You are on page 1of 91

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VIỆN BÁO CHÍ


----

BÁO CÁO
MÔN: VĂN HÓA BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Trương Thị Kiên


Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 7 lớp Báo In K40

Hà Nội, 2022
CHƯƠNG 1:  NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA BÁO CHÍ

I.  HIỂU NHƯ NÀO VỀ VĂN HOÁ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG

1. Định nghĩa 

1.1. “Báo chí - Truyền thông” là gì? 

Báo chí là một hình thái ý thức xã hội, lấy hiện thực khách quan làm đối
tượng phản ánh. Đối tượng phản ánh đó phải xác thực cụ thể. Báo chí là công cụ
truyền thông mang thông tin, thông điệp đến cho công chúng. Báo chí ra đời và
phát triển do nhu cầu thông tin của xã hội, của công chúng. 

Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã
hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ
và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo
in, báo nói, báo hình, báo điện tử. (điều 3, luật báo chí nước Cộng hòa xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam -2016).

Báo chí là một phạm trù rộng lớn, bao gồm nhiều loại hình: báo chí in,
báo nói, báo hình, báo chí điện tử, báo ảnh. Giải thích rõ hơn về mặt từ ngữ,
Điều 4, Luật Báo chí nêu rõ: “Báo chí in” là loại hình báo chí sử dụng chữ viết,
tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, bao gồm
báo in, tạp chí in và bản tin thông tấn; “Báo nói” là loại hình báo chí sử dụng
tiếng nói, âm thanh được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng
dụng công nghệ khác nhau; “Báo hình” là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là
chủ yếu, tiếng nói, âm thanh, chữ viết được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ
tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau; Báo chí điện tử” là loại hình báo
chí sử dụng chữ viết là chủ yếu, hình ảnh, âm thanh được truyền dẫn trên môi
trường mạng, bao gồm báo điện tử và tạp chí điện tử; “Tạp chí” (tạp chí in, tạp
chí điện tử) là sản phẩm xuất bản định kỳ, đăng các bài, tin, ảnh có tính chất
chuyên ngành, đóng thành tập, in trên giấy (với tạp chí in) hoặc truyền dẫn trên
môi trường mạng. 

Trong mối quan hệ với truyền thông nói chung, báo chí là một bộ phận
cấu thành truyền thông, nhưng là bộ phận ở vị trí trung tâm, vì là loại hình được
công chúng đón nhận thường xuyên, hàng ngày, có khả năng tác động nhanh,
mạnh, phạm vi tác động rộng lớn nhất trong đời sống xã hội.

Bởi đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về báo chí, truyền thông, và theo đó là
nhiều quan niệm về báo chí, truyền thông, hầu hết đều mang tính thống nhất,
nên trong tài liệu này, tác giả trực tiếp định vị khái niệm. Truyền thông được
hiểu như sau:

“Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm,
chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm… giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh thái độ, hành vi và
phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, nhóm, cộng đồng, xã hội.”

1.2. “Văn hoá” là gì?

Văn hóa là một khái niệm gần gũi với cuộc sống hằng ngày, Theo nghĩa
thông dụng nhất, người ta thường hiểu văn hóa là những nét tinh hoa, những nét
đẹp của cuộc sống cộng đồng hoặc là cách ứng xử giữa con người với nhau
trong xã hội.

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong
ngôn ngữ Latin, văn hóa là colo, colui, cultus với hai nghĩa: (1) giữ gìn, chăm
sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng. Trong tiếng Anh, văn hóa nghĩa là
Culture.
Văn hóa được hiểu theo 2 nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa
rộng, văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện
tại “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”. Theo nghĩa hẹp, văn hóa
là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy
trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên,
xã hội và bản thân.

Trong quá trình nghiên cứu lịch sử văn minh thế giới và văn hóa Việt
Nam thì các nhà nghiên cứu đã trình bày quan niệm về văn hóa như sau: “Văn
hóa là một tổng thể hệ thống những giá trị, những chuẩn mực, những thói quen,
những hoạt động thực tiễn, có ý thức, mang tính xã hội, sáng tạo và nhân văn
của một cộng đồng người nhất định trong lịch sử nhằm thỏa mãn nhu cầu của
cuộc sống và tạo ra bản sắc riêng.

 Định nghĩa nêu trên đã nhấn mạnh đến một số đặc tính tiêu biểu của văn
hóa:

- Văn hóa mang tính tổng thể hệ thống: văn hóa của một dân tộc bao gồm
rất nhiều lĩnh vực: vật chất, tinh thần, tình cảm, lối sống, phong tục tập quán,
tâm linh, trí tuệ, khoa học, văn học nghệ thuật nên một hệ thống các giá trị
không thể dung chứa hết, mà phải là một tổng thể hệ thống mới có thể phản ánh
hết những đặc trưng của văn hóa.

- Văn hóa là sự kết tinh những giá trị: giá trị là những yếu tố tiêu biểu của
một nền văn hóa, nó thường ít biến đổi hoặc chậm biến đổi hơn so với những
yếu tố khác, phản ánh những nét đặc sắc nhất của văn hóa dân tộc.

- Văn hóa mang tính chuẩn mực: chuẩn mực là yếu tố động của văn hóa
s0 với giá trị. Chuẩn mực vừa có khuôn mẫu, vừa mang tính ổn định nhưng lại
đa dạng và biến đổi hơn so với giá trị. Mỗi một thế hệ có một chuẩn mực riêng
hoặc mỗi một giới tính, giai cấp có một chuẩn mực riêng.

- Văn hóa mang tính thực tiễn: Không có văn hóa tồn tại và phát triển một
cách trung lung, mà văn hóa phải gắn với hoạt động thực tiễn của một cộng
đồng dân cư nhất định trong lịch sử nhằm đáp ứng thỏa mãn nhu cầu cuộc sống.
Thực tiễn là môi trường cho văn hóa phát sinh, phát triển và thăng hóa.

- Văn hóa bao gồm những hoạt động có ý thức của con người: ý thức là
ranh giới phân biệt giữa văn hóa và phi văn hóa. Cùng một cử chỉ, hành vi, lời
nói nếu có ý thức thì đó là những hoạt động mang tính văn hóa, nếu thiếu ý thức
hoặc vô ý thức sẽ trở thành những hoạt động thiếu văn hóa, gây phản cảm với xã
hội.

- Văn hóa mang tính xã hội: Văn hóa là sự kết tinh, hội tụ hoạt động của
một cộng đồng dân cư trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nên văn hóa luôn
luôn phản ánh những tâm trạng, tình cảm, cách ứng xử của một tập thể với tự
nhiên. Để những hoạt động có hiệu quả, con người phải cố kết chặt chẽ với nhau
trong những tổ chức nhất định, vì vậy văn hóa bao giờ cũng phản ánh hoạt động
của một xã hội.

- Văn hóa luôn luôn mang tính sáng tạo và nhân văn: Bản thân văn hóa
chính là sự sáng tạo của con người ra những gì mà không có sẵn trong tự nhiên.
Trong suốt quá trình phát triển, có nhiều thành tựu của con người đạt được
nhưng nếu không mang tính sáng tạo và tính nhân văn thì không còn là văn hoá,
bởi vì sáng tạo là động lực để phát triển văn hóa, còn nhân văn là tiêu chí để
phân biệt giữa văn hóa và phản văn hóa.

Văn hoá vật chất bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất
vật chất của con người tạo ra: đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hàng
ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại… Văn hoá tinh thần bao gồm toàn bộ
những sản phẩm do hoạt động sản xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng,
tín ngưỡng - tôn giáo, nghệ thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn
chương…

1.3. “Văn hoá báo chí - truyền thông” là gì? 


Trong mối quan hệ với văn hoá nói chung, các hoạt động văn hoá báo chí
truyền thông được soi rọi bởi đặc trưng của văn hoá. Chỉ qua hoạt động báo chí
truyền thông, mới thể hiện được đầy đủ giá trị của báo chí truyền thông. Nói đến
văn hoá báo chí truyền thông, chính là nói đến các giá trị của báo chí truyền
thông được đem lại, được thiết lập, xây dựng bởi hoạt động của nhà báo và cơ
quan báo chí truyền thông.

Báo chí truyền thông là những thiết chế chính trị xã hội, có nhiệm vụ cung
cấp sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội, hoặc thông
tin quảng bá và các hình thức thông tin khác. Sản phẩm của hoạt động báo chí
truyền thông được thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo,
xuất bản, đang phát trên các nền tảng thiết bị đầu cuối khác nhau. Khi nói tới
báo chí truyền thông, là nói tới nhiều loại hình, nhiều dạng thức truyền thông
khác nhau, tuy nhiên, báo chí là loại hình truyền thông ở vị trí cốt lõi, trung tâm,
có khả năng tác động, chi phối tới sự vận động và phát triển của các loại hình
truyền thông khác.

Theo Luật Báo chí 2016, Hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo tác
phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung
cấp thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo
chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát
sóng báo nói, báo hình.

Cụ thể hơn, có thể hiểu, hoạt động báo chí là thuật ngữ để chỉ một quy
trình bao gồm nhiều hoạt động của cán bộ, phóng viên, biên tập viên, các nhà
quản lý toà soạn và cộng tác viên… để tạo nên sản phẩm báo chí, đem đến tay
người tiêu dùng. Hoạt động báo chí bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn khác
nhau, bị chi phối bởi các yếu tố loại hình báo chí, kiểu loại sản phẩm báo chí,
chức danh báo chí, đối tượng công chúng, phạm vi phát hành/phát sóng... Chẳng
hạn, với phóng viên, các hoạt động cơ bản gồm: thu thập thông tin, xử lý thông
tin, sáng tạo tác phẩm, tự biên tập tác phẩm; với tổng biên tập, các hoạt động cơ
bản gồm: hoạch định kế hoạch; quản lý, giám sát, tổ chức thực hiện kế hoạch;
hoạt động chuyên môn nghiệp vụ (biên tập/duyệt bài vở); các hoạt động giao
tiếp, củng cố kỷ luật tòa soạn… Với báo phát thanh, hoạt động của phóng viên -
ngoài các thao tác giống của báo in, còn cần thêm thao tác xử lý, biên tập âm
thanh, đọc, nói trên sóng; với truyền hình, lại có thêm hoạt động ghi hình, biên
tập hình ảnh và dẫn chương trình. Với báo mạng, hoạt động nghiệp vụ của
phóng viên gắn liền với các thao tác máy tính và thao tác mạng; ngoài ra, phóng
viên còn phải có kỹ năng của một nhà báo đa phương tiện khi tác nghiệp cho tờ
báo mạng hội tụ. Cùng với đó, nói đến hoạt động của một tòa soạn, không thể
không kể đến các hoạt động khác của cán bộ, phóng viên như: hoạt động giao
tiếp công chúng; hoạt động cộng tác viên; công tác nhuận bút; phát hành; công
tác bạn đọc.

Cơ quan báo chí truyền thông là cơ quan thực hiện nhiệm vụ tổ chức sản
xuất, xuất bản các sản phẩm mang tính chất báo chí, phục vụ nhu cầu thông tin
của công chúng. Trong vòng 5 năm trở lại đây, Việt Nam có khoảng hơn 400
công ty truyền thông ra đời. Nhiều công ty TNHH có cả các ấn phẩm báo chí, ví
dụ, công ty TNHH truyền thông Hoa Mặt trời (trụ sở tại Quận 2, TP. Hồ Chí
Minh) là đối tác thực hiện các tạp chí phụ nữ hàng đầu ở Việt Nam như tạp chí
Tiếp Thị & Gia Đình, Tiếp Thị & Gia Đình Wedding, Thế Giới Văn Hóa, Her
World, Cosmopolitan, Harper’s Bazaar và Esquire. Công ty cũng tiên phong
trong việc sản xuất các ấn bản Tiếp Thị & Gia Đình và Thế giới văn hóa cho
Ipad. Ngoài ra, có một số công ty truyền thông nổi tiếng như: Tổng công ty
truyền thông đa phương tiện Việt Nam (VTC), Tập đoàn truyền thông Golden,
Cty TNHH truyền thông Megastar, Cty TNHH quảng cáo Đông Tây Promotion,
Cty cổ phần Cát tiên sa, Cty cổ phần quảng cáo trực tuyến 24h, Cty cổ phần
quảng cáo Nhất, Cty truyền thông Viettel, Cty VietStarMax, Công ty truyền
thông Galaxy Media, Chicilon Media, Công ty Cổ phần VCCorp (VCCorp
Corporation), Cty truyền thông Đất Việt, Cty truyền thông Mắt bão,...
Cho đến nay chúng ta vẫn chưa có chính xác quan niệm, xác lập khái
niệm văn hoá báo chí truyền thông. Thuật ngữ này có thể tạo nên 3 cách hiểu:

Cách hiểu thứ nhất: Văn hoá báo chí truyền thông = văn hoá báo chí + văn hoá
truyền thông

Cách hiểu thứ hai: Văn hoá báo chí truyền thông = văn hoá truyền thông của báo
chí = văn hoá báo chí

Cách hiểu thứ ba: Văn hoá báo chí truyền thông = văn hoá báo chí (là nhân tố
chủ đạo) + văn hoá truyền thông (là nhân tố bối cảnh, để hiểu hơn về văn hoá
báo chí)

Dựa trên các khái niệm riêng và chung, mối quan hệ giữa văn hóa và báo
chí, ta có thể rút ra kết luận về khái niệm văn hóa trong lĩnh vực báo chí – truyền
thông như sau: “Văn hóa Báo chí - Truyền thông là những giá trị tốt đẹp, mục
đích hướng tới (phục vụ ai, vì điều gì mà phục vụ, phục vụ như thế nào) của
công tác thông tin - tuyên truyền trên báo chí, những giá trị liên quan đến đạo
đức nghề báo; vai trò, sứ mệnh cách mạng của nhà báo, của các cơ quan báo chí,
việc đưa tin... đối với công chúng và xã hội. Tóm lại, Văn hóa Báo chí - Truyền
thông là những giá trị do con người tạo ra được phản ánh qua báo chí, qua công
tác thông tin, tuyên truyền mang tính đại chúng”.

Văn hóa báo chí là một bộ phận của truyền thông, và cũng chính là truyền
thông, nên văn hoá báo chí có những đặc điểm bao gồm trong văn hoá truyền
thông, toàn bộ những giá trị mà con người tạo ra được biểu hiện và thẩm thấu
trong hoạt động báo chí. Nó biểu hiện trong nhận thức, hành vi của các chủ thể
tham gia hoạt động báo chí và kết quả mà họ tạo ra trong hoạt động đó. văn hóa
báo chí trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cái hay, cái đẹp, và là các giá trị
bền vững của báo chí cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người và xây dựng xã hội mới.

TS. Nguyễn Duy Hạnh, ThS. Nguyễn Tùng Lâm cho rằng: Văn hóa báo
chí là toàn bộ những giá trị mà con người tạo ra được biểu hiện và thẩm thấu
trong hoạt động báo chí. Nó biểu hiện trong nhận thức, hành vi của các chủ thể
tham gia hoạt động báo chí và kết quả mà họ tạo ra trong hoạt động đó.

Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa báo chí đăng trên cổng
thông tin điện tử của Bộ Nội vụ ngày 15/6/2015, Tiến sĩ Nguyễn Duy Hạnh -
Học viện Chính trị khu vực I và Thạc sĩ Nguyễn Tùng Lâm - Đại học Chính trị,
Bộ Quốc phòng có chỉ ra 06 quan điểm cơ bản về văn hóa báo chí trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó là:

- Mục tiêu cao cả của báo chí cách mạng là phục vụ nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người;

- Báo chí góp phần nâng cao dân trí nhằm hướng tới phát triển con người
toàn diện;

- Xây dựng một nền báo chí cách mạng mang tính nhân dân và tính quần
chúng;

- Đảm bảo tính trung thực, khoa học nhằm định hướng dư luận vì sự tiến
bộ của xã hội;

- Quyền tự do báo chí như là một bộ phận của quyền con người;

- Đề cao đạo đức người làm báo.

  Văn hóa báo chí thể hiện bằng văn hóa của những người làm báo. Cái văn
hóa đặc trưng của sức mạnh truyền thông phải đường hoàng, minh bạch, sạch sẽ
và ấn tượng như trên trang nhất của mỗi tờ báo.

2. Mối quan hệ giữa văn hóa và truyền thông, báo chí 

Văn hóa và báo chí, truyền thông có mối quan hệ mật thiết. 

Mối quan hệ giữa văn hoá và truyền thông:


Văn hoá truyền thông là một chỉnh thể.

 Trong toàn bộ hệ thống hiện tượng xã hội, truyền thông được xem là hoạt
động văn hoá đặc thù. Nó vừa là một hiện tượng văn hoá, vừa là kết quả văn hoá
do con người tạo ra. Báo chí là một bộ phận của văn hóa, góp phần sáng tạo và
phổ biến văn hóa, lưu truyền văn hóa. Báo chí trở thành một bộ phận cấu thành
văn hóa, đồng thời là phương tiện thực thi, quảng bá văn hóa. Văn hóa nhận rõ
vai trò, tác động của báo chí, truyền thông và chủ động phối hợp với báo chí. Có
thể nói, bất cứ một hiện tượng văn hoá nào cũng vừa mang tính phổ biến đồng
thời lại là một hiện tượng đặc thù.

Truyền thông góp phần tạo lập, kìm hãm hoặc gia tăng hàm lượng văn
hoá ở các hiện tượng xã hội khác. 

Văn hóa có từ khi hình thành xã hội loài người. Truyền thông chính là
công cụ khiến cho yếu tố văn hoá được đến gần hơn với xã hội loài người. Bằng
sức mạnh của mình, nó có khả năng khiến yếu tố văn hoá trở nên giàu ý nghĩa
hơn nhưng cũng có khả năng khiến yếu tố văn hoá của bất kỳ hiện tượng nào trở
nên méo mó. 

Truyền thông có thể khiến hiện tượng quyên góp tiền từ thiện trên mạng
xã hội trở thành một hành động đẹp khi nó có thể giúp đỡ được nhiều người
đang gặp tình cảnh khó khăn nhưng nó cũng góp phần khiến cho hiện tượng đó
dễ bị biến tướng cho các đối tượng có mục đích xấu, lợi dụng lòng tốt của nhiều
người để trục lợi cho bản thân.

Bản thân hoạt động truyền thông chứa đựng những giá trị nhất định, đó
chính là văn hoá.
Giá trị truyền thông được thể hiện ở chất lượng sản phẩm, hiệu quả xã hội
mà sản phẩm truyền thông đem lại, ở thương hiệu, uy rính mà cơ quan truyền
thông tạo lập, khẳng định.

Mối quan hệ giữa văn hoá và báo chí:

Văn hoá được thể hiện và thấm thấu trong các tác phẩm, hoạt động báo
chí, cụ thể văn hoá được thể hiện ở chính các chủ thể, nhà báo và cơ quan báo
chí.

Văn hoá là hoạt động do con người tạo ra nên báo chí chính là một phần
của văn hoá bởi báo chí là hoạt động sáng tạo, là kết quả lao động của con
người.

Một sản phẩm báo chí chân chính buộc phải có yếu tố văn hoá, phải có
giá trị nhất định.

Báo chí là sản phẩm của văn hóa, đồng thời là phương tiện thực thi, quảng
bá văn hóa. Báo chí tham gia tích cực trong việc phát triển, tôn vinh những tài
năng, bảo tồn, giữ gìn, phát huy những loại hình nghệ thuật truyền thống của
dân tộc. Cùng với đó, báo chí còn đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh,
bảo vệ các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc trước sự tấn công, du nhập của
các trào lưu văn hóa, lối sống của phương Tây, tuyên truyền giáo dục lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết, tính nhân văn, nhân đạo, cách ứng xử nhân ái giữa con
người với nhau và với các thế hệ người Việt Nam.

Có thể nói, báo chí - truyền thông là sản phẩm của sự sáng tạo của con
người, đáp ứng nhu cầu thông tin, giao tiếp, đồng thời là sản phẩm của văn hoá,
là bộ phận cấu thành nên văn hoá.
3. Các yếu tố cấu thành nên báo chí - truyền thông (3TR)

3.1. Các yếu tố của hoạt động báo chí 

Truyền thông là một dạng thức biểu hiện cụ thể, phản ánh mối quan hệ
của các yếu tố trong quá trình truyền thông. Truyền thông được diễn ra theo
trình tự tuyến tính thời gian bao gồm các yếu tố sau:
S: Sourse (nguồn phát): Là yếu tố mang thôgn tin tiềm năng và khởi sướng
quá trình truyền thông. Nguồn phát là một người, một nhóm người hay một tổ
chức.
M: Message (thông điệp): Là nội dung thôgn tin được trao đổi từ nguồn phát
đến đối tượgn tiếp nhận. Thông điệp chính là những tâm tư, tình cảm, mogn
muốn, đòi hỏi, ý kiến, hiểu biết, kinh nghiệm sống, tri thức,... được mã hoá theo
một hệ thống ký hiệu nào đó. 
C: Chanel (kênh): Là phương tiện, cách thức truyền tải thông điệp từ nguồn
phát đến đối tượng tiếp cận. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của đối tượgn tiếp
cận mà có các kênh truyền thông phù hợp.
R: Receiver (người nhận): là nhóm công hcusng/ nhóm đối tượng/ cá nhân
tiếp cậnt hông điệp. Hiệu quả truyền thông được xem xét trên cơ sở những thay
đổi về nhận thức, thái độ, hành vi xã hội. 
E: Effect (hiệu quả): Là thôgn tin ngược, là dòng chảy của thông điệp từ
công chúng tác động trở lại nguồn phát.
N: Noise (nhiễu): là yếu tố gây sai lệch khó được dự đoán trước trong quá
trình truyền thông,....

