You are on page 1of 10

1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN VỀ


MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VỚI BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
*
Huỳnh Quốc Thắng

Tóm tắt
Bài viết tập trung làm rõ mối quan hệ bản chất của Mỹ thuật ứng dụng và
Bản sắc văn hoá dân tộc với tư cách như là hai thực thể xã hội có thể vừa là đối
tượng nhận thức vừa là đối tượng tác động trong thực tiễn hoạt động văn hoá nghệ
thuật từ góc độ sáng tác, đào tạo, nghiên cứu lý luận và cả về khía cạnh “kinh tế
thị trường” của nó…Tất nhiên đây là những ý kiến trao đổi bước đầu về một vấn
đề không mới nhưng luôn mang ý nghĩa thời sự và hiện đang nổi lên như một trong
những vấn đề trung tâm không chỉ của lĩnh vực mỹ thuật mà còn liên quan đến các
vấn đề chiến lược phát triển văn hoá nghệ thuật ở nước ta hiện nay.

1. Nhận thức chung về Bản sắc văn hoá dân tộc với Mỹ thuật ứng dụng
1.1. Trong xu thế hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá ngày càng phát triển
mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu, không phải ngẫu nhiên vấn đề bản sắc văn
hoá dân tộc (VHDT) thời gian qua ngày càng nổi lên như một trong những vấn đề
thời sự văn hoá có ý nghĩa lớn đối với mọi quốc gia, dân tộc nói chung, với Việt
Nam nói riêng. Bởi, đó là những yếu tố đặc sắc của một nền văn hóa biểu hiện đặc
tính, cốt cách dân tộc, là điều kiện tạo nên sức mạnh cố kết, duy trì và phát triển
đời sống của một cộng đồng quốc gia, dân tộc. Đó còn được xem là “bộ gien” bảo
tồn VHDT, là nơi thể hiện các giá trị truyền thống, bản lĩnh, tâm hồn, cách sống,
cách nghĩ, cảm xúc, ước mơ, nơi bảo tồn, phát triển những biểu tượng thiêng liêng
nhất của dân tộc. Bản sắc ấy “được hình thành, bảo tồn và phát huy trong quá trình
phát triển của lịch sử dân tộc” và nó “không ngừng vận động, phát triển, luôn tiếp
thu, bổ sung những yếu tố làm phong phú thêm bản sắc, đồng thời gạn lọc, loại bỏ
những yếu tố lạc hậu, không thích hợp”. Vì vậy : “Bảo vệ, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là hai mặt thống nhất của một
vấn đề, trong đó phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm “bộ lọc” cho
sự tiếp thu”1 …
Xét từ nhiều góc độ, chúng ta có thể nêu lên một nhận thức chung nhất rằng:
Bản sắc văn hóa dân tộc là nét riêng độc đáo trong văn hóa của một cộng đồng
*
Phó giáo sư, Tiến Sĩ – Trưởng Bộ môn Văn hóa ứng dụng – Khoa Văn hóa học, ĐHKHXHNV, ĐHQGTPHCM, giảng viên
cộng tác Khoa Sau Đại học – Đại học Mỹ thuật TPHCM và Khoa Mỹ thuật Công nghiệp – Đại học Văn Lang.
1
LÊ NHƯ HOA : Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước thử thách của thời kỳ mới; TC Văn nghệ quân
đội; ngày 10/8/1998.
2

