You are on page 1of 35

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VIỆN BÁO CHÍ

THUYẾT MINH
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ NĂM 2022
(sử dụng kinh phí Học viện Báo chí và Tuyên truyền)

TÊN ĐỀ TÀI:
BÁO CHÍ VỀ VĂN HOÁ VÀ NGHỆ THUẬT
(Định hướng giáo trình)

Chủ nhiệm đề tài: Trương Thị Kiên

HÀ NỘI, 2022
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ

THUYẾT MINH
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ NĂM 2022
(sử dụng kinh phí Học viện Báo chí và Tuyên truyền)

TÊN ĐỀ TÀI:
BÁO CHÍ VỀ VĂN HOÁ VÀ NGHỆ THUẬT
(Định hướng giáo trình)

Chủ nhiệm đề tài: Trương Thị Kiên.


Thành viên tham gia:

2
HÀ NỘI, 2022

I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến báo chí về văn hóa và nghệ thuật là nói đến việc báo chí tham
gia phản ánh về văn hóa và nghệ thuật, góp phần bảo vệ, phát triển, quảng bá văn
hóa, nghệ thuật, đồng thời, định hướng tiêu dùng và sáng tạo văn hóa và nghệ thuật
của nhân dân.
Văn hóa và nghệ thuật là hai lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của đời
sống con người; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của quần
chúng nhân dân, là động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần
của xã hội và sự phát triển toàn diện con người Việt Nam. Không ai có thể sống
tách rời các tầng văn hoá, sống ngoài môi trường văn hoá và tách khỏi nghệ thuật.
Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới lĩnh vực văn hóa và nghệ
thuật. Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây
dựng, phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước, Đảng ta nhấn mạnh: Phải thực hiện việc thông tin, tuyên truyền về văn học,
nghệ thuật bảo đảm theo đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đưa hoạt động văn học, nghệ thuật phát triển lên tầm cao mới cả về bề rộng
và chiều sâu, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đời sống tinh thần của
nhân dân. Gần đây nhất, trong văn kiện Đại hội XIII về Phương hướng, nhiệm vụ
và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Đảng cũng đã chỉ ra các
phương hướng, nhiệm vụ để phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam, lấy văn hóa làm động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Trong lĩnh vực báo chí ở nước ta, căn cứ vào danh mục báo và tạp chí do Bộ
Thông tin và Truyền thông (từ đây xin viết tắt là Bộ TT&TT) xác định, Việt Nam
có đến hơn 30 tờ báo, tạp chí chuyên biệt văn hoá và nghệ thuật. Ngoài ra, hầu hết
các tờ báo đều có chuyên trang, chuyên mục, chương trình văn hoá và nghệ thuật,
hoặc có những tác phẩm về văn hoá và nghệ thuật.

3
Báo chí là kênh tiêu thụ văn hoá, nghệ thuật, thẩm định văn hoá, nghệ thuật,
đồng thời cũng là lực lượng sáng tạo văn hoá và nghệ thuật. Qua báo chí, công
chúng được tiếp nhận những thông tin mới nhất, đa dạng, phong phú về văn hoá và
nghệ thuật để nâng cao tri thức, sự hiểu biết. Báo chí cũng là diễn đàn để nhân dân
thể hiện quan điểm, đóng góp ý kiến về các vấn đề văn hoá và nghệ thuật dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành tựu, chất lượng các sản phẩm báo chí về
văn hoá và nghệ thuật vẫn là điều đáng quan tâm. Không ít cơ quan báo chí chưa
nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác truyền thông về văn hoá và nghệ thuật
trong đời sống xã hội; nhiều nhà báo thiếu kỹ năng truyền thông về văn hoá - nghệ
thuật, dẫn đến kết quả là không ít sản phẩm về văn hóa và nghệ thuật chưa có sức
hấp dẫn, hiệu quả thông tin chưa cao.
Thực trạng đó đang đặt ra vai trò của các cơ sở đào tạo báo chí, trong đó có
Học viện Báo chí và Tuyên truyền về nhiệm vụ đào tạo kỹ năng tác nghiệp báo chí
về hoá và nghệ thuật.
Hiện nay, Viện Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền đang giảng
dạy học phần “Báo chí về văn hoá và nghệ thuật” cho bậc cử nhân. Tuy nhiên, đến
nay, vẫn chưa có giáo trình chính thức cho môn học này. Vì vậy, để có tài liệu
phục vụ nhiệm vụ đào tạo, đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng báo chí về văn
hoá và nghệ thuật trong thực tiễn, chúng tôi xin đăng ký thực hiện đề tài: “Báo chí
về văn hoá và nghệ thuật (Định hướng giáo trình)”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài Báo chí về văn hoá và nghệ thuật là đề tài liên ngành, vừa bao gồm tri
thức báo chí, với các vấn đề kỹ năng sáng tạo, tổ chức, quản lý sản xuất sản phẩm
báo chí về văn hoá và nghệ thuật, vừa bao gồm kiến thức về văn hoá, nghệ thuật.
Cho đến nay, tài liệu nghiên cứu trực tiếp về báo chí về văn hoá và nghệ
thuật chưa có. Để thực hiện đề tài này, tác giả tham khảo một số công trình nghiên
cứu về văn hoá - nghệ thuật về quản lý báo chí truyền thông, các tài liệu có liên
quan tới luật pháp và đạo đức báo chí truyền thông. Cụ thể:
- Tài liệu về văn hoá - nghệ thuật

4
Có rất nhiều tài liệu về văn hoá và nghệ thuật. Trong phạm vi đề tài, tác giả
chọn nghiên cứu một số tài liệu sau:
+ Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, Nxb. Giáo dục, H.1999.
Sách trình bày quan niệm văn hoá học, xác định đặc thù văn hoá Việt Nam. Trần
Ngọc Thêm cho rằng, “Từ “văn hoá” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hoá
được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hoá), lối sống (nếp
sống văn hoá); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn
(văn hoá Đông Sơn)… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hoá bao gồm tất cả, từ
những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao
động… Từ đó, ông nêu định nghĩa văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội”.
Trong đề tài, tác giả cũng xác định đặc trưng của văn hoá là tính hệ thống,
tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử; cấu trúc văn hoá gồm văn hoá vật chất, tinh
thần. Nếu xem xét đến giá trị nội tại của chủ thể, có văn hoá tổ chức đời sống tập
thể và văn hoá tổ chức đời sống xa nhân (liên quan đến đời sống riêng mỗi người
như tín ngưỡng, phong tục, giao tiếp, nghệ thuật. Cộng đồng chủ thể văn hoá tồn
tại trong quan hệ với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Do đó, cấu trúc
văn hoá còn chứa hai tiểu hệ liên quan đến thái độ của cộng đồng với hai loại môi
trường đó là văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hoá ứng xử với môi
trường xã hội (tr.16).
+ Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, GS, Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, in lần
thứ ba, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2001. Sách gồm 6 chương, trình bày
những nội dung về Văn hoá nhận thức, Văn hoá tổ chức cộng đồng: Đời sống tập
thể, Văn hoá tổ chức cộng đồng: Đời sống cá nhân; Văn hoá ứng xử với môi
trường tự nhiên và Văn hoá ứng xử với môi trường xã hội. Cuốn sách cung cấp
nhiều tri thức quý về văn hoá – nghệ thuật ở góc nhìn hệ thống – loại hình.
+ Nghệ thuật - Một loại văn hoá đặc biệt, Phùng Văn Hiển, Nxb. Văn hoá

5
Thông tin, H. 2002. Sách nêu quan niệm Văn hoá, Các loại văn hoá và loại văn hoá
- nghệ thuật, Đặc trưng chung của nghệ thuật - loại văn hoá đặc biệt, Phương pháp
nghiên cứu loại văn hoá đặc biệt. Theo tác giả, văn hoá được chia thành 3 loại lớn:
Văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá chính trị. Khi bàn đến tính chất và sức
mạnh của văn hoá - nghệ thuật là đặt chúng trong mối quan hệ giữa nghệ thuật và
chính trị, nghệ thuật và đạo đức, nghệ thuật và tôn giáo, nghệ thuật và khoa học.
Sự phong phú của nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu mang tính người phát triển
ngày càng phong phú. Nhưng, đến lượt mình, nghệ thuật là tổng hợp trong nó với
tư cách một hình thái ý thức, kết tinh những ước mơ cao đẹp của loài người, đánh
dấu tiến bộ xã hội. Nghệ thuật có 7 loại hình khác nhau, có vai trò bồi dưỡng
những mặt khác nhau của tâm hồn con người. Nó đem lại cho tâm hồn con người
nhiều mặt giá trị khác nhau: thông báo và dự báo; nhận thức và thanh lọc; thẩm mỹ
và giải trí; quan niệm nghệ thuật và giáo dục; giao tiếp và cải biến xã hội…
+ Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm của GS. Trần Quốc Vượng, Nxb.
Văn học, H., 2003 tập hợp 75 công trình nghiên cứu của tác giả, được bố cục theo
6 chủ đề chính, từ khái niệm - công cụ; không gian/thời gian văn hóa, con người
văn hóa đến các thành tố văn hóa… Có thể khẳng định, cuốn sách Văn hóa Việt
Nam - tìm tòi và suy ngẫm là một trong những công trình mang tính tổng hợp, “tập
đại thành” đối với những người làm công tác nghiên cứu văn hóa. Mỗi chương
sách thực sự là một khám phá chứa đựng những ý tưởng khoa học mới, độc đáo và
sâu sắc giúp gợi mở những hướng nghiên cứu mang tính liên ngành, đa ngành,
xuyên ngành cho văn hóa học hiện nay nói chung và cho các nhà nghiên cứu văn
hóa khi tiếp cận nghiên cứu văn hóa Việt Nam xưa - nay cả về nội dung lẫn
phương pháp tiếp cận.
+ Về văn hoá và văn học nghệ thuật (Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí
Phạm Văn Đồng) do Nxb. Văn học, H.2006 phát hành. Sách tập hợp những bài
viết về nhà văn hoá Phạm Văn Đồng. Sinh thời, nhà văn hoá Phạm Văn Đồng đặt
cho văn hoá một tầm quan trọng to lớn. Ông đã dành nhiều bài viết, bài nói về các
chiều cạnh văn hoá ở mọi lĩnh vực: công tác văn hoá, văn hoá của người tri thức xã