Trong các yếu tố của hoạt động truyền thông chỉ có 2 yếu tố cấu thành
nên văn hoá báo chí truyền thông, đó là yếu tố liên quan đến con người. Đó
chính là: Nguồn phát và người nhận. Nguồn phát bao gồm: nhà báo (cá nhân) và
cơ quan báo chí (tập thể).

3.2. Các yếu tố của văn hoá báo chí - truyền thông 

4. Vai trò của văn hoá truyền thông đối với nhà truyền thông, cơ
quan báo chí truyền thông và công chúng (3TR)

4.1. Vai trò của văn hoá với nhà truyền thông

- Văn hoá báo chí truyền thông xác lập ý thức tự giác trau dồi, rèn luyện
kỹ năng nghề nghiệp cho nhà báo 

Nói tới văn hoá báo chí truyền thông là nói tới tính giá trị. Các sản phẩm
truyền thông bắt buộc phải mang thuộc tính giá trị. Điều này gián tiếp đặt ra yêu
cầu các nhà báo phải tự có ý thức trau dồi, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp,
không ngừng hoàn thiện năng lực chuyên môn để nâng cao chất lượng sản
phẩm, tạo nên các tờ báo hấp dẫn về nội dung, sinh động, đa dạng về hình thức,
đáp ứng yêu cầu thông tin của công chúng và nhu cầu thông tin tuyên truyền của
cơ quan báo chí, của xã hội.
 - Văn hoá báo chí truyền thông định hình nguyên tắc tuân thủ luật pháp,
đạo đức nghề nghiệp cho nhà truyền thông

Văn hoá báo chí truyền thông đòi hỏi các yếu tố cấu thành nên chính nó -
là chủ thể truyền thông, phải hội đủ phẩm chất về chính trị, đạo đức và tinh thần
thượng tôn pháp luật. Nhà báo tự giác đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước tới quần chúng nhân dân, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành hệ tư
tưởng chủ đạo của đại bộ phận nhân dân. 

Ngoài ra, trong quá trình tác nghiệp, mỗi người tự giác tuân thủ luật pháp,
luật báo chí, tôn trọng tính nhân dân, nhân đạo, nhân văn, thực hành thái độ,
hành vi ứng xử chuẩn mực với nguồn tin, nhân vật trong tác phẩm. 

- Văn hoá báo chí truyền thông thiết lập khối đoàn kết, thống nhất, giúp
nhà truyền thông vượt qua thử thách, khó khăn.

 Đoàn kết thống nhất, không chùn bước trước khó khăn, gian khổ là một
truyền thống văn hoá quý báu của dân tộc ta. Ở phạm trù văn hoá báo chí truyền
thông, nhà truyền thông có văn hoá cũng phải là người có tinh thần đoàn kết,
thương yêu đồng nghiệp, gắn bó hết lòng với cơ quan, đơn vị. Họ phải đạt đến tố
chất của một “chiến sĩ cách mạng”, kiên cường, bền gan, vững trí, không được
lung lay, dao động trong những thời khắc khó khăn của đất nước, của cơ quan.
Người làm báo, làm truyền thông phải thấy được vinh dự cũng như trách nhiệm
của mình trên con đường xây dựng, khẳng định thương hiệu, uy tín của tờ báo,
từ đó, có thêm động lực cống hiến.

4.2. Vai trò của văn hoá với cơ quan báo chí truyền thông
- Văn hoá báo chí truyền thông giúp cơ quan báo chí xây dựng hành lang
văn hoá văn minh công sở 

Để trở thành cơ quan truyền thông có hàm lượng văn hoá cao, mỗi cơ
quan báo chí truyền thông phải tự giác xây dựng một hành lang văn hoá văn
minh công sở.

 Văn hoá văn minh công sở giúp xác lập được các chuẩn mực, quy tắc
giao tiếp, ứng xử, phương thức làm việc, tác nghiệp trong cơ quan, bắt đầu từ
Ban biên tập - Ban lãnh đạo, cho tới các phòng, ban chức năng, và cuối cùng là
cán bộ nhân viên, phóng viên cấp dưới. Các quy tắc văn hoá văn minh công sở
là cơ chế điều hoà các mối quan hệ giữa các thành viên trong cơ quan, giúp công
việc được tiến triển nhịp nhàng, hiệu quả.

 - Giúp cơ quan báo chí thiết lập các thiết chế quản trị tòa soạn phù hợp
trong bối cảnh truyền thông mới 

Văn hoá báo chí truyền thông là sự thích ứng sáng tạo và chuyển động để
đem lại những giá trị mới, đáp ứng yêu cầu xã hội. Trong bối cảnh chuyển đổi
số mạnh mẽ hiện nay, các cơ quan báo chí truyền thông muốn gia nhập vào thị
trường văn hoá, phải tự xây dựng thiết chế quản trị tòa soạn theo hình thức số
hóa, chuyển đổi số. Chuyển đổi số là sự dịch chuyển quy trình tác nghiệp, nội
dung thông tin, tương tác công chúng và dịch chuyển cả hoạt động kinh tế báo
chí số, sẽ đem lại những giá trị mới trong lao động báo chí, từ đó, cải tiến chất
lượng sản phẩm, thiết lập uy tín, thương hiệu. Văn hoá báo chí truyền thông còn
là động lực để cơ quan báo chí truyền thông cố gắng xây dựng, xác lập các kênh
truyền thông mới, phù hợp với đối tượng công chúng hiện đại, nỗ lực phấn đấu
nâng cao hàm lượng văn hoá các kênh truyền thông trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0. 
- Giúp cơ quan báo chí truyền thông xác lập văn hoá đối ngoại trên cơ sở
tôn trọng, cùng phát triển 

Văn hoá đối ngoại là 1 trong những thuộc tính trong hoạt động đối ngoại
của các cơ quan báo chí truyền thông. Thuộc tính văn hoá quy định cơ quan báo
chí phải thực hành nghiêm túc các nguyên tắc văn hoá đối ngoại. Hệ nguyên tắc
đó được tạo lập trên cơ sở lợi ích, dựa trên khuôn khổ chính sách, đạo đức, pháp
luật, quan hệ kinh tế... giữa cơ quan báo chí truyền thông này với các cơ quan
báo chí truyền thông khác, giữa cơ quan báo chí truyền thông với cơ quan chủ
quản, với đối tác, với công chúng. 

4.3. Vai trò của văn hoá với công chúng

Có thể nói rằng văn hóa có rất nhiều vai trò khác nhau. Nhưng theo từ
điển bách khoa toàn thư, chức năng văn hóa là cách biểu hiện ra của văn hóa
nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Người ta có thể nêu lên rất nhiều chức
năng của văn hóa, đó là chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng
giải trí, chức năng giao tiếp, tích lũy, thông tin, ký hiệu, tâm linh. Cũng có một
số chức năng khác của văn hóa đã được nhiều người nói tới như: Chức năng xã
hội hóa cá nhân, động lực phát triển xã hội, mục tiêu phát triển xã hội, cố kết
cộng đồng, tổ chức xã hội, điều chỉnh xã hội, định hướng xã hội, dự báo xã
hội…

Văn hoá báo chí truyền thông làm thay đổi và gia tăng giá trị của các các
phẩm báo chí truyền thông. Điều đó, một mặt, dẫn tới văn hoá tiêu dùng báo chí
của công chúng thay đổi, như việc định hình thói quen mới trong tiếp nhận các
sản phẩm báo chí truyền thông, thay đổi thói quen trong sinh hoạt hàng ngày của
công chúng. Mặt khác, đặc tính giá trị trong văn hoá báo chí truyền thông cũng
dẫn tới văn hóa sáng tạo và văn hóa tham gia vào môi trường truyền thông của
đại chúng có nhiều thay đổi. Nói tóm lại, đó là sự thay đổi về thái độ và hành vi
văn hóa dưới tác động của văn hoá báo chí truyền thông. 
Xét về tầm ảnh hưởng và tác động của văn hóa cần phân biệt rõ có 2 cấp
độ: Thứ nhất, văn hóa tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của
mỗi con người và chức năng văn hóa chỉ được hoàn thành khi có thể đó nhận
thức sâu sắc và đi đến hành động quyết liệt. Thứ hai, văn hóa tác động trên diện
rộng, ở quy mô xã hội, nó góp phần cung cấp thông tin, định hướng nhận thức,
điều chỉnh hành vi làm cho xã hội đi đúng hướng và phát triển hài hòa. Như vậy
là, văn hóa có thể vừa tác động đến vĩ mô xã hội, vừa tác động đến vi mô cá thể
trong xã hội. Chính vì vậy, trong thực tế tùy theo từng mục đích nhất định mà
người ta có những cách thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức thực hiện phù hợp
để đạt được kết quả cao nhất.

5. Đặc trưng của văn hoá báo chí truyền thông

Vì văn hóa báo chí truyền thông cũng là văn hóa, là bộ phận cấu thành
văn hóa nói chung, nên tất nhiên, nó cũng mang những đặc trưng của văn hóa
bên cạnh những đặc trưng riêng của báo chí truyền thông. Căn cứ vào các quan
niệm đã nêu trong mục 1.3.1 và bổ sung góc nhìn của tác giả, tác giả cho rằng,
văn hoá báo chí truyền thông có những đặc trưng sau: 

- Tính hệ thống

 Văn hóa báo chí truyền thông là một chỉnh thể, bao gồm nhiều thành tố
liên kết chặt chẽ với nhau: văn hóa của chủ thể truyền thông, hàm lượng văn hóa
của thông điệp/sản phẩm truyền thông, của kênh truyền thông, của công chúng...
Giữa các thành tố văn hóa đó có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, tạo nên giá
trị biểu trưng của báo chí truyền thông, giúp báo chí truyền thông thực hiện tốt
nhất các chức năng xã hội của nó, như chức năng thông tin, tư tưởng, quản lý
giám sát xã hội, chức năng văn hóa, giải trí, chức năng kinh tế dịch vụ... theo
nguyên tắc xác định. Văn hóa của chủ thể truyền thông sẽ chi phối, quyết định
hàm lượng văn hóa của thông điệp truyền thông, của kênh truyền thông, định
hướng văn hóa của công chúng. Ngược lại, các yếu tố về kênh truyền thông hay
văn hóa công chúng sẽ tác động, ảnh hưởng đến thái độ, hành vi, và theo đó là
văn hóa của chủ thể truyền thông. Chẳng hạn, sự thay đổi về nhu cầu, thị hiếu,
trình độ, năng lực phản biện báo chí truyền thông của công chúng ở từng giai
đoạn sẽ ảnh hưởng tới thái độ ứng xử, hành vi tác nghiệp, đạo đức của nhà báo,
nhà truyền thông... 

Cùng với đó, văn hoá báo chí truyền thông không thể đi riêng đường, mà
tồn tại song song, đồng thời với văn hoá các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Không thể có văn hoá báo chí truyền thông nếu không có ngôn ngữ, đạo đức,
văn chương, phong tục tập quán, tư tưởng..., cùng với đó là một hệ sinh thái văn
hoá vật chất bao quanh. Văn hoá của các lĩnh vực sẽ va đập, tác động lẫn nhau,
hỗ trợ và nâng đỡ nhau. Với tính hệ thống, văn hóa truyền thông đa dạng, đa
chiều, đóng góp hiệu quả hơn vào mọi hoạt động của xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã
hội.

 - Tính giá trị 

Cũng như văn hóa nói chung, báo chí truyền thông là sản phẩm do con
người sáng tạo ra, phục vụ chủ yếu nhu cầu tinh thần của con người. Do đó, một
trong các đặc trưng của văn hoá báo chí truyền thông là tính giá trị, chủ yếu là
giá trị về tư tưởng, tinh thần.

 Không có báo chí truyền thông, con người không được thụ hưởng thông
tin cập nhật, chính xác, phong phú; không được có cơ hội mở rộng tri thức đa
dạng; hạn chế trong giao lưu, tiếp biến hình thái văn hoá; không được tiếp nhận
những chiều cạnh ảnh hưởng tích cực đến phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ...
Văn hóa báo chí truyền thông vun đắp, bồi tụ đạo đức, thẩm mĩ. Văn hóa báo chí
truyền thông ảnh hưởng sâu sắc đến thị hiếu công chúng... 
Dựa theo thời gian, văn hóa báo chí truyền thông có thể chia thành giá trị
nhất thời, giá trị vĩnh cửu. Có những giá trị vĩnh cửu của báo chí truyền thông
được tất cả các thế hệ nhà báo, nhà truyền thông, được cả xã hội công nhận,
được gìn giữ, bảo lưu. Đó là giá trị chức năng của báo chí truyền thông, là giá trị
đạo đức nghề nghiệp... đã được cả xã hội công nhận. Có những giá trị mang tính
nhất thời, chẳng hạn, giá trị của các sản phẩm báo chí truyền thông phục vụ
công chúng ở từng thời điểm ngày/tuần/tháng/quý... Những sản phẩm báo chí
truyền thông về dịch covid-19 khi đại dịch, sẽ có giá trị trong thời điểm dịch
bùng phát. Khi dịch qua đi vài quý, vài năm, giá trị thông tin về covid-19 không
còn nữa, nhường chỗ cho giá trị thông tin về các sự kiện, vấn đề mang tính thời
sự khác…

Qua việc xem xét các giá trị, văn hóa báo chí truyền thông sẽ có chức
năng điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của chủ thể truyền thông, khách thể
truyền thông..., rộng hơn là tác động vào xã hội, giúp mọi thành viên trong xã
hội hướng tới các chuẩn mực, thích ứng với những biến đổi của cuộc sống xã
hội, tạo động lực cho xã hội phát triển. 

- Tính nhân sinh

  Báo chí truyền thông do con người sáng tạo ra, luôn đứng trên quyền lợi
của con người và phục vụ cho con người. Do vậy, văn hoá báo chí truyền thông
hiển nhiên cũng do con người gây dựng, tạo lập và phục vụ cho cuộc sống con
người. Từ đó, có thể khẳng định, tính nhân sinh là một tính chất được thể hiện
đậm nét trong văn hoá báo chí truyền thông.

  Văn hoá báo chí truyền thông đảm đương sứ mệnh đáp ứng yêu cầu của
con người về tư tưởng, tinh thần. Đấy chính là biểu hiện cao nhất của tính nhân
sinh trong văn hóa báo chí truyền thông. Văn hoá báo chí truyền thông công
khai đứng về phía con người, đứng về phía nhân dân, trở thành món ăn tinh
thần, người đồng hành tin cậy, nhà “phán xử” trung thành - nơi gửi gắm tin
tưởng và công lý của nhân dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội.
Những sản phẩm báo chí truyền thông có văn hoá là những sản phẩm phê phán
mặt tối, tiêu cực đang phá huỷ môi trường, cuộc sống nhân sinh; cổ vũ, khích lệ,
nhân rộng những mặt tích cực trong cộng đồng. 

- Tính lịch sử 

Các giá trị của báo chí truyền thông được kiểm chứng qua thời gian, mang
tính kế thừa từ đời này qua đời khác. Ngay từ thời gian khai sinh nền báo chí
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xem báo chí là vũ khí cách mạng. Đảng,
Nhà nước ta luôn xem báo chí là phương tiện đấu tranh cách mạng hiệu quả. Dù
mỗi thời kỳ, báo chí truyền thông có giá trị riêng, nhưng nguyên tắc đó không
bao giờ thay đổi. Trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay, văn hóa báo chí
truyền thông tiếp biến những giá trị mới, mang thêm những đặc tính mới do sự
thay đổi về công nghệ truyền thông số đem lại. Đó là sự ra đời của các loại hình
truyền thông mạng xã hội, báo chí di động, báo chí truyền thông đa nền tảng,
truyền thông sáng tạo..., giúp hoạt động sáng tạo của nhà truyền thông đổi mới
và công chúng được tiếp nhận những sản phẩm truyền thông hấp dẫn hơn, tiện
lợi hơn. Nhờ đó, tự do báo chí, tự do ngôn luận được thực hiện rộng rãi hơn.

 - Tính chính trị - xã hội 

Bởi báo chí truyền thông là hoạt động gắn bó chặt chẽ với cuộc sống - xã
hội - giai cấp, mang tính chính trị xã hội, nên văn hóa báo chí truyền thông cũng
mang đặc trưng tính chính trị - xã hội. Tính chính trị yêu cầu mọi hoạt động báo
chí truyền thông đặt dưới định hướng của Đảng; giá trị báo chí truyền thông phải
được xem xét dưới lăng kính quyền, lợi ích của Đảng cầm quyền, của Nhà nước.
Trong khi đó, tính xã hội của văn hóa báo chí truyền thông nằm ở chỗ, báo chí
truyền thông là kênh, phương tiện, con đường góp phần lan tỏa các giá trị văn
hóa ra cộng đồng, thẩm thấu từ người nọ qua người kia, từ thế hệ nọ qua thế hệ
kia một cách tự nhiên. 

- Tính nhân văn 

Nhân văn chính là những tư tưởng, quan điểm, tình cảm khi bàn về các
giá trị sống của một con người như: Phẩm giá, tình cảm, trí tuệ, vẻ đẹp, sức
mạnh, được thể hiện dưới nhiều góc độ trong mối quan hệ với đồng loại, tự
nhiên và với đời sống xã hội. Trách nhiệm của báo chí truyền thông là phản ánh
thế giới con người dưới góc nhìn nhân văn, nghĩa là tôn trọng phẩm giá, tình
cảm, trí tuệ, vẻ đẹp, sức mạnh của con người, tôn trọng quyền được sống, được
lao động, học tập, vui chơi, phát triển toàn diện các kỹ năng, hướng con người
thực hành các giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Tính nhân văn trong báo chí được thể
hiện từ cấp độ và góc độ tiếp cận, phản ánh sự kiện, vấn đề, đến cách sử dụng
chi tiết, ngôn từ, hình ảnh… trong mỗi tác phẩm. Việc gia tăng những bài viết
mang tính chất ngợi ca, giọng điệu lạc quan, vui tươi cũng chính là liều thuốc bổ
nâng đỡ tinh thần con người. Hạn chế thông tin sai lệch, xuyên tạc, những luồng
tin mang tính chất lệch chuẩn, phản văn hoá… để công chúng không bị tiêm
nhiễm thói hư, tật xấu cũng chính là đảm bảo tính nhân văn của báo chí truyền
thông.

 - Tính sáng tạo 

Bản chất của hoạt động báo chí truyền thông là hoạt động sáng tạo. Nhà
truyền thông phải tạo ra những sản phẩm báo chí truyền thông bằng chính năng
lực, tư duy và cảm quan cuộc sống. Sự sáng tạo đó diễn ra hàng ngày, hàng giờ,
nhằm có được những sản phẩm báo chí truyền thông chất lượng, đưa đến cho
công chúng tiếp nhận. Không chỉ sáng tạo về nội dung, các cơ quan báo chí
truyền thông còn sáng tạo về hình thức chuyển tải thông điệp. Các loại hình báo
chí, truyền thông mới ra đời như sự xuất hiện của báo mạng điện tử, phát thanh
Internet, truyền hình Internet, báo chí di động, báo nhúng, báo chí nhân tạo,
truyền thông tích hợp, truyền thông đa phương tiện, truyền thông số… chính là
sản phẩm của sự sáng tạo không ngừng nghỉ của con người trong lĩnh vực báo
chí truyền thông. Phải có sự sáng tạo đó, mới kích thích sự phát triển của báo
chí, cũng như gia tăng hiệu quả tiếp nhận. Trong khi sáng tạo là một thuộc tính
của văn hoá, thì hiển nhiên, trong lĩnh vực báo chí truyền thông, sáng tạo cũng
chính là đặc trưng của văn hoá báo chí truyền thông.

 -Tính đại chúng

 Báo chí truyền thông mang tính đại chúng sâu sắc, bởi đối tượng phản
ánh của nó là công chúng, đối tượng hướng tới tác động, ảnh hưởng cũng là
công chúng rộng rãi trong xã hội. Vì vậy, văn hoá báo chí truyền thông cũng có
đặc trưng của tính đại chúng, thể hiện ở các góc độ: 

+ Văn hoá báo chí truyền thông phản ánh văn hoá đại chúng, lấy văn hoá
đại chúng làm nguồn tin quan trọng, làm chất liệu trực tiếp cho các tác phẩm.