dân tộc (tộc người) và địa phương (vùng, miền, quốc gia, khu vực) bao gồm những
yếu tố tính bản địa – tính truyền thống – tính di sản được hình thành bằng một quá
trình lịch sử nhất định và được thể hiện ra thông qua con người – hoạt động văn
hóa – sản phẩm văn hóa (vật thể, phi vật thể) của chính cộng đồng đó.
Như vậy, nói tới bản sắc VHDT là nói tới yếu tố góp phần “định tính” làm
cho văn hoá của một chủ thể (cộng đồng, địa phương) có thể trở thành là thực thể
xã hội có giá trị đặc thù, độc đáo nhất định. Tất nhiên “thực thể” ấy (tức bản sắc
VHDT) không có “tính tự thân” với nghĩa nó không thể tồn tại một cách độc lập,
riêng biệt mà phải luôn gắn với / thể hiện ra thông qua hiện tượng (con người –
hoạt động – sản phẩm) văn hoá cụ thể. Chúng ta có thể khái quát như sau :
(1) Đó là mọi sản phẩm (vật thể hoặc phi vật thể) do con người (cá thể
hoặc cộng đồng) sáng tạo ra và là nơi đọng lại trí tuệ, tâm hồn, tình cảm của họ.
Những sản phẩm đó tồn tại như một thực thể xã hội mang tính chất là những biểu
tượng, hình tượng cụ thể của bản sắc VHDT hoặc những di sản, tài sản nói lên
thành tựu, sự phong phú của một nền văn hóa (dân tộc). Việc giữ gìn, phát huy
những sản phẩm này là những hoạt động cụ thể về kế hoạch, thời gian, công sức và
những biện pháp chuyên môn…
(2) Đó là những vốn truyền thống mang tính chất là những giá trị và phong
cách sáng tạo, lưu truyền những giá trị ấy được thể hiện ra qua phong tục tập quán,
tôn giáo tín ngưỡng, những khuôn mẫu, nguyên tắc ứng xử và các biểu tượng, hình
tượng văn hóa nghệ thuật được tạo tác ra và được cộng đồng chấp nhận…Những
truyền thống đó “chỉ có thể giữ gìn và phát huy thông qua hiện tại, qua cuộc sống
hàng ngày của những con người đương đại, có nghĩa là phải thông qua sự phát
triển. Cái gì có thể đóng góp cho phát triển thì được bảo tồn, giữ nguyên hoặc điều
tiết ở mức độ cần thiết…”2…
(3) Đó là mọi hoạt động giao lưu (về mặt đồng đại), kế thừa (về mặt lịch
đại) hoặc sáng tạo (về việc tạo ra những cái mới)… tóm lại là sự duy trì và phát
triển văn hóa như “những giá trị liên tục” (les valeurs continues) trong không gian
và trong thời gian… Suy cho cùng, sự phát triển của văn hóa dân tộc phải là sự
phát triển đồng bộ và toàn diện mọi loại hình (thể loại), mọi yếu tố cấu thành của
chính nền văn hóa ấy cả về số lượng lẫn chất lượng 3…

2
Nguyễn Khoa Điềm : Bảo tồn di sản văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; Bài phát biểu
tại Hội thảo khoa học “Bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày
06/6/1998.
3
Huỳnh Quốc Thắng : Văn hóa học và văn hóa dân tộc,Trong sách “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
vai trò của nghiên cứu và giáo dục”, Trường Đại học KHXHNVTPHCM, Viện KHXH tại TP.HCM, Bảo tàng
LSVN tại TPHCM, Bảo tàng CM TPHCM, Nxb TPHCM, năm 1999, trang 131-139.
3

1.2. Trong các loại hình hoạt động văn hoá nghệ thuật ngày càng phát triển
mạnh cùng với đà tiến nhanh của xã hội hiện đại và có liên quan đặc biệt đến vấn
đề bản sắc VHDT, người ta không thể không nói tới Mỹ thuật ứng dụng. Vốn là
một bộ phận thuộc / liên quan các thể loại Mỹ thuật (Fine Arts) và cả Nghệ thuật
tạo hình (Plastic Art), Mỹ thuật ứng dụng (Applied Art) bao gồm nhiều nhóm thể
loại khác nhau :
Thủ công mỹ nghệ (Craft Art, Handicraft Arts)
Tạo dáng công nghiệp, Thiết kế thời trang (Design Art)
Trang trí kiến trúc, Trang trí nội thất (Decorative Art)…
Trong mỗi nhóm thể loại như nêu trên, Mỹ thuật ứng dụng vừa liên tục tích
luỹ, kế thừa những thành tựu sáng tạo mang tính truyền thống trong quá khứ vừa
không ngừng tái tạo và sáng tạo ra những giá trị mới, loại hình mới để không chỉ
đáp ứng nhu cầu đời sống hiện tại mà còn hướng đến những yêu cầu của cuộc sống
tương lai thông qua cơ chế kinh tế - xã hội phù hợp. Ví dụ, trong lĩnh vực Thủ công
mỹ nghệ, người ta thấy bên cạnh yếu tố kỹ thuật (tay nghề / chất liệu) để tạo tác ra
các sản phẩm thủ công truyền thống như đá, mộc, đồng, gốm, kim hoàn, sơn mài,
mây, tre, thêu, đan…hoặc các loại vật liệu mới kết hợp kỹ thuật hiện đại như
composite, polymer…để các sản phẩm này sau đó có thể trở thành các mặt hàng
(hàng hoá) mỹ nghệ như đồ gia dụng, tranh tượng trang trí, quà lưu niệm du lịch
.v.v. với những yêu cầu cao về chất lượng mẫu mã, giá trị thẩm mỹ đáp ứng nhu
cầu và thị hiếu các loại đối tượng công chúng và tương ứng với một “giá cả” nhất
định trên thị trường …Chính các đặc điểm này làm cho mọi sản phẩm Thủ công mỹ
nghệ nói riêng, Mỹ thuật ứng dụng nói chung nhất thiết đều cần phải có yếu tố bản
sắc VHDT như là một thành tố (yếu tố cấu thành) tạo nên chất lượng, giá trị văn
hóa nghệ thuật và cả hiệu quả kinh tế cho chính các sản phẩm ấy…
2. Vài nét về thực trạng Mỹ thuật ứng dụng trong quan hệ với Bản sắc
văn hoá dân tộc – Những vấn đề đặt ra hiện nay
Như đã nêu, Mỹ thuật ứng dụng bao gồm nhiều (nhóm) thể loại và mỗi thể
loại không ngừng vận động phát triển theo trình độ sáng tạo, điều kiện và nhu cầu
của xã hội…Trong quan sát thực tế đời sống văn hoá nghệ thuật và mỹ thuật cả
nước, đặc biệt là ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nơi sớm có một thị trường năng
động trực tiếp liên quan lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng, người ta có thể thấy nổi lên
những vấn đề có ý nghĩa chung như sau :
2.1. Hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN), một bộ phận quan trọng trong vốn
di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc nhưng hiện nay đang thiếu và yếu trầm
trọng cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt có những vấn đề trực tiếp liên quan
khía cạnh “bản sắc VHDT”.
4