6
hội chủ nghĩa, công tác văn hoá quần chúng, tình hình cách mạng và nhiệm vụ văn
nghệ, văn hoá văn nghệ, văn hoá ngôn ngữ điện ảnh, văn hoá ngôn ngữ tiếng Việt,
văn hoá và hệ thống chính trị, văn hoá và nền kinh tế quốc dân… Như vậy, có thể
thấy, văn hoá bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Và văn hoá báo chí -
truyền thông chính là một bộ phận của văn hoá.
+ Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của tác giả
Nguyễn Chí Bền (Chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2010. Sách tập hợp 30
chuyên đề của nhiều tác giả. Các chuyên đề trong cuốn sách giúp cung cấp cho
người đọc những kiến thức cơ bản về Quan điểm, mục tiêu xây dựng và phát triển
văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Những nhiệm vụ trọng
tâm trong xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, Các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tư tưởng, đạo đức, lối sống ở Việt Nam và
tác động của bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Bản sắc văn hoá dưới góc nhìn
của các nhà văn hoá, Thông tin đại chúng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế…
+ Phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới của GS, TS. Đinh Xuân Dũng,
Nxb. Thời đại, H.2011. Sách giúp tác giả nhận biết kiến thức về Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Văn hoá, Vấn đề văn hoá, văn học, nghệ thuật trong các văn kiện Đại hội
XI của Đảng, Đổi mới và phát triển văn hoá trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; Về những giải pháp xử lý đúng mối quan hệ giữa đáp ứng
nhu cầu thông tin và định hướng tư tưởng trong hoạt động báo chí hiện nay…
+ Văn hoá Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Trần Thị
Kim Cúc, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2014. Sách trình bày các chiều cạnh của văn
hoá, như Quan điểm của C. Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin về văn hoá lãnh đạo
và quản lý, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá mới, Một số ý
kiến về vấn đề phát triển văn hoá thời kỳ hội nhập qua văn kiện Đại hội XI của
Đảng, Một số vấn đề thực tiễn xây dựng và phát triển văn hoá ở Việt Nam và thế
giới…

7
+ Văn hoá học và văn hoá Việt Nam do TS. Nguyễn Thị Hồng (chủ biên),
Nxb. Lao động, H., 2015. Sách trình bày Lịch sử hình thành của văn hoá Việt
Nam, bàn về văn hoá trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội, bàn về Giao lưu tiếp biến trong văn hoá Việt. Sách cũng làm rõ các đặc thù
văn hoá Việt Nam, bao gồm Văn hoá sinh hoạt vật chất, Lễ tết và lễ hội, Tín
ngưỡng và tôn giáo, Văn hoá gia đình - làng - nước. Sách cung cấp cho tác giả đề
tài một số tư liệu mang tính hệ thống, rõ ràng.
+ Văn hoá đại chúng với văn hoá Việt Nam hiện nay của PGS,TS. Nguyễn
Thanh Tuấn, Th.S Nguyễn Thị Loan Anh, Nxb. Văn hoá - Thông tin và Viện Văn
hoá, H.2015. Sách nêu Khái luận về văn hoá đại chúng ở Việt Nam hiện nay, Cơ
cấu của văn hoá đại chúng, Đặc điểm và vai trò của văn hoá đại chúng ở Việt Nam
hiện nay, Văn hoá dân gian và văn hoá hàn lâm với văn hoá đại chúng trong nền
văn hoá Việt Nam, Văn hoá đại chúng trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay.
Sách cũng trình bày một số nội dung về sự phát triển của văn hoá đại chúng ở Việt
Nam, một vài phương diện của văn hoá đại chúng tại một số nước và tham chiếu
cho Việt Nam cùng xu hướng và định hướng phát triển văn hoá đại chúng trong
nền văn hoá Việt Nam hiện nay… Các nội dung nêu trên là gợi ý cần thiết để tác
giả soi chiếu về đặc điểm và vai trò của văn hoá báo chí truyền thông, văn hoá báo
chí - truyền thông trong điều kiện hiện nay…
+ Văn hoá - nghệ thuật Việt Nam, Nguyễn Thị Mỹ Linh, Đề tài khoa học
cấp cơ sở, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, H. 2015. Đề tài trình bày các khái
niệm nghệ thuật và văn hoá - nghệ thuật, cấu trúc văn hoá - nghệ thuật, phân loại
văn hoá - nghệ thuật , chỉ rõ đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật, chức năng của văn
hoá - nghệ thuật . Theo mạch nghiên cứu đó, tác giả chia thành các loại nghệ thuật:
Nghệ thuật ngôn từ, Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật diễn xướng, Nghệ thuật tổng
hợp. Đồng thời, đề tài cũng đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển văn hoá -
nghệ thuật hiện nay. Đây là những tri thức phù hợp với phần nội dung nghiên cứu
về văn hoá - nghệ thuật cho tác giả của đề tài này.

+ Hệ giá trị văn hoá Việt Nam của PGS.TS. Ngô Đức Thịnh, Nxb. Tri thức,

8
H., 2019 tập trung bàn về nhiều nội dung, trong đó, tác giả chú trọng tham khảo
nội dung bàn về những giá trị văn hoá truyền thống và chuyển đổi giá trị trong đổi
mới và hội nhập, bảo tồn, làm giàu và phát huy hệ giá trị truyền thống trong đổi
mới và hội nhập.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và văn hoá là tập bài giảng của giảng
viên Trần Văn Bé (nguồn: https://tailieumienphi.vn/doc/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-
dao-duc-va-van-hoa-vp4xtq.html). Ngoài việc trình bày quan niệm về văn hoá của
Hồ Chí Minh, tác giả còn tổng lược quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất văn
hoá. Theo đó, văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Văn hoá phải
ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hoá phải tham gia thực hiện những
nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế; có nghĩa là kinh tế và
chính trị cũng phải có tính văn hoá. Sách cũng trình bày quan điểm về tính chất của
nền văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh: tính dân tộc, tính khoa học và tính đại
chúng.
+Nghệ thuật học, Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn
sách làm rõ nguồn gốc của nghệ thuật, các thành tựu nghệ tthuật trong đời sống
con người. Tác giả cho rằng, nghệ thuật ra đời là do nhu cầu biểu đạt tự do sáng
tạo của con người, thoả mãn nhu cầu tinh thần, nhu cầu của sự biểu hiện tự do –
không để ăn, để mặc, mà để làm đẹp – nghệ thuật ra đời từ đó.

Ngoài ra, để có thêm tri thức về văn hoá, văn hoá học, tác giả cũng tìm hiểu
thêm một số tài liệu: Di sản Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức của tác giả Trần
Văn Bính (Nxb. Thông tin và Truyền thông, H.2010); Cơ sở văn hoá Việt Nam của
nhà nghiên cứu văn hoá Trần Quốc Vượng; Văn hóa học của tác giả Đoàn Văn Chúc
(Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1997);...
Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo một số tài liệu nghiên cứu về nghệ thuật
như: Đào Duy Anh, (2005), Nghiên cứu văn hóa và ngữ văn, (tái bản), Nxb Giáo
dục, Hà Nội; Lại Nguyên Ân (Biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Phan Cảnh, (2003), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa-

9
Thông tin, Hà Nội; Hoài Thanh - Hoài Chân, (2003), Thi nhân Việt Nam, (tái bản),
Nxb Văn học, Hà Nội; Nhiều tác giả, (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội; Bùi Việt Thắng, (2000), Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết
và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, v.v. Tuy nhiên, tài liệu về báo
chí - truyền thông với văn hoá - nghệ thuật rất hiếm hoi, chỉ một vài đề tài tiếp cận
nghiên cứu, như: Nguyễn Thị Minh Thái, (2006), Phê bình tác phẩm nghệ thuật
trên báo chí, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội...
Như vậy:
Đã có rất nhiều tài liệu về văn hóa, nghệ thuật, cung cấp các kiến thức cơ
bản về văn hóa, nghệ thuật; trình bày văn hóa dân gian, văn hóa hàn lâm, văn hóa
đại chúng, văn hóa hiện đại; quá trình phát triển văn hóa qua các thời kỳ; đặc điểm,
vai trò của văn hóa và nghệ thuật. Nhiều tài liệu trình bày rõ, chi tiết về các loại
hình văn hóa, các loại hình nghệ thuật. Nhiều tài liệu giới thiệu các thành tựu văn
hóa, nghệ thuật; những xu hướng và định hướng phát triển văn hoá, nghệ thuật đại
chúng trong nền văn hoá, nghệ thuật Việt Nam hiện nay… Các nội dung nêu trên
cung cấp cho tác giả học liệu cần thiết để triển khai nhiệm vụ của đề tài.
- Tài liệu liên quan đến văn hoá, đạo đức, luật pháp báo chí truyền thông
+ Đạo đức nghề báo-Những vấn đề lý luận và thực tiễn, PGS.TS. Hoàng
Đình Cúc (Chủ biên), (2013), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sách tập trung
nghiên cứu phạm trù đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nghề báo: khái niệm đạo đức
báo chí, cấu trúc của đạo đức nghề báo; quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen -
V.I.Lênin về đạo đức nghề báo; Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo
chí, người làm báo và đạo đức nghề báo; đạo đức nghề báo của một số nước trên
thế giới; Thực trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam… Đây là tài liệu
quan trọng, giúp tác giả có thêm những cứ liệu cần thiết để xem xét mối quan hệ
giữa văn hoá báo chí - truyền thông với đạo đức nghề nghiệp người làm báo.
+ 100 bản Quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới, TS. Nguyễn Thị Trường
Giang, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2014. Sách trình bày Những nguyên tắc, tiêu
chuẩn chung trong các bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới, như: Tôn trọng

