Professional Documents
Culture Documents
KHOA CƠ KHÍ
BỘ MÔN KỸ THUẬT MÁY
----------o0o----------
THUYẾT MINH
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “THIẾT KẾ CHẾ TẠO KHUÔN ÉP NHỰA CHO CHI
TIẾT VỎ MỎ HÀN”.
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHUÔN 5
1.1. Thực trạng khuôn mẫu trên thế giới và Việt Nam. 5
1.1.1. Thực trạng khuôn mẫu trên thế giới 5
1.1.2. Thực trạng khuôn mẫu ở Việt Nam 6
1.2. Khái niệm chung về khuôn 8
1.2.1. Vật liệu chất dẻo. 8
1.2.1.1. Chất dẻo 8
1.2.1.2. Polymer 9
1.2.1.3. Tính chất, đặc điểm, ứng dụng của chất dẻo. 11
1.2.2. Cơ sở thiết kế khuôn 14
1.2.2.1. Khái niệm về khuôn 14
1.2.2.2. Các bộ phận cơ bản của khuôn 17
1.2.2.3. Các yêu cầu kỹ thuật đối với khuôn ép nhựa 19
1.2.2.4. Hệ thống đẩy 20
1.2.2.5. Hệ thống chốt hồi về 24
1.2.2.6. Hệ thống cấp nhựa 25
1.2.2.7. Lõi mặt bên của khuôn 33
1.2.2.8. Hệ thống làm nguội khuôn 34
1.2.2.9. Vật liệu làm khuôn: 37
1.2.2.10. Phương pháp thiết kế khuôn: 40
1.2.3. Máy ép phun 40
1.2.3.1. Cấu tạo máy ép phun. 40
1.2.3.2. Các công đoạn của máy đúc áp lực: 49
1.3.1. Tính cấp thiết của đề tài 50
1.3.2. Nhiệm vụ và nội dung thực hiện đề tài 50
Chương II: THIẾT KẾ KHUÔN CHO CHI TIẾT VỎ MỎ HÀN 52
2.1. Phân tích ý tưởng: 52
2.2. Thiết kế khuôn tổng thể 52
2.2.1. Phân tích lòng và lõi: (core and cavity) 52
2.3. Thiết kế kết cấu khuôn cho sản phẩm 55
2.3.1. Tạo bộ khuôn: 55
2.3.2. Tạo mặt phân khuôn cho chi tiết: 56
Các sản phẩm nhựa ngày nay đang chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong
kĩ thuật và đời sống như trong các máy móc thiết bị công nghiệp, thiết bị điện,
đồ dùng gia dụng... Vì vậy việc sản suất các sản phẩm theo khuôn mẫu công
nghệ đúc phun là rất cần thiết. Nhưng vấn đề chính là làm thế nào để nâng cao
được chất lượng, độ chính xác, tính thẩm mỹ của sản phẩm nhựa. Theo công
nghệ cũ thì việc thiết kế, gia công, lắp ghép là vô cùng khó khăn, nhà sản xuất
mất nhiều thời gian và tiền của cho việc sản xuất thử và sửa lại khuôn. Những
vấn đề đó ngày nay được khắc phục bằng những phần mềm thiết kế chuyên
dụng như Solid eges, Catia….
Đồ án tốt nghiệp sau đây là đồ án tổng quát về quy trình thiết kế khuôn dập
sản phẩm nhựa.Trong quá trình làm thiết kế có sử dụng một số phần mềm thiết
kế : CATIA, Mastercam.
Trong quá trình làm đồ án này, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng
được sự giúp đỡ tận tình của thầy ThS.Phạm Thế Minh. Em xin chân thành
cảm ơn!
Trong quá trình thiết kế, mặc dù em rất cố gắng nhưng không tránh được
những thiếu sót, em mong các thầy và các bạn góp ý
mẫu. Khuôn mẫu của Đài Loan được đánh giá đạt tiêu chuẩn quốc tế nhưng giá
thành chỉ bằng 50% giá nhập ngoại, do đã luôn ứng dụng cập nhật những CN
mới (CN vật liệu mới, CN tự động hoá, CNTT) vào quá trình sản xuất.
1.1.2. Thực trạng khuôn mẫu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, do hạn chế về năng lực thiết kế và chế tạo, các doanh nghiệp
hiện mới chỉ đáp ứng được một phần sản xuất khuôn mẫu phục vụ cho chế tạo
các sản phẩm cơ khí tiêu dùng và một phần cho các công ty liên doanh nước
ngoài. Với những sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật cao (máy giặt, tủ lạnh, điều hoà,
ô tô, xe máy…) hầu hết phải nhập bán thành phẩm hoặc nhập khuôn.
Một trong những nguyên nhân cần được đề cập đến là các doanh nghiệp SXKM
trong nước hiện đa phần hoạt động ở tình trạng tự khép kín, chưa có sự phối
hợp, liên kết với nhau để đi vào thiết kế và sản xuất chuyên sâu vào một hoặc
một số mặt hàng cùng chủng loại; trang thiết bị ở hầu hết các cơ sở thuộc trình
độ công nghệ thấp; hoặc có nơi đã đầu tư thiết bị công nghệ cao nhưng sự đầu tư
lại trùng lặp do chưa có sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong sản xuất. Bên
cạnh đó nguồn nhân lực thiết kế, chế tạo và chuyển giao công nghệ cũng bị phân
tán. Cũng do sản xuất nhỏ lẻ nên ngay cả việc nhập thép hợp kim làm khuôn
mẫu cũng phải nhập khẩu với giá thành cao. Những điều này giải thích vì sao
chi phí SXKM của các doanh nghiệp Việt Nam luôn lớn, dẫn đến hiệu quả sản
xuất bị hạn chế.
Quy hoạch phát triển ngành cơ kim khí Hà Nội giai đoạn 2006-2010 đã xác
định: Tập trung phát triển các nhóm sản phẩm: Thiết bị đồng bộ; sản phẩm máy
công nghiệp; sản phẩm thiết bị kỹ thuật điện; công nghiệp ô tô - xe máy; sản
phẩm cơ kim khí tiêu dùng. Trong số đó, nhóm sản phẩm cơ bản có liên quan
đến sử dụng khuôn mẫu là: sản phẩm máy công nghiệp, sản phẩm ô tô - xe máy
và một số ngành sản xuất khác như: sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic.
Kết quả khảo sát thực tế về nhu cầu khuôn mẫu đến 2010, đơn cử riêng về
khuôn dập, của một số Cty như sau: Cty Cơ khí Thăng Long: K.dập là 1.500 bộ;
Cty Điện cơ Thống Nhất: K. dập là 75 bộ; Cty chế tạo máy điện VN -HGR: K.
dập là 150 bộ; Cty Xích líp Đông Anh: K. dập là 500 bộ; … Cùng với đó là nhu
cầu rất lớn về các loại khuôn nhựa, khuôn đúc áp lực… Như vậy, ngay trên sân
nhà, nhu cầu của thị trường về các loại khuôn mẫu là rất cao. Vấn đề đặt ra cho
các cơ quan quản lý Nhà nước là: cần phải tiến hành công tác quy hoạch để định
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 6
Chương I: Tổng quan về khuôn
hướng phát triển CN SXKM; thực hiện công tác tổ chức, điều phối, hợp tác, liên
kết sản xuất giữa các cơ sở ra sao, nhằm đầu tư và phát triển CNSXKM đạt hiệu
tối đa.