Với tư cách là những hàng hóa gia dụng phục vụ đời sống hàng ngày hoặc
là những nghi vật, nghi trượng phục vụ các sinh hoạt tại các cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo, những sản phẩm TCMN có thể góp phần đáp ứng tốt các nhu cầu đời sống
văn hóa vật chất và tinh thần, đời sống tâm linh của công chúng thế nhưng hiện
nay đang có dấu hiệu tự phát trong sáng tác hình thức mẫu mã, nội dung ý nghĩa
mang tính pha tạp, lai căng, thậm chí là xuyên tạc văn hóa dân tộc…Gần đây, sự
việc một số cơ sở thờ tự di tích, di sản ở Hà Nội và các địa phương khác ở nước ta
đã sử dụng những “linh vật, vật phẩm lạ” không phù hợp với phong tục tập quán
văn hóa Việt Nam, thậm chí đến nỗi Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã ra văn bản
cảnh báo cho khắp cả nước, thế mà đã có làng nghề truyền thống từng nổi tiếng lâu
đời vẫn đã bỏ ra hàng tỷ đồng để đầu tư sản xuất ra những sản phẩm hàng TCMN
không6 tốt như vậy…Phải chăng đó là một trong những ví dụ điển hình về tình
hình đáng báo động như đã nói ?!...
Bên cạnh đó, với đà phát triển ngày càng mạnh mẽ của ngành du lịch, lẽ ra
theo nguyên lý : “Không có tính đặc sản (interest product) thì không có sản phẩm
du lịch đúng nghĩa” : các sản phẩm TCMN với những đặc điểm, thế mạnh vốn có
của mình có thể trở thành là những món quà lưu niệm hấp dẫn và mang nhiều ý
nghĩa trong du lịch, một bộ phận quan trọng cấu thành các dịch vụ sản phẩm du
lịch không thể thiếu của các địa phương, của cả quốc gia…Thực tế cho thấy, thông
qua những sản phẩm như vậy, người ta có thể giới thiệu tốt hơn về văn hóa, hình
ảnh đất nước, con người địa phương, quốc gia dân tộc đối với du khách các
loại…và đó càng là điều hết sức lý tưởng, hết sức có ý nghĩa cho cả phía du lịch
lẫn Mỹ thuật ứng dụng, cụ thể ở đây là về TCMN ! 4...Thế nhưng tiếc thay hiện nay
trên cả nước và trong từng địa phương, nhìn chung ngành du lịch vẫn đang “đói
khát” những món quà lưu niệm mang tính chất “đặc sản” và đậm bản sắc VHDT
như vậy !...
2.2. Tính văn hóa và bản sắc VHDT đã và đang là vấn đề tồn tại lớn, bức
xúc trong nhiều hình thức thông tin quảng cáo đa dạng ở nước ta : Tuyên truyền
miệng, Cổ động trực quan (panô, áp – phích, triển lãm, bảng hiệu…), Thông tin
truyền thông (báo chí, truyền thanh, truyền hình, mạng internet…), Ấn phẩm (nhãn
hiệu, bao bì, catalogue…), Nghệ thuật và lễ hội (trong hội thi, hội diễn, ca múa
nhạc, kịch, điện ảnh, trình diễn thời trang, người mẫu biểu diễn…)...
Xét về bản chất, quảng cáo là một hoạt động kinh tế – xã hội nhưng lại sử
dụng các hình thức văn hóa và thông tin để biểu hiện. Do đó, quảng cáo nào cũng
mang những yếu tố :