+ Văn hoá báo chí truyền thông đảm bảo các sản phẩm báo chí truyền
thông hướng tới phục vụ lợi ích của đại chúng. Đó là lợi ích được tiếp cận,
hưởng thụ thông tin. Nhưng hơn thế, báo lấy quyền được sống, được học tập,
làm việc, vui chơi, giải trí, được tự do ngôn luận… của nhân dân làm đối tượng
phản ánh và sứ mệnh hoạt động của mình. 

+ Văn hoá báo chí truyền thông góp phần định hình văn hoá đại chúng -
từ văn hoá tiêu dùng, thời trang, văn hoá ứng xử, tới thị hiếu thẩm mỹ, đức tin,
tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật…

 + Văn hoá báo chí truyền thông đảm bảo các sản phẩm truyền thông phù
hợp với nhu cầu và năng lực tiếp nhận của đại chúng. Thứ nhất là thông tin đơn
giản, dễ hiểu, dễ làm theo. Thứ hai là báo chí sử dụng phương tiện mà công
chúng có thể tiếp cận được hoặc những phương tiện thông minh phù hợp với đòi
hỏi cao của công chúng hiện đại.

 + Văn hoá báo chí truyền thông gắn bó chặt chẽ với dư luận xã hội. Báo
chí khơi thức và định hướng dư luận đại chúng, từ đó, tập hợp dư luận xã hội để
tạo thành sức mạnh, tham gia giải quyết các mâu thuẫn xã hội, các vấn đề xã hội
đang đặt ra, chung sức cùng Đảng, Nhà nước thực hiện thành công những nhiệm
vụ cách mạng của từng thời kỳ. Mô hình đặc trưng văn hóa báo chí truyền thông

II, Lựa chọn một tờ báo và phân tích hàm lượng văn hóa của tờ
báo đó? Vì sao tờ báo đó được gọi là một tờ báo văn hóa?

1, Tờ báo lựa chọn: Hà Nội mới (gồm 2 ấn phẩm “Hà Nội mới hàng ngày”
(nhật báo) và “Hà Nội mới cuối tuần” (tuần báo)

Là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ TP Hà Nội, tiếng nói của chính quyền, diễn
đàn của nhân dân Thủ đô, 60 năm qua, Báo Hànộimới luôn nỗ lực, đi đầu trong
phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền và nhu cầu thông
tin của người dân, đóng góp hiệu quả cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, phát triển
Thủ đô và đất nước. Hànộimới là cơ quan báo Đảng địa phương đầu tiên trong
cả nước được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, được Bác Hồ 2 lần đặt
tên.

Trước năm 1975, ở miền Bắc chỉ có 3 tờ nhật báo là Nhân Dân, Quân đội nhân
dân và Hà Nội mới. Đối tượng bạn đọc có thể khác nhau nhưng cả ba cơ quan
báo đều có nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước, tuyên truyền, cổ vũ nhân dân xây dựng đời sống văn hóa, kiến
thiết đất nước, đấu tranh với kẻ thù để thống nhất nước nhà. Hà Nội mới là tờ
báo địa phương, nhưng với vị thế cơ quan ngôn luận của Thủ đô nên có những
nét đặc thù.

Ngày 24 tháng 10 năm 1957, báo Thủ đô xuất bản số hàng ngày đầu tiên với tiêu
đề "Sau 3 năm giải phóng". Trải qua quá trình sáp nhập với báo Hà Nội hàng
ngày trở thành báo Thủ đô Hà Nội, rồi sau đó sáp nhập với báo Thời Mới thành
báo Hà Nội mới. Ngày 1-8-2008, Báo Hà Nội mới và Báo Hà Tây hợp nhất
thành báo Hà Nội mới như hiện tại.

Là tờ báo Đảng địa phương, nhưng có thể khẳng định Hànộimới là tờ báo mang
tầm quốc gia có truyền thống lịch sử rất vẻ vang. Cùng với hệ thống báo chí cả
nước, Hànộimới luôn ở tuyến đầu trên mặt trận tư tưởng văn hóa, cung cấp cho
bạn đọc những thông tin chính xác, kịp thời và giữ vai trò định hướng dư luận xã
hội. Các ấn phẩm của Hànộimới tập trung phản ánh nhanh, chính xác, chuẩn
mực về kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển Thủ đô cũng như cả nước, góp
phần thực hiện tốt quan điểm phát triển “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội”.
2, Phân tích hàm lựng văn hóa của tờ báo “Hà Nội mới”

       Để phân tích, chỉ rõ hàm lượng văn hóa của báo Hà Nội mới với hai ấn
phẩm nổi bật là Hà Nội mới hàng ngày và Hà Nội mới cuối tuần, cần trả lời
được các câu hỏi:

       - Viết cho ai? Viết để làm gì?

       - Viết cái gì?

       - Viết như thế nào?

       - Hàm lượng thông tin ở mỗi chuyên mục trên báo?

       - Các nguyên tắc nghề nghiệp mà phóng viên và tòa soạn đã tuân thủ khi
làm báo?

2.1. Nội dung

2.1.1 Thể hiện tính chính trị

Xác định tinh thầ n “báo chí đồng hành cùng với sự nghiệp đấu tranh,
bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước” nói chung và sự nghiệp xây dự ng thủ
đô giàu đẹp, vă n minh, hiện đạ i nói riêng, Hà Nộ i mớ i chú trong khai thác sâu
vào các thông tin chính trị, xã hộ i củ a thành phố , nhữ ng kết quả mà thành phố
đạ t đượ c, các hoạ t độ ng, chỉ đạ o củ a Đả ng bộ , chính quyền và hoạ t độ ng củ a
các đồ ng chí lãnh đạ o thành phố .

Báo Hà Nội mới có hẳn 1 chuyên mục  “Chính trị” gồm 3 chuyên mục
con:  Nghị quyết và Đời sống, Đối ngoại, Xây & Chống.
Có nhiều bài viết thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của Đảng ta, nhất
quan trong tư tưởng. Luôn coi trọng, có nhiều bài viết củng cố chủ nghĩa Mác -
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bài báo “Khát vọng trường tồn dân tộc - Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh”

Đặc biệt, các sự kiện, diễn biến được ghi nhận và phân tích dưới góc nhìn
khách quan, tôn trọng sự thật như cách mà nó phản ánh. Tình trạng áp đặt chủ
quan, thông tin sai sự thật, “che mắt dư luận”, bôi đen tô hồng sự thật, “ăn ốc
nói mò”, suy đoán vô căn cứ... hoàn toàn không xảy ra. Cũng chính điều đó làm
cho uy tín của tờ báo ngày càng được khẳng định và củng cố, được bạn đọc tin
tưởng, là nguồn thông tin chính thống đáng tin cậy ngay cả trong những lúc dư
luận đang mâu thuẫn, phức tạp, sóng gió nhất. 

Bài báo “Đoàn kiểm tra Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống, tham nhũng, tiêu cực
triển khai công tác kiểm tra tại Ban thường vụ Tỉnh uỷ Yên Bái”.

Bài báo “Yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa”.

HàNoimoi kịp thời lên án, phát hiện, phê phán những biểu hiện tiêu cực,
Sẵn sàng lên tiếng phản ánh những vấn đề chưa được, còn tồn đọng trong bộ
máy chính trị, làm ảnh hưởng đến đất nước. Tờ báo luôn đứng về lẽ phải, xây
dựng các diễn đàn để nhân dân được tham ia vào quá trình phát hiệnt tố cáo, nêu
lên ý kiến của mình. 

Bài viết “Chống thói lạc quan tếu, chủ quan” nhằm phê phán hiện tượng tiêu cực trong xã
hội

Bài viết “Tiếp thu góp ý của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng” nhằm khuyến khích
sự tham gia quản lý của nhân dân

Báo cũng tích cực thể hiện các đường lối đối ngoại của Đảng, có những
bài viết làm gia tăng tình hữu nghị giữa bạn bè quốc tế, thể hiện rõ Việt Nam là
nước ưa chuộng hoà bình, tuyển đối không dùng vũ lực để giải quyết xung đột.
Bài báo “Lãnh đạo Việt Nam và Campuchia trao đổi thư mừng kỷ niệm 55 năm thiết lập quan
hệ ngoại giao”

Bài viết ‘Thúc đẩy quan hệ ASEAN - Ấn Độ, đóng góp hiệu quả cho hoà bình, an ninh, ổn
định ở khu vực”

2.1.2. Thể hiện tính nhân văn và nhân đạo

Đối với bất kỳ ngành nghề nào, vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng phải
được đặt lên hàng đầu, bởi đây chính là thước đo giá trị của việc hành nghề chân
chính. Hà Nội mới luôn thể hiện tư tưởng nhân văn, đáp ứng nhu cầu thông tin
đa dạng, phong phú của cuộc sống, từ đó đấu tranh loại bỏ những nhân tố xấu
trong xã hội, nhân rộng những tấm gương người tốt việc tốt, giữ gìn những nét
đẹp văn hóa của dân tộc, hướng con người đến giá trị chân – thiện – mỹ…

Bài viết “Củng cố, bồi đắp truyền thống thanh lịch, văn minh” nhằm giũ gìn nét đẹp truyền
thống trong mỗi gia đình Việt.

Bài viết “Phát động cuộc thi “Phụ nữ Thủ đô với văn hoá giao thông” năm 2021”

Tờ báo luôn chia sẻ những câu chuyện nhân văn, những việc tốt, người tốt
nhằm lan toả sự tử tế đến cho mọi người trong xã hội. Làm cho việc làm tốt này
được biết đến nhiều hơn, trở thành một phong trào để có thể giúp đỡ những
người cần sự quan tâm.

Bài viết “Trao tặng 200 triệu đồng ủng hộ Chương trình “Mẹ đỡ đầu””

Báo Hà Nội mới luôn chia sẻ những câu chuyện về những người có hoàn
cảnh sống khó khăn, không nơi nương tựa, những đứa trẻ mồ côi, bụi đời,... cần
được sự quan tâm và giúp đỡ từ cộng đồng. Tờ báo luôn đứng về phía những
người yếu thế, đi vào tậncufng cua những con ngõ để chứng kiến  và đồng cảm
với họ. 

Bài viết “Một gia đình bất hạnh cần được giúp đỡ”
2.1.3. Luôn dành sự quan tâm đến các trẻ nhỏ

Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, là tài sản vô giá của
mỗi gia đình cần được quan tâm, chăm sóc. Hiểu được điều đó, báo Hà Nội mới
luôn dành những bài viết của mình nhằm ohanr ánh thế giới tuổit hơ dưới góc
nhìn nhân văn. Tờ báo đã cất lên tiếng nói bảo vệ cho những đứa trẻ có một
cuộc sống lành mạnh, phát triển toàn diện.

Bài viết ““Gõ cửa” thế giới trẻ thơ bằng “lời mời” bền bỉ”

Bài viết “Mang niềm vui, niềm tin đến với trẻ em khó khăn”
Với một tờ báo lớn và có bề dày lịch sử như Hà Nội mới, các lĩnh vực mà
tờ báo này phản ánh rất phong phú, đa dạng, bao trùm toàn bộ mọi lĩnh vực của
đời sống chính trị - xã hội với mục tiêu là thông tin nhanh - kịp thời - chính xác,
từ chính trị, thời sự, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, xã hội, giải trí... 

2.2. Hình thức

2.2.1 Ngôn từ và giọng điệu

Rất ít để nhận ra trên các mặt báo của Hà Nội mới xuất hiện tình trạng
giật tít, câu view. Các từ ngữ được dùng đều rõ ngĩa, không mang nghĩa bóng,
không lạn dụng quá nhiều từ ngữ hottrend,...

2.2.2. Tần suất và thời gian đăng bài

Tần suất đăng bài thường xuyên và đều đặn, giờ đăng phù hợp với thời
gian của đối tượng độc giả.

2.2.3. Hình thức thể hiện

Các thức thể hiện bài viết phong phú đa dạng, tuỳ từng bài có cách thể
hiện phù hợp.

2.2.4. Thể loại các bài báo

Vào những ngày đầu thành lập Hà Nội mới lúc đó tuy là báo địa phương
nhưng có vị trí quan trọng trong làng báo. Một năm xuất bản ngót 500 số báo,
qua các thời kỳ đều đều trên các ấn phẩm của Hà Nội mới luôn có bài “đọc
được” với ngôn ngữ báo chí pha văn chương cuốn hút, điều đã làm nên bản sắc
Hànộimới. Báo khi đó rất mạnh về các bài điều tra, phóng sự, ký dài kỳ. Loạt
bài điều tra “Nghiên cứu các viện nghiên cứu” chỉ ra nhiều bất cập ẩn giấu trong
những điều quen thuộc.

Không chỉ có các bài điều tra, Hà Nội mới còn có nhiều bài phóng sự lay
động bạn đọc. Đó là các bài dài kỳ về huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển,
đường Trường Sơn trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đặc biệt là các bài viết
về bảo vệ biển đảo Việt Nam. Ngày 2-5-2014, khi phía Trung Quốc mang giàn
khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Hoàng Sa một cách trái phép, báo đã cử
phóng viên theo tàu cá của ta ra thực địa, lênh đênh trên sóng biển Hoàng Sa hàng
tuần lễ, để rồi khi về bờ đã có nhiều bài viết xúc động. Những bài viết đó đã làm
cho bạn đọc gắn bó hơn với Hà Nội mới.

Còn hiện này khi thời đại phát triển, tờ báo lớn mạnh dần có thể kể đến
một số chuyên mục (Hà Nội mới hàng ngày) như Thời sự, Thời sự chuyên đề,
Suy ngẫm đầu tuần, Nông nghiệp - nông thôn, Văn hóa - xã hội, Nhịp sống
phương Nam, Vì thủ đô giàu đẹp, văn minh, Ống kính Hà Nội mới, Mỗi ngày
một câu chuyện. Hay như các chuyên mục trong ấn phẩm Hà Nội mới cuối tuần
số thứ 3 ngày 15/01/2022: Du lịch trải nghiệm ngoài trời: Xu hướng của tương
lai, Văn hóa - sáng tạo, Chuyện phố - chuyện làng, Ký sự nhân vật, Tinh hoa xã
hội, Nghệ thuật, Cà phê cuối tuần, Câu chuyện âm nhạc, Văn học, Văn học và
đời sống, Sách hay, Tác giả - tác phẩm, Sống khỏe, Mách bạn, Bác sĩ tại nhà, Du
lịch, Khám phá, Thế giới muôn màu, Thông tin - tuyên truyền, Chuyển động.
Nhìn chung, mọi chủ đề, chuyên mục được đề cập khai thác trong báo Hà Nội
mới có tính bao quát, gần như phủ hết toàn bộ đời sống xã hội, tờ báo cùng với
đội ngũ phóng viên lành nghề đã nắm bắt thành công và kịp thời những bước đi
nhịp thở của cuộc sống. Sau cùng họ phản ánh qua các bài viết, tái hiện cả một
xã hội thu nhỏ đang chuyển động. Ở đó, các bài viết có hàm lượng trí tuệ cao,
âm vang của những dư ba cuộc sống mà đội ngũ phóng viên đã hết sức kỳ công
thu lượm. Điều đó cũng thể hiện rõ nét sự tâm huyết với nghề, trách nhiệm với
công chúng của các nhà báo trong cơ quan tòa soạn, phần nào cho thấy được
tầm quan trọng của Hà Nội mới.

Ngày nay, công nghệ đã khiến báo chí thay đổi, lớp bạn đọc mới cũng làm
báo chí thay đổi. Nhưng có một thứ mà Hà Nội mới không thay đổi, đó là độ tin
cậy của thông tin, là góc nhìn chững chạc. Và, đến thời điểm hiện tại, Hà Nội
Mới vẫn giành được tình cảm của bạn đọc Thủ đô.

2.2.3. Hình ảnh

Hình ảnh rõ nét, chất lượng, ảnh nếu lấy nguồn từ nhiều bên đều ghi
nguồn đầy đủ. Hình ảnh minh hoạ phù hợp với nội dung bài viết.

Vì sao “Hà Nội mới” là một tờ báo có văn hoá?

Vì tờ báo đáp ứng đủ các tiêu chí sau:


- Tính Đảng (tính khuynh hướng): Đảng lãnh đạo toàn diện hệ thống
chính trị, trong đó có báo chí Việt Nam. Hệ tư tưởng, tinh thần, chủ trương
đường lối của Đảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hoạt động thông tin tuyên truyền
của báo chí. Hà Nội mới cũng không ngoại lệ.

       - Tính khách quan, chân thật: Phản ánh báo chí phải tôn trọng sự thật,
phản ánh đúng sự thật, xuất phát từ chính thực tế sự việc xảy ra, không lồng
ghép vào đó những nhận định, tư tưởng chủ quan của cá nhân người viết, không
thổi phồng sự thật, nói quá sự thật, phản ánh sự việc như bản thân nó vốn có.

       - Tính nhân dân và dân chủ: Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được
thể hiện rõ nét khi mọi đối tượng công dân, bạn đọc đều có thể làm cộng tác
viên của tòa soạn, đều được bày tỏ quan điểm, ý kiến về hoạt động của tòa soạn.
Nghĩa là đều được phản hồi về nguồn phát thông tin sau khi đã tiếp nhận thông
tin từ quá trình thông tin - truyền thông của cơ quan báo chí dưới hình thức một
ấn phẩm phát hành.

       - Tính nhân văn, nhân đạo: Thấm đẫm tinh thần dân tộc, kế tục truyền
thống nhân văn sâu sắc, Hà Nội mới cũng hướng tới mục tiêu đấu tranh với cái
xấu, với những điều tiêu cực đang ẩn hiện trong xã hội và nhân bản, lan tỏa giá
trị tích cực, những tấm gương, cách làm mới... đến cộng đồng, làm cho những
giá trị ấy ngày càng được nhân bản.

       - Tính dân tộc và quốc tế: Báo chí đồng hành với sự phát triển của đất
nước, gắn bó với từng diễn biến, từng thời đoạn thăng trầm của đất nước. Hà
Nội mới là một tờ báo tỉnh, ra đời năm 1957, do đó đương nhiên trở thành một
ấn phẩm báo chí mang tính cách mạng, là nhân chứng lịch sử của thủ đô trên
mỗi chặng đường xây dựng và phát triển.

CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU VỀ PHẢN VĂN HOÁ BÁO CHÍ


I. ĐỊNH NGHĨA

1. Khái niệm phản văn hóa báo chí

Phản văn hóa báo chí truyền thông là những biểu hiện đi ngược lại các giá trị
văn hóa được tạo lập, được công nhận trong lĩnh vực báo chí truyền thông,
dẫn đến việc các nhà truyền thông, các cơ quan báo chí truyền thông hoạt
động kém chất lượng, hiệu quả, tác động xấu đến đời sống xã hội nói chung
và đến các sản phẩm do chủ thể truyền thông tạo ra nói riêng.

II. NHẬN DIỆN CÁC YẾU TỐ PHẢN VĂN HOÁ BÁO CHÍ

1. Thiếu bản lĩnh chính trị

Một bộ phận không nhỏ người làm báo, kể cả một số cán bộ lãnh đạo cơ
quan báo chí, chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân của người làm báo. “Đã xuất hiện trên một vài tờ báo, tạp chí
những bài viết vô tình hay cố ý đi chệch định hướng chính trị: hoài nghi, phê
phán hoặc phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi xem
xét lại hoặc xoá bỏ Điều 4 của Hiến pháp; thỏa hiệp với quan điểm đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập; lật lại một số vấn đề lịch sử đã được kết
luận, xuyên tạc lịch sử; xóa nhòa ranh giới giữa cuộc kháng chiến chống kẻ
thù xâm lược của quân và dân ta với cuộc chiến tranh phi nghĩa của những kẻ
xâm lược và bè lũ tay sai; đòi "khôi phục chế độc lập cho báo chí", "khơi
thông một dòng văn học đang âm thầm chảy" (dòng văn học của những cây
bút chống Cộng trước năm 1975); “hạ bệ”, “giải thiêng” các nhà văn có tên
tuổi trên văn đàn, dè bỉu “văn chương minh hoạ”, “ru ngủ”, “tô hồng hiện
thực”; tung lên mạng internet các tác phẩm, ý kiến có nội dung sai trái, vô
bổ, thậm chí độc hại”
Bên cạnh đó, một số người khi viết trên báo, vẫn tuân thủ chuẩn mực đạo đức
báo chí, nhưng khi sử dụng mạng xã hội Facebook, Youtube, Zalo, lại “bung
xua”, thể hiện quan điểm sai lệch, ý kiến tiêu cực, mà dư luận gọi là “nhà báo
hai mặt”. Trên không gian mạng, thay vì đấu tranh với luận điệu xuyên tạc,
bịa đặt của các thếlực thù địch, phòng, chống nạn tin giả (fake news), định
hướng hoặc trấn an dư luận trước thông tin sai lạc, không thể kiểm chứng...
thì một số nhà báo lại bẻ cong ngòi bút, phát ngôn tiêu cực, làm nhiễu loạn
dư luận, gây khó khăn cho cơ quan chức năng...