Kinh nghiệm của Đài Loan - một quốc gia có ngành CNSXKM phát triển cho
thấy, họ luôn cập nhật và ứng dụng những CN vật liệu mới và CN tự động hoá
vào quá trình sản xuất. Một điểm quan trọng nữa là: sự liên kết chặt chẽ trong
sản xuất giữa các doanh nghiệp thuộc ngành CNKM. Hiệp hội Khuôn mẫu Đài
Loan (TMDIA) đã tập hợp, liên kết hơn 600 Cty; đã hình thành các trung tâm
thiết kế, các tổ hợp chế tạo khuôn mẫu cho từng lĩnh vực công nghiệp, như đã
nói ở trên. Đây chính là sự phân công và hợp tác lao động ở mức độ cao; giúp
các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư chuyên sâu vào từng lĩnh vực với việc ứng
dụng CNC, theo hướng tự động hoá quá trình sản xuất. Nhờ đó, họ có điều kiện
phát huy tối đa năng lực thiết bị của mình, nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm; tập trung đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ. Cũng chính nhờ sự tập hợp,
liên kết này mà các doanh nghiệp tránh được sự đầu tư trùng lặp, giảm tối đa chi
phí khấu hao thiết bị trong giá thành sản xuất khuôn mẫu.
Vậy nên, trong xu thế hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế, muốn tồn tại và
phát triển bền vững, ngành CNSXKM của Việt Nam cũng như Hà Nội cần phải
có các giải pháp đúng, phù hợp. Nếu cứ để SXKM trong tình trạng hoạt động
khép kín, một đơn vị khó có thể đảm bảo có những sản phẩm khuôn mẫu chất
lượng cao, giá thành hạ. Thời gian tới, cần phải thành lập Hiệp hội của ngành
SXKM. Đây sẽ là nơi các doanh nghiệp gặp gỡ, trao đổi thông tin trong và ngoài
nước, quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp mình cũng như tìm kiếm đối tác và
liên kết làm ăn. Hiệp hội còn là nơi có quan hệ chặt chẽ với Chính phủ, Bộ
ngành; với các viện và trường đại học; với các cơ quan quản lý Nhà nước, từ đó
cung cấp thông tin về chủ trương, chính sách, về cơ chế quản lý, về các công
nghệ và thiết bị tiên tiến, về xây dựng thống nhất bộ tiêu chuẩn công nghiệp và
tiêu chuẩn an toàn cho ngành khuôn mẫu… giúp các doanh nghiệp nhanh chóng
nắm bắt được mọi vấn đề liên quan đến sự tồn tại và phát triển của mình. Theo
kiến nghị của Đề tài “Khảo sát thực trạng công nghệ và sự biến đổi năng lực chế
tạo máy trong vùng kinh tế trọng điểm để xây dựng những luận cứ khoa học và
đề xuất giải pháp về liên kết sản xuất các sản phẩm cơ khí chủ lực ”.
1.2.1.2. Polymer
Định nghĩa:
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 8
Chương I: Tổng quan về khuôn
Polyme Là hợp chất hữu cơ mà được hình thành do sự liên kết hoá học bền
vững giữa các đơn vị polyme với công thức phân tử hoàn toàn giống nhau. Các
đơn vị này nối với nhau thành chuỗi dài( còn gọi là mạch) chứa hàng ngàn đơn
vị nên phân tử polyme còn được gọi là cao phân tử.
Ví dụ: Các monomer Etylen qua phản ứng trùng hợp để tạo thành
Etylen
HC
Fomandehit
Nước
Tetramatilen- diamin
O C H
Cl
Vinylchlorid
Cl
1.2.1.3. Tính chất, đặc điểm, ứng dụng của chất dẻo.
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 10
Chương I: Tổng quan về khuôn
Là khả năng chống lại sự tác động của các chất hoạt hoá của các chất dẻo.
Độ bền hoá học của chất dẻo có thể được xác định bởi các vị trí có thể bị
tấn công một cách dễ dàng nhất của các mạch phân tử. Xác định độ bền hoá học
bằng cách dùng mẫu thử có kích thước chuẩn cho vào chất hoá học hay ngâm
vào dung dịch có độ đậm đặc nhất định với nhiệt độ đã cho. Sau một thời gian
nhất định do sự thay đổi về kích thước, khối lượng, sự thay đổi bề ngoài như
màu sắc, sự rạn nứt.
Các tính chất lão hoá
Nếu khi sử dụng ngoài trời thì cần chú ý đến sự lão hoá vì dưới tác dụng
đồng thời của độ ẩm không khí, ánh sáng, nhiệt độ, ô xy và các tia năng lượng
làm giảm tuổi thọ của sản phẩm chất dẻo. Để giảm lão hoá, thường cho thêm các
chất phụ gia ổn định ánh sáng, ngăn cản lão hoá.
1.2.2. Cơ sở thiết kế khuôn
6 7 8
3 4
5
9
2
10
- Khuôn ba tấm:
Tam giua
Tam di dong
Tam co dinh
Khuôn ba tấm với cổng nhựa ở giữa các lòng khuôn. Mục đích chính của
thiết kế này là tự động phân ra kênh dẫn nhựa và cổng nhựa theo các chi tiết
trong lúc khuôn đang mở. Trong bản thiết kế được minh hoạ, nhựa được phun từ
bạc cuống phun vào trong các kênh dẫn nhựa hình thang được cắt trong tấm
khuôn.
Khuôn ba tấm cũng được sử dụng khi cần thiết khi bố trí cổng nhựa ở trung
tâm hoặc nhiều cổng nhựa cho các đường chảy riêng vào trong lòng khuôn. Đối
với những chi tiết vách mỏng có dòng chảy nhựa rộng và dài. Hai hoặc nhiều
cổng nhựa có hướng vào trong chi tiết có thể tạo nên lưu lượng dòng chảy bằng
nhau và tránh được hiện tượng phân luồng dòng chảy. Khuôn ba tấm rất phù hợp
với nhiều trường hợp.
Hệ thống này gồm khuôn sau, khuôn trước và hệ thống thanh đỡ. Nó được
tạo ra hai khoảng sáng khi khuôn mở. Một khoảng sáng để lấy sản phẩm ra và
khoảng sáng kia để lấy kênh nhựa ra. Nhược điểm của hệ thống khuôn ba tấm là
khoảng cách giữa vòi phun của máy và lòng khuôn rất dài, nó làm giảm áp lực
khi phun khuôn và tạo ra nhiều phễu liệu của hệ thống kênh nhựa.
- Khuôn nhiều tầng: Khi yêu cầu một số lượng sản phẩm lớn và để giữ giá
thành sản phẩm thấp, hệ thống khuôn nhiều tầng được chế tạo để giữ lực kẹp của
máy. Với loại hệ thống khuôn này chúng ta có một hệ thống đẩy ở mỗi mặt của
khuôn.
Lßng khu«n
Lßng khu«n
Lßng khu«n
3 4 5
2
1
19
18
17
7
16 8
9
15 14 13 12 11 10
của khuôn.
- Tấm đỡ: Giữ cho mảnh ghép của khuôn không bị rơi ra ngoài.
- Khối đỡ: Dùng làm phần ngăn giữa tấm đỡ và tấm kẹp phía sau để cho tấm
đẩy hoạt động được.
- Tấm kẹp phía sau: Kẹp phần chuyển động của khuôn vào máy.
- Chốt đẩy: Dùng để đẩy sản phẩm ra khỏi khuôn bị mở.
- Tấm giữ: Giữ chốt đẩy vào tấm đẩy.
- Tấm đẩy: Đẩy chốt đẩy đồng thời với quá trình đẩy.
- Bạc dẫn hướng chốt: Để tránh hao mòn và hỏng chốt đỡ, tấm đẩy và tấm giữ
do sự chuyển động giữa chúng.