4
Xem Huỳnh Quốc Thắng : Những yếu tố cơ bản tạo nên sản phẩm thủ công mỹ nghệ lưu niệm đặc trưng trong
du lịch, Tc Mỹ Thuật – Khoa Mỹ thuật Công nghiệp, Đại học Văn Lang, số 6 – 2014.
5

+ Giá trị thẩm mỹ : Đó là hệ thống ngôn ngữ quảng cáo (khái niệm hoặc
hình tượng) mang tính biểu cảm (cụ thể, cảm tính) có tính hấp dẫn cao và sự thuyết
phục mạnh để tạo được sự chú ý (attention) trước khi khơi gợi được ý thích
(interest) và thúc đẩy quyết định (decide) của khách hàng đối với một sản phẩm
(hàng hoá) nhất định. Đó là sự tập hợp và khai thác thế mạnh của các loại hình
nghệ thuật như âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, nhiếp ảnh, điện ảnh, sân khấu .v.v.
nhằm tạo hiệu quả cao nhất thông qua sự truyền đạt (communication) tới công
chúng tư tưởng, tình cảm và cảm xúc nghệ thuật của chính người sáng tạo ra sản
phẩm – tác phẩm quảng cáo ấy.
+ Giá trị khoa học : Đó là lượng thông tin phản ánh các thành tựu khoa
học kỹ thuật và công nghệ đương thời đang được ứng dụng trong sản xuất, dịch vụ
để tạo ra chất lượng cao cho sản phẩm hàng hóa được quảng cáo, qua đó góp phần
kích thích nâng cao tư duy công nghiệp, khoa học theo hướng ngày một cải tiến
sản phẩm hàng hóa đã có và sản xuất sản phẩm hàng hóa mới. Đó còn là kỹ thuật,
kỹ xảo (nghiệp vụ chuyên môn) tạo nên sản phẩm quảng cáo trở thành như là một
giá trị khoa học quan trọng...
+ Giá trị nhân bản : Đó là các giá trị văn hóa vật chất – tinh thần của xã
hội thể hiện trong sản phẩm hàng hóa, là sự tổng hòa và biểu hiện các mối quan hệ
và mức độ phát triển của xã hội loài người, tất cả nhằm góp phần phục vụ và thúc
đẩy sự phát triển về số lượng lẫn chất lượng các sản phẩm hàng hóa theo định
hướng vì con người và sự phát triển của xã hội. Chuẩn mực đạo đức cao nhất của
người quảng cáo (doanh nghiệp quảng cáo thông qua các sản phẩm quảng cáo)
cũng như người sản xuất và người bán hàng là không vì đồng tiền mà tạo nên
những sản phẩm quảng cáo thiếu trung thực hay cổ vũ cho hàng kém chất lượng
hoặc hàng giả gây nên tác hại cho khách hàng nói riêng và xã hội nói chung 5 …
Thực chất những giá trị văn hóa nói trên là những tiêu chí mang tính định
hướng cho mọi sản phẩm, hoạt động thiết kế sáng tạo các mẫu quảng cáo khác
nhau dưới bất cứ hình thức nào…Theo đó như là lẽ đương nhiên, do đối tượng
công chúng hướng đến là con người và cộng đồng cụ thể, do đó nhất thiết trong sản
phẩm quảng cáo không thể không tính toán đến yếu tố bản sắc VHDT, thậm chí có
cả tính địa phương cụ thể...Điều này trên thực tế ở nước ta quả thực còn rất nhiều
tồn tại : quảng cáo trên báo chí, phát thanh, truyền hình, đặc biệt trên mạng internet
.v.v. còn rất nhiều biểu hiện “kém văn hóa” và thiếu bản sắc VHDT; đặc biệt
quảng cáo trực quan đường phố và những nơi công cộng còn hạn chế lớn về văn
hóa thẩm mỹ và hết sức hỗn tạp, đang thiếu hẳn một bản sắc VHDT được quan tâm
thể hiện rõ ràng !…