Thiếu bản lĩnh chính trị cũng là lý do để cách nhìn nhận, đánh giá hiện thực
của nhiều nhà báo trở nên sai lệch, hạn hẹp về tầm nhìn. Hồ Chủ tịch đã dặn:
‘’Nêu cái hay cái tốt phải có chừng mực, chớ phóng đại”. Nhà báo Hữu Thọ
đã nói, một là thông tin trung thực, hai là có chừng mực. Ấy là thể hiện bản
lĩnh chính trị. Nhưng do nhận thức chính trị kém, nhiều nhà báo không hiểu
được ranh giới của thông tin, không biết nên nói cái gì, nói như thế nào, nói
bao nhiêu là đủ, thành ra, vi phạm khuyết điểm, sai lầm. Chẳng hạn, nhiều
nhà báo mải mê thông tin về mặt hàng nông sản của Việt Nam bị tẩm ướp
thuốc bảo quản, vô hình chung, ảnh hưởng đến xuất khẩu ra nước ngoài.
Cách đây nhiều năm, nhà báo thiếu nhạy cảm khi đăng tải thông tin về các
cuộc biểu tình của người dân phản đối Trung Quốc đặt giàn khoan trên thềm
lục địa Việt Nam, khiến kẻ thù lợi dụng để phê phán chính sách của Chính
phủtrên biển Đông…

Thiếu bản lĩnh chính trị cũng là nguyên nhân sâu xa của hiện tượng nhà báo
trục lợi, bẻ cong ngòi bút, của hiện tượng “truyền thông bẩn”, vi phạm đạo
đức nghề nghiệp như sẽ đề cập trong mục dưới đây.

- Ví dụ 1: Hai phóng viên tống tiền thẩm mĩ viện và cái kết thích đáng
Ngày 22-4, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Từ Sơn (Bắc Ninh) cho biết
ngày 20-4, đơn vị phối hợp với Tòa án nhân dân cùng cấp tổ chức phiên tòa
hình sự xét xử sơ thẩm, tuyên phạt Vũ Thị Oanh (30 tuổi, cựu phóng viên tạp
chí Đời Sống Pháp Luật) và Nguyễn Thị Loan (34 tuổi, cựu phóng viên tạp
chí Kinh Doanh Và Biên Mậu Việt Nam) mỗi người 4 năm tù giam về tội
cưỡng đoạt tài sản.

Theo cáo trạng, lúc 16h40 ngày 27-8-2021, tại quán cà phê Tùng Lâm (thành
phố Từ Sơn), Oanh và Loan có hành vi sử dụng hình ảnh của thẩm mỹ viện
MB hoạt động chui trong thời gian thành phố Bắc Ninh giãn cách xã hội để
đe dọa, ép buộc chủ cơ sở là chị Nguyễn Thị M. phải đưa cho Oanh và Loan
25 triệu đồng. Nếu không Oanh và Loan sẽ viết bài đăng lên các báo và gửi
hình ảnh đến cơ quan chức năng. Khi Oanh và Loan nhận 25 triệu đồng của
chị M. thì bị lực lượng Công an thành phố Từ Sơn cùng Công an phường
Đông Ngàn bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi của Oanh và Lan đã lạm dụng chức quyền để tống tiền doanh
nghiệp. Đã dung chính “ngòi bút” của mình nhằm trục lợi cá nhân, đáng lẽ là
những người nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, không bị ảnh hưởng bởi
danh lợi, tiêu cực thì lại vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào các chứng cứ, tài
liệu thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại
phiên tòa và đề nghị của đại diện viện kiểm sát, hội đồng xét xử đã tuyên
Oanh và Loan mỗi người 4 năm tù cùng về tội cưỡng đoạt tài sản.

2. Vi phạm đạo đức nghề nghiệp

Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo nói riêng, người làm truyền thông
nói chung hiện nay, đang chịu tác động bởi nhiều yếu tố:

+ Sự thay đổi nhất định trong hệ giá trị chuẩn mực cốt lõi của người Việt
Nam. Chúng ta đều biết, hệ giá trị chuẩn mực cốt lõi con người Việt Nam
bao gồm:

1. Yêu nước, ý chí tự cường dân tộc;

2. Nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, trọng đạo lý;

3. Đoàn kết;

4. Cần cù, sáng tạo.

Tuy nhiên, trong thời đại mới, dưới tác động tiêu cực của kinh tế thị trường,
của quá trình mở cửa, hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước với khu vực
và quốc tế, các giá trị trong Hệ giá trị cốt lõi đang bị tác động hết sức mạnh
mẽ theo nhiều chiều, kể cả chiều tiêu cực. Nhu cầu hưởng thụvật chất trong
thời hiện đại, lối sống vị kỷ, tư lợi, thực dụng là có thật, đang lây lan trong xã
hội theo vòng sóng nước, khiến nhiều nhà báo cũng bị ảnh hưởng.

+ Sự thiếu bản lĩnh chính trị và văn hóa, thiếu tu dưỡng và sự rèn luyện đạo
đức thường xuyên của một bộ phận nhà báo, nhà truyền thông. Nhiều nhà
báo thiếu kiến thức cơ bản về báo chí, không nhận thức đúng vai trò và chức
năng của báo chí với xã hội. Thậm chí, có một bộ phận nhỏ của nhà báo chỉ
đơn thuần coi báo chí là phương tiện kiếm sống, thậm chí làm giàu. Ở các
doanh nghiệp truyền thông, không ít nhà truyền thông bằng mọi cách để có
được sản phẩm quảng bá, bất chấp sự thật để quảng bá cả những sản phẩm
kém chất lượng... Tất cả những lý do đó đã đẩy một số báo chí, một số nhà
báo, nhà truyền thông dấn sâu vào con đường tiêu cực.

+ Vấn đề quản lý hoạt động báo chí còn bất cập. Ở cấp vĩ mô, vẫn còn tình
trạng buông lỏng quản lý, cấp phép ra đời nhiều cơ quan báo chí ở cấp bộ,
cấp địa phương, cấp hội đoàn, dẫn đến sự lạm phát các cơ quan báo chí
không có khả năng làm kinh tế, khiến việc bằng mọi giá để kiếm tiền nở rộ
và có xu hướng ngày càng tăng. Nhiều cơ quan báo chí phải tự hạch toán
kinh doanh trong bối cảnh thương hiệu, uy tín còn hạn chế, lượng phát hành,
lượng công chúng tiếp nhận thấp nên gặp nhiều khó khăn. Do vậy, nhiều cơ
quan tạo áp lực cho nhà báo phải tìm kiếm các hợp đồng quảng cáo, giao chỉ
tiêu kiếm hợp đồng quảng cáo đối với các nhà báo, phòng viên. Để hoàn
thành nhiệm vụ, bắt buộc nhà báo phải thiết lập mối quan hệ “thoả thuận”,
thậm chí là “thoả hiệp”. Không ít cơ quan báo chí tự chủ về kinh phí đã tìm
kiếm lượng view từ công chúng thông qua cách thức “thương mại hóa báo
chí”, biến sản phẩm mang tính chính trị xã hội, giá trị tinh thần cao quý thành
sản phẩm thuần vật chất. Trong bối cảnh đó, bản thân các nhà báo cũng bị
cuốn vào guồng máy, phải uốn ngòi bút, lách ngòi bút chiều lòng bộ phận
công chúng có thị hiếu tầm thường.

+ Sự quản lý của các cơ quan chủ quản thường rất lỏng lẻo (trừ các cơ quan
báo Đảng). Đó là chưa kể hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí còn nhiều
kẽ hở khiến cho những vi phạm trong đạo đức nghề báo chưa được kiểm soát
chặt chẽ.

Thực tế đó đã làm nảy sinh các biểu hiện phản văn hoá báo chí truyền thông,
biểu hiện ở việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp. PGS.TS. Nguyễn Thị Trường
Giang đã nghiên cứu, đúc kết những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề
báo ở Việt Nam, bao gồm: Khuynh hướng xa rời tôn chỉ mục đích; Khuynh
hướng thương mại hoá báo chí, chạy theo lợi nhuận đơn thuần (Đăng tải quá
nhiều các vụ án mạng, mặt trái của xã hội, Lợi dụng đưa tin, bài về đề tài giới
tính, yêu đương, hôn nhân, tình dục nhằm câu khách, khêu gợi trí tò mò, kích
dục; Khai thác các thông tin, đề tài mê tín dị đoan, trong đó, “đời sống tâm
linh” của con người được bàn luận, đề cập nhiều nhất; Quảng cáo trá hình,
quảng cáo thiếu trung thực); Đưa tin sai sự thật, gây hậu quả nghiêm trọng;
Biết sai không cải chính; Sử dụng tin, bài, ảnh của người khác mà không xin
phép; Thiếu tính nhân văn; Thiếu trách nhiệm xã hội (Khi thông tin về tham
nhũng, tiêu cực; Khi thông tin về các vụ tranh chấp, khiếu kiện; Khi thông tin
về kinh tế, đặc biệt là những thông tin liên quan đến giá cả, tiền tệ, thu nhập,
hoạt động của ngân hàng, tài chính, chứng khoán, xăng dầu; Khi thông tin về
các vấn đề quốc tế); Lợi dụng chức vụ, quyền hạn của nhà báo, cơ quan báo
chí để trục lợi (Tống tiền, Nhận hối lộ bảo kê cho thế lực xấu; Lợi dụng danh
nghĩa nhà báo để giải quyết mục đích cá nhân)1

Xin đề cập một số biểu hiện phản văn hoá báo chí truyền thông của nhà báo,
ở giác độ đạo đức nghề nghiệp như sau:

2.1. Đưa thông tin mang tính “lá cải”, thương mại hoá báo chí

+ Chạy theo thông tin tiêu cực mà quên lãng dòng thông tin tích cực. Nhiều
nhà báo không hào hứng với những thông tin tích cực, những điển hình tiên
tiến mà có xu hướng chạy theo những những thông tin tiêu cực, những vụ án
hình sự thiếu định hướng dư luận, thiếu tính giáo dục.

+ Đưa thông tin dung tục, trái thuần phong mỹ tục. Có tờ báo đăng bài phỏng

vấn một nam ca sĩ vì sao không muốn lập gia đình với nội dung: ca sĩ trả lời
sẵn sàng “cho con” nếu những fan nữ có yêu cầu. Rồi việc ca sĩ Ngọc Sơn
lên báo khẳng định việc mình vẫn còn trinh tiết... Một số nhà báo chuyên làm
nhiệm vụ “săn tin” facebook của người nổi tiếng, chủ yếu nhặt tin mang tính
gây sốc, hoặc những tin dung tục về cơ thể, chuyện yêu đương, chuyện chăn
gối… Ngay cả trên đài truyền hình, một số chương trình games show cũng
đưa hài nhảm, khai thác quá mức chuyện phòng the dung tục, khiến chương
trình có yếu tố phản văn hoá, công chúng bất bình.
+ Khai thác thông tin mê tín dị đoan, tiếp tay cho những hủ tục lạc hậu, thiếu
cơ sở khoa học: Mê tín dị đoan là hiện tượng không mới trong đời sống xã
hội. Cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, mê tín dị đoan được coi
là sự tin tưởng một cách mê muội vào điều hoang đường, dị thường, không
hợp với tự nhiên, không có cơ sở khoa học, cần loại trừ khỏi cuộc sống. Điều
9 Luật Báo chí cũng đã nghiêm cấm thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị
đoan; thông tin về những chuyện thần bí gây hoang mang trong xã hội, ảnh
hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe của cộng đồng.

Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có một bộ phận lớn người dân sùng tín, tin vào
bói toán, xem tướng số, tử vi, nên các tin, bài về đề tài này có sức hút nhất
định. Không còn lạ khi người đọc gặp trên báo những tác phẩm tập trung
khai thác thông tin mê tín dị đoan, kì bí, tiếp tay cho những hủ tục lạc hậu,
thiếu cơ sở khoa học (ngày tận thế, người ngoài hành tinh, ma ám, giải
vong…). Một số chuyên trang của ngay cả các tờ báo mạng nổi tiếng cũng
thường xuyên dẫn dụ bạn đọc vào những tin nhảm về bói số phận, tình
duyên, bói nốt ruồi, bói tóc, bói mắt, bói môi… Nguy hiểm hơn, nhiều bài
báo góp phần củng cố niềm tin của lớp trẻ vào mê tín dị đoan bằng cách đưa
thông tin mê tín dị đoan gắn với người nổi tiếng: Lời thề độc rợn người của
Đàm Vĩnh Hưng; Đỗ Mạnh Cường: có clip ghi lại cảnh giải bùa ngải,
Phương Thanh tố bị người khác hãm hại bằng bùa ngải…

Hình ảnh siêu xe gắn biển số đẹp, hình ảnh cúng bái khi khởi công, động thổ,

hình ảnh hàng trăm người chen nhau cúng vái, dâng lễ ở các phủ, đền đài,
chùa chiền, hay đưa tin đậm đặc về cảnh người dân xếp hàng dài mua vàng
vào ngày vía thần tài, thả cá chép, dâng sao giải hạn vào ngày rằm tháng 7 xá
tội vong nhân… được tô, được nhấn rất đậm trên báo chí. Tuyến tin bài này
không còn là vô tình, mà là cố tình cổ xuý cho mê tín dị đoan, làm công
chúng càng củng cố niềm tin vào thế lực siêu nhiên. Hậu quả nhãn tiền không
chỉ là mất tiền, mà còn là tật mang, nguy hiểm hơn là làm rối loạn niềm tin
của người dân trong cuộc sống thực, thậm chí, dễ bị kè thù lợi dụng gây chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại trật tự an toàn xã hội.

Ví dụ: Đã có rất nhiều các trang mạng, kênh thông tin điện tử chia sẻ về
thông tin phản cảm này khiến nhiều người tò mò quan tâm đến nội dung trái
với thuần phong mỹ tục, đây là một biểu hiện của phản văn hóa vô cùng rõ
ràng.

2.2. Giật tít câu view

Nhiều tờ báo mạng ra đời, hướng tới đối tượng độc giả là giới trẻ, nhưng
không đầu tư nội dung, mà đăng tải nhiều bài viết theo xu hướng câu view
bằng tít giật gân, gây shock, gây “bất ngờ”.
+ Kiểu giật tít gây hiểu nhầm: “Trương Ngọc Ánh nghiện rượu nặng” (Tít
gây hiểu nhầm: Trương Ngọc Ánh nghiện rượu năng, trong khi bài viết nói
về nhân vật trong phim do Trương Ngọc Ánh thủ vai)

+ Kiểu giật tít gắn với xu hướng sex, sốc, hiếp dâm, tù tội: Ngọc Trinh sexy
khoe vòng 3 siêu 'khủng' (infornet.vn), “Con gái Trương Ngọc Ánh 3 tuổi lộ
quần chíp” (phunutoday.vn), “Đình Nguyên: Tôi có “súng” rất to, nhưng
thiếu “đạn” (tintuconline.com.vn).

Ví dụ: Để thu hút được bạn đọc, nhiều báo đã cho đăng những bài viết với
nội dung dung tục, hình ảnh hở hang, không phù hợp với độc giả. Điển hình
là bài viết về ca sĩ Thủy Tiên dưới đây.

Với kiểu giật tít và nội dung thông tin có yếu tố dung tục, nhiều trang
báomạng đang tự hạ thấp uy tín của mình, đồng thời xúc phạm văn hoá người
Việt do thúc đẩy những thú vui, thị hiếu tầm thường, dung tục ở một bộ phận
công chúng.

2.3. Khai thác đậm đặc thông tin đời tư


Khoản 1, Ðiều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (năm 2013) quy
định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông
tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo
đảm an toàn". Ðiều 34 Bộ luật Dân sự (2015) về "Quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín" cũng quy định:

"Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp
luật bảo vệ". Luật Báo chí cũng nghiêm cấm vi phạm bí mật riêng tư các cá
nhân.

Tuy nhiên, thực tế, nhiều nhà báo khai thác quá tỉ mỉ, chi tiết đời tư ca sĩ,
diễn viên hoặc theo dõi để lấy thông tin viết bài. Câu chuyện đời tư của nhiều
ca sĩ, diễn viên, người mẫu được đưa lên mặt báo dồn dập. Các vụ xâm hại
trẻ em là đề tài được báo chí khai thác nhiều, với lối viết vô cảm, hoặc “giấu
đầu hở đuôi”, ảnh hưởng đến nạn nhân và gia đình các em, khiến công chúng
thực sự bức xúc.

Ví dụ: Trong ví dụ dưới đây, việc nhà báo đưa những thông tin địa chỉ cụ thể
về nơi các bé gái sinh sống, cho dù viết tắt, nhưng những người sống trong
khu vực đều sẽ nhận ra nạn nhân là ai, và điều này chắc chắn ảnh hưởng đến
cuộc sống của các bé sau này cũng như gia đình họ.
Về nguyên tắc, nếu muốn đưa hình ảnh và câu chuyện đời tư lên truyền
thông, nhà báo bắt buộc phải hỏi xin ý kiến và được sự đồng ý của nhân vật.
Nhưng thực tế, việc này rất ít được thực hiện. Xâm phạm đời tư trên truyền
thông, không chỉ ảnh hưởng đến đời sống thể chất, tinh thần của nhân vật và
những người thân của họ, mà mặt khác, còn ảnh hưởng xấu đến văn hoá báo
chí và ứng xử xã hội. Nó tạo nên một kiểu nhà báo chuyên tọc mạch, moi
móc chuyện đời tư, đồng thời, còn góp phần cổ suý lối sống phô trương hay
trào lưu “bắt tay bẩn” giữa nhà báo và nghệ sĩ để tạo scandal, nhằm nổi danh.

2.4. Xa rời chuẩn mực trung thực, khách quan, đưa thông tin sai sự thật

Thông tin sai sự thật, thậm chí bịa đặt, xa rời chuẩn mực trung thực, khách
quan không còn là điều xa lạ trên báo chí truyền thông. Mỗi năm, Bộ Thông
tin và Truyền thông xử lý hàng chục sai phạm đưa tin sai sự thật. Năm 2017,
xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực báo chí là 13 quyết định, tổng số tiền xử
phạt là 133 triệu đồng. Tính từ đầu năm 2018 đến ngày 10/5/2019, cơ quan
chức năng của Bộ đã xử phạt 37 trường hợp thông tin sai sự thật, miêu tả tỉ
mỉ hành động tội ác và quảng cáo không phù hợp nội dung đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác nhận với tổng số tiền 617,5 triệu đồng; 9 trường
hợp thực hiện không đúng tôn chỉ, mục đích ghi trong giấy phép hoạt động
báo chí với tổng số tiền 245 triệu đồng. Năm 2018, Bộ đã tiếp nhận gần 300
đơn thư, khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, tổ chức với nội dung phản ánh
chủ yếu là thông tin sai sự thật, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh, uy tín, danh dự
của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Báo điện tử là loại hình báo chí bị phản
ánh nhiều nhất, chiếm đa số (Báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết của
Quốc hội về hoạt động chất vấncủa Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, tháng
10/2019).

Trong năm 2019, các cơ quan quản lý nhà nước đã tiến hành thanh tra, kiểm
tra và xử phạt vi phạm hành chính 29 cơ quan báo chí với tổng số tiền là
675,1 triệu đồng, trong đó 6 trường hợp lĩnh vực phát thanh, truyền hình và
thông tin điện tử và 23 trường hợp báo, tạp chí in, điện tử. Các hành vi bị xử
phạt chủ yếu là hành vi thông tin sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng.

Tháng 9/2020, Cục Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã ban hành bốn
quyết định xử phạt: Báo điện tử Dân Việt thông tin sai sự thật trong bài viết
Khởi tố, bắt tạm giam ông Tất Thành Cang, cựu Phó Bí thư TP Hồ Chí Minh
(do lỗi kỹ thuật trong quá trình chuyển đổi hệ thống quản lý tin bài đã xuất
bản Bản tin chờ), bị phạt tiền ba triệu đồng; Báo điện tử Tổ quốc thông tin
sai sự thật trong bài viết về Hội thảo khoa học "Chủ tịch Hồ Chí Minh -
Người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", bị phạt tiền 12 triệu
đồng; Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam - VnExpress thông tin sai sự thật
trong bài viết về Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo
của Ðảng, bị phạt tiền 12 triệu đồng; Báo Thanh niên thông tin sai sự thật
trong loạt bài viết đăng tháng 5/2020 về một số dự án đầu tư xây dựng theo
hình thức BT tại TP Hải Phòng, bị phạt tiền 45 triệu đồng…

Đáng chú ý, mặc dù năm nào cũng có nhà báo bị khởi tố, bắt giam; năm nào
cũng có cơ quan báo chí bị phạt hành chính hoặc đình bản, tước giấy phép
xuất bản, nhưng tình trạng thông tin sai sự thật, thông tin xa rời tính khách
quan, chân thật vẫn không chấm dứt. Điều này tác động mạnh mẽ đến giá trị
thông tin truyền thông nói chung, làm suy giảm giá trị văn hoá báo chí truyền
thông nói riêng.

