không khí từ những hệ thống sưởi ấm và làm mát thông
thường được thiết kế để cuộc sống thoải mái ...nghĩa là, cơ thể đó đang phản đối
các sản phẩm hiện đại, và hệ quả của nó kêu gọi một sự thay đổi triệt để về ranh
giới thông thường giữa an toàn và nguy hiểm." [22]Bệnh về môi trường, như SBS,
nhắc nhở chúng ta rằng các đối tượng thực sự của thiết kế môi trường không phải là
hiệu quả của điều hoà, mà chính là sự thoải mái của người sử dụng công trình.
Như vậycác thiết kế hiện đại tập trung vào sự hòa hợp với môi trương luôn
mang lại một hiệu quả tốt hơn, nó cho thấy điều hoà không phải luôn là lời giải duy
nhất. Với ý này, Kiesler đã đúng, khi một hệ thống công nghệ tự tổ chức, tự vận
hành độc lập thì mối quan tâm của các nhà thiết kế giờ đây chính là tính tiện nghi,
sức khỏe của người sử dụng.

2.4.5 Tiêu chuẩn sống


Qua các vấn đề tìm hiểu ở trên, ta phải tìm ra một tiêu chuẩn thích nghi hơn
và điều này cho phép khả năng thích nghi, hòa hợp của công trình với môi trường
để tạo ra sự thoải mái cho con người.Lönberg-Holm đã nhắc đến điều này qua thuật
ngữ "tiêu chuẩn sống"(Living Standards).Để hiểu nhữngtiêu chuẩn sống như vậy
có ý nghĩa gì trong thực tế hiện nay, các kiến trúc sư phải nhìn xa hơn các điều kiện
trực quan đã hạn chế nó. Phần lớn các cuộc giao thoa giữa kiến trúc với môi trường
đều nghiêng về các biểu hiện thông thường. Các cuộc tranh cãi về các yếu tố truyền
thống như (tường, mái, các hệ thống dây điện, đường ống, các thiết bị) đã trở nên
lỗi thời sau 50 năm. Chúng ta cần có những kỹ thuật mới tự nhiên hơn, sinh học hơn
(như : tường trung tính (mur neutralisant) của Le Corbusier; sàn điều nhiệt (radiant
floors)của Frank Lloyd Wright hay kính hai lớp của Foster). Qua những yếu tố trên
cho thấy yêu tố sinh học của công trình chưa bao giờ bị giới hạn về mặt thiết kế
hình thức, biểu tượng mà bị giới hạn về những biểu hiện hoạt động của các chủ đề
hữu cơ ẩn sâu trong mỗi cơ chế.
60

2.5 Kết luận chương 2


Tóm lại, thông qua các tiêu chí trên cùng với một số công trình tiêu biểu cho
tiêu chí đó, ta có thể thấy được trong Kiến trúc Hiệu năng,điều đặc trưng lớn nhất
chính là sự tương tác. Sự tương tác này xuất hiện ở tất cả các yếu tố cấu thành nên
công trình như: giữa vỏ bao che và kết cấu, giữa công trình với môi trường, giữa
công trình với người sử dụng, giữa kiến trúc sư với kỹ sư v.v... Và tất cả những điều
trên đều chỉ có thể thực hiện một cách hiệu quả dưới sự trợ giúp của công nghệ hiện
đại ngày nay. Rõ ràng sự phát triển của những công nghệ thiết kế phục vụ cho hiệu
năng của công trình là điều cốt yếu để thực hiện nhiệm vụ này
Ngày nay, kiến trúc sư không còn bị ràng buộc bởi các giới hạn của kỹ thuật
xây dựng truyền thống. Kiến trúc giờ đây có thể được dẫn dắt bởi cùng những quy
tắc đã kiểm soát và định hình thế giới xung quanh, chúng ta có thể đạt đến một
phương pháp thiết kế hữu cơ dựa trên việc tìm kiếm giải pháp thông qua hiệu năng.
Giờ đây các câu hỏi được đặt ra khi bắt đầu một công trình không còn đơn thuần là
thẩm mỹ, công năng hay kết cấu như thế nào mà là các yếu tố đó có thỏa được sự
thay đổi theo thời đại hay không? Làm thế nào chúng có thể đáp ứng những thử
thách sẽ xảy ra trong thời gian năm mười năm tới? Làm sao các kiến trúc sư thể
hiện tiềm năng thay đổi chức năng sử dụng trong tương lai cho công trình một cách
hiệu quả? Đó chính là tinh thần, tư duy mà Kiến trúc Hiệu năng sẽ hướng tới.
Và điều quan trọng hơn là thông qua các tiêu chí, tư duy trên chúng ta có thể
định hình được một quy trình thiết kế mới. Quy trình này đòi hỏi một sự thay đổi từ
trong nhận thức của tất cả các khâu liên quan từ thiết kế đến tính toán kỹ thuật, từ
sản xuất đến thi công. Đây là một thách thức lớn đối với cuộc cách mạng kiến trúc
đương đại này bởi những khó khăn trong việc thay đổi đồng bộ tất cả những bên
liên quan. Hơn nữa những khía cạnh khác nhau trong một dự án thường mâu thuẫn
và việc để hoà hợp cũng như giải quyết tất cả những vấn đề trên theo cách tối ưu
nhất là điều rất vất vả. Tuy nhiên thế giới vẫn cứ tiếp tục phát triển và kiến trúc sẽ
không vì những khó khăn nhất thời đó mà dừng lại. Trong chương tiếp theo chúng
ta sẽ đi sâu vào cách tiếp cận cũng như quy trình để thực hiện Kiến trúc Hiệu năng
Có khả năng biến đổi để
thích nghi với môi
trường
VỎ BAO
CHE
Mang tính kết cấu, kết
hợp với kết cấu thành
một thể thống nhất

Công trình có khả năng


thích nghi với sự biến
đổi của năng lượng
NĂNG
LƯỢNG
Hình khối công trình
mang tính sinh học, để
thích nghi với tự nhiên
KIẾN TRÚC
HIỆU NĂNG
Các kỹ sư tham gia vào
quá trình thiết kế ngay
TÍNH TOÁN từ đầu. Giai đoạn tính
KỸ THUẬT toán kỹ thuật và thiết
kế có sự tương tác chặt
chẽ với nhau

Cách bố trí công năng


theo dạng phỏng sinh
học, thông qua việc
nghiên cứu sự liên kết
của các khu chức năng

SINH HỌC
Sự điều hòa trong công
trình (về mặt ánh sáng,
nhiết độ v.v...) phải cân
bằng với tự nhiên tạo sự
thoải mái tối đa cho
người sử dụng

SƠ ĐỒ : CÁC TIÊU CHÍ CỦA KIẾN TRÚC HIỆU NẮNG


Hình 2.01 KunsthausGraz, Austria (2003), Peter Cook và Colin Fournier

e. Ảnh tách lớp của hệ thông BIX ở mặt phía Đông công trình KunsthausGraz

f. Bản vẽ lập
trình của BIX

Nguồn [53]
Hình 2.01 KunsthausGraz, Austria (2003), Peter Cook và Colin Fournier

g. Hệ thống BIX với độ phan giải 920 Pixel (bóng đèn)

h. Hình ảnh mô phỏng trên phần mềm BIX Simulator

i. Hình ảnh của Kunsthaus Graz sau khi cài đặt hệ thống BIX

Nguồn [53]
Hình 2.02 Herman MillerFactory (1976), Anh, Thiết kế Grimshaw.

a. Phối cảnh công trình

b. Chi tiết của tấm Panel bằng sợi thủy tình


có khả năng thích ứng, thay đổi

Nguồn [50]
Hình 2.03 Herman Miller Warehouse (1982), Anh, Thiết kế Grimshaw.

a. Phối cảnh công trình

b. Chi tiết của tấm Panel bằng sợi thủy tình có khả năng thích ứng, thay đổi

Nguồn [50]
Hình 2.04 Nhà máy IGUS(1990–2000) ,Cologne, Đức,Thiết kế Grimshaw.

a. Phối cảnh tổng thể công trình

b. Chi tiết mặt tiền


31

Nguồn [50]
Hình 2.05 D-Tower (1998–2003), Doetinchem, Hà Lan, thiết kế Lars Spuybroek.

a. Các sắc thái của công trình thay đổi theo cảm xúc của người dân

b. Chi tiết các thành phần kiến tạo

Nguồn [46]
Hình 2.06 Maison Folie(2001–2004),Lille, Pháp, thiết kế Lars Spuybroek.

Nguồn [48]
Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee(1994–2001), Mỹ, thiết kế kiến trúc và
Hình 2.07
kết cấu Santiago Calatrava

a. Hoạt động của lớp vỏ bao che

b. Chi tiết các thành phần kiến tạo

Nguồn [45]
Hình 2.08 AegisHyposurface, thiết kế MarkGoulthorpe

Nguồn [51]
Nhà khách của Trung tâm giáo dục thanh niên Windberg (1987 –
Hình 2.09
1991), Niederbayen, Đức, kiến trúc sư ThomasHerzog

a. Phối cảnh công trình

Nguồn [59]
Nhà khách của Trung tâm giáo dục thanh niên Windberg (1987 –
Hình 2.09
1991), Niederbayen, Đức, kiến trúc sư ThomasHerzog

b. Mặt đứng hướng Nam c. Mặt đứng hướng Đông

d. Mặt đứng hướng Bắc e. Mặt cắt công trình

Nguồn [59]
Trung tâm thiết kế Sprawling (1989-1993), Linz, Austria, kiến trúc
Hình 2.10
sư Thomas Herzog với Hanns Jörg Schrade và Heinz Stögmüller.

a. Phối cảnh công trình

b. Phòng triển lãm với các hệ thống thông gió.