- Chốt hồi về: Làm cho chốt đẩy có thể quay trở về khi khuôn đóng lại.
- Bạc mở rộng: Dùng làm bạc kẹp để tránh mài mòn, hỏng tấm kẹp phía sau
khối đỡ và tấm đỡ.
- Chốt đỡ: Dẫn hướng chuyển động và đỡ cho tấm đẩy, tránh cho tấm khuôn
khỏi bị cong do áp lực đẩy cao.
- Tấm khuôn sau: Là phần chuyển động của khuôn, tạo nên phần trong và
phần ngoài của sản phẩm.
- Bạc dẫn hướng: Để tránh mài mòn nhiều làm hỏng tấm khuôn sau.
- Chốt dẫn hướng: Dẫn phần chuyển động tới phần cố định của khuôn.
định hình nhanh chóng trong lòng khuôn , rút ngắn chu kỳ ép và tăng năng suất.
+ Khuôn phải có kết cấu hợp lý không quá phức tạp sao cho phù hợp với khả
năng công nghệ hiện có.
- Kích thước của chốt đẩy phụ thuộc vào kích thước sản phẩm, nhưng
đường kính phải lớn hơn 3mm, trừ khi điều đó cần thiết cho hình dạng sản
phẩm.
- Thiết kế hệ thống đẩy phải đảm bảo không làm yếu khuôn sau, nhờ có
vị trí của sản phẩm và vị trí của chốt hồi có khoảng trống cần thiết dưới tấm đỡ
thường rộng và có thể làm cho tấm đỡ bị uốn cong nếu áp lực phun quá lớn. Vì
vậy để làm chắc tấm khuôn sau có thể thêm vào khối đệm.
- Khi những sản phẩm có hành trình đẩy dài hoặc có những chốt đẩy
nhỏ, thì nên có những chốt dẫn hướng trong hệ thống đẩy.
b) Lưỡi đẩy
Lưỡi đẩy tạo ra nhiều bề mặt hơn là chốt đẩy hình tròn như đối với những
chi tiết mỏng. Có điều bất lợi là những lỗ đẩy hình chữ nhật rất khó làm và cần
đặt chúng từ các miếng ghép lên đường phân khuôn.
Chú ý: Việc mài các lỗ đẩy là tạo nên một bề mặt rất phẳng cho các lưỡi
đẩy đi qua. Các lưỡi đẩy cũng yếu hơn các chốt đẩy tròn, nhưng có thể tăng
cứng vững.
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 20
Chương I: Tổng quan về khuôn
Đôi khi cần phải đẩy sản phẩm ra bằng 2 chuyển động khác nhau và riêng rẽ.
Khi cần đẩy nặng thì dựng tấm tháo (tấm đẩy). Nhưng nếu dùng một phần nhỏ
của sản phẩm trong tấm đẩy làm cản trở việc rơi tự do của sản phẩm, thì cần có
một quá trình đẩy nốt để đẩy nốt sản phẩm ra khi sản phẩm bị mắc kẹt hoặc dính
trên các chốt đẩy.
h) Hệ thống đẩy trong quá trình phun khuôn tự động
Quá trình phun khuôn tự động cần có một hệ thống hoàn hảo mà trong đó các
sản phẩm cần được rơi ra dễ dàng trước khi đóng khuôn để tránh làm hỏng
khuôn.
Hệ thống đẩy có thể được cải tiến bằng cách thêm vào lò xo xung quanh chốt
hồi để hệ thống có thể tự chuyển động qua lại không để sản phẩm bị dính vào
chốt đẩy. Điều này cho phép đẩy được hai hoặc nhiều lần.
Trong một số trường hợp quá trình đẩy, các chốt về có thể ngăn cản rơi tự do
của sản phẩm, Một phương pháp tin cậy hơn để thu về hệ thống đẩy là nối hệ
thống với máy gia công. Tuy nhiên việc này có thể có một số trục trặc. Vì thế
nên dựng những khuôn không quá 500mm. Cách tốt nhất là nối hệ thống đẩy
của khuôn vào hệ thống của hệ thống gia công khuôn nhựa bằng các bulông.
Sự đẩy từ nửa cố định:
Nói chung khuôn luôn luôn có thể đặt hệ thống đẩy vào phần chuyển động của
khuôn, nhất là trong trường hợp sản phẩm hình hộp vì lí do hình dạng mà phải
đặt từ phía trong, ta phải nối lòng khuôn và hệ thống đẩy vào phần cố định. Kiểu
này không thông dụng do:
- Vì hệ thống đẩy: Việc nối giữa 2 vòi phun của máy gia công khuôn đối
với sản phẩm là xa. Tuy nhiên với một bạc sâu, vòi phun này có thể đi rất sâu
vào khuôn, cách khác là dùng bạc cuống phun ở đầu.
- Việc kéo hệ thống đẩy: Có thể dùng đến thiết bị kéo từ xa hoặc dùng
xích. Hệ thống đẩy này có thể điều khiển như một hệ thống bình thường với các
chốt đẩy về sau, các trụ định hướng và các trụ đỡ.
i) Hệ thống đẩy đặc biệt
Đối với những sản phẩm được thiết kế có hệ thống giữ ta có thể lợi dụng
tính đàn hồi của nhựa để đẩy sản phẩm. Quá trình đẩy gồm 3 giai đoạn.
+ Phần một: Khi thanh đẩy của hệ thống đẩy, chốt giữa chuyển động cùng
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 22
Chương I: Tổng quan về khuôn
của mỗi cổng nhựa, nó đúng cho tất cả các lòng khuôn. Trong trường hợp của
một họ khuôn, tổng lượng chảy có thể khác ở mỗi lòng khuôn, nhưng trong một
nhánh được thiết kế chính xác, thì sự điền đầy vào lòng khuôn sẽ hoàn toàn khác
nhau trong cùng một thời gian. Khi sử dụng một hệ thống đo áp suất trong lòng
khuôn, chuyển từ lúc bơm tới việc duy trì hoặc thành sản phẩm được điều khiển
bởi bộ chuyển đổi trong lòng khuôn. Hệ thống này hoạt động tốt khi tất cả lòng
khuôn được điền đầy cùng một lúc.
Do đó bước đầu tiên khi thiết kế nhiều lòng khuôn là bố trí xắp đặt dòng chảy
bằng nhau, mỗi dòng chảy tỉ lệ với mỗi lòng khuôn sao cho tất cả các lòng
khuôn được điền đầy như nhau trong cùng một thời gian. Nếu tất cả các lòng
khuôn là như nhau thì sẽ giảm giá trị bằng lượng giảm áp suất từ cuống phun tới
mỗi đầu ra của cổng nhựa. Trong trường hợp đơn giản này, một cách trình bày
“cân bằng tự nhiên” có chiều dài và kích cỡ bằng nhau đối với tất cả các máng
dẫn. Số lòng khuôn đối với cân bằng tự nhiên là: 2, 4, 6, 8, 16, 18, 24, 32, 48,
64, 72, 96,…và vòng tròn miệng phun được đặt ở giữa. Không gian đủ cần phải
ở giữa lòng khuôn để cho phép làm mát đều trên khuôn. Trong nhiều trường hợp
phức tạp, khuôn cũng “cân bằng từng phần” hoặc “cân bằng giả tạo”.