- Thiếu trách nhiệm xã hội: Báo chí truyền thông có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc góp phần ổn định quốc gia về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn
hoá xã hội. Tuy nhiên, thực tế, không ít nhà báo, cơ quan báo chí truyền
thông còn thiếu trách nhiệm xã hội trong thông tin. Biểu hiện:

+ Thiếu kiểm chứng nguồn tin, áp đặt, suy diễn thông tin: Trong bối cảnh
chuyển đổi số và sự phát triển của mạng xã hội cùng các thiết bị điện tử
thông minh như điện thoại, laptop, máy tính bảng…, nhà báo, nhà truyền
thông được hỗ trợ rất nhiều trong khai thác thông tin, tư liệu, tiếp cận nguồn
tin. Cũng chính lý do này, nhiều nhà báo, nhà truyền thông bắt đầu “ỉ lại”,
lạm dụng thông tin trên mạng xã hội để biến chúng thành tin trên báo chí mà
thiếu kiểm chứng, tạo nên tình trạng tin giả, tin sai, tin lệch lạc, gây bức xúc
dư luận, để lại những hậu quả tiêu cực.

2.5. Thiếu trách nhiệm xã hội

Báo chí truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc góp phần ổn
định quốc gia về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Tuy nhiên thực
tế không ít nhà báo, cơ quan báo chí truyền thông còn thiếu trách nhiệm xã
hội trong thông tin. - Thiếu kiểm chứng nguồn tin, áp đặt, suy diễn thông tin:

Trong bối cảnh công nghệ số lên ngôi, các thiết bị điện tử thông minh như
điện thoại, laptop, máy tính bảng,...đã hỗ trợ các nhà báo, nhà truyền thông
rất nhiều trong việc khai thác thông tin, tư liệu tiếp cận. Nhưng cũng chính
bởi vậy mà nhiều nhà báo, nhà truyền thông bắt đầu ỉ lại, lạm dụng thông tin
trên mạng xã hội để biến chúng thành tin bài trên báo chí những thiếu sự
kiểm chứng, tạo nên tình trạng tin giả, tin sai, tin lệch lạc gây bức xúc dư
luận, để lại những hậu quả tiêu cực.

Đồng thời, theo đánh giá của Bộ Thông tin và truyền thông, thời gian gần
đây tình trạng phát tán tin giả, tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh và công
tác phòng chống dịch COVID-19 có dấu hiệu gia tăng. Người tiếp nhận
thông tin cần có sự chọn lọc cẩn thận, "không nên tin ngay" trước thông tin
quá nhạy cảm trên mạng hiện nay. Trong mối quan hệ với doanh nghiệp, vẫn
xuất hiện những bài báo đưa thông tin thiếu chính xác, khách quan, thậm chí
là đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc với động cơ không trong sáng. Điều này
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân, nếu doanh nghiệp “chết”, thì
hàng tram, hàng nghìn công nhân mất việc làm, đời sống gia đình bị ảnh
hưởng.

- Đưa thông tin không cân nhắc liều lượng, làm ảnh hưởng đến tâm lí xã hội:

Báo chí truyền thông là phương tiện góp phần tạo sự nổi tiếng, nhưng cũng rất
dễ tạo nên những “thần tượng” xấu xí, dẫn dụ giới trẻ. Ví dụ như hiện tượng
mạng như Khá Bảnh, Tiến Bịp hay Hưng vlog làm clip nấu cháo gà nguyên con
rát phản cảm nhưng lại được giới trẻ ủng hộ, quan tâm.

3. Không tuân thủ luật pháp

Tuân thủ luật pháp và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp nhà báo có mối quan hệ
rất chặt chẽ. Một nhà báo tuân thủ các quy ước đạo đức nghề nghiệp, cũng sẽ
tự giác tuân thủ luật pháp, và ngược lại. Do vậy, nhà báo vi phạm đạo đức
nghề nghiệp cũng chính là vi phạm pháp luật.

Cơ sở để nhận diện phản văn hoá báo chí của nhà báo ở khía cạnh vi phạm
pháp luật được căn cứ vào Luật Báo chí.

Thực tế hoạt động báo chí, nhiều nhà báo vi phạm pháp luật. Loại sai phạm
được nhắc đến nhiều là sai phạm về nội dung thông tin: Thông tin cổ súy các
hủ tục, mê tín, dị đoan; thông tin về những chuyện thần bí gây hoang mang
trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe của cộng
đồng; kích động bạo lực; tuyên truyền lối sống đồi trụy; miêu tả tỉ mỉ những
hành động dâm ô, hành vi tội ác; thông tin không phù hợp với thuần phong
mỹ tục Việt Nam; thông tin sai sựthật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín
của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; thông tin ảnh hưởng
đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em…

Ngoài ra là sai phạm liên quan đến lừa đảo, tống tiền doanh nghiệp, ép ký kết
hợp đồng quảng cáo. Cuối tháng 12/2018, phóng viên Đào Thị Thanh Bình
của báo điện tử Thương Hiệu Và Công Luận bị bắt vì có hành vi tống tiền
70.000 USD đối với Công ty TNHH Luxshare - ICT Việt Nam. Đầu tháng
8.2019, hai phóng viên của một tờ báo và một tạp chí trung ương có trụ sở tại
Hà Nội đã bị lực lượng chức năng của TP Hà Nội và tỉnh Hà Tĩnh khởi tố,
bắt tạm giam vì có hành vi tống tiền.

Ví dụ: Đầu tháng 4/2020, ông Lê Văn Trọng, trưởng ban thời sự tạp chí điện
tử Hoà Nhập bị bắt để khởi tố, tạm giam 4 tháng để điều tra về hành vi
"cưỡng đoạt tài sản" doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp đưa 300 triệu đồng để
không đăng tải những bài viết liên quan đến doanh nghiệp này trên tạp chí.
4. Năng lực chuyên môn yếu kém

4.1. Nhà báo thiếu kiến thức rộng

Kiến thức rộng là một phông kiến thức với hệ thống tri thức phong phú, đa
dạng. Tri thức đó mang tính bách khoa về nhiều lĩnh vực khác nhau do nghề
nghiệp đòi hỏi hàng ngày phải xử lý nhanh nhạy, kịp thời các sự kiện thời sự.

Những kiến thức đó sẽ giúp nhà báo hiểu rõ được tính tổng thể của mọi tình
huống trong cuộc sống, phân biệt được bản chất và hiện tượng của sự việc,
vấn đề, giải thích được các mối quan hệ phức tạp. Có thể nói, nó giống như
“chìa khoá vạn năng” giúp nhà báo nhận thức rõ được cuộc sống. Phông kiến
thức này không thể có một sớm một chiều mà nhà báo phải rèn luyện, học tập
suốt đời. Theo PGS, TS Nguyễn Văn Dững, Nguyên trưởng Khoa Báo chí,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho rằng: Các cơ sở đào tạo cần chú trọng
hơn nữa đến vấn đề giáo dục lý tưởng hành nghề và ý thức tự giác về nghề
cho sinh viên báo chí. Lý tưởng hành nghề và ý thức tự giác về nghề không
chỉ dừng lại ở thông điệp chính trị mà là bắt nguồn từ việc trang bị những
kiến thức nền tảng về nghề.

4.2. Nhà báo chưa có đủ kiến thức chuyên ngành báo chí
Một nền báo chí chuyên nghiệp là ở đó tất cả các hoạt động của đời sống báo
chí đều được “bôi trơn” bằng những hiểu biết nghề nghiệp nhằm giảm thiểu
tối đa những vi phạm, đặc biệt là những vi phạm liên quan đến nhận thức.
Những kiến thức cơ bản về báo chí là các kiến thức chuyên ngành, hệ thống
các kỹ năng, phương pháp nghề nghiệp để trở thành nhà báo chuyên nghiệp.
Đó không chỉ là những hiểu biết về các kỹ năng để tác nghiệp một cách
chuyên nghiệp như kỹ năng giao tiếp, tiếp cận nguồn tin, khai thác tài liệu,
quan sát hoặc phỏng vấn, kỹ năng xử lý thông tin, phương pháp thể hiện và
sáng tạo tác phẩm mà còn là sự hiểu biết đúng đắn, sâu sắc về nghề với nhận
thức về chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc hoạt động... của báo chí. Ngoài
ra, đó còn là những kiến thức cần thiết về luật pháp, Luật Báo chí và đạo đức
nghề nghiệp. Điều này quyết định đến việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa
bảo đảm thông tin nhanh chóng, chính xác với đúng định hướng chính trị, là
sự khác nhau giữa những người làm báo chuyên nghiệp và không chuyên
nghiệp. Theo một nghiên cứu, 75% trong số hơn 18.000 nhà báo được cấp
thẻ ở nước ta chưa qua đào tạo về báo chí. Như vậy, tương đương với con số
trên là hàng nghìn các nhà báo thiếu đi các kiến thức chuyên ngành, thiếu đi
hệ thống tri thức nền tảng để có thể trở thành nhà báo chuyên nghiệp. Điều
này phù hợp với thực tế hiện nay là nhiều vi phạm không xuất phát từ động
cơ, mục đích mà do nhà báo “mắt không sáng”, yếu kém về năng lực và nhận
thức nên không thể phân biệt đúng, sai của sự việc. Trong một lần trả lời
phỏng vấn báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Thông tin
và Truyền thông Đỗ Quý Doãn cho rằng: Ở một số tờ báo hiện nay, người
làm báo thì nhiều nhưng nhà báo chuyên nghiệp, khẳng định mình bằng tác
phẩm báo chí thì không nhiều. Đa phần cứ làm theo kiểu làng nhàng, dẫn đến
tình trạng ai cũng có thể làm báo, ai cũng có thể đi viết bài. Nhiều sai phạm,
vi phạm luật cũng như đạo đức nghề nghiệp có khi xuất phát từ nguyên nhân
yếu kém về năng lực, trí tuệ nhưng cũng không ít xuất phát từ nguyên nhân
thiếu hiểu biết về nghề, về ý nghĩa của nghề nghiệp mà họ đang theo đuổi.
Từ đó đã dẫn đến những bài báo thiếu chất lượng, tính sáng tạo, chính xác
mà người làm báo phải có.

4.3. Làm giảm sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt

Báo chí, ngoài vị thế và những ảnh hưởng đặc biệt của nó, còn có một vai trò
quan trọng nữa: làm chuẩn mực ngôn ngữ cho toàn xã hội. Ngôn ngữ truyền
thông có ảnh hưởng rất lớn tới công chúng, vì công chúng, đặc biệt là giới
trẻ, dễ bắt chước cách nói năng, giao tiếp trên báo chí.

Đáng buồn là, trên báo chí, đặc biệt, trong nhiều chương trình gameshows
truyền hình, các nhà đài đã để lọt sóng hình ảnh MC, người chơi tuỳ tiện phát
ngôn, thậm chí loạn ngôn, tục ngôn.

Công chúng có thể nhận diện dễ dàng nhất qua sản phẩm báo mạng điện tử.

Một bộ phận nhà báo dùng từ tuỳ tiện, rập khuôn, lạm dụng cách nói khẩu
ngữ của cộng đồng mạng để đưa lên mặt báo, làm biến dạng tiếng Việt.

Ví dụ: “đắng lòng”, “choáng với”, “sốc với”, “thánh phán”, “thánh soi”,
“thánh chửi”, “gây bão”…: MC Phan Anh nói về chương trình ‘gây bão’ của
VTV (vietnamnet.vn), Kỷ yếu ăn mày gây ‘bão’ của học sinh Lạng Sơn
(vnexpress.net), 7 lần Angela Phương Trinh gây “bão” vì áo váy
(danviet.vn), Đàm Vĩnh Hưng gây “bão” khi khen thí sinh của Tuấn Hưng
biết trước, biết sau (thanhnien.vn), Hoài Linh gây “bão” khi liên tục khoe ảnh
“con trai” (tienphong.vn),

4.4. Nội dung thông tin vi phạm, nhạt nhoà

Thiếu sót, sai phạm về nội dung thông tin có nhiều dạng: Thông tin sai sự
thật, thông tin thiếu chính xác khách quan, không phù hợp với thuần phong
mỹ tục, lạm dụng thông tin giật gân nhằm thoả mãn nhu cầu, thị hiếu tầm
thường của một bộ phận công chúng... Những điều này đã được trình bày
trong các phần nội dung trước của đề tài. Nhiều bài báo chỉ nêu được phần
“ngọn” của vấn đề - tức chỉ phản ánh thực trạng, mà chưa đeo bám tận cùng
vấn đề để tìm ra nguyên nhân, hay giải pháp xử lý bất cập do thực tiễn đặt
ra...

Những sai phạm, thiếu sót đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, có
nguyên nhân từ năng lực chuyên môn của nhà báo, nhà truyền thông. Nếu
nhà báo không có kỹ năng phỏng vấn, quan sát, không có trường ngôn ngữ
rộng, hay thiếu năng lực sử dụng ngôn ngữ, thiếu kỹ năng lựa chọn chi tiết
đắt,…thì không thể có sản phẩm chất lượng được.

4.5. Thiếu kỹ năng thẩm định thông tin

Thông tin là chất liệu chính yếu của bài báo. Độ chính xác của thông tin là cơ
sở tạo nên một bài báo tốt. Để có thông tin chính xác, bắt buộc nhà báo phải
có kỹ năng thẩm định. Thực tế, vẫn có những tin tức sai sót, bởi:

Thứ nhất, không phải bất cứ lúc nào, nguồn tin từ các cá nhân, tổ chức, cơ
quan chức năng cung cấp cho nhà báo cũng đúng, tuy vậy, nhiều nhà báo,
hoặc nóng vội, hoặc non nớt trong thẩm định, tin vào những số liệu, thông tin
do nguồn tin cung cấp, làm bài báo sai lệch…

Thứ hai, bối cảnh báo chí số mở ra cơ hội tiếp cận nguồn tin online dễ dàng,
thuận tiện, “tạo ra lớp nhà báo salon”, viết báo dựa trên dữ liệu mạng xã hội.
Khi khai thác nguồn tin trên mạng, nhiều nhà báo trẻ chưa hiểu thấu đáo thế
nào là tin giả, tin sai sự thật; nguồn tin chính thống là những nguồn tin nào;
cách nhận biết thông tin chính thống qua tên miền hay kỹ năng so sánh, đối
chiếu dữ liệu...

Việc thẩm định nguồn tin với các phương pháp, cách thức khác nhau - do
vậy, cần được các cơ quan báo chí, trường học trang bị kỹ lưỡng cho nhà
báo.

Ví dụ: Xúc xích Vietfoods có trụ sở chính tại Bình Dương vào năm 2016 bị
Đội QLTT số 14 (Chi cục QLTT Hà Nội) niêm phong và tung tin có chất
sodium nitrate gây ung thư. Hơn 2 tấn xúc xích đã bị niêm phong và tịch thu.
Không lâu sau đó, các cơ quan nghiệp vụ kết luận chính thức là sodium
nitrate an toàn. Cơ sở này được minh oan sau đó nhưng theo chủ cơ sở
Vietfoods, khách hàng đã không dám đến lấy hàng nữa, dù trước đó mỗi
tháng cơ sở này sản xuất và bán ra 50-60 tấn xúc xích. Sau nhiều nỗ lực,
Vietfoods khôi phục được khoảng 30% sản lượng so với thời phát triển,
nhưng rồi buộc phải chuyển đổi dần sang sản xuất sản phẩm khác vì không
"sống nổi" với xúc xích do bị lỡ mang tiếng không tốt, công nhân phải nghỉ
việc, hàng tồn kho vì không tiêu thụ được, bị trả lại, đối tác viện cớ không
thanh toán nợ.

Thông tin sai sự thật về xúc xích Vietfoods đã được một vài tờ báo vội vã
đưa tin khi nhà báo chưa thẩm định rõ về tính chính xác. Sau khi có kết luận
chính thức, báo đỡ gỡ bài. Nhưng hậu quả đối với doanh nghiệp thì không bù
đắp được.

4.6. Thiếu tính sáng tạo

Trong bối cảnh chuyển đổi số, sáng tạo trở thành thuộc tính bắt buộc, để
hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả tác động. Tuy
nhiên, trên thực tế, với nhiều nhà báo, lối viết cũ, lối tư duy sản phẩm đơn
phương tiện vẫn chiếm chủ đạo.

Đặc biệt, các tờ báo đảng địa phương tuy đảm bảo phản ánh thông tin đúng
đường lối, chính sách, ít có sai sót, nhưng chưa thực sự hấp dẫn công chúng.
Về nội dung, chủ đề ít tính mới, thiên về “một màu, một chiều”. Về hình
thức, hệ thống thểloại tin, bài phản ánh là chủ yếu, ít có phóng sự, điều tra,
bình luận vốn là những món ăn độc đáo, nhiều gia vị ngon để thu hút người
tiếp nhận. Thậm chí, trên phiên bản điện tử của cơ quan báo đảng địa
phương, những hình thức báo chí sáng tạo (long - form, inforgraphics, audio,
video…) rất ít được sử dụng.

III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO YẾU TỐ VĂN HOÁ TRONG BÁO CHÍ
1. Nâng cao chuyên môn cho các nhà báo

Nâng cao tính chuyên nghiệp của nền báo chí là nâng cao tính chuyên nghiệp
của cơ quan báo chí. Điều này bắt đầu từ nâng cao tính chuyên nghiệp của
chính đội ngũ phóng viên, biên tập viên. mỗi cơ quan báo chí cần có:

- Cuộc khảo sát toàn diện về nhân sự.

- Trên cơ sở nhiệm vụ và định hướng phát triển của mình sẽ xây dựng chiến
lược đào tạo, đào tạo lại để xây dựng một đội ngũ những người làm báo có
kiến thức sâu, kỹ năng chuyên môn cao và phong cách hành xử chuyên
nghiệp.

- Vấn đề cần đặt ra là mỗi cơ quan báo chí cần có chính sách hỗ trợ phóng
viên, biên tập viên, nhất là đội ngũ trẻ có điều kiện tiếp cận và khai thác
thông tin, điều kiện học tập nâng cao trình độ, phối hợp các bộ phận khi xử lý
những đề tài lớn, những vấn đề có sức tác động mạnh đến dư luận xã hội...

- Bên cạnh đó là chế độ ưu đãi về nhuận bút và khen thưởng kịp thời những
tácphẩm báo chí có chất lượng cao, gây được hiệu ứng xã hội. - Việc tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng để có được đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí
vừa có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vừa có phẩm chất chính trị... cũng là
đòi hỏi tiên quyết, tạo nên tính chuyên nghiệp của cơ quan báo chí.

- Thời gian gần đây, do sự phát triển quá nhanh của báo chí và sự tác động
nhiều chiều của xã hội, nên không tránh khỏi một số cán bộ, lãnh đạo báo chí
được bổ nhiệm mà không có kinh nghiệm về thực tế làm báo. Họ nhiệt tình,
có ý thức trách nhiệm nhưng do chưa trải qua rèn luyện nên nhãn quan chính
trị và nghiệp vụ báo chí còn non yếu (cả về trình độ quản lý cũng như tư duy
chỉ đạo cách thức thể hiện nội dung, xây dựng sản phẩm báo chí...). 2. Nâng
cao tính chuyên nghiệp của cơ quan

2. Cải thiện tính chuyên nghiệp của các toà soạn báo chí
Mỗi toà soạn cần:

- Xác lập quy trình làm việc riêng trong đó các phòng ban chuyên môn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa mang nét đặc trưng vừa mang tính hiện
đại, phù hợp với đối tượng độc giả.

- Ngoài ra, trong mối quan hệ tương tác với bạn đọc, cần đẩy mạnh công tác
tiếp và xử lý đơn thư bạn đọc, các chương trình từ thiện - xã hội, các cuộc
tương tác, trao đổi trên mặt báo, các diễn đàn, các cuộc vận động xã hội.
Nâng cao tính chuyên nghiệp của cơ quan báo chí còn thể hiện trong cách
thức đưa sản phẩm đến tay bạn đọc, xây dựng mạng lưới phát hành, chiến
lược nâng cao thương hiệu, khai thác nguồn quảng cáo, tăng nguồn thu cho
cơ quan báo chí tiến tới xoá bỏ bao cấp, chủ động về kinh tế.

3. Chú trọng công tác đào tạo, giảng dạy trong lĩnh vực báo chí

Điều này có tác động rất lớn đến việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng
cao cho hệ thống báo chí.

- Muốn thế phải đổi mới khâu tuyển dụng người học; đầu tư cho người dạy,
huy động đội ngũ người làm báo giỏi, có kinh nghiệm tham gia giảng dạy;
đổi mới chương trình, tăng thời lượng thực hành; đầu tư cơ sở vật chất,
phương tiện, thiết bị kỹ thuật tiên tiến; đổi mới cơ chế quản lý, chính sách tài
chính... tức là đổi mới toàn bộ các khâu trong công tác đào tạo báo chí.