5
Xem Huỳnh Quốc Thắng : Tính văn hóa trong quảng cáo, Tạp chí Khoa học xã hội, số 27 – 1996, trang 164-168.
6

2.3. Vấn đề phong cách và bản sắc VHDT trong cảnh quan trang trí kiến
trúc công trình công cộng mặc dù có được quan tâm nhưng nhìn chung đến nay
vẫn còn là một đề tài lớn.
Thông qua khảo sát một số công trình trang trí kiến trúc của các thiết chế du
lịch văn hoá trọng điểm ở các địa phương phía Nam và ở TP. Hồ Chí Minh chẳng
hạn, chúng ta thấy nổi rõ lên những vấn đề cơ bản đó là : Yếu tố “thẩm mỹ truyền
thống” (trong trang trí nội, ngoại thất công trình kiến trúc…) không chỉ về hình
thức (màu sắc, đường nét, hình khối…) mà còn là về nội dung (thể hiện nét đặc
trưng văn hóa của Việt Nam, trong mối quan hệ giao lưu với thế giới…), trong đó
thế nào là Bản sắc VHDT (Việt Nam) đích thực, quả thật đây là điều không đơn
giản chút nào (?!). Chúng ta có thể nêu vài ví dụ tiêu biểu :
+ Khu du lịch văn hóa Suối Tiên (Quận 9 – TP. Hồ Chí Minh) hiện nay
không chỉ là một trung tâm tổ chức sinh hoạt vui chơi giải trí như một thiết chế
“công viên văn hóa”, một “khu du lịch” mang tính chất một “tiểu Disneyland” của
Việt Nam mà nó còn là một thiết chế công nghệ chuyên “kinh doanh giải trí” với
quy mô lớn theo định hướng lấy “Bản sắc văn hóa truyền thống, dân tộc” làm nền
tảng. Những “trọng điểm” (main destination) trong Khu du lịch hiện đại này, đó là
những công trình mang tính định hướng lịch sử rất rõ ràng như Đền thờ Hùng
Vương, Biển Tiên Đồng – Núi Lạc Long Quân & Núi Âu Cơ…, Quảng trường Phù
Đổng, Quảng trường Đinh Bộ Lĩnh, Tượng đài Hai Bà Trưng…Ngoài ra, nơi đây
còn có các điểm tham quan quan trọng liên quan tín ngưỡng dân gian và nhắc nhở
các đạo lý truyền thống dân tộc như Quảng trường Tôn Sư Trọng Đạo, Sự Tích
Trầu Cau .v.v Tất cả đều chú ý thể hiện và đề cao truyền thống văn hóa, đất nước
và con người của cả dân tộc cũng như của địa phương…Bên cạnh đó, nơi đây còn
có các hạng mục công trình vật chất – kỹ thuật được đầu tư quy mô, nghiên cứu
nghiêm túc và mang đậm màu sắc “tâm linh” mang nét đặc thù văn hóa phương
Đông như : Thiên Tiên Môn, Thiên Đăng Bảo Tháp, Long Hoa Nhật Nguyệt, Long
Hoa hội, Long Hổ Thiên Sơn, Phúc Cung Tam Phước, Linh Cung Thập Nhị Giáp,
Cội Bồ Đề, Kỳ Lân Cung, Thiên Đình Cung, Cầu Bát Tiên Quá Hải v.v…Tất cả
đều toát lên một màu sắc hết sức “thoáng mở” theo tinh thần đủ cả Nho – Phật –
Lão lẫn tín ngưỡng dân gian các loại !...
+ Tương tự như vậy, Khu du lịch Đại Nam (hay Lạc Cảnh Đại Nam Văn
Hiến, Bình Dương), mới hình thành thời gian sau này với quy mô thậm chí còn lớn
hơn cả Suối Tiên (diện tích ban đầu khoảng 450 ha) nhưng cũng mang phong cách,
dáng vẻ “mở” đến độ khá “phức tạp” không chỉ về khía cạnh tâm linh mà còn về
văn hóa nói chung ! Công trình trung tâm là Đại Nam Quốc Tự (5.000 m2) gồm
các phù điêu, hoa văn thể hiện lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ, vị trí trung tâm là
điện thờ Tứ Ân (Tạo Hóa, Tổ Quốc, Đồng bào Dân tộc, Tông đường), biểu tượng
thờ trung tâm gồm có Đức Phật, Vua Hùng Vương, Chủ tịch Hồ Chí Minh; hai bên
7