Nguồn [59]
Trung tâm thiết kế Sprawling (1989-1993), Linz, Austria, kiến trúc
Hình 2.10
sư Thomas Herzog với Hanns Jörg Schrade và Heinz Stögmüller.

c. Hội trường lớn d. Mô phỏng của sự truyền tảiánh sáng của mái.

e. Phần mái nhỏ ở trên đỉnh nhằm giúp việc thoát khí ra ngoài tòa nhà

Nguồn [59]
Trung tâm thiết kế Sprawling (1989-1993), Linz, Austria, kiến trúc
Hình 2.10
sư Thomas Herzog với Hanns Jörg Schrade và Heinz Stögmüller.

f. Hình mô phỏng nhiệt độ và các dòng khí

g. Hình mô phỏng khi dụng dụng ỗng thông gió

Nguồn [59]
Hình 2.11 Các công trình của Norman Foster

a. Công trình Swiss Re (1997-2004), London, Anh, thiết kế: Foster và Cộng sự

g. Tòa thị chính London (1998–2002), Anh, thiết kế: Foster và Cộng sự

Nguồn [49]
Trung tâm văn hóa Tjibaou (1991 – 1998), Noumea,New Caledonia
Hình 2.12
Thiết kế : Renzo Piano

Nguồn [49]
Darien Lake Pavilion(1996),Buffalo, New York, thiết kế
Hình 2.13
FTLDesign EngineeringStudio

Nguồn [11, tr.115]


Stuttgart 21 (2001),Stuttgart, Đức, Thiết kế Christoph
Hình 2.14
IngenhovenOverdiek ArchitektenGmbH und Co.

Nguồn [57]
Roppongi Canopy (2004), Tokyo, Nhật Bản, kiến trúc sư
Hình 2.15
Skidmore Owings and Merrill (SOM)

Nguồn [44]
Pavilion Nhật Bản(2000), Hanover, Đức, kiến trúc sư Shigeru
Hình 2.16
Ban Architects.

Nguồn [42]
Hình 2.17 Các công trình áp dụng c hương trình tính toán khí - động lực học

a. Trung tâm biểu diễn nghệ thuật của học viện Rensselaer Polytechnic, Troy, Mỹ (2003), thiết kế
kiến trúc sư Nicholas Grimshaw và các đối tác. Mô hình CFD bên trong phòng hòa nhạc, cho thấy
vận tốc không khí tương đối trong hệ thống thông gió.

b.Công trình phục vụ nghiên cứu y sinh tại Đại học Michigan2001, Ann Arbor, Mỹ, thiết kế kiến
trúc sư Kiến trúc sư Polshek Partnership. Mô hình tính toán CFD cho không gian sảnh vào mùa
đông và mùa hè

Nguồn [11, trang 118]


Hình 2.18 Phân khu chức năng theo phương pháp Kỹ Thuật Sinh Học

a.Sơ đồ bố trí công năng của Quickborner

b.Áp dụng kỹ thuật “cảnh quan trong văn phòng”trong cơ quan hành chính DuPont

Nguồn [34]
61

CHƯƠNG 3 : TƯ DUYTIẾP CẬN KIẾN TRÚC HIỆU NĂNG

3.1 Quy trình thiết kế của Kiến trúc Hiệu năng


Ngày này, một công trình kiến trúc không những cần vững vàng về kết cấu, đẹp
về thẩm mĩ, mà còn tuân theo những nguyên tắc tổ chức, nhượng bộ trước sức ép
ngân sách, phù hợp tối ưu với mục đích của nó và tối đa hóa hiệu quả năng lượng.
Quá trình thiết kế nói tóm lại là một vấn đề phức tạp về sự tối ưu. Để làm được điều
này trong cách tổ chức một quy trình thiết kế không chỉ có kiến trúc sư, kỹ sư mà
còn có các cộng sự đa ngành (các chuyên gia về vật liệu, xã hội học v.v...) tham gia
ngay từ giai đoạn ban đầu của thiết kế. Như vậy, theo các tiêu chí đã tìm hiểu ở trên
thì học viên xin đề xuất quy trình thiết kế theo Kiến trúc Hiệu Năng với 4 giai đoạn
sau:
 Thiết kế ý tưởng – Thiết kế kết cấu – Tạo hình kiến trúc
 Phân tích kỹ thuật– tính toán hiệu năng
 Đánh giá – điều chỉnh phương án (Quay trở lại bước 2 cho đến khi tối ưu)
 Hoàn thiện thiết kế
Dưới sự hỗ trợ đắc lực của các phần mềm máy tính, các giai đoạn này (nhất là
giai đoạn đầu) có thể được thực hiện phối hợp một cách chặt chẽ đúng theo những
tiêu chí của Kiến trúc Hiệu năng. Nó khác hẳn với cách tổ chức truyền thống là kiến
trúc sư phác họa ý tưởng rồi chuyển bản vẽ đó xuống các bộ môn khai triển độc lập
với nhau.
Một bằng chứng cho thấy sự đúng đắn của quy trình trên đó là yếu tố chỉnh sửa
thiết kế sau khi phân tích cho đến khi tối ưu, ta gọi đó là phương phápvòng phản hồi
(Feedback Loop)trong kiến trúc. Phương pháp này đã được đề cập và phân tích rất
nhiều trong thực trang kiến trúc ngày nay qua các cuộc hội thảo, các cuốn sách
chuyên ngành mà cuốn “Feedback Loop: Designing Complex Architecture” (Tạm
dịch: “Vòng phản hồi : sự phức tạp của thiết kế kiến trúc”) là một tài liệu tiêu biểu.
Trong đó tác giả đã đề cập đến vấn đề này như sau: “Vòng phản hồi là một phương
pháp rất mới trong kiến trúc đương đại, nó sẽ trả lời các câu hỏi tại sao, làm thế
62

nào để giải quyết các vấn đề phức tạp về sự tối ưu. Phương pháp này giúp tạo ra
những thiết kế mới sáng tạo hơn và khắc phục được những rủi ro mà quy trình
truyền thống hay mắc phải”[21, tr.6]
Ngày nay, các văn phòng công ty kiến trúc lớn luôn có một nhóm thiết kế, phân
tích bằng máy tính (computation team) bên cạnh nhóm thiết kế truyền thống (design
team) như Special Modeling Group(SMG)của Norman Foster hay Computation and
Design Group (CODE) của Zahahadid thậm chí có cả một công ty độc lập chuyên
về phân tích, tính toán bằng máy tính để hỗ trợ các công ty khác như CASE ở New
york. Sự xuất hiện của các nhóm này trong quy trình thiết kế chính là để thực hiện
được phương pháp vòng phản hồi, bởi sự vận động của thời đại buộc các công ty
kiến trúc lớn sản sinh ra các công trình kiến trúc có độ phức tạp cao mà chỉ có một
quy trình thiết kế mới, một tư duy mới về kiến trúc mới có thể giải quyết được
những vấn đề, những yêu cầu ngày khó khăn. Tất cả đã và đang hướng đến một nền
kiến trúc mới tươi sáng hơn, tiên tiến hơn. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về từng giai
đoạn của Kiến trúc Hiệu năng trong phần sau đây:

3.1.1 Thiết kế ý tưởng - Tạo hình kiến trúc


Nhiều công trình có hình khối phức tạp được hoàn thiện gần đây đã cho thấy
sự cách biệt với những nguyên tắc hình khối kiến trúc cân đối thông thường. Vậy tại
sao lại xuất hiện khái niệm “hình khối tự do”? Nếu so sánh các kết cấu sinh học
trong tự nhiên với kết cấu được sử dụng trong kiến trúc thì dễ dàng thấy được sự
khác biệt rõ ràng là không có những đường thẳng kỷ hà và hình hộp chữ nhật trong
tự nhiên. Điều này là bởi vì quá trình tạo dựng hình khối trong tự nhiên dựa trên
nguyên tắc tiến hoá và tối ưu để thích nghi, ngược lại, quy trình tạo hình kiến trúc
chủ yếu do năng lực thi công kỹ thuật quyết định. Như ta đã biết Kiến trúc Hiệu
năng đòi hỏi tính thích nghi, tương tác của công trình với môi trường xung quanh
chính vì vậy bài toán hình khối của lối kiến trúc này không thể bị bó buộc mà phải
được thể hiện một cách “tự do” nhất để thích ứng tối ưu với các yếu tố tác động lên
nó. Những dự án theo tư duy mới này thường đòi hỏi áp dụng những cải tiến mới lạ
trong việc thiết kế và tính toán kết cấu.
63

Sự thay đổi hình khối thông thường đi cùng với sự phát triển công nghệ và
vật liệu. Sự tương quan này có thể thấy rõ ràng trong lịch sử, trong những thập niên
1950, 1960 và đầu 1970, những bước phát triển về bê tông và sau đó là nhựa tổng
hợp và nguyên liệu dệt đã truyền cảm hứng cho các kiến trúc sư và kỹ sư bước ra
khỏi những khối hình học theo thuyết Pitago và chuyển sang tạo hình khối theo một
lối hình học ít bị kềm chế hơn. Một số ví dụ nổi tiếng như kiến trúc hình vỏ sỏ
mỏng nhẹ của kiến trúc sư Felix Candela; kiểu thức trang trí kiến trúc mái vòm của
nhà thi đấu Palazetto dello Sport tại Rome, do Pier Luigi Nervi48 thiết kế và xây
dựng năm 1957 (Hình 3.1a); hình khối kiến trúc nhưđiêu khắc bằng bê tông của nhà
ga TWA Terminal tại New York do Eero Saarinen49 thiết kế và hoàn thiện năm
1962 (Hình 3.1b); hay công trình bằng nhựa tổng hợp theo thuyết viễn tưởng của
Matti Suuronen50 với tên gọi Futuro House (Hình 3.1c).. Tất cả những ví dụ trên
chứng minh tiềm năng kỹ thuật của kỉ nguyên này và chính là nét biểu hiện tinh
thần của thời đại, như kiến trúc lưới dây căng nhẹ của Frei Otto51đãđạt đến đỉnh cao
khi áp dụng làm hệ thống mái che cho sân vận đông Munich phục vụ cho kỳ Thế
vận hội 1972 (Hình 3.1d).
Tuy nhiên “hình khối tự do” trong giai đoạn 1950 đến đầu những năm 1970
bị giới hạn nhiều mặt do thiếu thốn những công cụ phần mềm lẫn phần cứng hiện
đại để hỗ trợ thiết kế và xây dựng. Hình khối công trình thường được tạo bằng mô
hình tỉ lệ thu nhỏ để thử nghiệm rồi tiến hành xây dựng, như các công trình của
Heinz Insler hay của Frei Otto. Hình khối mà họ thiết kế thông qua quá trình tìm
hình dựa trên việc làm mô hình tuân theo những quy tắc vật lý. Trái lại, một số kiến
trúc sư khác lại đi tìm hình khối không theo lối này, ví dụ như công trình của
Frederick Kiesler và sau đóđến những sáng kiến duy tâm của nhóm kiến trúc