4. Nâng cao công tác quản lý của các cơ quan có thẩm quyền.

Cả về nội dung, phương châm và phương thức:

- Cần bổ sung các quy định, quy chế tạo cơ sở chính trị cho công tác lãnh
đạo, chỉ đạo báo chí; xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực báo chí vừa tạo điều kiện cho báo chí
phát triển đúng hướng, vừa xử lý kịp thời, dứt điểm những sai phạm kéo dài;
xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan báo chí cả nước theo
hướng hợp lý, tinh gọn, hiệu quả; thiết lập cơ chế chỉ đạo, quản lý, điều hành,
cung cấp thông tin chủ động, kịp thời và chuyên nghiệp; cần có sự phối hợp
chỉ đạo, quản lý thống nhất, chuyên nghiệp giữa cơ quan chỉ đạo, quản lý báo
chí với cơ quan chủ quản; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí...

- Để báo chí Việt Nam trở thành một nền báo chí chuyên nghiệp, nhân văn
và đạo đức đòi hỏi sự chuyên nghiệp của tất cả các khâu, công tác lãnh đạo
và quản lý báo chí giữa vị trí then chốt.

CHƯƠNG 3: PHỎNG VẤN NHÀ BÁO VỀ PHẢN VĂN HOÁ


BÁO CHÍ

MỞ ĐẦU

1. Mục đích phỏng vấn:


 Tìm hiểu góc nhìn của những người làm báo về vấ đề “phản văn hoá
báo chí.”:
 Nhận diện các biểu hiện của phản văn hoá báo chí
 Tìm hiểu vấn đề phản văn hoá báo chí hiện nay đang diễn ra như thế
nào.
 Lời khuyên của các nhà báo dành cho thế hệ các nhà báo sau.
2. Nội dung phỏng vấn
Nghiên cứu các vấn đề “phản văn hoá báo chí” thông qua góc nhìn nhà báo.
Nội dung sẽ xoay quanh các câu hỏi:
 Phản văn hoá báo chí là gì?
 Biểu hiện của phản văn hoá báo chí là gì?
 Tình hình phản văn hoá báo chí của nền báo chí Việt Nma hiện nay
diễn ra như thế nào?
 Liệu các tờ báo chính thống sẽ không bao giờ mắc phải vấn đề “phản
văn hoá báo chí?”
 Lời khuyên cho các nhà báo tương lai để không vướng vào ‘phản văn
hoá báo chí”?

3. Đối tượng phỏng vấn


Phỏng vấn 5 nhà báo, người làm báo
1. Đối tượng 1: 
Số lượng: 1 người
Đặc điểm:
 Độ tuổi: 50 – 70 tuổi
 Có nghiệm lâu năm trong nghề báo.
 Giữ một vai trò nhất định trong nền báo chí
Nhân vật phỏng vấn: TS. Nhà báo Trần Bá Dung

2. Đối tượng 2: 


Số lượng: 1 người
Đặc điểm:
 Độ tuổi: 30 – 50 tuổi
 Đang là nhà báo tại 1 toà soạn báo.
Nhân vật phỏng vấn: Nhà báo Đặng Cao Từ
3. Đối tượng 3:
Số lượng: 2 người
Đặc điểm:
 Độ tuổi: 20 – 30 tuổi
 Đang học để trở thành nhà báo
 Là BTV/Phóng viên tại các toà soạn báo.
Nhân vật phỏng vấn: 
 Phóng viên/BTV Ngọc Hà
 Phóng viên Phạm Xuân Sơn

NỘI DUNG

I. PHỎNG VẤN TS/ NHÀ BÁO TRẦN BÁ DUNG

1. Vị trí công tác:


 Trưởng ban Nghiệp vụ - Hội Nhà báo Việt Nam
 Tổng biên tập tạp chí Sinh viên. Phó tổng biên tập Tạp chí đại học, tạp chí
Người làm báo.
2. Hình thức phỏng vấn: 
Phỏng vấn online trên nền tảng zoom
3. Nội dung cuộc phỏng vấn
Mai: “Đầu tiên thì cháu muốn hỏi bác với góc nhìn của bác thì bác định nghĩa
như thế nào về phản văn hóa báo chí được không ạ?”
Bác Dung:

 Đây là một nội dung rất hay và rất cần thiết với hoạt động báo chí cũng
như là đối với các nhà báo. Đặt ra các vấn đề về phản văn hóa báo chí, tìm
hiểu thực trạng và nguyên nhân đưa ra những giải pháp cần thiết, khắc phục
được giảm bớt cho thực trạng phản văn hóa báo chí là một điều rất tốt.  

 Định nghĩa phản văn hóa báo chí nói một cách khoa học không hẳn là
định nghĩa, nói nó ở góc độ nhẹ nhàng hơn đây là một cái phạm trù khoa học.
Chúng ta ở mức độ khảo sát và tìm hiểu trên thực tế.

  Nói đến phản văn hóa báo chí thì đầu tiên phải nói về văn hóa báo chí,
đây là cách tiếp cận dễ nhất và ai cũng hiểu. Văn hóa báo chí là gì? Sau đó đi
vào khái niệm phản văn hóa báo chí thì nó dễ hơn.

 Về vấn đề “Văn hóa báo chí” đã có một cái hội thảo do chi hội nhà báo
Việt Nam làm năm 2012 phối hợp với trường đại học Khoa học xã hội và
nhân văn - khoa báo chí truyền thông. Từ cái hội thảo đấy đã có rất nhiều ý
kiến nhưng cũng không hẳn đưa ra định nghĩa một cách khoa học để nhận
thức hay nhận diện về văn hóa báo chí. Có thể tổng hợp lại văn hóa báo chí
trước hết là nói đến văn hóa của những người làm báo tức là văn hóa của chủ
thể một nền báo chí. Thứ hai là văn hóa của một bộ mặt nhận diện của một
nền báo chí. Chỉ có hai cách tiếp cận, trước hết là văn hóa chủ thể của nền
báo chí cái trình độ văn hóa đến đâu, cả kiến thức văn hóa của những người
làm báo đến đâu, cái mặt bằng văn hóa của cái nền báo chí đấy đến đâu.
Chúng ta phải nhận diện được nó ở góc độ này đã. Tại sản phẩm của chính
họ, chính những người làm báo đấy của một nền báo chí gọi là chủ thể sản
phẩm của người làm báo, là sản phẩm báo chí tức là những bài báo tác phẩm
báo chí được công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Đây
chính là sản phẩm báo chí mang tính chất văn hóa của một nền báo chí được
thể hiện ở góc độ chủ thể của người làm báo, đội ngũ người làm báo văn hóa,
đồng thời là văn hóa của sản phẩm báo chí, chúng ta đọc báo xem ti vi, nghe
đài đọc báo điện tử có thể thấy được cái hàm lượng văn hóa ở trong từng sản
phẩm mang tính chất văn hóa ở trong từng sản phẩm báo chí đấy có văn hóa
hay không, văn hóa cao hay thấp, chúng ta nhận diện được nó nếu nói một
cách định nghĩa thì nó to tát. 

 Nhận diện văn hóa báo chí là văn hóa của những người làm báo, là văn
hóa của các sản phẩm báo chí mà công chúng tiếp cận ngắn gọn là như vậy.
Bây giờ mở đài, mở ti vi, đọc báo điện tử và báo in biết liền chúng ta đang
nói về báo chí chứ không nói về mặt xã hội như trường hợp của bà Nguyễn
Phương Hằng vi phạm như thế là vi phạm pháp luật và bị pháp luật xử lý.
Đấy không gọi là báo chí để gọi là mạng xã hội, chúng ta đừng đánh đồng
những người như bà Phương Hằng là phản văn hóa báo chí, chúng ta phải
nhận định như thế, lúc tranh luận phân tích thảo luận mạng xã hội không phải
là báo chí.

 Báo chí là của chúng ta là báo mạng điện tử có chủ quản có tổng biên tập,
có quản lý đàng hoàng trên đó vẫn có những cái sai sót thiếu văn hóa, nhưng
không đánh đồng nó với trường hợp như bà Nguyễn Phương Hằng tức là
không đánh đồng với mạng xã hội. 

 Nói chung là chúng ta nhận diện về cái văn hóa báo chí như vậy thì phản
văn hóa báo chí chính là phản lại những cái điều đấy, văn hóa báo chí nhận
diện ở góc độ người làm báo là những người làm báo thiếu đi cái ý thức văn
hóa, thiếu đi cái tính chất văn hóa. Thiếu đi trình độ văn hóa và đặc biệt văn
hóa báo chí là văn hóa đạo đức bởi vì đạo đức là một phạm trù của văn hóa.
Vì vậy phản văn hóa báo chí đối với chủ thể những người làm báo là thiếu đi
đạo đức của người làm báo và những cái chủ thể văn hóa đấy thiếu đi cách
tiếp cận cuộc sống, thiếu đi cách nhìn cuộc sống, không có nhiều phản quang
và thiếu đi những cái ứng xử có văn hóa đối với đời sống công chúng. Đối
với đối tượng, với nhân dân cũng là phản văn hóa người làm báo mà không
có một cái nhãn quang chính trị rõ ràng và vững vàng khi tiếp cận với đời
sống, thì thiếu đi tầm nhìn tính chất văn hóa của người làm báo đấy là phản
văn hóa báo chí. Một người làm báo mà ứng xử với cộng tác viên, công
chúng, ứng xử với cấp trên đồng nghiệp thiếu văn hóa đấy chính là phản văn
hóa. Văn hóa là ứng xử thì đấy là phản văn hóa ở phía chủ thể người làm
báo. Thế còn phản văn hóa ở cái chủ thể báo chí chúng ta có thể thấy ngay từ
một bài báo tác phẩm, báo chí một cái tin tức, một cái bài báo một cái phóng
sự điều tra hay là một cái phim tài liệu hiện ngay ở ngay cái tiêu đề nó là
thiếu văn hóa rồi kích dục, bạo lực hay là làm cho người ta cảm thấy thô tục,
đập vào mắt người đọc như thế là thiếu văn hóa.

 Bây giờ có cả trường hợp là người Việt nói tiếng Việt như Tây nói viết
tiếng Việt như Tây viết nó ngô nghê tức là giỏi tiếng Anh nhưng rất kém
tiếng Việt. Như là cái tiêu đề của người Việt viết hay phóng viên người Việt
viết nhưng rất ít văn hóa của Việt Nam. Hay đi vào nội dung cũng vậy, mô tả
nội dung những cảnh cướp giết hiếp, xúc phạm đời tư xúc phạm nhân phẩm
của cá nhân tổ chức, coi thường truyền thống của dân tộc thể hiện ngay trong
bài viết từ những hình ảnh cho đến đánh giá nhận thức của nhà báo đây là
phản văn hóa những cái sản phẩm báo chí. Thì ngay từ cái tiêu đề cho đến
nội dung rồi đi vào những nội dung trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc
trái với đạo lý của dân tộc đấy là phản văn hóa. 
 Có thể thấy một cái định nghĩa không dễ dàng, định nghĩa rất khó chúng
ta chỉ nhận diện nó thôi tóm lại một cái nhận diện vi phạm văn hóa báo chí
chính là cái sự thiếu văn hóa từ cách ứng xử của chủ thể người làm bá0 , của
các nhà báo cho đến tính văn hóa ở trong các cái sản phẩm báo chí, đây là
phản văn hóa báo chí.

Mai: “Khi tìm hiểu thông tin của bác, cháu cũng xem qua các bài phỏng vấn
của bác và cháu thấy một cái bài báo ở trên báo thế giới Việt Nam với tiêu đề
“Làm báo thời nay cũng là làm chính trị” có chia sẻ quan điểm của bác vậy thì
bác có nghĩ rằng một nhà báo thì cái quan trọng đầu tiên đó chính là phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng không ạ?

Bác Dung:

 Đương nhiên là như vậy làm báo là làm chính trị đây là định nghĩa từ
trong nhà trường rồi và còn là định nghĩa từ trong cuộc sống làm. Nền báo
chí, nó đã cho ta nhận thức đó rồi, làm báo là làm chính trị nhưng không phải
làm chính trị bằng chức vụ lãnh đạo ở trong hệ thống chính trị, nếu có điều
đấy càng tốt. Quan trọng làm báo làm chính trị bằng ngồi bút, bằng sản phẩm
báo chí, bằng hoạt động báo chí. Trong từng cái hoạt động của nhà báo phải
thể hiện mình là một người đại diện cho một nền chính trị làm báo, một cách
có chính trị, có tính chính trị. Thông tin là chức năng tư tưởng, là chính trị
đấy, là tính nổi bật của báo chí. Làm báo thời nào cũng là làm về chính trị
hết. Đừng nói là báo chí cũng có giai cấp, không có chuyện đấy, làm báo là
làm chính trị cho nên bài phỏng vấn với báo Thế giới &Việt Nam là đúng
vấn đề  “làm báo chí là làm chính trị bằng tác phẩm báo chí bằng hoạt động
báo chí”. 
 Bác Hồ nói làm báo là làm chính trị, trước hết là số một chính trị phải đi
đầu vì chính trị đúng thì đường lối mới đúng. Các cháu về đọc cái bài phát
biểu của đại hội Nhà báo Việt Nam lần thứ hai năm 1959, cho nên muốn làm
chính trị thì bản lĩnh chính trị phải đi đầu muốn làm chính trị phải có nhận
thức chính trị xong phải có bản lĩnh nghị lực tức là gì? Là sẵn sàng đối diện
với khó khăn thách thức để vượt qua về mặt quan điểm chính trị, sẵn sàng
đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái; có bản lĩnh có bản lĩnh tức là
nhà báo phải tự mình lan tỏa những điều tốt đẹp; khẳng định và tuyên truyền
những cái giá trị của quan điểm đường lối của Đảng, chủ trương chính sách
và pháp luật của nhà nước đồng thời phải lan tỏa tuyên truyền và thuyết phục
công chúng theo cái tờ báo mình làm, rằng quan điểm là thế này, chủ trương
của đảng là thế này, chính sách pháp luật của nhà nước trong từng giai đoạn
từng thời điểm cụ thể nó là thế này và nhà báo phải là người hiểu hơn công
chúng. Lúc đấy mới truyền đạt, tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho công
chúng. Ở đây có thể nói làm báo thực chất là làm chính trị cái đó không thay
đổi. Làm báo là làm chính trị bằng ngòi bút bằng từng tác phẩm báo chí của
mình, bằng sự có mặt của mình lúc nước sôi lửa bỏng thì cần nhà báo có mặt
ở đấy. Người ta hiểu nhà báo đã có mặt ở đấy thế là hoạt động chính trị .Phải
có một cái một tin, một bức ảnh đưa về trong tác phẩm lúc cần những lúc
nước sôi lửa bỏng tình huống khó khăn nhà báo có mặt ngay trong hiểm nguy
nhà báo có mặt ngay chứ không phải ngồi ở Hà Nội ở rồi đóng cửa lại bật
máy lạnh, mở bia ra uống rồi gõ bàn phím thành bài báo, như thế là không
phải. Phải có một tin bức hình làm xúc động hàng triệu con người, kêu gọi
người ta hoạt động tổ chức. Từ tác phẩm báo chí mà ra những hình ảnh làm
xúc động người ta mới quyên góp cả nước quyên góp ủng hộ đồng bào lũ lụt
ở miền Trung. 
 Nhà báo làm chính trị thay mặt cho Đảng và nhà nước thực hiện tư tưởng
người chiến sĩ văn hóa để mà phản ánh những khó khăn những tình huống
những cuộc sống hoàn cảnh cần phải giúp đỡ, nhà báo làm chính trị sau đó về
mặt trận tổ quốc mới phát động tổng hợp, trước hết phải nói đến bằng hình
ảnh của báo chí chúng ta như vậy có thể thấy nhà báo phải có bản lĩnh chính
trị là vì thế. Khẳng định lại làm báo là làm chính trị chứ không phải là bảo
làm báo để kiếm tiền sinh sống, nhà báo là một nghề để kiếm sống thì nó quá
tầm thường, nó hơn những nghề khác ở chỗ đây là một nghề để làm chính trị.

Mai: “Để được gọi là một nhà báo thì chắc hẳn các nhà báo sẽ được học, qua
nghe qua về những cái hành động phản văn hóa báo chí. Vậy thì theo bác đâu là
nguyên nhân khiến cho các nhà báo dù biết là phản văn hóa báo chí nhưng mà
họ vẫn vi phạm không ạ?”

Bác Dung:

 Hiện nay có khoảng 22.000 nhà báo hay nhiều hơn nhưng cũng chỉ có số
ít vi phạm thôi không phải tất cả và những người vi phạm đều bị bắt xử lý
cho vào tù, kể cả ông bộ trưởng bộ Thông tin và truyền thông. Đây làm một
điều đáng tiếc vì các ông tham lam, tham nhũng nhận hối lộ, bản thân ông đi
nói người ta nhưng các ông không hề có đạo đức. Bên cạnh đó cũng có một
số nhà báo vi phạm. Có hai nguyên nhân một là nguyên nhân chủ quan hai là
nguyên nhân khách quan.

 Nguyên nhân khách quan thì có một phần có thể giải thích. Ở đây là cuộc
sống, bao giờ cũng có những thử thách. Những cái cám dỗ cuộc sống bao giờ
cũng có khó khăn của nó. Nghề báo hiện nay cạnh tranh rất khó khăn nhất là
làm báo điện tử cho nên sự khó khăn, áp lực công việc, áp lực về mặt chỉ tiêu
công việc, áp lực về mặt nhu cầu đời sống làm cho một số nhà báo sẽ bị sa
ngã đấy là nguyên nhân khách quan. Mặt khác đó là quản lý của các cơ quan
báo chí vẫn còn lỏng lẻo, nhiều cơ quan thả lỏng và đó là nguyên nhân khách
quan tức là bản thân các cơ quan báo chí tạo cơ hội cho họ làm những điều
không tốt thì một số đại diện một số cộng tác viên nhà báo làm hỏng mất cái
hình ảnh của tòa báo.

 Một số nguyên nhân khách quan nữa là công chúng nhìn thấy nhà báo làm
sai nhưng không dám phản đối vì sợ người ta đánh. Người này đi thì có
người khác đến và chuyện đấy là có thật, nhưng cá nhân đấy là những
nguyên nhân khách quan. Một là quản lý, hai là công tác tổ chức, ba là sự
giám sát của công chúng người ta biết nhưng không dám nói.

 Còn có nguyên nhân chủ quan là do mỗi nhà báo vi phạm tự mình trau dồi
đạo đức, không nhận thức được làm báo cósự sang trọng của nó, có những vẻ
vang của nó. Những người đó coi nghề làm báo như một nghề để kiếm tiền,
cái cần câu cơm thì đấy là nguyên nhân chủ quan.

 Mặt khác là bản thân nhà báo thiếu đi những tri thức văn hóa, thiếu đi
những tri thức để ứng xử trong đời sống, thiếu đi sự chia sẻ cảm thông với
đời sống xã hội, với những con người, với doanh nghiệp. Họ nghĩ mình là
nhà báo muốn làm gì thì làm.

 Thứ ba lại nhà báo đấy không cho thiên hạ nhìn thấy được nghề báo rất là
đáng kính trọng, ngưỡng mộ, lịch lãm sang trọng.Có thể nói những nhà báo
mà vi phạm không có được cái tố chất, không có sự nỗ lực.
 Thứ tư là nhà báo thiếu đi sự trao duồi học hỏi và có những cái vô tình
không biết, vô tình biết câu đấy là sai hay vô tình không biết hình ảnh đó là
sai hay không biết thảo luận tranh luận đâu là đúng đâu là sai và nhiều nhà
báo bây giờ là văn hóa đọc thấp, ko trao dồi kiến thức thì văn hóa ứng xử
cũng sẽ thấp mà nhà báo viết thì còn nói được ai. Thế nên viết lúc nào cũng
mòn mà sai còn không biết đó là nguyên chủ quan có thể là do vô tình, tóm
lại có mấy nguyên nhân như thế. 

Mai: “Vậy thì những hành vi như nào được coi là vi phạm đạo đức nghề nghiệp
báo chí ạ?”

Bác Dung:

 Hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp báo chí là tống tiền, đe dọa đến
doanh nghiệp, tổ chức cá nhân; viết những điều không có sự thật, bịa ra sai
sự thật, bịa ra một sự thật khác đi ngược lại thuần phong mỹ tục của dân tộc
Việt Nam; xúc phạm đến lợi ích danh dự của những bộ phận hay con người
của những tổ chức. Cụ thể ví dụ như dùng những bài đụng chạm đến đời
sống cá nhân kích động một tổ chức, mất đi những cái nét đẹp của đời sống. 

 Hai nữa là không chịu rèn luyện học hỏi cố tình sai không chịu sửa.

Mai: “Bác có nghĩ là những tờ báo chính thống và uy tín như VTV , dân trí ,
báo lao động hay là báo thanh niên sẽ không bao giờ gặp các vấn đề về phản
văn hóa báo chí không ạ?”