Nguyên liệu chảy vào lòng khuôn qua hệ thống cấp nhựa là một quá trình
hoạt động như sau:
Trước tiên nguyên liệu nhựa ở trạng thái nóng chảy được đổ vào cuống phun
và hệ thống kênh nhựa dẫn đến lòng khuôn. Khi nhựa nóng chảy điền vào lòng
khuôn thì chúng nhanh chóng được đông đặc lại tạo thành một lớp vỏ mỏng (do
lòng khuôn có nhiệt độ thấp). Lúc đầu lớp nhựa đông đặc lại rất mỏng vì thế
nhiệt mất đi rất nhanh, sau một thời gian lớp nhựa đông đặc đạt được một độ dày
nhất định thì nhiệt thu được từ nhựa và ma sát do dòng chảy cân bằng với lượng
nhiệt mất đi, như vậy đó đạt được trạng thái cân bằng nhiệt.
Vì nhựa là một chất dẫn nhiệt kém nên lớp vỏ đông đặc sẽ đóng vai trò là
lớp cách nhiệt cho lõi trong của nhựa nóng chảy và giữ nhiệt cho lõi trong. Do
đó mà nguyên liệu nhựa vẫn có thể chảy qua lõi giữa trong quá trình phun. Nếu
tốc độ phun tăng (áp lực phun lớn) thì lớp nhựa đông lại sẽ bị mỏng đi do nhiệt
ma sát sinh ra lớn.
Để có một lớp cách nhiệt bằng phẳng thì không nên để có góc nhọn làm cản
trở dòng chảy. Hơn nữa vùng làm nguội chậm khó qua được ở cuối cuống phun
và kênh nhựa tốt nhất là làm giống như dùng vật liệu cứng, điều này cho phép
nhựa nóng chảy chảy qua được.
a) Cuống phun
Cuống phun là chỗ nối giữa vòi phun của máy phun và kênh nhựa.
Vßi phun
Cuèng phun
tới thời gian làm nguội và tốn vật liệu, nếu góc phun nhỏ quá thì sẽ làm khó cho
quá trình tháo cuống phun ra khỏi bạc cuống phun (góc côn tối thiểu là 10).
Tuy nhiên các nhà chế tạo khuôn thường phải thay đổi kích thước của vòi
máy gia công nhựa để phù hợp với kích thước của cuống phun sao cho tiết kiệm
nhất theo yêu cầu của khuôn.
b) Kênh nhựa
Kênh nhựa là đoạn nối giữa cuống phun và miệng phun. Kênh nhựa phải
được thiết kế ngắn nhất sao cho nó có thể nhanh chóng điền đầy lòng khuôn mà
không bị mất nhiều áp lực. Kích thước của kênh nhựa phải đủ nhỏ để làm giảm
phế liệu nhưng phải đủ lớn để vận chuyển nhựa điền đầy vào lòng khuôn.
Vị trí dẫn nhựa vào lòng khuôn phải hợp lý nhằm:
+ Đảm bảo vật liệu điền đầy khuôn dễ dàng.
+ Dấu được vết cắt rãnh nhằm đảm bảo mỹ quan cho sản phẩm.
+ Tránh dẫn trực tiếp vào các bề mặt làm việc của chi tiết gây ảnh hưởng
xấu đến khả năng làm việc sau này.
Tổng chiều dài rãnh dẫn càng nhỏ càng tốt để giảm lực cản trên đường đi và
tăng khả năng điền đầy cho khuôn cũng như tiết kiệm nguyên liệu.
Lòng khuôn phải có độ nhẵn bóng cao nhằm giảm ma sát, tăng khả năng
điền đầy cho khuôn.
Trong đó:
m: Khối lượng sản phẩm.
Q: Lưu lượng phun.
s: Diện tích tiết diện.
v: Tốc độ phun.
m
S
t.v
Tốc độ phun phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Áp lực phun, độ bóng bề mặt kênh
nhựa, nhiệt độ khuôn. Như vậy việc tính toán chính xác diện tích tiét diện kênh
nhựa là rất khó khăn và phức tạp. Mặt khác việc tính toán phải dựa trên các giả
thiết. Do đó kết quả tính chỉ là gần đúng.
Cæng nhùa
Cuèng phun
Dr
dr
Kªnh nhùa
phô
Chiều dài kênh nhựa phụ l Đường kính kênh nhựa phụ dr
(mm) (mm)
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 27
Chương I: Tổng quan về khuôn
75 6
Vậy diện tích tiết diện kênh nhựa và miệng phun được xác định dựa vào yêu
cầu của sản phẩm và kinh nghiệm thiết kế của người thiết kế. Miệng phun có tiết
diện nhỏ thì khó cắt bỏ dễ và vết cắt để lại trên sản phẩm nhỏ do đó sản phẩm sẽ
có hình dáng đẹp. Nhưng như thế dòng nhựa chảy vào khuôn sẽ khó khăn hơn,
tiết diện thường được chọn ở mức nhỏ nhất có thể, sau đó dựa vào sản phẩm ở
nguyên công ép thử để quyết định sửa lại vị trí hoặc mở rộng miệng phun nếu
sản phẩm ép thử có khuyết tật như: Hụt vật liệu, cong vênh, để lại đường hàn, co
ngót do thiếu vật liệu, có lõm co do không khí thoát ra khỏi lòng khuôn.
Có rất nhiều kênh nhựa được sử dụng trong thiết kế khuôn, trên các hình vẽ
dưới đây trình bày các kiểu kênh nhựa thông dụng nhất:
VËt liÖu thï a
H:W=2:3
nữa.
Tóm lại: tiết diện ngang của loại kênh tốt phải là hình tròn hoặc hình thang.
Kích thước tiết diện ngang của kênh phụ thuộc vào độ dày thành, khối lượng của
sản phẩm cũng như loại nhựa sử dụng.
Trong thực tế, sau khi thử nghiệm khuôn, số miệng phun của những lòng
khuôn chưa được điền đầy phải tăng kích thước lên, sau đó việc phun tiếp theo
được thực hiện nhiều hơn, miệng phun cần mở rộng nếu cần thiết, cho tới khi
sản phẩm được điền đầy ở tất cả các lòng khuôn. Biện pháp tốt nhất là độ dài
của các kênh nhựa của tất cả sản phẩm bằng nhau.
Cách khắc phục vấn đề này bằng cách đặt miệng phun ở giữa sản phẩm dài.
b. Sản phẩm bị cong vênh
Hình 1.19:Hõm co
Hình vẽ chỉ ra hõm co của sản phẩm . Tất nhiên là có thể cải thiện được khi
thiết kế khuôn, nhưng do nhựa phải chảy qua một tiết diện mỏng nên khó giữ
được áp lực khuôn cao để làm đầy các khoảng trống. Điều này xảy ra bởi vì
nhựa co lại ở tiết diện này.
Thay đổi vị trí của miệng có thể có tác dụng. Còn có cách khác là thay đổi
thiết kế sản phẩm. Có thể tốt nhất là tiến hành theo cả hai cách.
Các kiểu miệng phun
- Miệng phun cuống phun.
- Miệng phun cạnh.
- Miệng phun kiểu băng.
- Miệng phun kiểu đường ngầm.
- Miệng phun kiểu điểm chốt.
- Miệng phun kiểu cái quạt.
- Miệng phun hình đĩa.
- Miệng phun vòng tròn.
- Miệng phun điểm tiền phòng.
- Phun không có cuống phun.
Lõi mặt bên cần phải có lõi dẫn hướng phù hợp với chuyển động của nó. Để
tác động lên mặt bên ta dựng nhiều phương pháp: Hệ thống chốt xiên, cam chân
chó, bằng đường cam, bằng lò xo, tác động thuỷ lực, tác động góc.
+ Hệ thống chốt cam xiên: Là một hệ thống phổ biến nhất để tác động lên
lõi mặt bờn. Đó là hệ thống để kéo lõi mặt bên khoảng 0 – 20 mm phụ thuộc vào
độ cao của lõi mặt bên. Chốt cam xiên có tác dụng đẩy lõi mặt bên vào khi
khuôn đóng và khi khuôn mở thì chốt cam xiên được kéo ra và lõi mặt bên được
mở ra.