là đài thờ Mẹ Âu Cơ và Bách Gia Trăm Họ (với biểu tượng 54 dân tộc và mọi dòng
họ ở Việt Nam) 6…
Những công trình, hạng mục nói trên mặc dù cũng đã có sự quan tâm đặc
biệt với những thành quả tích cực đáng ghi nhận đối với việc thể hiện bản sắc
VHDT nhưng trên thực tế nếu cho rằng những nơi này đã đạt được sự thuyết phục
hoàn toàn thì chưa hẳn, rõ ràng vẫn còn nhiều điều phải tiếp tục nghiên cứu, trao
đổi !...
3. Một số suy nghĩ và đề xuất chung
3.1. Văn hoá - văn minh và nghệ thuật có mối liên hệ mật thiết với nhau vì
nghệ thuật phản ánh xã hội mà nó đang tồn tại, và văn hoá - văn minh là cơ sở cho
nghệ thuật tồn tại. Mặt khác, văn hoá - văn minh cũng như nghệ thuật đều mang
hơi thở và dấu ấn của lịch sử, nó đánh dấu các bước phát triển của xã hội. Nói cách
khác, nghệ thuật là do con người tạo ra, nó nằm trong tổng thể của xã hội, nó là
một dạng hình thức phản ánh một cách năng động các biến đổi trong xã hội. Do
vậy trình độ thẩm mỹ của công chúng trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, ở các
cộng đồng dân tộc, địa phương khác nhau sẽ phản ánh một cách đa dạng qua các
sản phẩm văn hoá nghệ thuật cụ thể (trong đó có Mỹ thuật ứng dụng) vốn cũng rất
khác nhau. Yêu cầu về mối quan hệ của Bản sắc VHDT với văn hoá nghệ thuật nói
chung, với Mỹ thuật ứng dụng nói riêng mang tính tất yếu cũng chính là vì những
lý lẽ ấy. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội đã ngày
càng tạo tiền đề vững chắc cho sự khẳng định vị thế, vai trò của văn hoá nghệ thuật
trong đời sống xã hội, trong đó sự phát triển của Mỹ thuật ứng dụng với một Bản
sắc VHDT nhất định là một xu thế mạnh mẽ. Trong bối cảnh đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và trước vận hội mới hội nhập ngày càng sâu
vào quá trình toàn cầu hóa như hiện nay, sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt
Nam nói chung, xây dựng môi trường hoạt động văn hóa nghệ thuật nói riêng chắc
chắn đòi hỏi không những phải có sự phát triển mạnh về vật chất, kỹ thuật và công
nghệ, quy hoạch phát triển theo mô hình sản xuất lớn mà còn phải là đầu tư chiều
sâu vào việc phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, tham gia thiết kế,
sáng tác, lý luận phê bình về Mỹ thuật ứng dụng đạt trình độ chuyên môn hóa cao
với năng lực tay nghề vững và tư duy khoa học thật chắc. Theo ý nghĩa đó, chúng
ta đang cần rất nhiều, càng nhiều càng tốt những công trình khoa học, gồm cả
những chuyên khảo, giáo trình, tài liệu tham khảo nghiêm túc từ nhiều góc độ góp
phần tổng kết những bài học kinh nghiệm lịch sử, những quy luật vận động – phát
triển của kỹ thuật – nghệ thuật Mỹ thuật ứng dụng, đặc biệt trong mối quan hệ với