Bác Dung: “Có thể thấy tờ báo nào cũng có thể có những nhà báo, có những
lúc tình huống, nó không hẳn là phản nhưng cũng có thể là thiếu đi văn hóa.
Báo Nhân dân rất điển hình cũng có những nhà báo bị bắt, thậm chí báo VTV
hay báo nào cũng có thể xảy ra chuyện này. Không có một cơ quan báo chí nào
đến nay không có trường hợp vi phạm phản văn hóa báo chí.” 

 Mai: “Bác có nghĩ là chính những cái nhà báo những cơ quan báo chí phạm
phải về phản văn hóa báo chí sẽ khiến cho công chúng dần mất niềm tin về báo
chí chung không ạ?”

Bác Dung: “Đúng rồi nhất trí. Cái đó là nguyên nhân làm cho công chúng kể
cả cơ quan lãnh đạo Đảng nhà nước và những cái bộ phận khác tổ chức xã hội
khác mất đi những niềm tin nào đó đối với hoạt động báo chí. Đó là những
người làm cho méo mó hình ảnh chân dung họ làm cho xấu đi người làm nhà
báo chân chính.

II. PHỎNG VẤN NHÀ BÁO ĐẶNG CAO TỪ

1. Vị trí công tác:


Phó ban thư ký biên tập báo Giáo dục và Thời đại.
2. Hình thức phỏng vấn: 

Phỏng vấn online trên nền tảng zoom

3. Nội dung cuộc phỏng vấn

Mai: “Theo chú, chú định nghĩa như thế nào về phản văn hoá báo chí?”

Chú Từ:

 Văn hóa báo chí xét trên phương diện tổng thể, người làm trong lĩnh vực
báo chí là người làm văn hóa, họ có chức năng truyền tải văn hóa đến độc
giả, nói theo nghĩa rộng hơn là đến với xã hội. Mở rộng văn hóa bằng kỹ
năng, tư duy của bản thân để phát triển văn hóa trong xã hội.

 Khi chúng ta là những người làm văn hóa, ở bất kì môi trường nào, văn
hóa báo chí phải đi đôi với thể hiện của người làm báo: Chúng ta cần biết
mình đang làm ở đâu? Truyền tải thông tin, ngôn ngữ đến đối tượng nào? Và
cần phù hợp với từng đối tượng để cho thấy báo chí có tác động rất lớn đến
với xã hội.

 Chẳng hạn như làm báo giáo dục, giáo dục là phổ quát rộng trong xã hội,
môi trường giáo dục là môi trường toàn dân nhưng là môi trường nhạy cảm.
Chính vì thế, khi người làm báo tiếp cận môi trường giáo dục cần biết tôn
trọng giáo dục.

 Bên cạnh đóng góp của báo chí vào sự phát triển chung của xã hội về mặt
văn hóa, mở rộng văn hóa cho người dân thì cũng tồn tại không ít những biểu
hiện, hành động ảnh hưởng đến xã hội.
 Mỗi thông tin đưa ra mà thiếu chuẩn mực, kiểm chứng, chỉ mang tính chất
câu view thì nó chỉ là thông tin mạng xã hội. Hiện nay, thông tin mạng xã hội
chiếm trên 50% và nhiều người đón nhận nó như thông tin chính thống. Đây
là một điều rất đáng buồn trong lĩnh vực báo chí.

 Khi hoạt động báo chí cần hiểu rằng văn hóa báo chí là văn hóa xác lập
cho nền tảng văn hóa của xã hội. Là một sinh viên học báo, cần hiểu thế nào
là báo chí chính thống; đâu là thông tin chính thống, thông tin “nguồn” để
tiếp nhận, truyền tải, mang lại giá trị cho xã hội: giá trị khai sáng; thường
xuyên trau dồi để tránh chạy theo thông tin mạng xã hội.

 Hoạt động thông tin cá nhân là một nhóm thu thập hồ sơ, gây sức ép với
doanh nghiệp,.. để mang lại lợi ích cá nhân. Đây là hoạt động sai tôn chỉ mục
đích, sai hoạt động văn hóa báo chí. Văn hóa báo chí là những người khai
sáng mà trước hết bản thân cần trong sáng mới có thể khai sáng được.

 Đạo đức, lương tâm rất quan trọng trong nghề báo. Phải yêu nghề, không
nên vụ lợi về nghề. Là nghề thì phải sống được, để đạt được tư cách là một
nhà báo cần có kiến thức, kinh nghiệm, trau dồi, có tác động với xã hội.

Mai: “Chú cảm thấy biểu hiện nào của phản văn hóa báo chí là nghiêm trọng
hoặc đáng để tâm nhất nhất?”

Chú Từ:

 Theo diện rộng, chúng ta đưa ra thông tin gây hệ lụy cho xã hội, không
phù hợp với luân thường đạo lý của đất nước, tôn chỉ mục đích của Đảng,
Nhà nước nêu ra cũng như ngành chúng ta hoạt động trong đó. 
 Ví dụ như chú đang làm ở báo Thời đại và giáo dục thì chú phải phục vụ
ngành giáo dục trước, sau đó chú mới phản ánh những cái tác động của
ngành khác đến giáo dục. Chứ chú không thể nào làm những cái lĩnh vực
ngoài tôn chỉ mục đích của giáo dục được. Đấy là những cái trọng tâm nhất
mà ta cần quan tâm.

Mai: “Năng lực chuyên môn yếu kém của nhà báo được thể hiện trong các tác
phẩm của họ ạ?”

Chú Từ:

 Để nói về chuyên môn yếu kém của nhà báo thì nó được thể hiện qua:

 Một là: Nhà báo không tác nghiệp độc lập được, không tác nghiệp độc lập
được là như thế nào, là khi ra đề tài không có định hướng, không tự triển khai
được, không biết mình sẽ đi làm cái gì, không thể hoàn thành được một
mình. Cái này ta dễ dàng nhìn thấy được, trong các tòa soạn đều có những
trường hợp như thế.

 Tiếp theo ta cần để ý năng lực yếu kém ở đây nó thể hiện trong tác phẩm
báo chí. Ví dụ như cách trình bày, các cháu học báo thì các cháu phải biết tin
là phải ra bản tin, bài phản ánh là phải ra bài phản ánh, phóng sự phải là
phóng sự. Có những người chuyên môn năng lực yếu kém không xác định
được đâu là những thể loại báo chí cụ thể, đây là lỗi chuyên môn. 

 Hoặc có những người có năng khiếu báo chí nhưng không được đào tạo
chuyên nghiệp nên họ rơi vào hoàn cảnh không biết triển khai đề tài của họ
như thế nào.
 Năng lực yếu kém sẽ dẫn đến lựa chọn thông tin sai, lựa chọn thông tin
sai sẽ dẫn đến hệ lụy rất nhiều, ảnh hưởng rất lớn đến tòa soạn và bạn đọc.
Nhà báo là nhà lọc thông tin, lọc thông tin đầu tiên khi đưa ra sẽ hội. Chính
vì thế nếu không lọc được thông tin thì sẽ dẫn đến việc thông tin là một đám
hổ lốn, không nguồn, không kiếm chứng.

 Thường những người năng lực yếu kém đều có sự lấp liếm với tác phẩm
báo chí. Còn khi những người có năng lực làm báo thì tác phẩm khi đọc phải
thể hiện được phong cách của nhà báo, đọc bài báo là ai viết, văn phong ra
sao. 

Mai: “Gần đây có sự việc nhà báo hoặc bài viết nào có biểu hiện phản văn hóa
báo chí mà chú thấy không ạ?”

Chú Từ:

 Gần đây, một số đồng chí nhà báo khai thác thái quá nhiều hình ảnh, đời
tư cá nhân, những điều tạm gọi là “gây hệ lụy cho thế hệ trẻ”. 

 Ví dụ vụ việc “Thầy ông nội” - Lê Tùng Vân. Trong câu chuyện này, ông
Lê Tùng Vân có tội hay không đã có pháp luật giải quyết còn những đứa trẻ
ở đây không có tội. Việc đưa hình ảnh của đứa trẻ lên sẽ ảnh hưởng đến cuộc
sống, tương lai của chính những em bé đó. Sẽ ra sao khi những em bé đó lớn
lên, hình ảnh của họ vẫn tồn tại trên mạng, những lời miệt thị “con rơi”, “con
vãi”? Đó chính là phản văn hóa báo chí.

 Những bài viết lột tả đời tư của một số đồng chí lãnh tụ, đây là vấn đề rất
nhạy cảm, đặt ra câu hỏi lớn cho xã hội rằng phía sau họ có điều gì khuất
tất? 
 Những hành động trên bị xử lý: cảnh cáo, nộp phạt, ở mức nặng sẽ thu hồi
thẻ nhà báo,...

Mai: “Lời khuyên cho lứa nhà báo trẻ - những người chưa có kinh nghiệm
nhiều, dễ mắc phải vấn đề về phản văn hóa báo chí?”

Bác Dung:

 Trước tiên, chúng ta cần hiểu, làm báo là những người khai sáng, khi còn
dưới mái trường, thầy, cô dạy nhiều kĩ năng, đưa ra lý luận để hoàn thiện bản
thân, khi bước ra nghề, những lý luận ấy vẫn phải luôn theo chúng ta, là bài
học cần lưu giữ.

 Tránh vấp phải phản văn hóa báo chí cần thể hiện nghề nghiệp của mình
như tham gia CLB, viết bài, cộng tác tòa soạn bên ngoài nhằm trau dồi kiến
thức, cơ hội nghề nghiệp.

 Hơn nữa, bằng bản lĩnh của người làm báo, cần nói không với cám dỗ xã
hội

III. PHỎNG VẤN PHÓNG VIÊN/ BTV NGỌC HÀ


1. Vị trí công tác: 
 Phóng viên tại báo Dân Việt.
 BTV tại Truyền hình Quốc hội.

2. Hình thức phỏng vấn: 


Phỏng vấn online trên nền tảng zoom
3. Nội dung cuộc phỏng vấn:

Mai: “Theo quan điểm cá nhân của chị thì chị hiểu như thế nào về phản văn hóa
báo chí, những biểu hiện nào được coi là phản văn hóa báo chí?”

Chị Hà:
 Để nói xa một cái khái niệm thì rất là nhiều cách, đối với khái niệm phản
văn hóa này thì chị sẽ định nghĩa theo một khái niệm trái ngược lại đó là văn
hóa báo chí là gì thì phản văn hóa báo chí sẽ ngược lại. 

 Đối với văn hóa báo chí thì chị nghĩ là từ trước đến nay khi các em được
học thì phạm trù văn hóa rất là rộng và khó ai có thể gói gọn nó trong một
khái niệm cụ thể.

 Theo chị hiểu một cách đơn giản thì đây là một phương thức con người nó
sinh ra để nó phục vụ cho nhu cầu tồn tại và nhu cầu sống của mình. Báo chí
hiểu đơn giản là một phương tiện truyền thông, truyền thông như thế nào để
tinh thần con người được đi lên, nó khiến cho nhân thức con người hướng
đến những cái chân, thiện, mỹ. Đạt được điều đó thì sẽ đạt được hiệu quả
truyền thông về cái chân, thiện, mỹ đấy sẽ là có tính văn hóa trong báo chí.
Và những biểu hiện đi ngược lại với điều đó thì là phản văn hóa báo chí.

 Ở mỗi thời đại thì lại có một tiêu chuẩn khác nhau về văn hóa báo chí.
Ngày xưa khi đất nước trong thời kì kháng chiến giành độc lập thì mọi người
đặt cái cao hơn, làm sao để tuyên truyền tình yêu đất nước, tinh thần chống
lại giặc Mỹ xâm lược, giặc Pháp xâm lược. Còn bây giờ quay trở lại với nhịp
sống thường nhật thì báo chí là diễn đàn ngôn luận của tất cả những người
dân mà họ muốn truyền đạt những vấn đề xung quanh họ. 

 Những biểu hiện ở thời điểm được coi là phản văn hóa báo chí. Ví dụ như
những nhà báo tiêu cực đi ngược lại với văn hóa, khai thác những vụ án đau
lòng đến mức đưa ra những chi tiết rùng rợn, hay đưa những tin tức đâm,
cướp, hiếp, giết thể hiện bằng cái ngôn từ gây sốc và đặt người đọc phải ngồi
trước những thông tin như một mới hỗn độn, thì đó là phản văn hóa báo chí.
Bên cạnh đó còn những tin tức vụn vặt, chưa được kiểm chứng hay còn gọi là
báo lá cải được xào xáo, thay đổi thêm thắt tiêu đề. Theo chị thì đó là những
biểu hiện của phản văn hóa báo chí.

Mai: “Là một người thuộc thế hệ GenZ đặc biệt là đảm nhiệm nhiều vai trò khác
nhau như phóng viên, biên tập viên, MC thì chị nghĩ như thế nào khi các bạn
GenZ trong quá trình làm việc, tác nghiệp, sản xuất ra các sản phẩm báo chí đã
quá lạm dụng những từ ngữ của cộng đồng mạng như thánh soi, đi bão,...?”

Chị Hà:

 Bản thân chị cũng là một người GenZ và làm việc trong nghề báo. Chị
nghĩ là nhà báo, BTV, MC thì có những ngôn từ phát ngôn chuẩn xác trước
công chúng. Những từ ngữ như thánh soi, đi bão, gây bão thì chị nghĩ nó
cũng không phải là ảnh hưởng quá nhiều. Nó không phải là phản văn hóa báo
chí mà nó chỉ là xếp trong một trường hợp nào đấy nó không phù hợp. Ví dụ
khi làm một chương trình thời sự mà đưa các từ ngữ này vào thì nó không
phù hợp với chương trình, nó chưa đến mức là phản văn hóa báo chí. 

 Các bài báo hay viết ở mục giải trí, giới trẻ thì những từ ngữ như thế này
khá là bình thường. Những từ kể trên thì đã khá là quen thuộc trong mấy năm
gần đây rồi, không tạo yếu tố gây sốc với người đọc nữa. Nói tóm lại thì theo
quan điểm của chị ở đây thì nó chỉ là không phù hợp trong một vài trường
hợp thôi, còn nếu biết vận dụng nó ở trong cái hoàn cảnh phù hợp thì nó sẽ
không xếp vào mục phản văn hóa báo chí.
Mai: “Đối với vấn đề phản văn hóa báo chí thì chị có nghĩ rằng là những tờ báo
chính thống như VOV, Lao động, Dân trí,... thì phản văn hóa báo chí sẽ không
bao giờ xảy ra không ạ?”

Chị Hà:

 Chị nghĩ là không đâu, cái gì cũng có ngoại lệ của nó. Kể cả các tờ báo
chính thống như thế thì vẫn sẽ ở một số trường hợp nào đấy cũng sẽ có một
số phát ngôn không phù hợp. Các em có nhớ thì trước đây một thời gian trên
VTV24 thì VTV họ đã dùng từ ký sinh trùng cho những người ăn xin bên vệ
đường. Và điều này đã tạo nên dư luận khá là lớn khi nói đến sự sai sót đó. 

 Tất nhiên thì nó cũng chỉ là sai sót thôi, nó thuộc về phần kiểm soát lời
nói, kiểm soát từ ngữ sử dụng trên báo chí, còn nếu như mà không phải sự sai
sót thì nó sẽ nằm ở phần tư tưởng của người làm báo. Bởi vì tư tưởng là cái
cốt lõi để tạo nên cái văn hóa trong báo chí. Ví dụ như ngày xưa, thời chống
Pháp chồng Mỹ thì những bài báo mang tính tuyên truyền mà làm nhụt ý chí
của những người lính thì cũng tính vào phản bảo chí. Còn hiện nay vì việc đó
sẽ được tính vào thiếu bản lĩnh chính trị của người làm báo.

Mai: “Với cương vị của một người đã và đang làm báo thì chị có lời khuyên nào
dành cho các bạn đang có định hướng sẽ trở thành một người làm báo, một nhà
báo để giúp các bạn sẽ không mắc phải vấn đề về phản văn hóa báo chí không
ạ?”

Chị Hà:

 Cá nhân chị thì là một người đang rất trẻ về cả tuổi đời cũng như tuổi
nghề. Nên để mà đưa ra cho các bạn một cái lời khuyên thật sự sâu sắc thì có
lẽ chị sẽ nhường lại cho những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này
nhiều hơn chị. Với những gì chị đã trải nghiệm trong suốt thời gian vừa qua
thì chị cũng có một vài điều muốn nói với các em, hoặc nói với với thế hệ
hậu bối của mình. Khi ta đã nói đến báo chí thì ta xác định nó thuộc điểm
tiếp cận xã hội, nó tác động rất nhiều đến con người.

  Để tạo những tác phẩm báo chí có văn hóa thì trước hết bản thân người
nhà báo phải là người có văn hóa và luôn coi việc mình làm là hoạt động có
văn hóa. Vì vậy mà cái đơn giản nhất nhưng mà nó theo mình từ khi mình
động ngòi bút đến khi mình hạ ngòi bút đó là việc trau dồi và rèn luyện chính
bản thân mình. Trau dồi rèn luyện như thế nào về mặt tư tưởng, văn hóa của
chính bản thân mình, làm chủ được ngòi bút của mình, không để cho ngòi bút
của mình xuôi theo dòng xã hội, phải có bản lĩnh thì nó sẽ là nền tảng để trở
thành nhà báo chân chính.

  Sản phẩm báo chí mà các bạn tạo ra có sự tác động đến xã hội và có hiệu
quả xã hội thì nó mới là một sản phẩm báo chí có chất lượng, khi đó cống
hiến của mình mới được ghi nhận ở cơ quan báo chí và ở trong cả sự phát
triển của xã hội vì báo chí cũng là một phần của văn hóa. Chốt lại chị nghĩ
mình phải luôn rèn luyện, rèn luyện về cả tư tưởng và ngòi bút của mình, trau
dồi tư tưởng văn hóa cho chính mình. Khi đó bản thân nhà báo có văn hóa thì
mới tạo ra một sản phẩm báo chí có văn hóa.

IV. PHỎNG VẤN PHÓNG VIÊN ĐOÀN XUÂN SƠN


1. Vị trí công tác: phóng viên công tác ở Báo Đà Nẵng.
2. Hình thức phỏng vấn: 
Phỏng vấn online bằng văn bản word
3. Nội dung cuộc phỏng vấn:
1. Anh hiểu thế nào về “phản văn hóa báo chí?” Và những biểu
hiện nào thì được coi là “phản văn hoá báo chí?”

Theo mình hiểu về khái niệm phản văn hóa nói chung nôm na là các hoạt
động, sự việc có tính khác biệt, đi ngược lại và mâu thuẫn với định nghĩa của
nền văn hóa thống trị, hay cụ thể là phản bác và phá vỡ những chuẩn mực của
nền văn hóa thống trị. Vì văn hóa có mặt ở bất cứ lĩnh vực nào, hoạt động của
đời sống xã hội nên những hoạt động phản văn hóa diễn ra dưới nhiều hình thức,
ở tôn giáo, chính trị, phim ảnh… và báo chí cũng không ngoại lệ. 

Trong báo chí thì cá nhân mình thấy xuất hiện nhiều hoạt động báo chí
của một số phóng viên, nhà báo và đơn vị báo chí đi ngược chuẩn mực đạo đức
và phản lại tính nhân văn của nghề báo. Những biểu hiện theo mình thấy như là
viết bài, đưa tin sai sự thật, phóng đại vấn đề, giật gân, giật tít và đưa nội dung
câu view với một số content về tình dục, chuyện riêng tư, yếu tố ma mị dị
đoan… 

Cụ thể chút, theo mình biết báo chí là một bộ phận của văn hóa, đồng thời
cũng là kênh sáng tạo và quảng bá văn hóa nên hai khái niệm này quá khắng
khít với nhau. Vì thế, văn hóa của báo chí trước hết là văn hóa ở người làm báo,
như lời Bác Hồ từng nói là: “Nói đến báo chí trước hết phải nói đến người làm
báo chí”. Người làm báo có văn hóa trước hết là người luôn hiểu trách nhiệm
của nghề mình là phản ánh mọi mặt đời sống xã hội khách quan, không bịa đặt,
không vẽ vời phóng đại và luôn có sự tôn trọng với mọi người.

Ngược với tôn chỉ trên, phản văn hóa ở người làm báo chí có thể kể đến
một số biểu hiện như: Thiếu bản lĩnh chính trị, có động cơ kết nối với các thế
lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước hay manh nha tuyên truyền thông tin
chống phá…; Tỏ thái độ hạch sách, dọa nạt, gợi ý được nhận tiền từ cơ quan,
doanh nghiệp; đăng tải thông tin sai sự thật, bịa đặt; viết tin, bài không có sự
kiểm chứng; “xào nấu”, chôm chỉa thông tin của đồng nghiệp báo khác mà
không có sự cho phép của chính chủ…

3.2. Để có thể được gọi là nhà báo, chắc hẳn mọi người đều cũng sẽ được
học qua, nghe qua những hành động “phản văn hoá báo chí” như thiếu bản
lĩnh chính trị, giật tít, đưa sai thông tin sự thật, vi phạm đạo đức nghề
nghiệp,.... Vậy theo anh chị, đâu là nguyên nhân khiến cho các nhà báo dù
biết về “phản văn hoá báo chí” nhưng vẫn vi phạm  ạ?