10
sự thật, bảo đảm tính chính xác, trung thực; đảm bảo tính công bằng, khách quan;
Tôn trọng quyền tự do ngôn luân, tự do báo chí; Bảo vệ giá trị và tính liêm chính
của nghề báo; Trách nhiệm xã hội; Bảo vệ quyền của trẻ em/vị thành niên và
những người dễ bị tổn thương; Tôn trọng sự riêng tư và phẩm giá con người; Tôn
trọng các giá trị chung và sự đa dạng văn hoá; Sử dụng các phương pháp trung
thực, phù hợp khi thu thập thông tin; Tôn trọng bản quyền, không đạo văn; Tách
biệt quảng cáo và bài báo; Đoàn kết với đồng nghiệp… 100 bản quy tắc đạo đức
nghề báo trên thế giới được tác giả biên dịch, giới thiệu thực sự là tư liệu quý cho
đề tài này.
+ Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo, Ladutina, Nxb.
Lý luận Chính trị, H., 2004. Cuốn sách khảo sát toàn diện các khía cạnh đạo đức
nghề nghiệp nhà báo trên phương diện hoạt động thực tiễn và đào tạo nhà báo. Đạo
đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí được thể hiện ở khả năng hoàn thành các
nhiệm vụ nghề nghiệp một cách chất lượng. Sự hình thành đạo đức nghề nghiệp
nhà báo phải trải qua một quá trình lâu dài, phức tạp, trù định sự phối hợp chặt chẽ
với môi trường nghề nghiệp. Nhưng đây là một mắt xích không thể thiếu trên con
đường tiến tới báo chí chuyên nghiệp. Khi nhà báo vượt qua được con đường này
thì cũng là lúc anh ta có được khả năng cảm nhận tiếng nói lương tri, điều khiển
được hành vi của mình trong những tình huống khá phức tạp, và do vậy, đạt được
hiệu quả cao trong hoạt động.
+ Báo chí - truyền thông hiện đại, Nguyễn Văn Dững, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2011. Sách dành một chương bàn về Văn hoá truyền thông trên báo
chí, trong đó, tác giả khẳng định, văn hoá truyền thông có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tác giả cũng bàn về tác động của văn hoá tới
hiệu quả xã hội của báo chí, Vai trò của văn hoá đối với chủ thể truyền thông, với
nhận xét: “Nhà báo, nhà truyền thông trước hết là nhà văn hoá. Ở họ cần có nền
tảng kiến thức phong phú, đa dạng, đủ bề rộng và có chiều sâu, độ dày về lĩnh vực
được quan tâm theo dõi”. Từ đó, tác giả nêu vấn đề phải xây dựng môi trường văn
hoá ở ngay các cơ quan công sở, toà soạn theo chuẩn mực chung và những yêu cầu

11
riêng đặc thù ở từng đơn vị cụ thể. Mỗi ứng xử văn hoá trên báo chí có vai trò rất
quan trọng trong quá trình sản xuất, tiêu dùng và truyền bá các giá trị văn hoá.
+ Văn hoá truyền thông trong thời kỳ hội nhập của Hội Nhà báo Việt Nam,
Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (2013), Nxb. Thông tin và Truyền
thông. Sách là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, trình bày mối quan hệ qua lại
giữa truyền thông đại chúng với nền văn hoá Việt Nam đương đại, trong bối cảnh
văn hoá truyền thông đại chúng và văn hoá nước nhà ngày càng được quan tâm
nghiên cứu và đánh giá. Nổi bật là các nghiên cứu Nâng cao tính văn hoá của đội
ngũ người làm báo trong thời kỳ hội nhập quốc tế; Văn hoá truyền thông và truyền
thông có văn hoá, Báo chí và văn hoá, Bàn về hàm lượng văn và tinh thần nhân
văn của báo chí hiện nay, Văn hoá truyền thông trong môi trường Internet, Một
góc nhìn về tính văn hoá của hệ thống truyền thông; Hình thái văn hoá và quyền
lực văn hoá của truyền thông hội tụ; Văn hoá ứng xử với truyền thông của công
chúng truyền thông hiện đại… Sách là tài liệu tham khảo cần thiết cho đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Đề tài được triển khai dưới hình thức định hướng giáo trình cho học phần
“Báo chí về văn hoá và nghệ thuật” giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành báo chí.
Do vậy, mục đích chính của đề tài là trang bị cho người học những kiến thức quan
trọng về văn hoá và nghệ thuật, xây dựng khung lý thuyết về báo chí về văn hoá và
nghệ thuật, định hình kỹ năng sáng tạo sản phẩm và kỹ năng tổ chức sản phẩm
truyền thông về văn hoá và nghệ thuật cho nhà báo và cơ quan báo chí.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Cung cấp những kiến thức cơ bản về báo chí về văn hoá và nghệ thuật, tác
động của văn hoá và nghệ thuật tới hoạt động báo chí
+ Làm rõ bản chất mối quan hệ giữa báo chí với văn hoá và nghệ thuật
+ Xây dựng khung kiến thức tổng quát về sản phẩm báo chí về văn hóa và
nghệ thuật, tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật.

12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Báo chí về văn hoá và nghệ thuật (Định hướng
giáo trình)
- Phạm vi nghiên cứu: Từ tháng 1.2022 - 9.2022.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện dựa trên hệ quan điểm của Chủ nghĩa Mác, Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước về báo chí về
văn hoá và nghệ thuật, về định hướng truyền thông về văn hoá và nghệ thuật; đồng
thời, dựa trên những nghiên cứu khoa học về báo chí về văn hoá và nghệ thuật của
các nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu liên quan tới vấn
đề báo chí - truyền thông với văn hoá - nghệ thuật nhằm tìm kiến dữ liệu, luận
điểm phù hợp phục vụ cho việc xây dựng nội dung đề tài.
- Phương pháp quan sát khoa học: Quan sát các hành vi tác nghiệp của nhà
báo, thực tiễn tổ chức sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật của cơ quan báo
chí, từ đó, đúc rút thành quy luật, kinh nghiệm sáng tạo, sản xuất sản phẩm về văn
hoá và nghệ thuật nói chung.
- Phương pháp phân tích nội dung: Phương pháp phân tích nội dung văn bản
sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật sẽ giúp tác giả nhận diện, phân tích,
đánh giá kỹ năng tác nghiệp và phương thức tổ chức sản phẩm báo chí về văn hoá
và nghệ thuật, từ đó, hình thành các luận điểm phù hợp, làm sáng rõ vấn đề nghiên
cứu. Phương pháp này được áp dụng “gián tiếp”, các cách thức lựa chọn, phân tích
nội dung tác phẩm cụ thể không được trình bày trong đề tài.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài xây dựng một hệ thống lý thuyết tương đối đầy đủ về vấn đề báo chí
về văn hoá và nghệ thuật, lựa chọn và giới thiệu cho sinh viên những tri thức cơ
bản về văn hoá và nghệ thuật, phân tích toàn diện đóng góp của văn hoá và nghệ

13
thuật đối với hoạt động báo chí, đồng thời, cho người học thấy rõ sự tác động theo
chiều tích cực và tiêu cực của báo chí đối với văn hoá và nghệ thuật. Cũng trong đề
tài định hướng giáo trình này, sinh viên được tri nhận khung lý thuyết cơ bản về tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
-Ý nghĩa lý luận: Trên lĩnh vực lý luận, đề tài bổ sung hệ thống lý thuyết về
báo chí với văn hoá và nghệ thuật, xác lập hệ thống kiến thức tương đối toàn diện
về văn hoá và nghệ thuật, về vai trò, tác động của báo chí với văn hoá và nghệ
thuật và ngược lại, về nội dung, phương thức tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về
văn hoá và nghệ thuật.

-Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là học liệu tham khảo cần thiết trong công tác
giảng dạy, học tập, nghiên cứu môn học Báo chí về văn hoá và nghệ thuật cho sinh
viên đại học, học viên sau đại học, các giảng viên báo chí truyền thông; đồng thời,
là tài liệu tham khảo cho các nhà báo, nhà truyền thông có quan tâm đến vấn đề
nghiên cứu tại các cơ quan báo chí - truyền thông nói chung.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành 3
chương:
Chương 1: Tổng quan báo chí về văn hoá và nghệ thuật
Chương 2: Sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật
Chương 3: Tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật

II. Đề cương chi tiết môn học (Đối với đề tài là ĐHGT)

14
Chương 1
Tổng quan báo chí về văn hoá và nghệ thuật

1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài


1.1.1. Văn hoá
1.1.2. Nghệ thuật
1.1.3. Văn hoá và nghệ thuật
1.1.4. Báo chí
1.1.5. Báo chí về văn hoá và nghệ thuật
1.2. Kiến thức cơ bản về văn hoá và nghệ thuật
1.2.1. Đặc trưng của văn hoá và nghệ thuật
1.2.2. Một số thành tố và loại hình văn hoá, nghệ thuật cơ bản
1.3. Tác động của báo chí đối với văn hoá và nghệ thuật và ngược lại
1.3.1. Tác động của báo chí đối với văn hoá và nghệ thuật
1.3.1.1 Báo chí phản ánh trình độ văn hoá và nghệ thuật
1.3.1.2. Báo chí tiêu dùng văn hoá và nghệ thuật
1.3.1.3. Báo chí sáng tạo văn hoá và nghệ thuật
1.3.1.4. Báo chí định hướng khuynh hướng sáng tác và khuynh hướng
thưởng thức văn hoá và nghệ thuật của công chúng
1.3.2. Tác động của văn hoá và nghệ thuật đối với báo chí
1.3.2.1. Văn hoá và nghệ thuật là môi trường diễn ra hoạt động báo chí
1.3.2.2. Văn hoá và nghệ thuật là chất liệu cho báo chí
1.3.3.3. Văn hoá và nghệ thuật là nhân tố kiến tạo bản sắc của cơ quan báo
chí
*Câu hỏi lý thuyết, thảo luận, thực hành