6
Xem Huỳnh Quốc Thắng : Bản sắc & giao tiếp văn hóa dân tộc (qua khảo sát một số hệ giá trị văn hóa tộc người
vùng Nam Bộ), kỷ yếu Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá
trình đổi mới và hội nhập”, Chương trình Đề tài KX.03.14/06-10 & Trường Đại học KHXHNV TPHCM, năm 2009,
trang 251 – 263.
8

việc bảo tồn – phát huy Bản sắc VHDT trong môi trường văn hóa công nghiệp - đô
thị .v.v.Tất cả hướng đến mục tiêu góp phần làm cơ sở cho mọi tư duy khoa học,
nghiên cứu, giảng dạy, học tập, sáng tạo Mỹ thuật ứng dụng ngày càng có chất
lượng và đạt hiệu quả cao hơn nữa…
3.2. Truyền thống văn hoá Việt Nam cùng với những vốn di sản văn hoá,
yếu tố cốt tuỷ của bản sắc VHDT bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng
xã, tổ quốc, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức cần cù sáng tạo
trong lao động, tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…Những nội dung
ấy cùng với những kinh nghiệm sáng tạo trong vốn mỹ thuật ứng dụng truyền
thống lâu đời của các thế hệ nghệ nhân Việt Nam tất cả rất có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tế. Nó không chỉ cung cấp một hệ thống tư liệu quý cho nội dung sáng
tác mà còn có thể góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức khoa học – thực tiễn về
những quy luật phát triển của Mỹ thuật ứng dụng trong giai đoạn hiện nay, không
chỉ góp phần thiết thực vào việc đáp ứng các nhu cầu văn hóa tinh thần, xây dựng
cảnh quan văn hóa, tạo nên không gian thẩm mỹ mà còn mang những ý nghĩa nhân
văn đặc biệt khác, đó là vấn đề góp phần nâng cao về “chất lượng sống”, “điều
kiện sống” và “văn hóa sống” 7 như cách nhìn nhận chung của thế giới trong xã
hội công nghiệp – hiện đại ngày nay.
3.3. Bao trùm lên tất cả : Đó là những quan điểm, đường lối, chủ trương và
mọi chính sách để phát triển văn hóa nghệ thuật (dân tộc). Thực chất đó là những
nhận thức khoa học và sự vận dụng những nhận thức ấy vào thực tiễn giữ gìn và
phát huy bản sắc VHDT nhằm góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng, phát
triển đời sống kinh tế – xã hội của đất nước nhằm góp phần giải quyết những mâu
thuẫn, những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước mà vẫn giữ gìn, phát huy được bản sắc VHDT trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, gồm cả Mỹ thuật ứng dụng trong đó, cụ thể là :
(1) Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường, điều kiện để tạo nên và bổ sung những giá trị mới cho văn hóa nghệ
thuật nhưng làm sao vẫn giữ được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt
là về truyền thống sáng tạo và cảm thụ các giá trị thẩm mỹ liên quan Mỹ thuật ứng
dụng…

7
Chất lượng sống gồm : môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, yếu tố phát triển con người (giáo dục, y tế, việc
làm…), yếu tố quản lý…; Điều kiện sống gồm : tiện nghi vật chất (ăn, mặc,ở, đi lại…), môi trường (tự nhiên & xã
hội…), an ninh, trật tự…; Văn hóa sống gồm : những giá trị có sẵn ở nơi cư trú, ở trong cộng đồng (vốn truyền
thống, văn hóa dân gian…) & những giá trị được sáng tạo ra trong quá trình chung sống của cộng đồng – những
yếu tố góp phần quyết định cùng với “Điều kiện sống” để tạo nên “Chất lượng sống” cho con người và xã hội…
9