48
Pier Luigi Nervi (21/06/ 1891 –09/01/1979) là một kỹ sư người Ý. Ông học tại Đại học Bologna và tốt
nghiệp vào năm 1913. Ông được biết đến rộng rãi như là một kỹ sư kết cấu và kiến trúc sư, và những ứng
dụng sáng tạo của ông về bê tông cốt thép.
49
Eero Saarinen (20/08/1910 –01/09/1961) là một kiến trúc sư người Mỹ và Phần Lan
50
Matti Suuronen (14/06/1933 –14/04/2013) là một kiến trúc sư người Phần Lan
51
Frei Paul Otto (31/05/1925 - 09/03/2015) là một kiến trúc sư người Đức và kỹ sư cấu trúc, ông tập trung
nghiên cứu và vận dụng về cấu trúc trọng lượng nhẹ, và mang căng. Otto đoạt Hoàng Huy chương vàng
RIBA vào năm 2006 và đã được trao giải thưởng Pritzker Architecture năm 2015 ko lâu sau khi mất
64

sưArchigram và những người khác nữa. Frederick Kiesler không hứng thú với việc
tìm hình theo kiểu đem chính xác các khối hình học theo logic thông thường áp đặt
vào công trình. Để thiết kế công trình “The Endless House”, Kiesler đã vẽ vô số bản
phác thảo tay để mường tượng ra hình ảnh ý tưởng của mình về hình khối công
trình. Đối với ông, “hình khối không tuân theo công năng, hình khối đi theo tầm
nhìn và tầm nhìn đi liền thực tế” [19, tr12]. Để tìm hiểu sự phức tạp về không gian
trong ý tưởng của mình, ông ta sẽ tạo ra những mô hình thực tế giống như một nhà
điêu khắc sẽ tạo ra mô hình của một tác phẩm nghệ thuật. Khác với những dự án
của Frei Otto và Heinz Isler, hình khối của công trình “Endless House” của Kiesler
không lấy ý tưởng từ sự tối ưu hoá kết cấu mà bằng cách cân xứng cẩn thận theo tỉ
lệ của con người trong môi trường tự nhiên. (hình 3.01e)
Những năm gần đây có thể xem là thời đại Phục Hưng của hình khối tự do –
nhiều nhà thiết kế ngày nay ít bị ràng buộc về hình khối nhờ những tiến bộ trong
công nghệ tin học. Ngày nay, ta có thể tạo ra các kiến trúc với hình khối tự do nhờ
vào một mô hình tính toán kết nối quá trình thiết kế và xây dựng. Mô hình tính toán
này được tạo ra như thế nào tuỳ thuộc vào quá trình thiết kế, quá trình này có thể
khác biệt tuỳ vào các kiến trúc sư cũng như các dự án khác nhau. Tuy nhiên, theo tư
duy của Kiến trúc Hiệu năng tính thẩm mỹ của các dự án chỉ mang tính nhất thời và
tính hiệu dụng của công trình chính là kim chỉ nam mới của các quy tắc thiết kế, nó
được xem xét ngang hàng hoặc cao hơn giá trị hình thức. Công trình theo Kiến trúc
Hiệu năngliên quan đến nhiều lĩnh vực từ xã hội văn hóa đến thuần túy kỹ thuật
(như kết cấu, nhiệt học, âm học…). Vấn đề ở đây là hình thức công trình không thể
được xem xét một cách độc lập mà phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ
phận cùng làm việc trong quá trình thiết kế dự án ngay từ đầu. Vì vậy dưới sự trợ
giúp của các phầm mềm kỹ thuật số các quy trình thiết kế này được gắn kết một
cách hiệu quả tạo ra một cách tiếp cận hoàn toàn mới trong môi trường thiết kế xây
dựng.
65

3.1.2 Thiết kế kết cấu


Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, kỹ thuật kết cấu trong
các công trình kiến trúc chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ các phần mềm máy tính, các
công cụ tính toán và giả lập hiện đại. Bên cạnh đó, có một xu hướng nổi bật trong
việc thể hiện kết cấu. Những từ ngữ như “tính hiệu năng” (performativity) ra đời,
nói về tính hiệu quả của kết cấu đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong công tác
thiết kế của một số nhóm kiến trúc sư tiến bộ. Trong khi đó, những kiến trúc sư thế
hệ trước đó có nhận thức khá gay gắt đối với công năng kết cấu như thế này. Ngoài
ra thì những kỹ sư kết cấu đương đại hàng đầu, như Cecil Balmond52- những “nhà
triết học vật chất” (material philosophers) như Manuel DeLanda đã từng gọi - đã
bắt đầu xem xét đến tính phổ biến của phong trào này.
Cùng với tầm quan trọng của hiệu năng kết cấu là tầm quan trọng ngày càng
gia tăng của hiệu năng môi trường. Chỉ có những kết cấu thông minh mới giúp giảm
lượng vật liệu sử dụng. Tương tự như vậy, những thiết kế thông minh tương thích
với môi trường giúp giảm thiểu năng lượng tiêu thụ. Cả hai đều đóng vai trò tối
quan trọng đối với nhu cầu sử dụng vật liệu hiệu quả giảm lãng phí đến mức tối
thiểu.
Mối quan tâm về hiệu năng kiến trúc dẫn đến sự gia tăng mối quan tâm về
vật liệu cũng như cách ứng xử vật liệu. Có hai phương thức điển hình: một là sử
dụng vật liệu mới, như Efte dùng như những tấm panel không khí trong Water
Cube, hai là sử dụng vật liệu truyền thống một cách thông minh, như cấu trúc thép
cấu thành sân vận động Tổ Chim. Bên cạnh đó, chúng phải trải qua quá trình xử lý
đặc biệt (sử dụng phần mềm, mã lập trình và những chương trình toán học) để xử lý
chúng. Trong thiết kế kiến trúc hiện đại, sự thay đổi quan trọng này có thể được
phát hiện – đó là việc đi từ kiến trúc dựa trên mối quan tâm thuần túy trực quan
hướng tới một kiến trúc hợp lý bởi hiệu quả của nó. Kết cấu, xây dựng, kinh tế, môi
trường và các thông số khác (đã từng bị quan ngại sẽ trở thành các lĩnh vực quan
tâm thứ cấp) nay đã được ưu tiên hơn, và điều này đang được đón nhận bởi sự đóng

52
Cecil Balmond nhà thiết kế người Anh, nghệ sĩ, kiến trúc sư, và nhà văn.
66

góp tích cực vào quá trình thiết kế ngay từ đầu. Kiến trúc - có vẻ như - không còn
quá bận tâm với phong cách và ngoại hình, dường như một kiểu mẫu mới đã xuất
hiện. [31]
Có thể xem kiểu mẫu này là một nỗ lực để vượt qua kiểu thức của kiến trúc
hậu hiện đại. Một nỗ lực để xác định một thuyết kiến trúc mới khách quan hơn, quy
cách hơn, đó là việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên để thay thế cho các
quan niệm thẩm mỹ của kiến trúc hậu hiện đại, nó không chỉ bao gồm trào lưu bảo
thủ cũ trong việc chỉ sử dụng kiểu thức trang trí cho các chi tiết (như cách hiểu của
trào lưu hậu hiện đại trong văn hóa kiến trúc) mà còn bao gồm các trào lưu tiến bộ
như chủ nghĩa phi kết cấu, đưa hình thức công trình lên một tầm cao hơn vượt qua
hiệu quả thông thường.
Thiết kế kết cấu nghĩa là chuyển từ bước hệ thống hình học sang hệ thống
kết cấu, tức là kết nối ý tưởng kiến trúc với các nguyên tắc chịu lực. Mỗi dự án có
hình khối phức tạp đem đến những thử thách khác nhau trong công tác thiết kế kết
cấu và có thể dẫn đến những quá trình xử lý vi tính khác nhau.
Trong cách tiếp cận của Kiến trúc hậu hiện đại, kiến trúc sư, đóng vai trò là
người sáng tạo (chủ yếu dựa trên cái tôi cá thể), được trao cho quyền tối thượng
trong việc thiết kế hình khối theo phương pháp "từ trên xuống" (đi từ hình khối
xuống đến các yếu tố khác). Và kỹ sư kết cấu chỉ đóng vai trò như những kỹ thuật
viên, làm sao để đảm bảo ý tưởng bay bổng của kiến trúc sư có thể trở thành hiện
thực, càng gần với thiết kế ban đầu càng tốt. Trong khi đó, kiến trúc sư của Kiến
trúc Hiệu năng lại đóng vai trò giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tìm
ý về hình khối theo phương pháp "từ dưới lên" (từ các yếu tố mà tạo ra hình khối),
do đó công trình kiến trúc không còn là sự lắp ráp khập khiễng các yếu tố riêng lẻ
mà trở thành một thể thống nhất, không chỉ hài hòa về mặt thẩm mỹ mà còn phối
hợp hoạt động một cách trơn tru.
Sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận nằm ở chỗ, một nhấn mạnh vào việc tìm
ra hình khối thích hợp qua cách tiếp cận "từ dưới lên" và tính hệ thống (formation),
một là sự nhấn mạnh vào việc tạo dáng với cách tiếp cận "từ trên xuống" và sự quan
67