+ Cam chân chó: Hệ thống này như hệ thống chốt xiên, ưu điểm của nó là
thiết kế các rãnh theo bất kì hình dạng nào, làm nguội dễ hơn chốt xiên.
+ Tác động lò xo: Đây là hệ thống thông dụng, nó được dùng trong trường
hợp vết cắt sau trên sản phẩm nhỏ.
+ Tác động thuỷ lực: Thông dụng với khoảng vận hành dài. Hệ thống này
đặt và tăng thời gian chu kỳ. Tuy nhiên lực mở cùng chiều làm giảm lực căng
cho bộ dẫn hướng.
- Kiểm tra để đảm bảo rằng dùng các đường làm mát giữa các thành
khuôn sẽ không làm yếu khuôn.
Để điều khiển nhiệt độ khuôn và thời gian làm nguội ngắn, cần phải biết đặt
hệ thống làm nguội chỗ nào và hệ thống làm nguội nào. Điều này rất quan trọng
vì thực tế là thời gian làm nguội chiếm 50 – 60% toàn bộ thời gian của chu kỳ
phun khuôn. Do đó quá trình làm nguội có hiệu quả rất quan trọng để giảm thời
gian của cả chu kỳ.
Phải điều khiển nhiệt độ khuôn để có dòng nhựa êm chảy vào khuôn. Để
tránh làm nguội quá nhanh, về lý thuyết tốt nhất là giữ nhiệt độ khuôn cao ở cuối
dòng chảy.
Để điều khiển tốt nhiệt độ trong khuôn cần chú ý những điểm sau:
- Những kênh làm nguội phải đặt càng gần bề mặt khuôn càng tốt,
nhưng chú ý đến độ bền cơ học của vật liệu khuôn.
- Các kênh làm nguội phải đặt gần nhau, cũng cần phải chú ý đến độ bền
cơ học của khuôn.
- Đường kính của kênh làm nguội phải lớn hơn 8 mm và giữ nguyên như
vậy để tránh tốc độ chảy của chất lỏng đang làm nguội khác nhau do đường kính
của kênh làm nguội khác nhau.
- Nên chia hệ thống làm nguội ra làm nhiều vùng làm nguội để tránh
kênh làm nguội quá dài dẫn đến sự chênh lệch nhiệt độ lớn, ở ngoài cùng nhiệt
độ sẽ là quá cao để làm lạnh có hiệu quả.
- Đặc biệt chú ý đến việc làm nguội những phần dày của sản phẩm.
- Tính dẫn nhiệt của vật liệu làm khuôn cũng rất quan trọng
Số lượng lòng khuôn thường được thiếy kế theo dãy:2, 4, 6, 8, 12, 16, 24,
32, 48....Vì các lòng khuôn sẽ dễ dàng được xếp theo hình tròn hoặc hình
chữ nhật.
Thông thường ta có thể tính số lượng lòng khuôn bằng cách dựa vào: Số
lượng sản phẩm, năng suất phun, năng suất làm dẻo của máy ép phun,
lực kẹp khuôn của máy.
Số lòng khuôn tính theo số lượng sản phẩm đặt hàng:
N = L.K.tc/(24.3600.tm)
Trong đó:
N: số lòng khuôn tối thiểu.
L: số sản phẩm trong lô sản xuất.
K: hệ số do phế phẩm K = I - k với k là tỉ lệ phế phẩm.
tc : thời gian của một chu kì ép phun (s).
tm: thời gian hoàn tất lô sản phẩm (ngày).
Số lòng khuôn tính theo năng suất phun của máy ép phun:
N = 0,8.S/W
Trong đó:
N: số lòng khuôn tối thiểu.
S: năng suất phun của máy (gam/một lần phun)
W: trọng lượng của sản phẩm (gam).
Số lòng khuôn tính theo năng suất làm dẻo của máy:
N = P/(X.W)
Trong đó:
N : số lòng khuôn tối thiểu.
P: Năng suất làm dẻo của máy (g/ph).
X: tần số phun trong một phút.
W: trọng lượng của sản phẩm (g).
Số lòng khuôn tính theo lực kẹp khuôn của máy:
N = S.P/Fp
Trong đó:
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 37
Chương I: Tổng quan về khuôn
Hình 1.21. Các kiểu bố trí lòng khuôn dạng hình chữ nhật [8]
Hình 1.22. Kiểu bố trí lòng khuôn dạng tròn và thẳng [8]
1.2.3. Máy ép phun
1.2.3.1. Cấu tạo máy ép phun.
Máy ép phun dùng để sản xuất các sản phẩm tạo hình, việc sản xuất chỉ có
tính kinh tế khi hoạt động của máy được tự động hoá. Có rất nhiều loại đa dạng
và phong phú. Tuy nhiên chúng đều có chung nguyên lý cấu tạo và hoạt động.
Nhiệm vụ của cụm bơm nhựa là làm nóng chảy và nhuyễn hoá một lượng
chất dẻo có thể tích nhất định. Nhựa hoá nó rồi dùng áp suất bơm đẩy khối chất
dẻo được nhựa hoá vào khoang khuôn khép kín.
Cấu tạo cụm bơm nhựa bao gồm: phễu liệu, xilanh piston hoặc xilanh trục
vít, cụm gia nhiệt, vòi phun.
- Phễu liệu: thường hình trụ, phần dưới hình côn, thường lắp thêm bộ phận
sấy khô vật liệu, phễu liệu thường có các loại 12.5 kg, 25 kg, 50 kg, 100 kg ….
- Xilanh : hình trụ tròn, làm bằng vật liệu cứng, được nhiệt luyện bề mặt.
Xilanh đúc phun thực chất là ống có thành dầy, một đầu có ren để tiếp nhận vòi
phun, đầu kia có khoang định lượng cùng với phễu chứa liệu. Dọc theo chiều dài
của xilanh có lắp hệ thống nung nóng bằng điện trở đựơc chia thành nhiều đoạn
để có thể nung xilanh đến nhiệt độ cần thiết cho từng đoạn. Trên xilanh có cụm
định lượng vật liệu cần phải làm nguội bằng nước với mục đích bảo vệ cụm định
lượng và ổ đỡ trục vít không bị nóng quá.
Trong xilanh có trục vít thực hiện các chuyển động quay và tịnh tiến qua
lại. Trong quá trình quay nó tiếp nhận vật liệu về phía trước và dưới tác dụng
của áp lực đẩy hình thành trong xilanh nó bị kéo về phía sau. Chuyển động dọc
trục về phía vòi phun của trục vít được thực hiện nhờ xilanh thuỷ lực. Vật liệu
của trục vít là thép có độ cứng lớn.
Để nâng cao chất lượng và năng suất dẻo hóa người ta tạo ra trục vít gồm 3
vùng:
Các kích thước của từng vùng, tuỳ theo từng loại vật liệu khác nhau mà
chúng có các giá trị khác nhau. Để chống lại dòng chảy ngược khi ép phun ở đầu
trục vít được lắp van một chiều
- Vòi phun: là chi tiết hoặc cụm chi tiết lắp gá ở đầu phía trước của xilanh.
Nó là cầu nối giữa xi lanh và khuôn trong quá trình phun nhựa vào khuôn. Giữa
vòi phun và khoang tạo hình của khuôn là đậu rót và hệ thống kênh rễnh. Mối
ghép giữa vòi phun và xi lanh đúc là mối ghép ren ống. Đường kính trong của
vòi phun vào khoảng 3 6 mm, đối với các sản phẩm có khối lượng lớn có thể
sử dụng vòi phun có lỗ khoan lớn hơn 6 mm. Có rất nhiều loại vòi phun : Vòi
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 40
Chương I: Tổng quan về khuôn
phun mở, vòi phun tự đóng dùng cho các loại chất dẻo có độ nhớt khác nhau.