15
Chương 2
Tác phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật
II.1. Đối tượng công chúng tác phẩm báo chí về văn hóa và nghệ thuật
II.1.1.Quan niệm về công chúng báo chí về văn hóa và nghệ thuật
Công chúng báo chí - truyền thông là đối tượng được báo chí - truyền thông
hướng tới tác động, hướng tới phục vụ, cũng là đối tác, khách hàng, có tác động,
ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển của cơ quan báo chí truyền thông. PGS,TS.
Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Trong địa hạt báo chí truyền thông, công chúng là
những người, cộng đồng người trực tiếp hay gián tiếp tiếp nhận thông điệp - phát
ngôn hay các tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí nói chung”1.
Tác giả Trần Bá Dung nhận định: “Công chúng báo chí là những nhóm lớn
dân cư, không đồng nhất trong xã hội, được báo chí hướng vào để tác động hoặc
chịu ảnh hưởng, tác động của báo chí và có tác động trở lại, giám sát, đánh giá,
quyết định hiệu quả hoạt động của cơ quan báo chí”2.
Như vậy, công chúng là quần thể dân cư phức hợp, không phân biệt giai cấp,
giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, miền văn hoá... Họ có những mối
quan tâm, sở thích, thói quen, nhu cầu thông tin, điều kiện tiếp nhận sản phẩm
truyền thông hoặc là giống nhau, hoặc là khác biệt, thậm chí mâu thuẫn. Họ vừa
“nặc danh”, “ẩn danh”, lại vừa “hữu danh”, “hữu hình”. Đứng dưới tiêu chí về mức
độ tác động, ảnh hưởng đối với cơ quan báo chí truyền thông, công chúng vừa là
khách hàng, vừa là đối tác, vừa là người chịu dẫn dắt, vừa là người dẫn dắt báo chí
truyền thông, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của cơ quan báo chí…
Tóm lại, công chúng báo chí là quần thể rộng lớn những người tiếp nhận
sản phẩm báo chí, hoặc được báo chí hướng tới để tác động, gây ảnh hưởng. Ở
bình diện giá trị, công chúng báo chí là khách hàng, đối tác, người đồng hành tin

1
PGS.TS. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở lý luận Báo chí, Nxb. Lao động, H, tr.175.
2
Trần Bá Dung (2001), “Tác động của xu thế Phi đại chúng hóa đối với truyền thông đại chúng, Báo chí - Những
điểm nhìn từ thực tiễn”, Tập 2, Nxb. Văn hóa thông tin, H., tr.29.

16
cậy của cơ quan báo chí, góp phần khẳng định uy tín, thương hiệu, vị thế xã hội
của cơ quan, quyết định cách thức phát triển của các sản phẩm truyền thông.
Trên cơ sở đó, công chúng báo chí về văn hóa - nghệ thuật là những người
tiếp nhận sản phẩm báo chí về văn hóa - nghệ thuật, hoặc là những người được các
cơ quan báo chí, các sản phẩm báo chí về văn hóa - nghệ thuật hướng tới để tác
động, gây ảnh hưởng. Đó đồng thời cũng là khách hàng, đối tác, là người khẳng
định chất lượng, thương hiệu, uy tín, tầm ảnh hưởng của các sản phẩm báo chí về
văn hóa - nghệ thuật.
4.1.2. Đặc điểm công chúng báo chí về văn hóa - nghệ thuật
Trong môi trường truyền thông hiện đại, trong bối cảnh chuyển đổi số hiện
nay, công chúng về văn hóa - nghệ thuật cũng có những đặc điểm của công chúng
nói chung như sau:
- Là quần thể dân cư, không phân biệt giai cấp, giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp, địa vị xã hội, miền văn hoá (tính đại chúng), gồm nhiều nhóm, nhiều giới,
nhiều tầng lớp xã hội khác nhau với những đặc trưng đa dạng, quyền lợi, mối quan
tâm, sở thích, thói quen nhiều khi mâu thuẫn nhau.
- Là những cá nhân “nặc danh”, “ẩn danh”, “vừa vô hình, vừa hữu hình”.
- Là công chúng vừa truyền thống, vừa hiện đại. Công chúng hiện đại là sản
phẩm của báo chí số, báo chí thông minh. Họ có điều kiện tham gia sâu vào quá
trình truyền thông do được tạo điều kiện về kỹ thuật, công nghệ (tương tác, phản
hồi, chia sẻ thông tin, định hướng thông tin…). Họ đóng vai trò chủ động hơn
trong tiếp nhận thông tin, trở thành người truyền tin nếu muốn.
Công chúng hiện đại am hiểu công nghệ, thích ứng nhanh với sự thay đổi
của công nghệ truyền thông.
Trong khi đó, công chúng truyền thống để chỉ bộ phận công chúng trung
thành với lối tiếp nhận thông tin bị động, ít sử dụng và tận dụng thiết bị công nghệ
hiện đại để tiếp cận báo chí hay thể hiện quyền chủ động của mình.
Bên cạnh những đặc điểm của công chúng báo chí nói chung, công chúng
báo chí về văn hóa - nghệ thuật nói riêng có những đặc điểm sau:

17
- Là những người quan tâm đến văn hóa dân tộc
- Là những người yêu nghệ thuật, có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trước
cái đẹp.
4.1.3. Phân loại công chúng báo chí về văn hóa - nghệ thuật
Căn cứ vào cách thức tiếp nhận sản phẩm báo chí, có:
- Công chúng trực tiếp, công chúng gián tiếp (Công chúng đích và công
chúng liên quan). Công chúng trực tiếp là người trực tiếp đọc, nghe, xem, sản
phẩm báo chí truyền thông; công chúng gián tiếp là những người tiếp nhận thông
tin thông qua trung gian.
Căn cứ vào cấp độ tiếp nhận sản phẩm báo chí, có:
- Công chúng thực tế và công chúng tiềm năng. Công chúng thực tế là
những người đang tiếp nhận sản phẩm. Công chúng tiềm năng là công chúng ở thì
“tương lai”.
- Công chúng tiếp nhận thường xuyên/thỉnh thoảng/hiếm khi
Căn cứ vào giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, vùng miền… của người tiếp
nhận, có:
- Công chúng nam giới, công chúng nữ giới…
- Công chúng nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, người trung niên, người cao
tuổi…
- Công chúng miền núi, nông thôn, thành thị, biên giới hải đảo…
- Công chúng nông dân, công nhân, công chúng trí thức
Căn cứ vào mức độ phản hồi thông tin, có:
- Công chúng tiếp nhận thụ động và công chúng tiếp nhận chủ động
Căn cứ vào phạm vi tiếp nhận thông tin, có:
- Công chúng cá nhân; nhóm công chúng, đại chúng…
- Công chúng địa phương; công chúng toàn quốc; công chúng toàn cầu
Căn cứ vào điều kiện kinh tế của người tiếp nhận, có:
- Công chúng giàu/công chúng trung lưu/công chúng nghèo…

18
Căn cứ vào tính chất thông tin chi phối đặc thù tiếp nhận từng đối tượng
công chúng, có:
- Công chúng phổ thông/công chúng chuyên biệt (các tờ báo/chương trình
phát thanh, truyền hình chuyên biệt).
Căn cứ vào trình độ nhận thức thẩm mỹ, có thể tạm nói đến hai loại công
chúng nghệ thuật:
- Công chúng tinh hoa: Công chúng tinh hoa là những người am hiểu văn
hóa, nghệ thuật, họ được (hoặc tự) trang bị đầy đủ kiến thức để có thể tiếp cận tác
phẩm văn hóa, nghệ thuật, nắm được nội dung, ý nghĩa, giá trị thẩm mỹ của nó một
cách khá chính xác. 
Họ có khả năng phát hiện cái mới ở nó và cũng có khả năng phê phán nó, họ
nhìn thấy quá trình sáng tạo âm thầm của tác giả và có thể đặt yêu cầu với tác giả
cho những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật tiếp theo...
- Công chúng phổ thông: Là những người đến với văn hóa, nghệ thuật hầu
như theo nhu cầu giải trí thuần túy. Họ có thể cũng có sự phẩm bình đánh giá tác
phẩm báo chí văn hóa, nghệ thuật, thẩm định trình độ của nhà báo và cơ quan báo
chí, song cơ bản thì đó là sự phẩm bình đánh giá thiên về cảm tính và theo "lẽ phải
thông thường" (chữ của Engels).
Chính bởi đối tượng công chúng đa dạng như vậy, nên khi hướng tới tác
động, nhà báo văn hóa, nghệ thuật phải cố gắng lựa chọn cho mình đối tượng công
chúng phục vụ đặc thù, phù hợp với tôn chỉ mục đích, với điều kiện, khả năng. Đặc
biệt, chú trọng đến đặc thù thị hiếu, nhu cầu thẩm mỹ và trình độ tiếp nhận của
công chúng để có hướng sáng tạo phù hợp.
II.2. Đối tượng phản ánh của tác phẩm báo chí về văn hóa và nghệ thuật
Đối tượng phản ánh của tác phẩm báo chí là những sự việc, sự kiện, tình
huống, hoàn cảnh mới nảy sinh, mới xuất hiện, tiêu biểu cho sự vận động phát triển
không ngừng của cuộc sống; là những vấn đề mới nảy sinh cần được thông tin,
phản ánh, giải thích, đánh giá để định hướng dư luận. Đối tượng phản ánh của báo