trọng của hình khối (form). Quả thực khái niệm "hình khối" (form) chỉ nên dừng ở
mức độ ít quan trọng, mang tính hỗ trợ cho khái niệm "hệ thống" (formation).
Trong đó "hệ thống" (formation) nên được hiểu là sự kết hợp giữa "thông tin"
(information) và "hiệu suất hoạt động" (performance). Khi mà kiến trúc được thiết
kế từ sự cân nhắc, tính toán về hiệu suất hoạt động thì việc thiết kế hình khối sẽ trở
nên nhẹ nhàng. [31]
Nhờ vào sự phát triển của công nghệ ngày nay những khó khăn trong sự khác
biệt về cơ sở dữ liệu của các phần mềm mô phỏng và phần mềm phân tích đã được
giải quyết bắng các phương pháp “tiền xử lý dữ liệu”. Điều này giúp tự động hoá và
thúc đẩy tốc độ truyền dữ liệu hình học cũng như giúp việc nhập các dữ liệu hình
học của các dạng kiến trúc có tạo hình phức tạp một cách chính xác và nhanh chóng
nó cho phép các kỹ sư ứng dụng trực tiếp các chương trình xử lý ngay từ những giai
đoạn thiết kế đầu tiên. Hình khối công trình, đặc biệt là phần bên ngoài, là đối tượng
thay đổi khi dự án phát triển. Việc tạo hình được lặp đi lặp lại nhiều lần và được
được phân tích kết cấu thông qua phần mềm xử lý. Qua đó, dưới sự hợp tác giữa các
kiến trúc sư và kỹ sư, hình khối hình học của công trình được tối ưu hoá.
Như vậy, việc chuyển đổi những thiết kế kiến trúc phi chuẩn mực hay hình
dáng tự do thành công trình xây dựng thực tế đòi hỏi tất cả những người tham gia
dự án phải có sự phát triển tư duy mới. Một điều rất quan trọng rằng kiến trúc sư và
kỹ sư hợp tác với nhau từ rất sớm khi dự án vừa manh mún bắt đầu và một khía
cạnh quan trọng của sự hợp tác này đó là người kỹ sư kết cấu phải thể hiện được
ngôn ngữ kiến trúc của người kiến trúc sư và toàn lực hỗ trợ phương pháp thiết kế
cầu kỳ, đặc biệt. Hiểu được giá trị thiết kế của từng cá nhân là điều thiết yếu để kiến
trúc sư và kỹ sư có thể đối thoại hợp tác tích cực với nhau. Việc thiết kế ứng dụng
công nghệ tin học và môi trường sản xuất đang ngày càng phát triển, kết hợp nhiều
vật liệu mới và công nghệ hiện đại, mở ra những cơ hội chưa từng có cho kiến trúc
phấn đấu đạt được sự hoàn thiện về ý tưởng, hình khối, kỹ thuật, tài chính và vật
liệu. Trong bối cảnh như vậy, kỹ sư kết cấu có thể khám phá ra tiềm năng sáng tạo
của việc rèn luyện nghiên cứu, không chỉ thông qua việc hỗ trợ các kiến trúc
68

sưtrong việc tính toán, mà còn nắm bắt được ý tưởng của họ và khám phá ra được
những khả năng tạo hình kết cấu và vật liệu. Kiến trúc Hiệu năng với hình khối tự
do, phi tiêu chuẩn và mang tính biểu hiện đã đem lại mối hợp tác tương trợ mạnh
mẽ chưa từng có trong quá trình thiết kế giữa kiến trúc sư và kỹ sư.
Thiết kế theo hướng hiệu năng không nên bị đánh đồng với việc đơn giản đề
ra một số các giải pháp thực dụng cho một các vấn đề thực tế, nó không là một khái
niệm về chủ nghĩa công năng mới của kiến trúc mà là một sự thay đổi trong quy
trình thiết kế. Khối dáng của công trình phải có căn cứ, phải dựa trên những giá trị
được định lượng một cách hiệu quả như kết cấu, âm học, quang học hay môi
trường. Việc thay đổi tư duy, phát triển một lối nghĩ sáng tạo và hiệu quả là thách
thức quan trọng nhất của thiết kế hiệu năng.

3.1.3 Phân tích kỹ thuật – tính toán hiệu năng


Phân tích mô phỏng và tính toán tính biểu hiện của công trình đòi hỏi một sự
phối hợp chặt chẽ của các giai toạn từ đến thiết kế, kỹ thuật, xây dựng, vận hành và
quản lý công trình. Mục đích của nó là để dự đoán sự tương tác cũng như cách ứng
xử của công trình trong suốt vòng đời. Hầu hết những nghiên cứu cơ bản về thuật
toán, những chương trình để mô phỏng tính biểu hiện của công trình đã bắt đầu phát
triển từ vài thập niên trước. Và với sự tài trợ từ nhiều phía (các tổ chức chuyên
ngành, thương mại cũng như chính phủ) những công cụ mô phỏng này ngày nay
đang dần trở nên phổ biến và có những tác động đáng kể lên phương pháp thiết kế,
phân tích và xây dựng công trình. Cáchệ thống phần mềm tính toán và phân tíchđể
phục vụ các công trình hướng hiệu năng được phát triển chú trọng vào việc tạo ra
những giao diện thân thiện cho người dùng, và có tính năng vừa dựng hình với độ
chính xác cao vừa có thể truy xuất ra để thực hiện công việc tính toán khung kết cấu
và các hoạt động chịu tải và vừa có thể dự đoán đượcsự thay đổi của môi trường
như chiếu sáng, nhiệt độ tác động lên công trình.
69

Để thay đổi thói quen sử dụng của các công cụ từ phân tích đơn thuần sang
phân tích và đồng bộ hoá, những cuộc nghiên cứu mới nhằm mục đích tối ưu hoá
quy trình thiết kế đang được tiến hành. Nó tận dụng lợi thế của những tiến bộ về
công nghệ trong việc phát triển sự tương tác của con người với máy tính và hình
ảnh hiển thị để đáp ứng các nhu cầu hiện tại của đội ngũ thiết kế, tuy nhiên đây vẫn
còn một chặng đường dài để hoàn thiện. Các chương trình hỗ trợ việc tích hợp và
quản lý dữ liệu một cách chính xác cũng đang được đào sâu tìm hiểu. Ngoài ra, các
khuôn khổ và tiêu chuẩn đang được phát triển để tạo thuận lợi cho quá trình kết hợp
của đội ngũ phân tích thiết kế.với các quy trình tính toán kỹ thuật khác. [7]
Để khắc phục nhược điểm của việc phải dùng nhiều phần mềm khác nhau để
tính toán hiệu năng trên những mặt khác nhau, thì khả năng tích hợp giữa các thuật
toán có ý nghĩa quan trọng để xóa bỏ giới hạn và tăng hiệu quả cũng như tính chính
xác của những phần mềm. Bước chuyển này tạo ra tính khả thi, cho phép phát triển
một quy trình cộng tác phối hợp từ phân tích thiết đến tính toán kết cấu, hiệu năng.
Bằng các chương trình tuỳ chỉnh dữ liệu(shared custom data objects) các phần mềm
mô phỏng được tích hợp dữ liệu và tạo ra một hệ thống tương tác giữa các công cụ
khác nhau. Khả năng tương tác giữa các phần mềm khác nhau đã trở thành một điều
cần thiết, nỗ lực chung của ngành để thiết lập các chuẩn trao đổi dữ liệu phục vụ các
ngành công nghiệp xây dựng. Điều này đã tiếp cận mục tiêu về việc sử dụng các dữ
liệu dùng chung giữa các phần mềm ứng dụng khác nhau.
Chia sẻ dữ liệu có thể đạt được bằng cách sắp xếp các dữ liệu có liên quan
trong từng chương trình vào một phần mềm dữ liệu chung có khả năng chứa các
thông tin theo yêu cầu của tất cả các chương trình khác. Một số tổ chức đang nghiên
cứu phát triển mô hình dữ liệu chung này như International Alliance of
Interoperability (IAI), được thành lập vào năm 1994 và được xây dựng trên nền
tảng của dự án nghiên cứu trước đó về trao đổi dữ liệu để tích hợp các quy trình
thiết kế kiến trúc và các tiêu chuẩn trong các lĩnh vực liên quan hay Industry
Foundation Classes (IFC), phục vụ kiến trúc, kỹ thuật, xây dựng và công nghiệp
quản lý thiết bị [41]. Việc này tạo thuận lợi cho khả năng tương tác của các lĩnh
70

vực, nhằm tạo ra một vai trò tốt hơn trong sự tiến triển của việc thiết kế. Cách tiếp
cận phụ thuộc vào hiệu quả của các công cụ mô phỏng hiệu năng trong quy trình
thiết kế, với sự tham gia đầy đủ của các thành phần từ đội ngũ thiết kế đến các
chuyên gia tư vấn. Tuy nhiên bước tiếp cận sự tích hợp quá trình này vẫn còn trong
giai đoạn đầu của nó và ngày càng phát triển để phản ánh đầy đủ tiềm năng của
chính nó trong việc giải quyết các vấn đề của sự phối hợp.
Ngoài ra để đạt được khả năng tương tác giữa các công cụ mô phỏng trong
quy trình thiết kế và thi công, các chương trình không chỉ là trao đổi dữ liệu được
hỗ trợ bởi một phầm mềm xử thông tin chung thông thường mà nó còn phải cho
phép sự truy xuất đến vào đúng thời điểm hoặc cho sự thay đổi đột xuất của thiết
kế. Tức là sự thay đổi của thiết kế sẽ dẫn đến sự thay đổi một cách đồng bộ của các
quy trình tính toán phân tích khác một cách chính xác và khoa học

3.1.4 Đánh giá – điều chỉnh phương án


Trong quy trình thiết kế theo hướng hiệu năng, đánh giá và điều chỉnh phương
án là bước phức tạp nhất, nhưđãđược ghi nhận bởi Thomas Maver năm 1988. Ông
gọi “sự phát triển của các phần mềm hỗ trợ thiết kế vàđánh giá trong bước thiết kế
ý tưởng là mâu thuẫn với các bước thiết kế chi tiết khi những quyết định thiết kế
được xem xét.”[38]
Hầu hết những phần mềm phân tích hiệu năng công trình có sẵn trên thị trường
phục vụ cho kết cấu, chiếu sáng, trang âm, cách nhiệt hay phân tích khí lưu, đòi hỏi
mô hình có độ phân giải cao với nhiều chi tiết, điều này đồng nghĩ với việc chúng ít
được dùng trong việc thiết kế ý tưởng.Một vấn đề thường gặp khác là những mặt
hiệu suất nhất định có thể được phân tích trong một môi trường chung, trong khi
một số mặt hiệu suất khác phải được kiểm tra trong những phần mềm khác. Vì vậy
việc thể hiện thiết kế trong giới hạn của những công cụ phân tích hiệu năng làm
việc với độ phân giải thấp là một bước cần thiết để thiết kế concept hiệu quả hơn.
Giả sử sự kết hợp giữa phân tích và thể hiện có thể đạt được, và công cụ mô
phỏng hiệu năng có độ phân giải thấpcó thể phát triển được, thách thức tiếp theo
chính là nhu cầu nghiên cứu của thiết kế không gian động. Tức là, sau khi phương
71