Để đảm bảo cho mối liên kết cơ học giữa vòi phun và miệng khuôn kín
khít, điều quan trọng là bán kính cong trên bề mặt tiếp xúc của vòi phun phải
nhỏ hơn bán kính cong trên bề mặt đậu rót. Khi các điều kiện trên không phù
hợp thì vật liệu sẽ chảy ra ngoài và khi vật liệu đông cứng tạo thành gờ gây cản
trở quá trình lấy sản phẩm ra khỏi khuôn, khó khăn cho quá trình tự động hoá.
Tuỳ thuộc vào vật liệu gia công, vào sản phẩm cần chế tạo, vào cấu trúc khuôn
sử dụng mà có nhiều loại vòi phun được đưa ra.
+ Vòi phun đậu rót điểm: Nối tiếp khuôn có khoang nóng đậu rót và lỗ
khoan có kích thước nhỏ.
+ Vòi phun có bạc đệm bằng đồng dẫn nhiệt tốt, cản trở không cho đầu vòi
phun nối với khoang nóng của đậu rót ở nửa khuôn cố định bị nguội và vật liệu
trong lỗ khoan không bị đông cứng.
Để đúc phun những vật liệu có độ nhớt nhỏ cần thiết kế vòi phun sao cho
sau mỗi lần phun lỗ khoan của vòi phun sẽ được đóng lại bằng một van khóa,
khi đó vật liệu sẽ không chảy ra khỏi vòi phun.
Để nung nóng xi lanh thường sử dụng phần tử nung nóng bằng điện. Các
cảm biến đo nhiệt độ được đo trên thành xi lanh. Tín hiệu đo được sử dụng để
đóng mở dòng điện cung cấp cho hệ thống nung ở trung tâm điều chỉnh nhiệt độ
tự động điều hành theo chế độ đặt thông qua các rơle, nhiệm vụ làm ổn định
nhiệt độ nóng chảy của chất dẻo. Để thực hiện việc truyền nhiệt được tốt dây
điện trở phải được lắp sát vào thành xi lanh đúc, song giữa chúng phải có lớp
cách điện. Đồng thời phía ngoài cần được cách nhiệt với môi trường xung quanh
để hạn chế truyền nhiệt ra ngoài, tránh tổn thất nhiệt. Để tiếp xúc giữa dây điện
trở và thành xi lanh được tốt cần tạo chúng thành cụm như vỏ áo, sau đó dùng ốc
kẹp để chúng lại trên thành xi lanh, sau khi nung lần thứ nhất lại xiết ốc kẹp lại
Cần phải thường xuyên kiểm tra nhiệt độ gia công cho mỗi loại vật liệu trên
xi lanh đúc bằng thiết bị đo tín hiệu nhiệt độ. Tín hiệu đo được sử dụng để đóng
mở dòng điện cung cấp cho hệ thống nung do trung tâm điều chỉnh nhiệt độ tự
động điều hành thông qua các hệ thống rơle. Có thể dùng cái đo nhiệt độ bằng
trở kháng hoặc ngẫu nhiệt để làm thiết bị cho tín hiệu về nhiệt độ.
Điều chỉnh nhiệt độ của xi lanh đúc tốt thì sẽ đảm bảo cho sự ổn định nhiệt
độ chất nóng chảy. Sự sắp đặt các đầu đo nhiệt cũng có ảnh hưởng đến độ ổn
định của nhiệt độ chất nóng chảy. Các đầu đo sẽ cho các giá trị được đảm bảo về
nhiệt độ chất nóng chảy khi tiếp xúc với chất nóng chảy hoặc đặt sâu vào gần
thành trong của xi lanh. Trường hợp xếp đặt các đầu đo như vậy độ dao động về
nhiệt sẽ lớn của xi lanh đúc. Khi nhiệt độ của bộ nhạy cảm đã đạt tới nhiệt độ ổn
định sẵn, truyền chỉ thị cho công tắc ngắt mạch nung khi đó phía ngoài thành xi
lanh đúc đã qúa nóng. Lượng nhiệt gây ra quá nóng đó sẽ làm quá nóng thành
trong xi lanh cũng như vật liệu chất dẻo trong xi lanh. Sau khi ngắt mạch nung
xi lanh đúc lại nguội đi vào đầu đo cũng nguội và đi cho đến khi giới hạn nhỏ
của nhiệt độ đã cho và bộ phận điều chỉnh lại chỉ thị cho bộ đóng mạch nung.
Để điều chỉnh nhiệt độ trong khoảng hẹp cần có các giải pháp mà có thể cho ta
khả năng điều chỉnh nhiệt độ ở trong khoảng hẹp và chính xác. Trên các máy ép
đúc áp lực hiện đại, việc điều chỉnh nhiệt độ là do bộ điều chỉnh bằng điện tử
hoặc máy tính điện tử giải quyết.
Trước khi phun vật liệu vào khuôn đúc, người ta cần đóng khít hai nửa
khuôn lại với nhau. Nhiệm vụ của cơ cấu kẹp khuôn trên máy đúc áp lực là: dịch
chuyển khuôn đúc, tạo ra lực đóng khuôn và giữ khuôn trong quá trình đúc phun
cho đến khi mở khuôn. Vận tốc đóng và mở khuôn đúc có thể ấn định một cách
độc lập với nhau nhằm mục đích giảm thời gian của một chu kỳ sản xuất.
Chuyển động ở cụm thiết bị này là chuyển động tịnh tiến. Các dạng thường
gặp của cụm kẹp khuôn gồm:
Hiện nay thường dùng nhất là loại kẹp khuôn bằng cơ khí kết hợp thuỷ lực
(còn gọi là kẹp tay đòn hoặc kẹp khuỷu). Loại này có ưu điểm : ít tốn năng
lượng, dễ chế tạo, kết cấu nhỏ gọn nhưng cần phải bảo dưỡng tốt các khớp quay.
Dạng khuỷu đặt nằm ngang hay thẳng đứng phụ thuộc vào xu hướng thiết
kế máy, khoảng rộng giữa các trục dẫn hướng so với chiều cao của chúng.
Xu hướng cải tiến của các nhà sản xuất hiện nay là quay lại kẹp khuôn bằng
thuỷ lực.
Cụm kẹp khuôn gồm hai bàn kẹp: tĩnh tải và di động.
Bàn kẹp tĩnh tải bên phải sát với vòi phun, dùng để kẹp khuôn tĩnh tải, bàn
kẹp di động dùng để kẹp nủa khuôn di động. Bàn kẹp phía trái dùng để kẹp cố
định các tay đòn trong cơ cấu nhiều khâu và kẹp bộ dẫn động cho cụm nhiều
khuôn, dùng để đóng mở khuôn, kẹp chặt khuôn khi bơm nhựa, phía sau còn
trang bị hệ thống đẩy sản phẩm.
Ngoài sự dịch chuyển khuôn ra, cơ cấu đóng mở khuôn cần phải tạo ra một
lực đóng khuôn và giữ khuôn với độ lớn nhất định. Nhiệm vụ của lực đóng mở
khuôn là giữ được khuôn khít kín chống được áp lực tạo ra trong khoang khuôn :
Nếu áp lực trong khuôn lớn hơn lực đóng, giữ khuôn thì khuôn sẽ bị tách ra làm
vật liệu chất dẻo nóng chảy tràn ra làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Không cần yêu cầu lực đóng khuôn cực đại theo khả năng vì nó sẽ ảnh
hưởng xấu đến tuổi thọ của máy. Nếu khoang khuôn không đặt chính giữa thì cơ
cấu đóng mở khuôn và các trụ đỡ sẽ chịu tải trọng về một phía gây ra sự mở
khuôn.