19
chí còn là đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có liên
quan đến các ngành, lĩnh vực trong đời sống.
Theo đó, đối tượng phản ánh của tác phẩm báo chí về văn hóa và nghệ thuật
là những sự kiện, sự việc, tình huống, hoàn cảnh, tập thể, cá nhân… liên quan đến
và hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Ngoài ra, là hệ thống đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật cần được thông tin, tuyên truyền tới đông đảo công chúng xã hội.
Đối tượng phản ánh của báo chí về văn hóa nghệ thuật, tựu trung bao gồm:
Con người: Cái mà báo chí quan tâm không chỉ là con người xét về phương
diện sinh học, mà đó là tư cách của con người, là các mối quan hệ của con người,
là hoạt động của con người. Báo chí quan tâm đến phương diện xã hội, qua việc
đặt con người trong một bối cảnh xã hội, thông qua những mối quan hệ để khám
phá bản chất tâm hồn con người cũng như phát hiện ra những vấn đề mang tính
khái quát, cấp thiết về con người, về cuộc đời.
Khi phản ánh khía cạnh con người trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, báo
chí thường quan tâm đến:
- Các nhà văn hóa, các chuyên gia văn hóa
- Người dân với những thái độ, hành vi ứng xử liên quan đến văn hóa
-

-
II.3. Một số kỹ năng sáng tạo cơ bản của nhà báo về văn hóa và nghệ
thuật
2.3.1. Tìm kiếm, phát hiện chủ đề
- Đề tài báo chí là phạm vi hiện thực hàm chứa sự kiện, vấn đề được nhà báo
tiếp cận và phản ánh trong tác phẩm báo chí về văn hóa và nghệ thuật.
- Chủ đề tác phẩm báo chí là một vấn đề, sự kiện, sự việc, tình huống, hoàn
cảnh, nhân vật… được phản ánh trong tác phẩm. Mỗi đề tài có nhiều chủ đề. Tất cả
những chi tiết trong tác phẩm đều phải có nhiệm vụ làm nổi bật chủ đề đó.
Chủ đề tương đương với đại ý của bài viết.
20
Ví dụ: Đề tài: Xòe Thái -> Chủ đề: Xòe Thái vào danh sách văn hóa phi vật
thể của nhân loại; Lễ Hội xòe Thái với các trò chơi truyền thống…
Đề tài: Kiến trúc cổ -> Chủ đề: Giới thiệu về kiến trúc bát giác thời Lý tại
Hoàng Thành Thăng Long.
Nguồn đề tài cho nhà báo lúc nào cũng đầy ắp. Bởi vì, đề tài của nhà báo
chính là cuộc sống. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, với những chuyển động sôi
động từng phút, từng giây. Nhưng nhà báo chỉ là một cá thể nhỏ bé trong vũ trụ
bao la, vì vậy, cá nhân mỗi nhà báo không thể tự phát hiện đề tài nếu không có sự
hỗ trợ của các nguồn tìm kiếm. Nguồn tìm kiếm của nhà báo có thể là:
- Các văn bản về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ, các bộ, ngành và các cơ quan, đơn vị ...
- Mạng lưới cộng tác viên, thông tin viên
- Các cuộc họp, họp báo
- Báo chí, internet
- Thư bạn đọc
- Dư luận quần chúng
- Các cuộc hỏi chuyện, trao đổi với mọi người hàng ngày
- Quan sát của phóng viên
- Sự trải nghiệm, dự đoán… của phóng viên
Để có được chủ đề phù hợp, thu hút sự quan tâm của công chúng, nhà báo cần
căn cứ vào tôn chỉ mục đích của tờ báo, vào nhu cầu tiếp nhận thông tin của công
chúng đích của chương trình, của chuyên trang, chuyên mục. Tóm lại:
- Chủ đề phải mới, nóng. Báo chí luôn hướng tới những thông tin mới,
nóng, thời sự. Công chúng không chấp nhận chủ đề cũ, nhất là trong bối cảnh họ
có cơ hội tiếp nhận thông tin từ hàng trăm tờ báo khác nhau, thậm chí, tiếp nhận
từ mạng xã hội.
- Chủ đề có ý nghĩa xã hội, ảnh hưởng tốt, tích cực đến đời sống con người,
đến đời sống văn hóa nghệ thuật, góp phần thúc đẩy các tiến trình xã hội phát triển
theo chiều hướng tích cực.

21
- Chủ đề hấp dẫn, được công chúng quan tâm. Nhà báo phải luôn đặt câu hỏi:
công chúng có quan tâm đến chủ đề này hay không, chủ đề này có liên quan đến
lợi ích công chúng; có gần gũi về địa lý, không gian, thời gian, hay có ý nghĩa, giá
trị đối với cộng đồng hay không. Ví dụ, tin về giải trí (âm nhạc, điện ảnh, thời
trang, làm đẹp...), hay tin tức về nghệ thuật thường được giới trẻ đón nhận nhiều
hơn là tin tức giới thiệu về các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể Việt Nam và thế
giới. Ngược lại, thông tin về kiến trúc, điêu khắc lại là mối quan tâm hàng đầu của
giới kiến trúc sư, nhà xây dựng, họa sĩ… Tùy từng tờ báo, cần tập trung vùng chủ
đề khác nhau.
- Phù hợp với loại hình báo chí và tôn chỉ hoạt động của tờ báo. Mỗi loại hình
báo chí có thế mạnh riêng trong chuyển tải thông tin văn hóa và nghệ thuật. Với
các tờ báo mạng, hay phát thanh, truyền hình, cần tận dụng những chủ đề mang
tính thời sự, mới, nóng. Ngược lại, với các tờ báo in, có thể tập trung vào vấn đề
thuộc văn hóa, nghệ thuật đang tồn tại mâu thuẫn, câu hỏi cần giải đáp, để thực
hiện các phân tích, bình luận, phóng sự, điều tra…, theo định hướng thông tin sâu
sắc, có trọng tâm, trọng điểm.
Sau khi lựa chọn được chủ đề, nhà báo còn phải xác định được góc độ (góc
nhìn) để phản ánh đúng chiều cạnh thông tin thực sự phù hợp với nhu cầu công
chúng đích của tờ báo, và thể hiện được đúng đắn nhất ý đồ thông tin, thông điệp
mà nhà báo, tờ báo muốn gửi đến công chúng.
Cùng một sự kiện, vấn đề có nhiều hướng tiếp cận, phản ánh khác nhau. Ví
dụ, cũng về di sản đờn ca tài tử Nam Bộ , mỗi tờ báo, nhà báo có thể xác định các
góc tiếp cận khác nhau:
+ Giá trị của đờn ca tài tử Nam Bộ
+ Giải pháp bảo tồn, phát triển, truyền nghề đờn ca tài tử trong bối cảnh mới
+ Hoạt động đờn ca tài tử trên các vùng quê Nam Bộ
+ Các gia đình truyền nghề…
Hay cùng về chủ đề lễ hội chùa Hương, các báo sẽ khai thác các góc độ khác
nhau:

22
+ Văn hóa ứng xử tại lễ hội chùa Hương
+ Tường thuật không khí lễ hội
+ Nét đẹp văn hóa chùa Hương xưa
+ Nét đẹp văn hóa chùa Hương nay…
Việc xác định góc độ tiếp cận và phản ánh một sự kiện, vấn đề cụ thể đòi hỏi sự
sáng tạo của phóng viên. Sự phản ánh theo những góc độ khác nhau về một sự kiện,
vấn đề sẽ cho ra đời những thông tin có ý nghĩa và giá trị khác nhau.
Góc độ phản ánh thể hiện tình cảm, lý trí, quan điểm và bản lĩnh của phóng
viên trước hiện thực khách quan. Bài báo sẽ ngắn gọn, hấp dẫn nếu phóng viên tập
trung mài sắc một góc độ chủ yếu đã lựa chọn.
2.3.2. Dự kiến thể loại
Trong quá trình thai nghén tác phẩm báo chí về văn hóa và nghệ thuật, việc dự kiến
thể loại là cần thiết. Nó giúp phóng viên có định hướng cho các giai đoạn sáng tạo tiếp
theo, trước hết là định hướng nội dung thông tin, tư liệu cần phải thu thập; sau nữa là
định hình phong cách viết.
Ví dụ: cùng với một vấn đề liên quan đến văn hóa, nghệ thuật như Giá trị tiêu biểu
của một số loại hình diễn xướng dân gian ở Bắc Bộ, nhà báo có thể sử dụng thể loại bài
phản ánh, phỏng vấn, thậm chí là ký, phóng sự… Nếu là bài phản ánh, có thể nghiên cứu
tài liệu mà không cần phỏng vấn nhân vật, nhân chứng, cũng được chấp nhận. Tuy nhiên,
nếu là bài phỏng vấn, thì phóng viên phải tuân thủ các bước của bài phỏng vấn, bao gồm
lựa chọn nhân vật, xây dựng đề cương câu hỏi, liên hệ với nhân vật, tiến hành phỏng vấn,
biên tập, gửi cho nhân vật đọc trước khi in/phát sóng… Để có phóng sự tốt, phóng viên
phải chuẩn bị tinh thần để điều tra, tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: thực trạng mai một
của một số loại hình diễn xướng dân gian ở Bắc Bộ hiện nay như thế nào; nguyên nhân vì
sao? Vai trò của cơ quan quản lý văn hóa nghệ thuật thế nào; đồng thời, phải lựa chọn
được những nhân vật, nhân chứng điển hình (là nghệ nhân diễn xướng) đang chịu ảnh
hưởng hoặc có những trải nghiệm thực tế rất sâu sắc với loại hình nghệ thuật này.
Khi thâm nhập thực tế thu thập tư liệu hoặc khi viết, người phóng viên xét thấy
thể loại mình dự kiến không phù hợp thì có thể thay đổi.
Về hệ thống thể loại, để chuyển tải thông tin văn hóa và nghệ thuật, có thể sử dụng
hệ thống thể loại như sau:

23
Loại thể thông Loại thể chính Loại thể thông tấn Loại thể báo chí sáng
tấn báo chí luận báo chí chính luận - nghệ tạo
thuật