án kiến trúc công trình đãđược định hình và khớp với cấu trúc, quá trình phân tích
tính toán bằng máy tính có thể linh động tiếp tục biến đổi hình dáng công trình. Nói
cách khác, quá trình đánh giá hiệu năng thực chất là quá trình sáng tác chứ không
chỉ là đánh giá. Chính vì vậy, cần định nghĩa lại về cốt lõi của các công cụ mô
phỏng hiệu năng bằng kỹ thuật số chính là thiết kế ý tưởng. [10]
Ulrich Fleming và Ardeshir Mahdavi chỉ ra vào năm 1993 rằng “cặp đôi thân
thiết: tạo hình - tính toán hiệu năng được sử dụng để làm thiết kế ý tưởng”[40].
Hay như Kristia She đã nhận định, “ tạo ra ra những hình thức mới trong khi ngay
lập tức nhận được phản hồi trên hiệu năng của chúng từ nhiều góc đánh giá ( sơ đồ
không gian, kết cấu, nhiệt học, chiếu sáng, sản xuất, ..) không chỉ khuấy động trí
tưởng tượng về phát sinh hình thức mới mà còn phản ánh chứ không mâu thuẫn
những ràng buộc thực tế.”[20]Tương tự, sự phát triển của các công cụ tạo hình dựa
trên đánh giá hiệu năng, có thể đưa đến sự biến đổi linh động và đa hình được kết
tinh từ quá trình tính toán các mục tiêu hiệu năng được thiết lập từ đầu.
Những phần mềm phân tích mới trong thời gian gần đây có thể duy trì cấu trúc
liên kết của thiết kế sơ bộ được đề xuất và cũng có thể làm biến đổi hình dạng để
đáp ứng quá trình tối ưu trong một tiêu chí hiệu năng cụ thể (trang âm, nhiệt học
…). Ví dụ nếu có một dạng hình học cụ thể bao gồm các mặt đa giác, số lượng mặt,
cạnh vàđỉnh có thể không đổi (và cấu trúc liên kết không đổi) nhưng hình dáng đó
có thể được hiệu chỉnh. Quá trình thay đổi có thể được ghi lại bằng hoạt họa. Trong
bối cảnh này người thiết kế trở thành một nhà biên tập tìm ra hình thái tiềm năng
trong thiết kế của hệ thống,từ đó sự lựa chọn từ những hình dáng xuất hiện được chi
phối phần lớn bởi giá trị hiệu năng của dự án và quan điểm thẩm mỹ của người thiết
kế. Khả năng tạo ra thiết kế mới sẽ phụ thuộc vào quan điểm và nhận thức của
người thiết kế, theo sau đó là sự linh động từ các hình thức tìm được, khám phá và
đánh giá nó. Mặc dù bối cảnh của công nghệ thiết kế đãđược đưa ra khá rõ ràng
nhưng để nắm bắt và đạt được điều này vẫn còn mang tính chủ quan. Vai trò tạo
hình của việc đưa ra các công nghệ kỹ thuật số phản ánh trong sự diễn giải và thao
tác của người thiết kế vẫn đang được bàn luận vàđồng thời hình thành bức tranh về
cách suy luận của người thiết kế trong quá trình làm việc.
72

Kết lại, cách tiếp cận bằng hiệu năng trong thiết kế nhiều khi đòi hỏi những
công cụ kỹ thuật số chưa được sản xuất có thể cung cấp những quy trình năng động
để tạo hình dựa trên những đặc điểm hiệu dụng cụ thể của thiết kế. Hiện nay đang
có những phần mềm phong phú phục vụ việc phân tích giúp người thiết kế đánh giá
những hiệu năng nào đó của dự án sau khi thiết kế sơ bộ và bắt đầu triển khai, tuy
nhiên không có công cụ nào cung cấp khả năng tạo tác linh hoạt để mở ra những
chân trời mới trong thiết kế ý tưởng kiến trúc. Quan trọng hơn, sự xuất hiện của
công cụ thiết kế dựa trên hiệu năng có thể đưa đến sự phối hợp giữa kiến trúc và kỹ
thuật trong một nhiệm vụ chung để tạo ra một dạng thức xây dựng không thể tưởng
tượng với hiệu năng được nhân lên.

3.2 Kiến trúc Hiệu năng trong bối cảnh Việt Nam
3.2.1 Khả năng ứng dụng của kiến trúc Hiệu năng vào Việt Nam
Kiến trúc Hiệu Năng với tư duy mới mẻ đang dần tạo được chỗ đứng trên diễn
đàn kiến trúc thế giới. Với những tiêu chí ưu việt của mình, Kiến trúc Hiệu Năng
hoàn toàn có thể ứng dụng được ở bất kỳ đâu và dĩ nhiên Việt Nam cũng không
phải là trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, để thực sự đưa được mô hình hình này vào
thực tiễn, ứng dụng sẽ còn là một quãng đường rất dài bởi những khó khăn, thử
thách của nó.
Khó khăn đầu tiên xuất phát từ sự nhận thức cũng như tư duy thiết kế của
giới hành nghề. Kiến trúc Việt Nam vẫn đang đặt nặng tính hình thức, biểu tượng
của công trình hơn là tính hiệu quả của nó. Điều này bị chi phối bởi nhiều yếu tố: sự
tác động của chủ đầu tư, sức ép về vấn đề tài chính, hay trong chính tiềm thức của
người thiết kế. Căn bệnh hình thức (đặc biệt là của các công trình công sở) vẫn đang
là một vấn đề nhức nhối. Căn bệnh “thích làm quan”53 của một bộ phận chủ đầu tư
vẫn đang kéo hình thức của kiến trúc Việt Nam loay hoay trong các kiểu thức cổ
điển [3]. Trong khi các công trình thương mại thì chỉ chú trọng đến tính kinh tế nhất
thời.

53
Được nếu lên lần đầu bởi PGS – TS Tôn Đại và được nhắc đến trong tham luận “Kiến trúc Hiện đại chưa
chết ở Việt Nam” của PGS – TS – KTS Lê Thanh Sơn
73

Bên cạnh đó quy trình thiết kế của chúng ta vẫn còn theo kiểu từ trên xuống
dưới. Trong một dự án, kiến trúc sư vẫn là người quyết định, các yếu tố khác như
kết cấu, kỹ thuật, điện, nước đều phải được tính toán, phân tích theo thiết kế đã
được định sẵn mà ít có sự phản hồi trở lại, nếu có chăng cũng chỉ là những thay đổi
nhỏ về mặt kỹ thuật sao cho phù hợp nhất với phương án ban đầu. Mối quan hệ giữa
kỹ sư và kiến trúc sư cũng chỉ dừng lại ở mức hợp tác một cách riêng biệt. Trong
khi đó Kiến trúc Hiệu năng cần một vai trò rõ ràng hơn của các kỹ sư, thậm chí sự
hợp tác của các chuyên gia trong các lĩnh vực liên ngành khác như xã hội, kinh tế
v.v... cũng là điều rất cần thiết.
Và khó khăn tiếp theo, cũng là khó khăn lớn nhất, đó chính là sự thiếu điều
kiện về mặt công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Trong khi đó, Kiến trúc Hiệu năng đòi hỏi
phải có một sự đồng bộ cao giữa các khâu trong quá trình thiết kế điều này chỉ có
thể thực hiện hiệu quả với điều kiện có sự hỗ trợ đắc lực từ máy tính. Ngay cả trên
thế giới việc phát triển các phần mềm mô phỏng và phân tích đồng bộ thông tin
giữa các khâu cũng đang trong giai đoạn non trẻ. Ở nước ta, thiết kế bằng máy tính
đã và đang phát triển vượt bậc trong vòng 10 năm trở lại đây, tuy nhiên các công cụ
chủ yếu vẫn là các công cụ đơn lẻ để thực hiện một quá trình độc lập (như Autodesk
3dsmax, Google sketchup, Autodesk AutoCAD, Etabs, v.v...). Một điểm sáng có thể
kể tới là bộ phần mềm Autodesk Revit hỗ trợ khả năng làm việc nhóm, với tính
đồng bộ cao đang được quan tâm sử dụng. Tuy nhiên việc sử dụng phần mềm này
cũng chưa phát huy hết được tính năng bởi sự cố hữu chậm thay đổi trong việc sử
dụng các phần mềm của các bên liên quan cũng như điều kiện để cập nhật các thông
tin mới còn rất hạn chế.
Như vây, để có thể ứng dụng được Kiến trúc Hiệu năng tại Việt Nam, việc
cần làm trước tiên là giới hành nghề cần có những thay đổi về nhận thức. Cụ thể
hơn là chuyển đổi tư duy từ thiết kế trọng hình thức sang trọng hiệu quả của công
trình, để làm được điều này sự hỗ trợ của các bên liên quan như các kỹ sư, các
chuyên gia là điều rất cần thiết. Trên thực tế là sự phối hợp này bị hạn chế bởi một
loạt các thiếu sót cần được khắc phục. Trong số những thiếu sót đó, sự chênh lệch
74