Lực giữ khuôn của cụm kẹp khuôn không yêu cầu lớn hơn 80% khả năng
vốn có, song nó luôn ở mức độ đòi hỏi phải lớn hơn lực mở khuôn.
Tất cả các bàn kẹp được đặt trên hai trụ đỡ. Cần phải chú ý đến độ dãn dài
của các trụ đỡ, nó có ảnh huởng đến quá trình giữ khuôn cũng như quá trình
đóng mở khuôn. Tải trọng các trụ đỡ cần phải đảm bảo đều, như vậy độ giãn dài
phải xác định đúng yêu cầu để tránh hiện tượng đứt trụ đỡ.
Ngoài ra trong cụm kẹp khuôn còn trang bị các phanh dầu phục vụ cho việc
đóng mở khuôn. Khi đóng khuôn cần hai tốc độ, tốc độ cao khi hai nửa khuôn
chưa vào nhau, tốc độ thấp khi hai nửa khuôn áp sát nhau. Khi mở khuôn cũng
tương tự như vậy. Ở phía cơ cấu kẹp khuôn luôn tồn tại cửa an toàn (cửa bảo
hiểm) cơ cấu chỉ hoạt động được khi cửa an toàn đóng.
c) Bộ truyền động:
Các máy ép phun được truyền động và dẫn động nhờ hệ thống điện từ hoặc
hệ thống thuỷ lực. Ngày nay người ta thường sử dụng hệ thống thuỷ lực với đặc
điểm đơn giản và dễ sử dụng.
+ Phục vụ cho chuyển động qua lại : dùng xi lanh thuỷ lực.
Truyền động nhờ hệ thống điện từ: Đối với chuyển động quay người ta
dùng động cơ điện, còn đối với chuyển động tịnh tiến thì thường dùng động cơ
bước.
Khi sử dụng các động cơ điện người ta sử dụng các bộ phận tạo áp lực cũng
như truyền lực và năng lượng bằng máy nén khí, thuỷ lực hoặc cơ khí. Sự
chuyển động bằng cơ khí chủ yếu là cơ cấu bánh răng hoặc bản lề. Trường hợp
truyền động bằng thuỷ lực thì năng lượng được chuyển đi nhờ đầu thuỷ lực chịu
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 44
Chương I: Tổng quan về khuôn
áp lực cao do bơm tạo nên. Khi dùng khí nén thì bằng không khí có áp lực cao
do máy nén khí tạo ra. Phổ biến nhất là truyền động bằng thuỷ lực.
Máy ép phun được điều khiển bằng các thiết bị điện và điện tử. Để vận
hành chúng cần có các cụm công tắc và điều khiển được lắp trong một tủ riêng.
Trục vít làm nhựa hoá vật liệu đựơc truyền động bằng động cơ điện hoặc
động cơ thuỷ lực có điều chỉnh vô cấp thông qua hộp truyền động bánh răng.
Các trục vít có kích thước lớn thường được truyền động bằng động cơ điện
thông qua hộp giảm tốc vô cấp hoặc phân cấp. Khi truyền động bằng động cơ
thuỷ lực phải dùng van điều chỉnh lưu lượng chất lỏng.
Các máy ép phun hiện đại được trang bị dẫn động điện tử, trong đó các
mạch điện được lắp trên các tấm có thể thay thế được. Ngày nay phần quan của
máy đúc áp lực được máy tính điều khiển
d) Cụm khuôn:
Cụm khuôn là cụm chi tiết để định hình sản phẩm, nó có kết cấu phức tạp,
phụ thuộc vào từng loại sản phẩm. Khuôn đựơc thiết kế sao cho có thể đúc được
một hay nhiều sản phẩm do tính chất của sản phẩm quyết định. Khuôn được làm
nguội sản phẩm bằng nước.
Khi sản xuất sản phẩm với số lượng ít chỉ cần làm khuôn một ổ. Để sản
xuất các sản phẩm giống nhau, có khối lượng lớn thì sử dụng khuôn nhiều ổ,vì
cùng ở một chu kỳ như nhau khuôn có bao nhiêu ổ thì có bấy nhiêu sản phẩm
được tạo thành. Chi phí gia công khuôn nhiều ổ lớn hơn rất nhiều so với chi phí
của khuôn một ổ. Điều kiện sản xuất các sản phẩm chính xác về kích thước là áp
lực trong khoang khuôn hết chu kỳ này đến chu kỳ khác phải được lặp lại như
nhau, do đó khi sử dụng khuôn nhiều ổ phải đảm bảo các khoang tạo hình của
các ổ khuôn phải như nhau và trong lòng chúng phải được hình thành áp lực
giống nhau. Nếu các điều kiện đó không thỏa mãn thì trong các ổ khuôn khác
nhau sản phẩm đựoc sản xuất sé khồng chính xác như nhau, ảnh hưởng đến quá
Cũng có thể sử dụng khuôn nhiều ổ trong trường hợp các khoang tạo hình
của các ổ khuôn có hình dạng và thể tích khác nhau. Giải pháp này được sử
dụng trong trường hợp sản xuất các chi tiết lắp ghép như hộp, nắp …. Tuy
nhiên, trong những trường hợp như vậy độ khác biệt giữa các chi tiết không lớn
lắm về hình dạng cũng như về thể tích.
Các chi tiết chủ yếu của khuôn bao gồm : Ti đẩy của máy, tấm kẹp ti đẩy và
khoang khuôn có thể thay đổi khác nhau.
Thiết kế khuôn dựa trên hình dạng, kích thứơc và độ chính xác của sản
phẩm cũng như độ co ngót của vật liệu. Quá trình thiết kế phải chú ý đến khả
năng công nghệ chế tạo ra nó.
Trên xi lanh của máy ép phun chất dẻo nhiệt dẻo hầu như chỉ trang bị mạch
nung nóng bằng điện, đối với chất dẻo nhiệt rắn thì có thể dùng dầu nung nóng.
Để có phần tử mang nhiệt là dầu, dùng dây điện trở để nung nóng dầu ở một
thùng chứa, sau đó dùng bơm chuyển dầu nóng vào trong hệ kênh nung nóng
của xi lanh đúc, khi dùng dầu nung nóng bằng điện trở và nhiệt độ dao động
cũng bé hơn. Trong trường hợp phải nung nóng cả trục vít cũng có thể dùng dầu
nung nóng.
- Cụm gia nhiệt có thể điều chỉnh bằng nhiệt điện trở có dùng hệ thống quạt
kèm theo.
- Thiết bị sấy nung sơ bộ bằng nhiệt điện trở có dùng hệ thống quạt kèm
theo.
- Các cảm biến đo nhiệt độ, áp suất có hiển thị về bộ xử lý tín hiệu, truyền
phát tín hiệu cho các cơ cấu chấp hành.
- Các thiết bị điện, điện tử, bơm thuỷ lực, van thuỷ lực. Van thuỷ lực bao
gồm: Hệ thống van đóng ngắt, van chuyển hướng xi lanh thuỷ lực, van điều
chỉnh áp lực và lưu lượng.
Công tắc hành trình, Rơle thời gian nhằm mục đích nhận được nhiệt độ, nhận
đựơc áp suất. Ngoài ra ấn định thời gian hoạt động của máy, đóng ngắt khi cho
máy hoạt động hoặc chuyển đổi hoạt động.