- Gồm: Tin, - Gồm: Bình luận, -Gồm: Bút ký, Ký sự, Gồm:
Tường thuật, Xã luận, Chuyên Ký chân dung, Thư -Data journalism
Phỏng vấn, Ghi luận, Phiếm luận, phóng viên, Sổ tay -Mega story
nhanh, Bài báo, Nhàn đàm, Hài phóng viên... -Inforgraphics
Phóng sự thời đàm... -Long form
sự, Điều tra... - Lens
-News games…

Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị do Ban biên tập phân công, hoặc căn cứ vào thực
tiễn thông tin, nhà báo lựa chọn thể loại phù hợp.
2.3.3. Thu thập thông tin (tư liệu)
Hoạt động thu thập tư liệu của phóng viên là công việc tìm kiếm, khai thác, lựa
chọn thông tin, chi tiết để phục vụ cho việc sáng tạo phẩm về văn hóa và nghệ thuật.
Chi tiết là những bộ phận nhỏ nhất của sự kiện. Chi tiết có thể là một hành vi, một
cử chỉ, một lời nói của con người, một sự vật hay một trạng thái cụ thể của hoàn cảnh
diễn ra sự kiện…
Nhà báo phản ánh sự kiện thông qua các chi tiết. Không có chi tiết sẽ không có sự
kiện. Không có sự kiện sẽ không có tác phẩm báo chí. Nếu ví một tác phẩm báo chí như
ngôi nhà thì chi tiết chính là những viên gạch làm nên ngôi nhà ấy. Đề có được tư liệu tốt,
nhà báo phải thực hiện các yêu cầu:
- Hình thành sơ đồ ý tưởng (ý đồ triển khai chủ đề): Những nội dung chính gì sẽ
triển khai trong bài viết?
Lưu ý: Sơ đồ ý tưởng ban đầu có thể được giữ nguyên hoặc được thay đổi cho phù
hợp sau khi nhà báo tiến hành khai thác thông tin, tư liệu.
- Sau khi có sơ đồ ý tưởng, phóng viên sẽ dựa vào để thu thập tư liệu, biết mình cần
thu thập những thông tin, tư liệu gì ? ở đâu? từ ai ?…

24
Tuỳ từng điều kiện cụ thể (thời gian, hoàn cảnh cho phép, qui mô và mức độ quan
trọng của sự kiện, hình thức thông tin…) nội dung tư liệu thu thập sẽ khác nhau.
2.3.3.1. Các bước thu thập tư liệu:
Trừ những sự kiện văn hóa, nghệ thuật xảy ra đột xuất (nhà báo phải đến hiện
trường ngay), và trừ khi viết những tin công báo, còn lại, thông thường, các bước thu
thập tư liệu diễn ra theo trình tự sau:
+ Bước 1: Bắt đầu bằng việc đọc tư liệu lưu trữ (sách, báo...). Chỉ đọc những tài liệu
có liên quan trực tiếp đến chủ đề mình dự kiến. Nhiều khi việc đọc lại giúp nhà báo phát hiện
chủ đề mới phù hợp hơn và thay đổi chủ đề ban đầu.
Ngoài ra, có thể nghiên cứu thêm tư liệu video, audio trên mạng Internet, trên ti vi,
đài... nếu có, để tìm kiếm thêm thông tin trước khi xuống hiện trường.
+ Bước 2: Đến nơi có sự kiện xảy ra (đi thực tế)
Nhà báo phải gắn với thực tế. Thực tế là chất dinh dưỡng của tin tức. Tin luôn phải
tươi mới vì thực tế luôn sống động và thay đổi. Khi đi thực tế, cần chú ý chuẩn bị đầy đủ
phương tiện sổ tay, bút, máy ghi âm, ghi hình, pin, điện thoại và các thiết bị cần thiết
khác phục vụ việc lấy tư liệu; tận dụng kỹ năng phỏng vấn, quan sát, thậm chí là kỹ năng
nhập vai, để lấy thông tin.
Phóng viên không nên phụ thuộc hoàn toàn vào máy ghi âm, ghi hình. Nên ghi chép
vào sổ những chi tiết quan trọng, những cảm xúc tức thời, những câu nói hay, những
đoạn văn miêu tả hiện trường nhờ quan sát mà có. Nếu không ghi chép kịp tại hiện
trường, về nhà, cần ghi chép lại ngay.
+ Bước 3: Kiểm định, phối kiểm thông tin
Phóng viên luôn phải kiểm chứng, đối chiếu thông tin, tư liệu từ nhiều nguồn khác
nhau. “Người đưa tin giỏi, phải trở thành một chuyên gia về chứng cứ, là những nhà
quan sát giỏi, có nghệ thuật hoài nghi, dám đặt vấn đề và kiểm tra vấn đề (Line Ross)”.
+ Bước 4: Chọn lọc, xử lý thông tin (tư liệu)
Sau quá trình khai thác, phóng viên đã có trong hồ sơ thông tin cá nhân rất nhiều tư
liệu “thô”. Nhưng không phải bất cứ tư liệu nào cũng được sử dụng, vì không gian
chương trình hay diện tích mặt báo và thời gian tiếp nhận của công chúng đều có hạn. Do
đó, phóng viên chỉ được phép lựa chọn những chi tiết “đắt”, gạn lọc những tư liệu theo
yêu cầu của tác phẩm và đặc trưng của mỗi loại hình báo chí.
2.3.3.2. Các phương pháp khai thác thông tin
25
Trong hoạt động tác nghiệp của phóng viên, có ba phương pháp khai thác thông tin
tư liệu cơ bản: phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn và phương pháp nghiên
cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát
Trong báo chí, quan sát cần phải được hiểu là tổng hợp của các hoạt động xem, nhìn
và thấy. Xem và nhìn, trong quan sát của nhà báo, là hoạt động của nhãn quan, là quan sát
cảm tính. Thấy là tiếp cận, là hiểu được chiều sâu, bản chất của sự vật, hiện tượng, mang
tính tư duy, có thể được xem là quan sát lý tính. Sự kết hợp của quan sát cảm tính và
quan sát lý tính là yêu cầu cần đạt tới của bất kỳ phóng viên nào.
Như vậy, quan sát là khả năng cảm giác, tri giác được thực tiễn của nhà báo nhờ
việc huy động tổng thể các giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, khướu giác và vị
giác.
+ Đối tượng quan sát
Đối tượng quan sát trong hoạt động tác nghiệp của nhà báo phụ thuộc vào đối tượng
phản ánh của tác phẩm: phản ánh quang cảnh, hiện trạng; phản ánh chân dung nhân vật;
phản ánh sự kiện, sự việc; phản ánh vấn đề... Do đó, trong thực tế, nhà báo phải quan sát
những đối tượng sau đây:
 Quan sát quang cảnh, hiện trạng
 Quan sát con người
 Quan sát đồ vật...
+ Các loại quan sát chính:
 Căn cứ vào mức độ tham gia của phóng viên vào sự kiện, có:
 Quan sát trong cuộc (quan sát tham dự): Là phương pháp quan sát mà phóng
viên gần như hóa thân thành một nhân vật của sự kiện, sự việc; là nhân chứng của sự
kiện, nhận biết từng dấu hiệu nhỏ nhất, từng chi tiết của sự kiện.
 Quan sát ngoài cuộc (quan sát không tham dự): Là cách phóng viên xuống cơ
sở, hiện trường để quan sát lấy tư liệu hoặc bổ sung tư liệu cho bài viết. Đây là cách thức
phổ biến.
 Căn cứ vào thời gian quan sát của phóng viên, có:
 Quan sát liên tục (quan sát cả quá trình): Quan sát quá trình là hoạt động quan sát
cả quá trình diễn biến của sự kiện nhằm nắm bắt được mọi chi tiết của sự kiện từ đầu đến

26
cuối. Tuy nhiên, trừ phi tác nghiệp cho thể loại tường thuật trực tiếp, nhà báo không thể
bê nguyên các chi tiết vào bài viết, vì rất dài. Chỉ nên chú ý những thời điểm then chốt,
hành động then chốt, và do đó, gạn lọc lấy những chi tiết then chốt.
Ví dụ: Đối với những sự kiện trọng đại như: Diễu binh kỷ niệm ngày quốc khánh
2/9 ; Khai mạc Đại hội Đảng ; Khai mạc kỳ họp Quốc hội ; Khánh thành tượng đài, công
trình xây dựng tầm cỡ quốc gia…, tháp tùng lãnh đạo cấp cao đi công tác nước ngoài, khi
tường thuật trực tiếp, nhà báo bắt buộc quan sát từ đầu đến cuối sự kiện. Tuy nhiên, với
các thể loại khác như bài phản ánh, ghi nhanh, nhà báo quan sát ‘’diện’’ nhưng phải chọn
‘’điểm’’ để phản ánh.
Danh sách chấm Thực tập K39
1. Lớp báo in :
Chấm 1 : Lê Thị Nhã (cvht)
Chấm 2 : Bùi Đức Anh Linh
2. Lớp báo Ảnh :
Chấm 1 : Nguyễn Huyền Nga
Chấm 2 : Dương Quốc Bình (cvht)
3. Lớp TTĐC A1:
Chấm 1 : Lê Thu Hà
Chấm 2 : Nguyễn Thị Tuyết Minh (cvht)
4. Lớp TTĐC A2:
Chấm 1 : Trương Thị Kiên
Chấm 2 : Nguyễn Thúy Quỳnh (cvht)
5. Lớp TTĐPT :
Chấm 1 : Đỗ Thị Thu Hằng
Chấm 2 : Nguyễn Thị Hằng Thu (cvht)

 Quan sát nhất thời (quan sát một thời điểm cụ thể): Quan sát nhất thời là quan sát
ở 1 thời điểm nhất định của sự kiện. Có hai tình huống để nhà báo quan sát nhất thời: 1-