về kiến thức chuyên ngành của các bên tham gia, những khó khăn trong việc đồng
bộ thông tin giữa các khâu trong suốt quy trình, thiếu các công cụ đánh giá, thẩm tra
hợp lý là những điều cần phải được quan tâm và giải quyết. Trong điều kiện thiếu
thốn về các công nghệ kỹ thuật như vậy thì mối quan hệ giữa kiến trúc sư và kỹ sư
càng phải được thiết lập chặt chẽ, nó phải được xác định ngay từ đầu lúc mới hình
thành phương án. Mối quan hệ này không chỉ là một mối quan hệ một chiều mà
phải có sự tương tác hỗ trợ nhau về mặt thiết kế cũng như kỹ thuật để tạo ra một
phương án tối ưu.
Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức của chủ đầu tư cũng cần được kể đến,
điều này tuy khá khó khăn bởi sự chênh lệch kiến thức chuyên ngành nhưng cũng
không phải là không thể làm được. Một công trình sau khi thiết kế phải có những
giải pháp để xử lý được được những yêu cầu thiết kế mà chủ đầu tưđưa ra từ đầu.
Sự "không ăn khớp" giữa yêu cầu thiết kế của chủ đầu tư và nhũng giải pháp của
kiến trúc sư có ảnh hưởng trong suốt quá trình thiết kế , thi công và bàn giao công
trình, làm sao cho hai yếu tố trên khớp nhau được xem là một mục tiêu quan trọng
của ngành xây dựng nhằm đảm bảo sự hài lòng của người sử dụng. Chính vì vậy,
việc định hướng những yêu cầu này theo hướng đúng đắn là một điều rất cần thiết
trong những bước đầu tiếp cận Kiến trúc Hiệu năng, nó cần một bản lĩnh vững vàng
của người tư vấn thiết kế cũng như sự mạnh dạn trong việc đưa ra những phương án
thật sự hiệu quả để có thể thuyết phục được chủ đầu tư.
Kiến trúc Việt Nam ngày nay đang trên con đường hội nhập và phát triển.
Trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ thông tin, các kiến trúc sư Việt
Nam đã có nhiều cơ hội hơn để cập nhật được các trào lưu, phong cách mới của
kiến trúc thế giới đương đại. Chính vì vậy Kiến trúc Hiệu năng tuy trên mặt lý
thuyết vẫn chưa được nghiên cứu một cách cụ thể ở nước ta, nhưng về mặt thực tiễn
thì đã có những tín hiệu rất khả quan đang manh nha xuất hiện.
75

3.2.2 Tinh thần “hướng hiệu năng” trong các công trình bằng tre của kiến
trúc sư Võ Trọng Nghĩa54
Trong 10 năm trở lại đây Võ Trọng Nghĩa là một trong những cái tên được
nhắc đến nhiều nhất trong giới hành nghề của Việt Nam. Những nét mới lạ trong
thiết kế của anh đã giúp kiến trúc nước ta bắt đầu có chỗ đứng trên diễn đàn kiến
trúc thế giới. Các công trình của anh thể hiện một lối suy nghĩ mới, một tư duy mới
về thiết kế kiến trúc mà không biết vô tình hay hữu ý lại có những đặc điểm, tiêu
chí rất phù hợp với Kiến trúc Hiệu năng. Mặc dù so với các công trình theo trào lưu
này trên thế giới, các tác phẩm của Võ Trọng Nghĩa còn nhiều điểm hạn chế, tuy
nhiên về tinh thần, về cách tiếp cận một công trình thì tính“hướng hiệu
năng”(performative-oriented)55đã và đang thể hiện ngày càng rõ nét, đặc biệt là
trong các kiến trúc bằng tre, loại hình đã mang lại sự thành công rất lớn cho Võ
Trọng Nghĩa. Phần tiếp theo sẽ phân tích một vài công trình bằng tre của anh và so
sánh với các tiêu chí của Kiến trúc Hiệu năng quá đó minh chứng của sự thay đổi tư
duy, tiếp cận kiến trúc theo hướng hiệu năng ở Việt Nam là hoàn toàn có thể thực
hiên được.

3.2.2.1 Cà phê “gió và nước”


Cà phê “gió và nước” ở Bình Dương Việt Nam là công trình bằng tre đầu
tiên của Võ Trọng Nghĩa. Trong suốt chiều dài lịch sử, kiến trúc tranh, tre, nứa, lá
không xa lạ gì với người Việt Nam, nó đã xuất hiện từ rất lâu trong các ngôi nhà
truyền thống trên khắp mọi vùng đất nước đặc biệt là ở những vùng nông thôn. Tuy
nhiên, lần đầu tiên kiến trúc tre đã được nghiên cứu và sử dụng một cách hiệu quả

54
Võ Trọng Nghĩa ( 1976): kiến trúc sư nổi tiếng Việt Nam, tốt nghiệp thủ khoa Học viện Kỹ thuật Nagoya
(Nhật Bản) năm 2002, nhận bằng thạc sĩ hạng ưu của Đại học Tokyo năm 2004. Kiến trúc sư Võ Trọng
Nghĩa từng được bình chọn là một trong 10 kiến trúc sư tiêu biểu của năm 2012 do tạp chí kiến trúc
Architectural Record bình chọn.
55
Performative-Orient: thuật ngữ được Michael Hensel sự dụng trong cuốn “Performance-Oriented
Architecture: Rethinking Architectural Design and the Built Environment” (tạm dịch : “Kiến trúc hướng hiệu
năng : tái tư duy về thiết kế kiến trúc và môi trường xây dựng”), (2013). Để chỉ những công trình có những
đặc điểm phù hợp với Kiến trúc Hiệu năng
76

bởi Võ Trọng Nghĩa, điều này đã làm thay đổi tình biểu hiện của một vật liệu tưởng
chừng như đã quá đổi quen thuộc này.
Cà phê “gió và nước” có một quan cảnh khá ấn tượng, một hồ nước lớn ở
giữa và hai hồ nhỏ hình chữ nhật chạy song song suốt chiều dài mặt bằng chính của
quán. Hai khoảng đất giữa ba hồ nước là nơi để các bàn cho khách ngồi uống cà
phê. Cả ba hồ nước được lót bằng đáđen vát cạnh bên trong, không để lại thành hồ.
Chính cách sử dụng cạnh vát và màu thẫm làm cho mặt nước hồ càng trở nên
rộng thoáng, khiến khách có cảm giác thật gần gũi với mé nước. Phần mái được
thiết kế hở theo hình chữ V úp xuống được tạo thành từ 7000 cây tre. Gió sẽ theo
hai cánh lùa xuống vào mặt nước hồ bên dưới. Dưới tác động của gió, nước sẽ bốc
hơi từ mặt hồ lên, làm cho không khí trở nên mát lạnh. (Hình 3.02)
Như vậy theo các cơ sở khoa học đã phân tích ở chương 2, ta có thể thấy
được công trình bằng tre đầu tay này của Võ Trọng Nghĩa có thể đáp ứng được các
tiêu chí như sau của Kiến trúc Hiệu năng:
 Thứ nhất, ở công trình này ta có thể thấy rõ được mối liên hệ chặt chẽ
giữa hình thức và kết cấu. Võ Trọng Nghĩa đã sử dụng 7000 cây tre
được liên kết với nhau chỉ bằng dây buộc mây và đinh tre, được tính
toán rất kỹ lưỡng bởi các kỹ sư (những người cộng sự của Võ Trọng
Nghĩa đã tham gia quá trình thiết kế ngay từ đầu) để tạo thành một
tổng thể sang trọng mà không phô trương, quý phái mà vẫn gần gũi,
thân thuộc, tạo cảm giác ấm áp, dễ chịu đối với người sử dụng. Như
vậy đúng như phát biểu của Neil Leach về tư duy của Kiến trúc Hiệu
năng rõ ràng công trình đã “đem kết cấu trở thành đặc trưng trang trí,
và bề mặt trang trí ẩn sâu trong hình hài kết cấu.”
 Bên cạnh đó công trình quán café Gió và Nước là công trình kiến trúc
đầu tiên kết hợp nguyên lý khí động học vào hình thức công trình tại
Việt Nam. Theo đó, gió từ bên trái thổi vào sẽ được hệ thống mái treo
hình chữ V ép xuống phía dưới, các dây văng có tác dụng hỗ trợ
chuyển gió xuống tầng thứ hai, chạm vào mặt hồ nước. Quá trình bốc
77

hơi của nước khi có gió đáp xuống sẽ tạo ra không khí mát mẻ, cải tạo
điều kiện vi khí hậu cho người ngồi bên trong. Như vậy các tiêu chí
về mặt tính toán kỹ thuật hạ tầng hướng hiệu năng cũng đã được thể
hiện trong công trình.
 Với công trình của mình Võ Trọng Nghĩa sử dụng gió tự nhiên, và
khả năng làm mát của nước để tạo thành máy điều hòa tự nhiên, tiết
kiệm được chi phí mua máy điều hòa, chi phí vận hành máy điều hòa
và năng lượng điện sử dụng. Nơi khách ngồi uống cà phê thấp hơn
mặt hồ. Theo lý giải của kiến trúc sư thì cách bố trí mặt bằng như vậy
giúp khách tận hưởng tối đa được luồng gió nước mát đưa từ mặt hồ
sang cũng như để thưởng thức cảnh quan tuyệt vời của quán. Như vậy
công trình cũng đã quan tâm đến các vấn đề về kỹ thuật sinh học, như
điều hòa không khí tự nhiên, cân bằng năng lượng, tạo sự tiện nghi tối
đa nhất cho người sử dụng.