(2) Dù muốn hay không quá trình đô thị hóa vẫn đang ngày càng mở rộng
quy mô và tác dụng của nó, kéo theo một lối sống văn minh đô thị, công nghiệp,
hiện đại…nhưng bên cạnh đó cần có biện pháp hữu hiệu để hạn chế quá trình đô
thị hóa tự phát thường “vô tình” phá vỡ những nền nếp lối sống truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, trong đó có những nếp hoạt động của các làng nghề thủ công mỹ
nghệ truyền thống vốn có gốc gác từ trong xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đây.
(3) Thúc đẩy việc giao lưu, hội nhập quốc tế về mọi mặt, kịp thời và chủ
động tiếp thu những thành tựu tinh hoa văn hóa nhân loại (đặc biệt là khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại) để phát triển Mỹ thuật ứng dụng, theo nguyên tắc vừa
tránh được nguy cơ “tụt hậu” nhưng vừa không rơi vào tình trạng “lai căng” mà
thực chất là sự tiếp thu thụ động và chạy theo những thị hiếu xấu vì mục tiêu lợi
nhuận là chính. Nhìn chung, nỗ lực phát huy những yếu tố nội sinh làm thành nội
lực vững chắc trong quá trình giao lưu, tiếp biến những yếu tố ngoại sinh đang
ngày càng mở rộng vẫn là vấn đề mấu chốt để phát triển vững chắc nghệ thuật và
Mỹ thuật ứng dụng trong giai đoạn hiện nay.
(4) Văn hóa nghệ thuật dân tộc nói chung, Mỹ thuật ứng dụng nói riêng
không thể khác phải tích cực kế thừa những vốn tinh hoa của văn hóa truyền thống
nhưng đồng thời phải sàng lọc cho được những yếu tố lạc hậu đang tự phát phát
triển cùng những phong tục, tập quán lâu đời hoặc “ăn theo” những cái tiêu cực
trong mặt trái của cơ chế thị trường hiện nay.
(5) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất nhưng vẫn giữ gìn, phát
huy được tính phong phú của một nền văn hóa đa tộc người, đa vùng, miền với các
yếu tố “địa – văn hóa” (geo-culture) đa dạng, độc đáo, .v.v. 8. Đó là phương châm
chung của văn hóa nghệ thuật cũng là của Mỹ thuật ứng dụng Việt Nam trong giai
đoạn mới.
Vấn đề cốt lõi mang tính quyết định những nội dung nêu trên cũng có thể
được xem chính là những gì liên quan việc thực hiện mục tiêu “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” , trong đó, việc giữ
gìn và phát huy các di sản VHDT (gồm cả bản sắc VHDT) được xác định không
thể chỉ là công việc xuất phát từ tấm lòng nhiệt tình vì yêu cầu trước mắt của thời
cuộc mà đó là một công việc hoàn toàn mang tính tự giác có tính định hướng chiến
lược lâu dài và là một quá trình nhất quán gồm hàng loạt hành động thực tế với đầy
đủ cơ sở nhận thức khoa học của nó . Có lẽ đây là một trong những vấn đề lớn cần
phải được khẳng định lại lần nữa trong chiến lược “Xây dựng một nền Mỹ thuật
ứng dụng Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” giai đoạn hiện nay . /.

8
Huỳnh Quốc Thắng : Văn hóa học và văn hóa dân tộc,Tài liệu đã dẫn, trang 137.
10

_____ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH___________

1. DƯƠNG BÁ PHƯỢNG : Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình công nghiệp hoá, Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
2. ĐỖ VĂN KHANG : Phạm vi thực tồn của văn hóa và văn học nghệ thuật;
Tc Văn hóa Nghệ thuật; số 5 (119); 1994; tr. 40 – 42.
3. HUỲNH QUỐC THẮNG : Khoa học xã hội và những vấn đề văn hóa học
với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay; Tc Phát triển Khoa học
Công nghệ – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Tập 1; 7 – 8/1998.
4. LÊ NHƯ HOA : Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước thử thách
của thời kỳ mới; Tc Văn nghệ quân đội; ngày 10/8/1998.
5. LÊ THỊ MINH LÝ : Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật
thể, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 -2003.
6. LƯU DUY DẦN (chủ biên) “Báu vật làng nghề” Việt Nam, Nxb. Lao động,
2011.
7. NGUYỄN ĐÌNH THANH (chủ biên), Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển,
Nxb Tổng hợp TP.HCM 2008.
8. NGUYỄN KHOA ĐIỀM : Bảo tồn di sản văn hóa trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước; Bài phát biểu tại Hội thảo khoa học “Bảo vệ di tích
lịch sử – văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày
06/6/1998
9. NGUYỄN TRÚC TÂN : Xây dựng khoa học văn hóa học; Văn nghệ; ngày
08/8/1998.
10. NGUYỄN QUÂN: Mỹ thuật của người Việt; Nxb Mỹ thuật; 1989.
11. NGUYỄN VĂN HUYÊN: The ancient civilization of Vietnam; Thế giới
publishers; Hanoi; 1995.
12. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Kinh tế học, Bảo
tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2001.
13. Trường Đại học KHXHNVTPHCM, Viện KHXH tại TP.HCM, Bảo tàng
LSVN tại TPHCM, Bảo tàng CM TPHCM, “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, vai trò của nghiên cứu và giáo dục”, Nxb TPHCM, năm 1999
14. VŨ KHIÊU – PHẠM XUÂN NAM - HOÀNG TRINH: Phương pháp luận
về vai trò của văn hóa trong phát triển; Nxb Khoa học xã hội; Hà Nội; 1993.

You might also like