27
Nhà báo không có điều kiện quan sát toàn bộ sự kiện, sự việc ; 2- Nhà báo chỉ chọn thời
điểm bộc lộ bản chất của sự vật, hiện tượng, con người.
Ví dụ: Ghi nhanh về Lễ hội hoa Hà Nội, nhà báo quan sát thời điểm mở đầu, lúc tập
trung đông người xem nhất, lễ hội đông nhất. Việc quan sát thời điểm này có thể giúp nhà
báo nêu bật được vẻ đẹp và giá trị văn hóa của Lễ hội.
Ngoài thời điểm mở đầu, nhà báo quan sát ở thời điểm gần bế mạc để thấy cảnh
tượng hoa bị du khách dẫm nát, cảnh trí tươi đẹp ban đầu đã trở nên tan hoang, từ đó, tác
giả có thể đánh giá ý thức thiếu văn hóa của người “thưởng hoa” Hà Nội.
+ Cách thức quan sát
 Nếu là con người:
 Đi sâu vào những chi tiết đặc tả (hình dáng, hành động, nét mặt, cử chỉ...)
 Chọn chi tiết bộc lộ phẩm chất, nhân cách, tính cách, nếp sống...
 Nếu là quang cảnh:
 Chỉ chọn những cảnh trí tiêu biểu, điển hình
 Chỉ chọn những chi tiết của cảnh trí phù hợp nhất với chủ đề bài viết, đồng thời,
miêu tả cụ thể, chi tiết.
 Nếu là quá trình :
 Phóng viên phải tham gia vào quá trình đó từ đầu đến cuối
 Không miêu tả tất cả những chi tiết đã quan sát được
 Chỉ lựa chọn chi tiết bộc lộ bản chất (của sự việc, con người) nhằm làm nổi bật
chủ đề
 Cách quan sát của phóng viên
 Quan sát từ bộ phận (riêng lẻ, cụ thể) tới toàn thể (cái chung)
 Quan sát ngoại hình tiếp cận nội tâm
 Quan sát cần được tiến hành trong sự so sánh: so sánh các sự vật, hiện tượng
cùng loại để tìm cái bất thường trong cái tưởng như bình thường
 Quan sát nhiều góc độ, đa diện
 Quan sát sự việc, con người trong sự vận động
 Sau khi quan sát, phải biết đánh giá các chi tiết đã ghi nhận được để tìm bản chất
của vấn đề.
- Phương pháp phỏng vấn

28
Phỏng vấn báo chí được xuất hiện với 2 tư cách: 1. Phỏng vấn với tư cách là thể
loại; 2. Phỏng vấn với tư cách là phương pháp khai thác thông tin tư liệu.
Với tư cách là phương pháp khai thác thông tin, có thể hiểu: Phỏng vấn là cuộc nói
chuyện được cấu trúc một cách đặc biệt, nhằm thu thập thông tin vì những mục đích báo
chí là chuẩn bị tư liệu để đăng báo1
Như vậy, với tư cách là một phương pháp khai thác tư liệu, phỏng vấn báo chí là
phương pháp thu thập thông tin thông qua những câu hỏi và trả lời.
+ Cơ hội sử dụng phương pháp phỏng vấn
Nhà báo thường sử dụng phương pháp phỏng vấn trong những điều kiện sau:
 Khi không có điều kiện chứng kiến sự kiện trực tiếp, như với các sự kiện đột xuất
trong lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật..., nhà báo bắt buộc phải phỏng vấn nhân chứng để
lấy thông tin.
 Khi muốn khai thác thông tin bộc lộ quan điểm, chính kiến, suy nghĩ, tình cảm...
của nhân chứng/ nhân vật trước một sự việc, vấn đề văn hóa, nghệ thuật nào đó mới xảy
ra trong đời sống xã hội.
 Khi nhà báo muốn khai thác thông tin về đời tư của nhân chứng.

+ Các bước thực hiện một cuộc phỏng vấn


 Trước khi tiến hành phỏng vấn
 Xác định đề tài, chủ đề của bài viết
 Tìm hiểu những thông tin ban đầu về sự việc, sự kiện
 Xác định nội dung sẽ viết, góc độ tiếp cận vấn đề, sự việc
 Xác định phương pháp: phương pháp phỏng vấn
 Lựa chọn người trả lời phỏng vấn
 Soạn (dự kiến trong đầu) câu hỏi (số lượng câu hỏi có thể ít hoặc nhiều tùy
thuộc).
 Chuẩn bị phương tiện máy móc
 Xác định thời gian và không gian, dự tính chiều hướng của cuộc phỏng vấn.
 Trong quá trình phỏng vấn
Trong quá trình phỏng vấn, phóng viên cần:

1
Makxim Kuznhesop Irop Skunop- Cách điều khiển cuộc phỏng vấn, Nxb. Thông tấn, H.2004, tr.58.

29
 Có thái độ lịch sự, tôn trọng người tiếp chuyện, kiên nhẫn lắng nghe họ trả lời ngay cả
khi cuộc phỏng vấn diễn ra không theo ý muốn

 Cố gắng tạo dựng bầu không khí thân mật, gần gũi, tin tưởng. Chỉ có cuộc nói chuyện
giữa những người thân mới có thể có được câu chuyện gan ruột.

 Vấn đề phỏng vấn phải phù hợp với trình độ người trả lời; phải diễn ra trong bối cảnh
thuận lợi.

 Chủ động dẫn dắt cuộc phỏng vấn. Không được để mình bị động, bị cuốn hút
vào câu trả lời, nhưng cũng không điều khiển, dắt mũi người trả lời. Không được mớm
lời hoặc áp đặt ý kiến chủ quan.

 Sử dụng linh hoạt các dạng câu hỏi sau:

 Câu hỏi cốt lõi (câu hỏi chính): là câu hỏi hướng vào mục đích thu thập thông
tin quan trọng, có giá trị chi phối các câu hỏi khác.

 Câu hỏi phụ - làm rõ câu hỏi chính: là những câu hỏi thuộc về bối cảnh, thuộc
về dạng kết quả, về sự so sánh… để làm sáng tỏ câu hỏi chính.

 Câu hỏi dẫn dắt: Được sử dụng khi mới tiếp chuyện hoặc trong quá trình tiếp
chuyện, nhằm tạo không khí thoải mái, xóa bỏ tâm lý đề phòng, dè dặt của người trả lời.
Tuy nhiên, tránh hỏi dài dòng, tránh nói chuyện khách sáo, vu vơ dẫn đến mất thời gian.

 Câu hỏi lặp lại để khẳng định một câu trả lời quan trọng: Khi phóng viên bắt
gặp những câu trả lời rất quan trọng, cần được nhắc lại để xác định dứt khoát thông tin đó
một lần nữa.

 Những câu hỏi kiểm tra sự kiện: có thể người trả lời trình bày chưa đầy đủ,
thiếu sót.
 Những câu hỏi hướng trở lại mục đích: Người trả lời miên man, xa đề, nếu
không thể cắt ngang, phải dùng loại câu hỏi này cho họ không bị mất tự tin.
 Câu hỏi mới phát sinh từ câu trả lời: bám vào thông tin mới được đưa ra để hỏi
lấy thêm thông tin.
 Chú ý các yêu cầu đối với câu hỏi phỏng vấn:
 Câu hỏi phải “trúng” vấn đề, xoay quanh vấn đề chính.
 Câu hỏi ngắn gọn, đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu

30
 Câu hỏi phải cụ thể, không được quá chung chung
 Câu hỏi phù hợp với đối tượng (trình độ, nghề nghiệp, lứa tuổi, chủ đề...)
 Câu hỏi tiến triển theo một lôgíc nhất quán: bắt đầu từ câu hỏi mở rộng, đến
câu hỏi chính xác; bắt đầu từ câu hỏi đơn giản đến câu hỏi phức tạp; câu hỏi sau nối tiếp
ý câu trước.
 Sử dụng câu hỏi mở (tại sao, như thế nào và cái gì...), hạn chế sử dụng câu hỏi
đóng nếu không thật sự cần thiết, với mục đích đem đến cho khách mời không gian tự do,
cho phép họ nêu ra những cách nhìn nhận vấn đề, sự vật theo cách của mình.
 Câu hỏi “trung lập”, không để người trả lời hiểu ngầm rằng nhà báo có những ý
thích riêng, vì điều này có thể làm người được hỏi đưa ra những ý kiến, thông tin thiên
lệch
 Không sử dụng nhiều câu hỏi cùng một lần...

b. Phương pháp nghiên cứu tư liệu


Có nhiều loại tư liệu mà nhà báo cần phải nghiên cứu để tìm kiếm các thông tin cần
thiết cho hoạt động sáng tạo tác phẩm. Ví dụ: tư liệu bằng văn bản chữ viết (text), tư liệu
bằng hình ảnh (video, pictures, images), tư liệu bằng âm thanh (audio)... Ở phần này,
chúng tôi tập trung giới thiệu phương pháp nghiên cứu tư liệu bằng đọc văn bản.
- Khái niệm
Văn bản là tất cả những tài liệu (sách, bài báo, bài tạp chí, văn kiện, quyết định, chỉ
thị, bản kê khai...) được lưu lại bằng chữ viết.
Nghiên cứu tư liệu bằng đọc văn bản là quá trình phóng viên tìm, đọc và chắt lọc
những thông tin cần thiết trong văn bản để phục vụ cho bài viết của mình.
- Các loại tư liệu văn bản
+ Các loại văn bản quản lý hành chính nhà nước, văn bản mang thông tin chỉ đạo,
định hướng như các văn kiện, các quyết định, chỉ thị... của các cấp lãnh đạo.
Loại văn bản này giúp phóng viên xác định phương hướng hành động, vấn đề, đề tài
cần tuyên truyền. Với bài báo, nó tạo sức nặng tư tưởng, tăng sức thuyết phục đối với độc
giả
Ví dụ: Văn bản về Quyết định tăng học phí của Bộ GD và ĐT; Văn bản Nghị định
97, 98 của Bộ Lao động thương binh xã hội về tăng mức lương tối thiểu; Văn bản Thông
báo của Bộ Y tế về việc phát động tháng vệ sinh an toàn thực phẩm... Từ những văn bản
này, các báo đài đã tập trung chiến dịch tuyên truyền.
+ Các bản báo cáo, tổng kết, các bản thống kê, các loại biên bản, các hóa đơn chứng
từ, các loại giấy phép... của cơ quan, đơn vị, tổ chức