1. Công đoạn nhựa hoá và chuyển hoá vật liệu sử dụng cho gia công đúc
sang trạng thái nóng chảy.
Trong quá trình vận chuyển vật liệu chất dẻo từ phễu liệu tới vòi phun, vật
liệu được nhào trộn một cách tích cực, được làm nóng chảy và nung nóng đều cả
khối lượng ở trong xylanh trục vít.
Trong vùng nhập liệu cánh vít tiếp nhận vật liệu và chuyển nó lên phía
trước, hệ số ma sát của vật liệu lên thành xylanh cần cao hơn hệ số ma sát của
vật liệu với trục vít.
Quá trình tạo hình sản phẩm bắt đầu vào thời điểm vật liệu xâm nhập
vào khuôn. Sự vận chuyển vật liệu theo kênh dẫn vào long khuôn kèm theo
sự tăng áp trong lòng khuôn sẽ được điền đầy. Giai đoạn điền đầy khuôn
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 47
Chương I: Tổng quan về khuôn
đặc trưng bởi quá trình liên tục điền đầy khuôn của vật liệu chảy nhớt. Áp
lực ảnh hưởng tới quá trình điền đày khuôn. Khi tăng áp lực điều kiện điền
đầy khuôn được cải thiện.
chi tiết được chọn là vỏ mỏ hàn nhựa. Do đó đề tài gồm ba nội dung chính sau:
- Thiết kế chế tạo khuôn ép nhựa cho chi tiết vỏ mỏ hàn
- Lập quy trình công nghệ gia công khuôn
- Mô phỏng quá trình gia công, đưa ra chương trình gia công CNC.
Hình 2.2
Khi vào môi trường đó ta tiến hành tách khuôn.
→Nhấp vào biểu tượng trên thanh công cụ Pill direction,khi đó xuất hiện
hộp thoại:
Hình 2.3
Khi đó ta tiến hành thực hiện theo các bước yêu cầu và sẽ được kết quả như
sau:
Hình 2.6
Sau đó ta chọn biểu tượng: để tạo khuôn với kích thước tiêu chuẩn
phù hợp với chi tiết
- Sau đó nhấp đôi vào Part vừa tạo, chọn mặt phẳng trên của mặt
CorePlate để vẽ hai hình chữ nhật có kích thước như sau:
nhấp chuột vào biểu tượng , chọn mặt cắt là mặt phân khuôn đã
tạo ( Mặt phân khuôn lõi có màu đỏ), và giữ lại phần dưới ta được:
Trước tiên ta chọn biểu tượng lệnh trên thanh công cụ FixingComponents
để tạo các bu lông từ thư viện chuẩn Dme theo đường dẫn sau: Dme
CapScrew_M chọn kích thước bu lông phù hợp như sau:
lắp chốt hồi phải đảm bảo sao cho chốt hồi không ló khỏi CorePlate và chạm tới
CavityPlate.
2.4.5. Lắp bạc cuống phun:
Để lắp bạc cuống phun ta chọn biểu tượng trên thanh công cụ MoldLocating
để lấy ra bạc cuống phun trong thư viện chuẩn Dme theo đường dẫn sau: Dme
LocatingRing_RB4 và chọn bạc cuống phun có kích thước phù hơp.
Ta chọn biểu tượng trên thanh công cụ MoldEjector để lấy ra chốt đẩy trong
thư viện tiêu chuẩn Dme theo đường dẫn:
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 62
Chương II: Thiết kế khuôn cho chi tiết vỏ mỏ hàn
Dme EjectorPin_EC và chọ kích thước của chốt đẩy sao cho phù hợp.
Kích thước của các tấm khuôn , một số chi tiết của khuôn xem ở phần phụ lục
Vf
Fz
Z N (mm)
Vc 1000
N
(1/min)
N
Vc
1000 (mm/min)
V f Z N Fz (m/min)
Z: Số lưỡi cắt.
Vf 150
Fz 0.042(mm)
Z N = 4 900
-Tốc độ cắt.
N 3.14 20 900
Vc 56.52(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 160
Fz 0.03(mm)
Z N = 4 1500
- Tốc độ cắt.
N 3.14 10 1500
Vc 47.1(mm / phut )
1000 = 1000
Fz=0.002 (mm)
- Tốc độ cắt.
Vc=50 (m/phút)
Fz=0.002 (mm)
+ Tốc độ cắt.
Vc=80 (m/phút)
-Chọn dao phay mặt đầu với dao có đường kính φ20,số lưỡi cắt Z=4.Độ
-Tốc độ tiến dao: Vf=150(mm/phút).
- Tốc độ quay trục chính N=900(v/ph).
- Lượng tiến mỗi lưỡi cắt:
Vf 150
Fz 0.042(mm)
Z N = 4 900
-Tốc độ cắt.
N 3.14 20 900
Vc 56.52(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 160
Fz 0.03(mm)
Z N = 4 1500
- Tốc độ cắt.
N 3.14 10 1500
Vc 47.1(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 150
Fz 0.042(mm)
Z N = 4 900
-Tốc độ cắt.
N 3.14 20 900
Vc 56.52(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 160
Fz 0.03(mm)
Z N = 4 1500
- Tốc độ cắt.
N 3.14 10 1500
Vc 47.1(mm / phut )
1000 = 1000
Fz=0.002 (mm)
- Tốc độ cắt.
Vc=50 (m/phút)
Fz=0.002 (mm)
+ Tốc độ cắt.
Vc=80 (m/phút)
-Chiều sâu cắt Max: H=0.25D=0.25(mm)
Vf 220
Fz 0.055(mm)
Z N = 4 1000
- Tốc độ cắt.
N 3.14 20 1000
Vc 62.8(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 160
Fz 0.022(mm)
Z N = 4 1800
- Tốc độ cắt.
N 3.14 14 1800
Vc 79.12(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 150
Fz 0.042(mm)
Z N = 4 900
- Tốc độ cắt.
N 3.14 20 900
Vc 56.52(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 200
Fz 0.036(mm)
Z N = 4 1400
- Tốc độ cắt.
N 3.14 20 1400
Vc 87.9(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 300
Fz 0.03(mm)
Z N = 4 2500
- Tốc độ cắt.
N 3.14 6 2500
Vc 47.1(mm / phut )
1000 = 1000
Fz=0.006 (mm)
-Tốc độ cắt:
N 3.14 3 4250
Vc 40.03(m / phut )
1000 = 1000
Vf 220
Fz 0.055(mm)
Z N = 4 1000
- Tốc độ cắt.
N 3.14 20 1000
Vc 62.8(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 160
Fz 0.022(mm)
Z N = 4 1800
SVTH: Nguyễn Thị Hoa
Lớp :Cơ_Điện Tử K46 82
Chương III: Quy trình công nghệ gia công khuôn
- Tốc độ cắt.
N 3.14 14 1800
Vc 79.12(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 150
Fz 0.042(mm)
Z N = 4 900
- Tốc độ cắt.
N 3.14 20 900
Vc 56.52(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 200
Fz 0.036(mm)
Z N = 4 1400
- Tốc độ cắt.
N 3.14 20 1400
Vc 87.9(mm / phut )
1000 = 1000
Vf 300
Fz 0.03(mm)
Z N = 4 2500
- Tốc độ cắt.
N 3.14 6 2500
Vc 47.1(mm / phut )
1000 = 1000
Fz=0.006 (mm)
-Tốc độ cắt:
N 3.14 3 4250
Vc 40.03(m / phut )
1000 = 1000
+Bước 7:Khoan 8 lỗ bắt bu lông cố định miếng ghép lõi khuôn và tấm
khuôn dưới với dao 10.
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
Chương trình mô phỏng gia công, chương trình NC được lưu ở đĩa CD.