3.2.2.2 Cà phê Kontum Indochine


Ở công trình tiếp theo, Kontum IndochineCafé, cho thấy được việc xử lý tre
của Võ Trọng Nghĩa đã được phát triển lên một mức cao hơn. Công trình gồm hai
cụm: Một tòa nhà chính có kết cấu tre với mái lớn phẳng và một nhà bếp phụ trợ
làm bằng khungbê tông, xếp đá. Tòa nhà chính hình chữ nhật được bao quanh bởi
hồ nước nhân tạo.Đặc biệt, mái khu nhà chính được hỗ trợ bởi 15 cụm tre hình nón
ngược, được lấy cảm hứng từ nơm úp cá củangười dân Việt, nhỏ dần về phía cuối.
Như vậy một lần nữa, tính hiệu năng mà ta thấy ở cà phê Gió Và Nước được
Võ Trọng Nghĩa thể hiện trở lại trong công trình. iờ đây tính biểu hiện, tính độc
đáo, mang đậm màu sắc bản địa của của tre đã được thể hiện ở mức cao hơn.
 Ở công trình này, tre được uốn thành chiếc nơm úp ngược, (một hình
ảnh mang đậm tính văn hóa của người Việt Nam), tính hợp lý của cấu
trúc nàycho phép tối đa hóa gió mát thổi vào khu nhà trong suốt mùa
hè,tuy nhiên vẫn có thể chịu được bão lốc thường xuyên xảy ra vào
78

mùa mưa, tạo sự lưu thông tự nhiên của gió trời trong quán. Như vậy,
bên cạnh các tiêu chí về kết cấu, kỹ thuật, khí động học, ở công trình
này yếu tố văn hóa đã được tính đến (Hình 3.03)
 Bên cạnh đó, Võ Trọng Nghĩa cũng đã nghiên cứu để tăng độ bền tuổi
thọ của tre, đáp ứng được tiêu chí về việc dự đoán các tác động của
môi trường đến công trình. Việc xử lý tre giờ đây đạt kỹ thuật tối ưu
để công trình tồn tại vĩnh cửu (chứ không phải trong vòng 10 năm như
trước đây). Để làm được việc này anh cho biết: “Thách thức của công
trình chính là phải tôn trọng bản chất vật liệu tre và tạo ra một không
gian đặc biệt duy nhất cho tre. Trong bối cảnh này, chúng tôi ngâm
tre trong bùn và hun khói xử lý độ bền, và sử dụng chi tiết công nghệ
thấp (dây buộc mây và đinh tre), phù hợp cho các cấu trúc tre. Các
cụm tre được lắp đặt tại chỗ trước khi dựng lên để đạt được chất
lượng và độ chính xác cao”[6]

3.3 Kết luận chương 3


Cuộc cách mạng thiết kế đương đại cho thấy những mối bận tâm mới
của con người tác động mạnh mẽ đến tương lai của ngành thiết kế kiến trúc đó là
tính thích nghi để phù hợp với sự thay đổi liên tục của môi trường xung quanh.
Thiết kế kiến trúc là một sản phẩm phát sinh từ nhu cầu xã hội, đồng thời cũng là sự
phản ánh xã hội mà chúng ta đang sống. Để thiết kế công trình hướng hiệu năng các
kiến trúc sư sẽ phải tạo ra những công trình thiết kế của họ bằng cách phân tích cẩn
thận các yêu cầu từ nhiều khía cạnh khác nhau và tìm kiếm các giải pháp phù hợp
cho sự biến đổi của các yêu cầu đó qua thời gian. Do vậy các giải pháp này không
thể được định trước mà phải trải qua một cuộc thăm dò ý tưởng khắt khe, điều tra
rộng rãi , kết quả đạt được là những phương án tối ưu từ đó có thể lập nên một sơđồ
thiết kế. Tất cả nhằm tạo sự cân bằng của các yếu tố kiến trúc. Và quy trình trên sẽ
được tiếp tục lặp lại đi sâu vào những chi tiết tinh tế nhất, từng phần nhỏ nhất của
79

công trình xây dựng sau này. Như vậy hình dáng của công trình sẽ dần được phát
triển một cách tối ưu trên nền tảng nghiên cứu toàn diện.
Hình 3.01 Các công trình có hình khối tự do

a.Các khung sườn cong của Palazetto dello Sport ở Rome, Ý (1956-1957), kiến trúc sư và kỹ sư Pier Luigi Nervi.

b.Nhà ga TWA Terminal tại New York (1962) Kiến trúc sư Eero Saarinen

Nguồn [34]
Hình 3.01 Các công trình có hình khối tự do

c.Futuro House kiến trúc sư Matti Suuronen

d.Sân vận động cho Olympic 1972, Munich, Đức (1968-1972), kiến trúc sư Günter Behnisch, thiết kế hình thức Frei Otto.

Nguồn [34]
Hình 3.01 Các công trình có hình khối tự do

e.Endless House (1961), kiến trúc sư Frederick Kiesler.

f.Dynaform BMW Pavilion 2001 International Motor Show, Frankfurt, Đức (2001),
kiến trúc sư Bernhard Franken và ABB Architekten..

Nguồn [34]
Cà phê gió và nước, 2006, Bình Dương, Việt Nam, Thiết kế Võ
Hình 3.02
Trọng Nghĩa và công sự

a.Vẻ đẹp tự nhiên của tre, công trình nhìn từ bên ngoài

b. Công trình nhìn từ bên trong

Nguồn [43]
Cà phê gió và nước, 2006, Bình Dương, Việt Nam, Thiết kế Võ
Hình 3.02
Trọng Nghĩa và công sự

c. Hồ nước tạo yếu tố khí động học cho công trình

Nguồn [43]
Cà phê Kontum Indochine, 2013, Komtum, Việt Nam, Thiết kế Võ
Hình 3.03
Trọng Nghĩa và công sự

Nguồn [43]
PHẦN 3

PHẦN KẾT LUẬN


79

Trong bối cảnh kiến trúc đương đại đang manh nha hình thành một
trào lưu kiến trúc mới mà với những tính năng ưu việt của mình nó có thể thay thay
thế cho Kiến trúc Hậu hiện đại đã và đang thống lĩnh trong một thời gian dài. Đó
chính là Kiến trúc Hiệu năng, một trào lưu mới với những tư duy tiếp cận khác hẳn
lối suy nghĩ cũ. Cở sở hình thành của Kiến trúc Hiệu năng do sự thúc đẩy từ cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng cạn kiệt năng lượng, tài nguyên thiên nhiên
cũng với sự phát triển như vũ bão các công cụ kỹ thuật số hỗ trợ thiết kế. Bên cạnh
đó những tư duy của Kiến trúc Hiệu năng được hỗ trợ những tư tưởng triết học tiến
bộ được nghiên cứu bởi các nhà triết học, nhà nghiên cứu đương thời. Những tư
tưởng này nói về một cách tiếp cận hoàn toàn mới trong kiến trúc, trong đó đề cao
sự tương tác, hòa hợp của tất cả cá thành phần, các khâu trong quy trình thiết kế.
Để hiểu về Kiến trúc Hiệu năng, ở một khía cạnh nào đó ta bỏ qua yếu tố con
người, lúc này công trình sẽ được định nghĩa trước khi nó bị tác động với con
người. Khi đó ta sẽ phân tích công trình không còn dựa trên các yêu tố thẩm mỹ hay
kỹ thuật thuần túy như truyền thống mà thông qua tính biểu hiện – hiệu quả, hiệu
ứng - hành động, hệ biến hóa của các yếu tố, tính bền vững, hay nói ngắn gọn hơn
là ta sẽ xem xét một công trình dựa vào hiệu quả mà nó tạo ra. Từ đó Kiến trúc Hiệu
năng có thể được định nghĩa như là một sinh vật sống có khả năng tiến hóa và thích
nghi với những tác động, biến đổi của môi trường xung quanh. Từ định nghĩa đó,
Kiến trúc Hiệu năng đã đặt ra một số tiêu chí cụ thể cho từng yếu tố cấu thành:
 Đối với hệ thống bao che, lớp vỏ công trình phải có khả năng vận
động do con người điều khiển hoặc tự cảm ứng thông qua máy tính.
Bên cạnh đó hệ thống bao che phải mang tính kết cấu, kết hợp với hệ
thống này thành một thể thống nhất. Kết cấu biểu hiện hình thức, hình
thức ẩn trong kết cấu (không như kiểu truyền thống là lớp kếp cấu
nằm dưới lớp bao che, hoạt động độc lập với lớp vỏ bao che). Để thực
hiện điều này ta phải nghiên cứu và tìm hiểu ra các loại vật liệu mới
(hoặc biến những vật liệu cũ thành mới) bằng cách nghiên cứu các đặc
điểm của nó về tính biểu hiện cũng như các khả năng vật lý
80

 Đối với vấn đề về sử dụng năng lượng, công trình phải có khả năng
đáp ứng được sự biến đổi năng lượng của môi tường. Hình khối cũng
phải được nghiên cứu sao cho thích nghi nhất với các điều kiện tự
nhiên. Điều này dẫn đến việc xuất hiện các kiểu thức sinh học, vô
định hình của hình khối công trình. Điều mà sẽ được giải quyết bởi sự
hỗ trợ của các công cụ máy tính tân thời.
 Đối với vấn đề tính toán kỹ thuật kết cấu cũng như kỹ thuật hạ tầng,
Kiến trúc Hiệu năng đòi hỏi một sự tham gia từ ban đầu của các bên
chuyên môn. Giờ đây các kỹ sư sẽ phải thực hiện nhiệm vụ của của
mình ngay trong những khâu đầu tiền của thiết kế phương án
 Đối với vấn đề về nhân văn, tiện nghi. Công trình phải mang lại sự
tiện nghi thoải mái cho người sử dụng một cách tối đa thông qua cách
bố trí phỏng sinh học cũng như cách đảm bảo sự cân bằng, điều hòa
(ánh sáng, nhiệt độ, không khí v.vv) trong công trình
Và để thực hiện được tất cả những tiêu chí trên, việc thay đổi tư duy trong
quy trình thiết kế là một điều cần thiết. Việc tạo hình kiến trúc là một sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các kỹ sư và kiến trức sư. Phương án được tạo thành sẽ được tính
toán, phân tích hiệu năng bằng các phần mềm chuyên dụng, sau đó nó sẽ được điều
chỉnh, tái cấu trúc, thiết kế bổ sung cho đến khi đạt những giá trị tối ưu trước khi
xuất bản.
Tóm lại, trên thế giới Kiến trúc Hiệu năng vẫn đang được nghiên cứu và phát
triển từng ngày. Tuy chưa có những định nghĩa rõ ràng nhưng những biểu hiện của
nó thì ngày càng sắc nét thông qua các công trình kiến trúc đương đại. Ở Việt Nam,
Kiến trúc Hiệu năng còn quá xa lạ đối với giới chuyên môn. Việc áp dựng Kiến trúc
Hiệu năng vào Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều hạn chế cần phải giải quyết.
Tuy nhiên, điều có thể làm được ngay bây giờ đó là nhận thức của các kiến trúc sư,
kỹ sư, cần có một sự thay đổi trong tư duy thiết kế từ trọng hình thức thuần túy sang
trọng hiệu quả. Và đó cũng chính là mục tiêu cao nhất mà bài luận văn này mong
muốn hướng tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT

1. Võ Trọng Nghĩa (2015), Vo Trong Nghia Architechs, nhà xuất bản Thế Giới,
TP.HCM
2. Lê Thanh Sơn (2003), Một số xu hướng kiến trúc đương đại nước ngoài, khoa
Kiến Trúc, tr ờng đại học Kiến Trúc TP.HCM
3. Lê Thanh Sơn (2010), “Kiến Trúc Hiện Đại không “chết” ở Việt Nam hay là kiến
trúc Việt hôm nay từ góc nhìn của Chủ Nghĩa Hiện Đại”, Tham luận tại
đại hội kts vn lần thứ VIII - Hà Nội 04/ 2010, Tạp chí Xây dựng – Bộ
Xây Dựng số 04/ 2010
4. Nguyễn Trọng Tấn (2012), Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tính toán động
lực học chất lưu (Computational Fluid Dynamics – CFD) trong các bài
toán kỹ thuật, Luận văn thạc sĩ, khoa Kỹ Thuật Giao Thông tr ờng Đại
Học Nha Trang
5. Tô Bảo Thanh (2012), Kiến Trúc Tham Số (Parametricism), Luận văn thạc sĩ,
khoa Kiến Trúc, tr ờng đại học Kiến Trúc TP.HCM.
6. Minh Thi (2013), Mạnh mẽ, độc đáo tre Việt trong kiến trúc,
http://laodong.com.vn, ngày 01/12/2013

B. TIẾNG ANH

7. A.M.Malkawi (2004), “Developments in Environmental Performance


Simulation”, Automation in Construction, Journal 13:4, tr. 437– 445.
8. Alan Hedge (1996), “Addressing the Psychological Aspects of Indoor Air
Quality”, Asian Indoor Air Quality Seminar. Urumqi, China, 22-23/12
9. Aldo Rossi (1982), The Architecture of the City, MA: MIT Press, Cambridge
10. Branko Kolarevic (2003), Architecture in the Digital Age: Design and
Manufacturing, Spon Press, London.
11. Branko Kolarevic (2005), Performative Architecture: Beyond Instrumentality,
Spon Press, London.
12. Dean Hawkes (1996), The Environmental Tradition: Studies in the Architecture
of Environment, E & FN Spon, London.
13. Dennis L. Meadows và cộng sự (1972), The Limits of Growth : A Report for the
Club of Rome’s project on the predicament of mankind, Universe Books,
New York.
14. Francis Duffy (1992), The Changing Workplace, Phaidon Press, London
15. Frederick Kiesler (1939), On Correalism and Biotechnique: A Definition and
Test of a New Approach to Building Design, The Architectural Record,
số tháng 12/1939, tr. 60 – 75.
16. Gail Cooper (1998), Air Conditioning America: Engineers and the Controlled
Environment, Johns Hopkins Press, Baltimore.
17. Gilles Deleuze và Felix Guattari (1980), A Thousand Plateaus: Capitalism and
Schizophrenia, MN: University of Minnesota Press, Minneapolis.
18. H. Staudenmayer (1999), Environmental Illness: Myth and Reality, Lewis
Publishers, Boca Raton.
19. Harald Krejci in Frederick Kiesler (2003), Endless House 1947–1961, Vienna:
Hatje Cantz Publishers, Frankfurt.
20. Kristina Shea (2004) ,“Directed Randomness”. In N. Leach, D. Turnbull and C.
Williams (eds), Digital Tectonics, Wiley-Academy, London, tr. 89–101.
21. Kyle William Talbott (2010), Feedback Loop: Designing Complex Architecture,
Pendentive: Milwaukee, Milwaukee.
22. J. Stephen Kroll-Smith và H. Floyd (1997), Bodies in Protest: Environmental
Illness and the Struggle over Medical Knowledge, University Press, New
York.
23. Jay Wright Forrester (1961), Industrial Dynamics, MA: MIT Press, Cambridge.
24. Jay Wright Forrester (1960), Urban Dynamics, MA: MIT Press, Cambridge.
25. Jay Wright Forrester (1971), World Dynamic, MA: Wright-Allen Press,
Cambridge.
26. Lucas Gray (2010), “Materialism: A New Movement In Architecture”, Design
Exchange Magazine.
27. Luis Fernandez-Galliano (2000), Fire and Memory: On Architecture and
Energy, MA: MIT Press, Cambridge.
28 Manuel DeLanda (1997), A Thousand Years of Nonlinear History, Zone Books,
New York.
29. Manuel DeLanda (2002), Intensive Science and Virtual Philosophy, Continuum,
New York và London.
30. Neil Leach và Xu Wei-Guo (2008), (Im)material Processes: New Digital
Techniques for Architecture – Students, China Architecture and Building
Press, Beijing.
31. Neil Leach (2009), “Digital Morphogenesis”, Architectural Design, Số đặc biệt:
Theoretical Meltdown, số 79, mục 1
32. Nigel Cross và Thomas W. Maver (1973), “Computer Aids for Design
Participation”, Architectural Design, số 53, mục 5
33. O. Seppanen and W. J. Fisk (2002), “Relationship of SBS-Symptoms and
Ventilation System Type in Office Buildings”, Indoor Environment
Department. Lawrence Berkeley National Laboratory LBNL-50046.
34. Ottomar Gottschalk (1968), Flexible Verwaltungsbauten: PanungFunktion
Flachen Ausbau Einrichtung Kosten Beispiele, Verlag Schnelle,
Quickborn.
35. Peter Zumthor (1988), Thinking Architecture, Switzerland: Lars Müller, Baden.
36. Robert Probst (1969), “From Grid to Growth”, Progressive Architecture, số
tháng 11/1969, tr.100.
37. Thomas W. Maver (1971), “PACE 1: Computer Aided Design Appraisal”,
Architects Journal, số tháng 7/1971, tr.207–214.
38. Thomas W. Maver (1988), “Software Tools for the Technical Evaluation of
Design Alternatives”, Proceedings of CAAD Futures ’87, Eindhoven,
Netherlands, tr. 47–58.
39. Thomas W. Maver (2002), Predicting the Past, Remembering the Future,
Venezuela: SIGraDi, Caracas.
40. Ulrich Flemming and Ardeshir Mahdavi (1993), “Simultaneous Form
Generation and Performance Evaluation: A „Two-Way Inference
Approach”, Proceedings of CAAD Futures ’93, Pittsburgh, tr. 161–173.
41. V. Bazjanac và D. B. Crawley (1999), “Industry Foundation Classes and
Interoperable Commercial Software in Support of Design of Energy-
efficient Buildings”, Proceedings of Building Simulation, IBPSA, tr.
661–668
C. CÁC TRANG WEB THAM KHẢO

42. http://www.ajw.asahi.com
43. http://www.archdaily.com
44. http://www.architectureyp.blogspot.com
45. http://www.arcspace.com
46. http://www.deskproto.com
47. http://www.formandwords.com
48. http://www.formscape.com.my
49. http://www.fosterandpartners.com
50. http://www.grimshaw-architects.com
51. http://www.hyposurface.org
52. http://www.imgkid.com
53. http://www.kunsthausgraz.at
54. http://www.maison-alsace.com
55. http://www.russiatrek.org
56. http://www.spacelab.uk
57. http://www.techfieber.de
58. http://www.techniker.co.uk
59. http://www.thomasherzogarchitekten.de
60. http://www.twbta.com
DANH MỤC HÌNH MINH HỌA

Hình 1.01 Các công trình kiến trúc với những cấu kiện có thể di chuyển được
Hình 1.02 Các công trình kiến trúc tương tác với môi trường xung quanh
Hình 1.03 Hình ảnh mô phỏng công trình bằng các phầm mềm tính toán hiệu
năng

Hình 2.01 Kunsthaus Graz, Austria (2003), Peter Cook và Colin Fournier
Hình 2.02 Herman Miller Factory (1976), Anh, Thiết kế Grimshaw.
Hình 2.03 Herman Miller Warehouse (1982), Anh, Thiết kế Grimshaw.
Hình 2.04 Nhà máy IGUS (1990–2000) ,Cologne, Đức, Thiết kế Grimshaw.
Hình 2.05 D-Tower (1998–2003), Doetinchem, Hà Lan, thiết kế Lars
Spuybroek.
Hình 2.06 Maison Folie (2001–2004), Lille, Pháp, thiết kế Lars Spuybroek.
Hình 2.07 Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee (1994–2001), Mỹ, thiết kế kiến trúc
và kết cấu Santiago Calatrava
Hình 2.08 Aegis Hyposurface, thiết kế Mark Goulthorpe
Hình 2.09 Nhà khách của Trung tâm giáo dục thanh niên Windberg (1987 –
1991), Niederbayen, Đức, kiến trúc sư Thomas Herzog
Hình 2.10 Trung tâm thiết kế Sprawling (1989-1993), Linz, Austria, kiến trúc sư
Thomas Herzog với Hanns Jörg Schrade và Heinz Stögmüller.
Hình 2.11 Các công trình của Norman Foster
Hình 2.12 Trung tâm văn hóa Tjibaou (1991 – 1998), Noumea, New Caledonia
Thiết kế : Renzo Piano
Hình 2.13 Darien Lake Pavilion (1996), Buffalo, New York, thiết kế FTL
Design EngineeringStudio
Hình 2.14 Stuttgart 21 (2001), Stuttgart, Đức, Thiết kế Christoph Ingenhoven
Overdiek Architekten GmbH und Co.
Hình 2.15 Roppongi Canopy (2004), Tokyo, Nhật Bản, kiến trúc sư Skidmore
Owings and Merrill (SOM)
Hình 2.16 Pavilion Nhật Bản(2000), Hanover, Đức, kiến trúc sư Shigeru Ban
Architects.
Hình 2.17 Các công trình áp dụng c hương trình tính toán khí - động lực học
Hình 2.18 Phân khu chức năng theo phương pháp Kỹ Thuật Sinh Học

Hình 3.01 Các công trình có hình khối tự do


Hình 3.02 Cà phê gió và nước, 2006, Bình Dương, Việt Nam, Thiết kế Võ Trọng
Nghĩa và công sự
Hình 3.03 Cà phê Kontum Indochine, 2013, Komtum, Việt Nam, Thiết kế Võ
Trọng Nghĩa và công sự

You might also like