31
Ví dụ: Báo cáo thưởng Tết của các doanh nghiệp; báo cáo tổng hợp tình hình
thưởng Tết của Bộ Lao động Thương binh Xã hội.
Tổng kết hoạt động kinh doanh của các công ty, xí nghiệp...
Tổng kết hoạt động tình nguyện hè của sinh viên...
Loại văn bản báo cáo, tổng kết... giúp cung cấp cho phóng viên một cái nhìn khái
quát, tương đối toàn diện về sự kiện, vấn đề. Đồng thời, cung cấp những chi tiết thông tin
cần thiết khác cho bài viết. Phóng viên có thể khai thác số liệu, các con số cụ thể liên
quan đến sự kiện thông qua các báo cáo, thống kê. Những tài liệu này là những công bố
chính thức, đã qua sự phê duyệt, cân nhắc của tập thể, của lãnh đạo cơ quan nên có sự
chính xác hơn.
+ Các bài báo, bài nghiên cứu khoa học, các văn bản đời thường của cá nhân (thư từ,
nhật ký, giấy viết tay...) có liên quan trực tiếp, gián tiếp đến lĩnh vực theo dõi hoặc đề tài bài
báo sẽ viết
Loại văn bản này giúp nhà báo lựa chọn đề tài; hoặc giúp lựa chọn chính xác góc
tiếp cận của đề tài; hoặc bổ sung thêm các cứ liệu khoa học cần thiết khác...
Ví dụ: Phóng viên báo Thanh Niên đã đọc một đoạn quảng cáo giới thiệu về phòng
khám đông y Trung Quốc tại 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội, nội dung: Phòng khám áp
dụng các phương pháp chữa bệnh truyền thống của Trung Quốc, sử dụng rất nhiều các
loại đông thảo dược quý hiếm kết hợp với các loại chất cơ bản có trong các khoáng vật
thiên nhiên thông qua hệ thống máy móc khoa học kỹ thuật cao đã phối chế thành công
phương thuốc bí truyền trị liệu mang lại hiệu quả điều trị cao, an toàn cho người bệnh.
Cũng trong bài giới thiệu này, có ý kiến của một số người (có địa chỉ, số điện thoại
cụ thể) được cho là đã khỏi bệnh nhờ khám và điều trị tại phòng khám. Phóng viên đã lần
theo địa chỉ, số điện thoại của các bệnh nhân đó và khám phá ra rằng: một số người được
trả 200 ngàn để nói lời cảm ơn cơ sở khám bệnh; một số bệnh nhân khác thì có đến khám
nhưng tốn hàng chục triệu mà “tiền mất tật mang”. Qua đó, nhà báo viết được môt loạt
bài 7 kỳ về việc “Thâm nhập phòng khám đông y Trung Quốc”, đưa ra thực trạng nhức
nhối về việc lừa đảo của các phòng khám này. Đồng thời, lật lại vấn đề: Vai trò của thanh
tra Y tế và các cơ quan quản lý địa phương ở đâu? Có gì uẩn khúc trong việc tồn tại
phòng khám này từ nhiều năm qua?
- Mục đích của đọc văn bản
+ Công tác đọc là yêu cầu bắt buộc của nhà báo. Việc đọc giúp cung cấp kiến thức
tổng hợp hay chuyên sâu, bổ sung kiến thức về lĩnh vực theo dõi của nhà báo
Ví dụ: phóng viên phát thanh phụ trách mảng thị trường - chứng khoán thì đọc tài
liệu chuyên ngành phát thanh, đồng thời, phải đọc những tài liệu về kinh tế, luật kinh tế,
chứng khoán...
+ Đọc còn để giúp nhà báo tìm kiếm chủ đề cho tác phẩm.

32
+ Có chủ đề, đề tài rồi, việc đọc sẽ giúp cung cấp kiến thức nền tảng cho nhà báo
trước khi xuống hiện trường để quan sát, phỏng vấn, tìm hiểu về một đối tượng nào đó.
Nghiên cứu văn bản thường là cơ sở đầu tiên để phóng viên tiến hành các phương pháp
khác.
+ Việc đọc văn bản nhằm để khai thác thêm chi tiết cho bài viết, xác định góc tiếp
cận mới mà đồng nghiệp chưa viết, học tập phương pháp thể hiện tác phẩm (kết cấu,
ngôn ngữ...) của đồng nghiệp...
- Hạn chế của việc đọc văn bản
+ Thông tin từ văn bản thường chỉ có vai trò là điểm tựa đầu tiên chứ không phải là
tư liệu duy nhất cho một bài báo. Không nên lạm dụng việc nghiên cứu văn bản để sao
chép, xào xáo các thông tin, tư liệu làm thành tác phẩm báo chí.
+ Trong bối cảnh hiện nay, có quá nhiều tài liệu bằng văn bản từ các nguồn tin trên
Internet, có thể dẫn đến tình trạng nhiễu thông tin, thông tin bị phân tán, thông tin không
rõ nguồn gốc... Do vậy, việc kiểm tra các nguồn tin nhiều khi cũng rất khó khăn và tốn
thời gian.
+ Tư liệu văn bản thường khuôn mẫu, khô khan. Một bài báo chỉ có tư liệu văn bản
sẽ nặng nề, kém hấp dẫn.
- Phương pháp đọc khi nghiên cứu tư liệu bằng văn bản
+ Đọc định vị: Đọc lướt qua hết nội dung văn bản (các đề mục, các đoạn đầu và
cuối, các câu đầu và câu cuối mỗi đoạn, các từ nối...).
Phương pháp đọc định vị giúp người đọc nắm bắt những nội dung chính, ý chính
của bài viết, giúp nhà báo xem xét mức độ phù hợp của tài liệu với nhu cầu của đề tài
mình định viết, để quyết định đi vào chi tiết hay bỏ qua tài liệu.
+ Đọc gạn lọc: Sau khi đọc lướt, phải đọc kỹ những gì quan trọng, hấp dẫn nhất, có
liên quan trực tiếp đến chủ đề bài viết.
+ Đọc tích cực: Ghi chú, đánh dấu các ý chính. Có thể tô đậm hoặc ghi ra phích
những đoạn văn bản cần trích dẫn vào bài viết.
Nếu đọc trên mạng, nhà báo nên download về máy để thuận tiện cho việc sửa, đánh
dấu, chú thích...
- Những chú ý khi khai thác tư liệu bằng đọc văn bản
+ Cần xác định giá trị pháp lý của văn bản (văn bản thuộc loại nào: luật, báo cáo,
tổng kết, thư cá nhân…).
+ Xem xét nguồn gốc xuất xứ, tác giả văn bản (của ai, của tổ chức nào, ở đâu…)
+ Chú ý thời gian ra đời của văn bản
+ Xác định xem văn bản đó là bản gốc (bản chính) hay bản sao.
+ Kiểm tra tính xác thực của một số thông tin trong văn bản, nên so sánh thông tin
từ tư liệu văn bản với các nguồn tin khác.
33
+ Luôn có thái độ hoài nghi: Không phải tất cả thông tin trong mọi văn bản đều
chính xác, bởi nó phụ thuộc vào động cơ của người lập ra văn bản, vì vậy, phóng viên
cần có sự kiểm tra lại thông tin. Những thông tin nào còn nghi ngờ thì phải kiểm tra lại,
xác minh lại. Sau xác minh, nếu vẫn tiếp tục nghi ngờ thì không được sử dụng. Luôn luôn
đối chiếu, so sánh với các văn bản khác, có ý thức phân tích và phê bình thông tin trong
khi đọc.
+ Khi nghiên cứu các văn bản, cần phát hiện ra các con số, các chi tiết quan trọng,
nổi bật, có yếu tố tin tức. Đó là những con số, chi tiết “biết nói”.
Tóm lại:
Tất cả các phương pháp quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu tư liệu bằng đọc tài liệu
đều có vai trò quan trọng ngang nhau trong hoạt động sáng tạo của phóng viên.
Trong phần lớn trường hợp, phương pháp nọ làm cơ sở cho phương pháp kia. Tuy nhiên,
có những thể loại mà nhà báo cần xác định một phương pháp chủ đạo so với các phương
pháp khác. Chẳng hạn, với thể loại phóng sự, ghi nhanh, phương pháp quan sát và phỏng vấn
là đắc dụng; với thể loại tường thuật, phương pháp quan sát là đắc dụng; với thể loại tin
công báo, phương pháp nghiên cứu tư liệu bằng đọc tài liệu là đắc dụng.

2.4. Phẩm chất, năng lực của nhà báo về văn hoá và nghệ thuật
2.4.1. Phẩm chất của nhà báo về văn hoá và nghệ thuật
2.4.2. Năng lực của nhà báo về văn hoá và nghệ thuật
*Câu hỏi lý thuyết, thảo luận, thực hành

Chương 3
Tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn hoá và nghệ thuật
3.1. Chủ thể, khách thể tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn hoá
và nghệ thuật
3.1.1. Chủ thế tổ chức
3.1.2. Khách thể tổ chức
3.2. Nội dung, phương thức tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn
hoá và nghệ thuật
3.2.1. Nội dung tổ chức
3.2.2. Phương pháp tổ chức

34
3.3. Những yêu cầu để tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí về văn hóa và
nghệ thuật đạt chất lượng
3.2.1. Yêu cầu về nhân lực tổ chức
3.2.2. Yêu cầu về vật lực và các điều kiện liên qua
*Câu hỏi lý thuyết, thảo luận, thực hành
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC (nếu có)

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trương Thị Kiên Đỗ Thị Thu Hằng

Yêu cầu:
- Khoảng 10 trang, đóng bìa.
- Có chữ ký của CNĐT và xác nhận của Trưởng đơn vị

35

You might also like