Như đã nói ở trên thì biểu hiện của phản văn hóa báo chí là rất đa dạng.
Nguyên nhân để người làm báo dù biết về “phản văn hóa báo chí” nhưng vẫn vi
phạm, theo mình có khách quan và chủ quan.

Chủ quan, chắc chắn là do bản thân người làm báo có định hướng sai lệch
về đạo đức, quan điểm tác nghiệp và bản lĩnh chính trị. Ví dụ trường hợp một số
nhà báo, phóng viên bị cơ quan chức năng bắt vì hành vi gợi ý đưa hối lộ, nhận
tiền doanh nghiệp để không lên bài phản ánh sai phạm… Hay có những người
làm báo, ví dụ có những thành viên trong nhóm Báo sạch có hành vi vi phạm
pháp luật, lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân… Rồi trường hợp
một người làm báo như Phạm Thị Đoan Trang phải nhận 9 năm tù với hành vi
xuyên tạc đường lối chính sách, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền
nhân dân… Hay những trường hợp như viết bài đưa tin sai sự thật, ăn cắp tin bài
cũng là do sự thiếu trách nhiệm trong quá trình tác nghiệp. 

Khách quan thì theo mình, với trải nghiệm cá nhân thì có lẽ những yếu tố
phản văn hóa trong báo chí cũng đến từ áp lực công việc, tính chất của một số
trang tin, tờ báo và đến từ tâm lý số đông của bạn đọc. 
Nhiều tòa soạn áp view cho phóng viên, ví dụ một tin bài phải đạt 1.500
view thì phóng viên mới có nhuận bút. Lúc ấy phóng viên phải làm gì? Áp lực
về lượt view, áp lực về định mức tin bài đòi hỏi phóng viên phải tìm mọi cách
để thực hiện. Giật tít cho hấp dẫn để thu hút bạn đọc là một thủ pháp cho phép
của nghề báo, nhưng giật tít có tính chất gây sốc, giật gân hoàn toàn là điều
không nên. Một số trang tin, báo hiện nay đặc biệt ở mảng showbiz thường có
những tin bài có tính chất vô thưởng vô phạt, lá cải hóa, theo chủ đề “đâm,
cướp, hiếp, giết”, khai thác triệt để những vụ án đau lòng với hình ảnh rùng rợn,
rồi đầy rẫy hình ảnh khêu gợi của nhiều nghệ sĩ, người mẫu hở da thịt cũng được
phô bày quá đà ở các mặt báo…Nói chung những điều này do tâm lý phóng viên
và phần nào do nhiều tòa soạn chạy theo xu thế câu khách.

3.3. Hiện nay, anh nhận thấy vấn đề phản văn hoá báo chí đang diễn ra thế
nào ạ?

Theo mình thì vấn đề này đang diễn ra ở mức độ nhiều, tràn lan trong nhiều
năm nay.

3.4. Anh có thể chia sẻ một vài lời khuyên cho các bạn đang có ý định tương
lai sẽ trở thành một nhà báo sẽ không mắc phải vấn đề “phản văn hoá báo
chí” được không ạ?

Điều đó nằm ở bản lĩnh chính trị, định hướng đạo đức nghề nghiệp đúng
đắn của mỗi người từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, để vượt qua
cám dỗ, lợi ích nhất thời trong nghề báo. Mình thấy việc lựa chọn nơi làm việc,
người dẫn dắt bản thân vào nghề trong những năm đầu đi làm rất quan trọng. Đó
sẽ là người có thể định hướng cho mình tốt/xấu ở đâu khi đi làm, khi tác nghiệp. 
Mình nghĩ nên có tâm niệm, đã xác định theo nghề thì hãy làm điều gì
mình thấy đúng đắn, hợp chuẩn mực đạo đức xã hội và xem thử cái mình viết ra
nó tác động đến xã hội ra sao để có điều chỉnh.

KẾT LUẬN

Hầu hết các nhà báo đều có một điểm chung: muốn định nghĩa được
“phản văn hoá báo chí” là gì thì trước hết cần hiểu “văn hoá báo chí” trước.

1. Định nghĩa, nhận diện “Phản văn hoá báo chí”.


Tất cả các nhà báo đều chỉ ra phản văn hoá báo chí ở 2 phương diện: chủ thể
của báo chí và các tác phẩm báo chí.
Về chủ thế báo chí, phản văn hoá báo chí là người làm báo 
Về các tác phẩm báo chí, phản văn hoá báo chí

CHƯƠNG 4: NGHIÊN CỨU CÔNG CHÚNG BÁO CHÍ TRUYỀN


THÔNG

I. VAI TRÒ CỦA CÔNG CHÚNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
BÁO CHÍ

     1. Một số khái niệm

 Báo chí: là một hình thái ý thức xã hội, lấy hiện thực khách quan làm đối
tượng phản ánh. Báo chí là một hoạt động thông tin đại chúng nhất, năng
động nhất trong các loại hình hoạt động truyền. 
 Công chúng: là quần thể cư dân hay nhóm đối tượng trực tiếp hoặc gián
tiếp tiếp nhận thông tin hay chịu ảnh hưởng tác động của thông tin báo
chí.
 Công chúng báo chí là quần thể dân cư hay nhóm đối tượng mà báo chí
hướng tác động với mình vào để cung cấp, trao đổi và chia sẻ thông tin,
thuyết phục gây ảnh hưởng để có thể làm thay đổi nhận thức, thái độ,
hành vi của họ theo mục đích thông tin nhất định. Về khía cạnh kinh tế,
công chúng báo chí là khách hàng của cơ quan báo chí; trên khía cạnh xã
hội, là lực lượng quan trọng, quyết định vai trò, vị thế xã hội của cơ quan
báo chí
 Công chúng báo chí là đối tác, đồng tác giả với các cơ quan là gì ?
Đối tác: Đối tượng hợp tác để cùng tham gia và chia sẻ hoặc cùng thực hiện một
hoạt động. Có thể là một tổ chức được thành lập bởi hai hoặc nhiều người hoặc
nhóm cùng làm việc để hướng tới một mục đích chung.
Đồng tác giả: “Đồng tác giả là những tác giả cùng trực tiếp sáng tạo ra một phần
hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học”, các chủ thể phải cùng
nhau đóng góp công sức để hoàn thành tác phẩm. Nghĩa là chủ thể phải chứng
minh sự lao động sáng tạo của mình được thể hiện trong tác phẩm đó, người hỗ
trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không
được công nhận là tác giả hoặc đồng tác giả. (Theo Điều 6 Nghị định
22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009, 2019) về quyền tác giả, quyền liên quan có hiệu lực thi hành từ ngày
10/04/2018). 
Như vậy có thể suy ra:  Công chúng báo chí là đối tác, đồng tác giả với các
cơ quan là công chúng báo chí cùng cơ quan báo chí hợp tác, đưa ra quan điểm
về một sự vật, hiện tượng, cùng đóng góp để sáng tác ra một tác phẩm báo chí.

2. Phân loại
 Căn cứ độ tuổi
 Căn cứ vào giới tính
 Địa bàn sinh sống
 Nghề nghiệp, mức sống

3. Vai trò của công chúng


3.1. Công chúng là đối tượng tiếp nhận, tác động, hoặc chịu ảnh hưởng tác
động của thông tin báo chí 
    Công chúng là những người tiếp nhận thông điệp và chịu sự tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp từ sản phẩm báo chí, ảnh hưởng của thông điệp, sự lôi kéo, thuyết
phục của chủ thể truyền thông đại chúng. Báo chí tồn tại và phát triển là để
đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của con người và xã hội. Xã hội
ngày càng phát triển thì nhu cầu thông tin của công chúng càng đòi hỏi cao, đa
dạng và phong phú hơn. Như vậy, công chúng báo chí là những người tiếp nhận,
đón đọc các thông tin trên ấn phẩm báo chí, đóng một vai trò quan trọng trong
quá trình truyền thông. Mối quan hệ giữa cơ quan báo chí, nhà báo và công
chúng là mối quan hệ máu thịt, không thể tách rời.
    Đối với người làm báo, công chúng là đối tượng phục vụ, nếu công chúng
không tiếp nhận, sản phẩm báo chí sẽ trở nên vô nghĩa. Công chúng báo chí
không chỉ là đối tượng tiếp nhận, mà còn là đối tượng tác động, hoặc chịu ảnh
hưởng tác động của thông tin báo chí. Bởi vì trách nhiệm xã hội cao cả của nhà
báo là cung cấp sự thật, cung cấp thông tin, thông qua đó họ muốn tác động đến
đời sống, thúc đẩy xã hội phát triển.
    Nói cách khác, nhà báo muốn thực hiện được mong ước thúc đẩy xã hội của
mình, thì phải nhờ đến công chúng, thông qua công chúng. Công chúng tiếp
nhận tác phẩm báo chí, từ đó hình thành và thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
cụ thể trong đời sống phù hợp với nhu cầu phát triển bền vững. Các cơ quan báo
chí, nhà báo phải tìm hiểu công chúng muốn tiếp nhận thông tin muốn gì, cần gì
thì mới có thể đáp ứng được một cách chính xác nhu cầu của họ, như thế mới có
thể nhanh chóng thuyết phục, lôi kéo họ và giữ chân được họ lâu hơn (nói cách
khác, phải căn cứ vào thị hiếu của công chúng, phải đáp ứng được những yêu
cầu rất đòi hỏi của công chúng).
    Chính vì thế, công chúng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao
năng lực và hiệu quả tác động của sản phẩm báo chí.
3.2. Công chúng – nguồn cảm hứng sáng tạo, nguồn lực sáng tạo của báo
chí
    Công chúng không chỉ là đối tượng tiếp nhận, đối tượng tác động mà còn là
nguồn đề tài phong phú vô tận của báo chí. Họ còn là người trực tiếp tham gia
các bài báo, tác phẩm phát thanh, truyền hình với những vấn đề liên quan đến
đời sống xã hội và chính đến bản thân họ.
    Công chúng là người trực tiếp sáng tạo hoặc tham gia sáng tạo tác phẩm báo
chí (thông qua các hoạt động thông tin kịp thời đến tòa soạn, cơ quan báo chí).
Công chúng quyết định vai trò, vị thế và sức mạnh xã hội của báo chí và nhà
báo.
     Đây là mối quan hệ biện chứng có tác động mạnh mẽ với nhau, bổ trợ cho
nhau trong quá trình đưa thông tin, kiểm chứng, sàng lọc thông tin, là sự trao đổi
hàng hóa, là nguồn lực vô tận, nguồn lực sáng tạo để báo chí tôn tại và phát
triển. Nếu không có công chúng thì sản phẩm báo chí coi như không có tác dụng
bởi vì sản xuất ra không có người đọc, chương trình phát sóng không có người
nghe, người xem. Nhà báo mà không có công chúng thì có thể coi như không
hành nghề.
    Duy trì tốt mối quan hệ này, sẽ đem lại cho Cơ quan báo chí những thuận lợi
sau: 
- Thực hiện được lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội, bởi trên cơ sở số lượng, chất
lượng và đặc điểm nhóm công chúng mà sản phẩm báo chí gây ảnh hưởng, cơ
quan báo chí sẽ có cơ hội phát triển quảng cáo, kinh doanh dịch vụ và gây ảnh
hưởng chính trị - xã hội. Đây là điều rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định vị thế
xã hội và bản chất của hoạt động của cơ quan báo chí. 
- Công chúng báo chí là đối tác của Cơ quan báo chí, là nguồn cung cấp dữ liệu
và nguồn nuôi dưỡng báo chí. công chúng không chỉ là đối tượng tác động, đối
tượng thuyết phục và lôi kéo mà còn là chủ thể tham gia tích cực trong các quá
trình ấy, mặt khác họ còn là lực lượng đánh giá, giám sát và cổ vũ động viên
mọi hoạt động của báo chí. Thực tế cho thấy, sản phẩm báo chí có nhóm công
chúng tham gia càng nhiều thì càng uy tín, có hiệu quả truyền thông cao.
3.3.  Công chúng khách hàng của báo chí
    Công chúng báo chí còn là khách hàng. Mỗi khi sản phẩm báo chí là hàng
hóa, thì món hàng hóa ấy được mua và tiêu dùng bởi công chúng. Do đó, cần
tìm hiểu các khái niệm công chúng - khách hàng - thị trường báo chí. Hiểu được
mối quan hệ này sẽ giúp cơ quan báo chí tăng nguồn thu để bù đắp chi phí sản
xuất. 
    Trên thực tế nếu không bán được sản phẩm, hoặc tăng doanh thu quảng cáo,
không mở rộng được khách hàng báo chí thì khó có điều kiện phát triển sự
nghiệp báo chí. Phát triển theo cơ chế thị trường, bắt buộc các Cơ quan báo chí
phải tự cân đối tài chính, vì vậy mối quan hệ với công chúng với tư cách là
khách hàng sẽ phổ biến trong giai đoạn hiện nay của các cơ quan báo chí. 
    Ở Việt Nam hiện nay, mối quan hệ kinh tế giữa báo chí – công chúng được
thể hiện thông qua các hình thức sau:
 Thứ nhất, báo chí thực hiện kinh doanh thông qua hoạt động phát hành. 
Đây là cách làm truyền thống. Trong thời kỳ kinh tế thị trường như hiện
nay, mỗi tờ báo lại là một sản phẩm hàng hóa được lưu thông trên thị trường.
Trong hàng trăm tờ báo in, kênh truyền hình, sóng phát thanh, trang báo mạng
điện tử như hiện nay, công chúng là người chọn lựa tờ báo có chất lượng cao,
phù hợp và đáp ứng được nhu cầu thông tin của họ. Họ sẵn sàng theo dõi một sự
kiện, một thảm họa,...trên nhiều số báo, kỳ báo liên tiếp, nếu họ thực sự quan
tâm và trở thành những công chúng trung thành của tờ báo đó.
     Ngược lại công chúng cũng sẵn sàng không chọn lựa, tẩy chay những tờ báo
có chất lượng kém, không phù hợp, hoặc không đáp ứng được nhu cầu, điều
kiện tiếp nhận thông tin của họ. Công chúng chính là khách hàng bỏ tiền ra mua
báo in, trả tiền cho tờ báo đó chính là đem lại nguồn thu cho tòa soạn báo. 
VD: : báo Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh vào năm có lượng phát hàng hàng ngày rơi
vào khoảng 400-500 nghìn bản/số. Với giá bán 3.700 đồng/số, trung bình mỗi
ngày, báo Tuổi trẻ thu được từ 1,48-1,85 tỷ tiền bán báo để duy trì hoạt động sản
xuất
 Thứ hai, quảng cáo trên báo chí.
 Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dũng trong một bài viết trên báo Người làm báo, thì
quảng cáo là nhu cầu phát triển của chính bản thân cơ quan báo chí; vì cơ quan
báo chí muốn có tiền để tái đầu tư đổi mới kỹ thuật và công nghệ làm báo, muốn
nâng mức nhuận bút để hút bài và quy tụ người giỏi thì cần ó nguồn thu, mà
nguồn thu từ quảng cáo chiếm phần lớn nguồn thu của cơ quan báo chí.
Ở hầu hết cơ quan báo chí nước ngoài, nguồn thu từ quảng cáo chiếm trên 50%
tổng doanh thu của Cơ quan báo chí. Còn ở Việt Nam, quảng cáo trên các sản
phẩm báo chí cũng ngày càng phát triển và trở thành nguồn thu chính ở nhiều cơ
quan báo chí. Như vậy, doanh thu từ quảng cáo đã làm cho công chúng được
hưởng lợi, mua sản phẩm báo chí hay đăng ký thuê bao có thể dưới giá thành
sản xuất sản phẩm báo chí.
VD: Công ty cổ phần Tiên Phong thuộc cơ quan báo Tiền Phong được thành lập
từ năm 1998, Ngoài những ngành dịch vụ như: Kinh doanh phát hành sách báo
văn hoá phẩm (thông qua hệ thống Nhà sách Tiền Phong trên toàn quốc); Kinh
doanh Thương mại xuất - nhập khẩu, Đào tạo và tư vấn du học ... Dịch vụ
Quảng cáo Truyền thông & Tổ chức sự kiện cũng đã trở thành một ngành mũi
nhọn trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Cách hoạt động này đều đem lại
doanh thu tương đối cao cho cơ quan báo chí.
- Ngoài hai hình thức trên, một số cơ quan báo chí còn tổ chức các sự kiện
truyền thông, bán vé cho công chúng để mang lại lợi nhuận.

4. Vấn đề đặt ra về công chúng trong sự phát triển của báo chí: Vấn đề tôn
trọng công chúng trong báo chí
    Báo chí Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm
qua. Với số lượng các cơ quan báo chí ngày càng tăng và chất lượng ngày càng
tốt đã tạo niềm tin và nhu cầu cần thiết cho công chúng. Tuy nhiên trong bối
cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các cơ quan và loại hình báo chí như hiện nay,
nhiều vấn đề đã xảy ra:  đưa thông tin sai lệch, thông tin thiếu tính nhân
văn,...trên một số cơ quan báo chí đã khiến cho báo chí mất đi niềm tin của một
bộ phận không nhỏ công chúng. Từ việc giật tít câu view, bới móc đời tư, đăng
tải thông tin sai lệch,...đến làm những việc đi ngược lại nguyên tắc báo chí nói
chung, tính nhân văn nói riêng dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, gây mất
niềm tin của công chúng đối với báo chí. Để lấy lại niềm tin và giữ vững vị thế
trong lòng công chúng, vấn đề tôn trọng công chúng được  đặt lên hàng đầu.

5. Trách nhiệm của nhà báo đối với công chúng


    Một nền báo chí chân chính là nền báo chí vì con người và tôn trọng con
người. Một nhà báo có đạo đức là nhà báo biết bảo vệ những giá trị cao cả của
cuộc sống, bảo vệ công lý, bảo vệ những lợi ích tối cao, sống còn của đất nước,
dân tộc, đồng thời cũng biết tôn trọng các giá trị sống của từng người dân, từng
cộng đồng, chiến đấu chống tham nhũng, tiêu cực, chống bất công xã hội, bảo
vệ những người bị áp bức, bị chà đạp trong xã hội.. 
    Trên cơ sở những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, chính các nhà báo cần
phải có chuẩn mực đạo đức của chính mình, chuẩn mực này cũng bao hàm trong
đó trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân, từ đó khuyến khích các nhà báo
xem xét lại động cơ của họ, phương thức hành nghề và sản phẩm công việc của
họ, khuyến khích các phóng viên và biên tập viên tự đặt câu hỏi về những thách
thức khi đưa ra quyết định.
    Báo chí không chỉ phản ánh sự việc, hiện tượng tiêu cực mà còn đưa ra các
giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Báo chí tiếp cận thông tin và các vấn đề xax
hội với tâm thế tích cực, đưa ra những giải pháp tích cực để khắc phục khó khăn
thách thức, vun đắp niềm tin nơi công chúng, góp phần xây dựng xã hội.
II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NÊN VIỆC CÔNG CHÚNG BÁO CHÍ LÀ
ĐỐI TÁC, ĐỒNG TÁC GIẢ VỚI CƠ QUAN BÁO CHÍ

1. Nhận định Công chúng báo chí - truyền thông đang chuyển từ thế hệ
công chúng “bị động” chuyển sang thế hệ công chúng “chủ động”.
Trong những đặc điểm của công chúng báo chí, có một nhận định rằng:
Công chúng báo chí - truyền thông đang chuyển từ thế hệ công chúng “bị động”
chuyển sang thế hệ công chúng “chủ động”. Cụ thể là chủ động trong hành vi,
một hành vi mà nhóm chúng em muốn nhấn mạnh đó là sự SÁNG TẠO (là tham
gia và quá trình truyền thông/ tham gia vào quá trình hình thành sản phẩm
truyền thông).  
Việc công chúng báo chí trở thành đồng tác giả với các cơ quan báo chí là
một việc thể hiện sự sáng tạo của thế hệ công chúng “chủ động”.
Thứ nhất, nếu ngày xưa, hầu hết các tác phẩm báo chí hay truyền thông đều
do người làm báo, phóng viên,...trực tiếp đến tận nơi để lấy thông tin, tìm hiểu
và nghiền ngẫm để thành bài. Thì ngày nay, có được một nguồn tư liệu từ công
chúng cung cấp không còn là một điều xa lạ.
Thứ hai, sự sáng tạo thể hiện qua góc nhìn của công chúng về một sự việc,
hiện tượng xã hội, họ đóng góp cho các cơ quan báo chí quan điểm và nhận định
của họ trước sự việc, hiện tượng đó.
Thứ ba, công chúng đóng góp những điều mà họ quan tâm, thể hiện sự mong
mỏi của họ vào cơ quan báo chí, thay vì ở cái thời lúc nào cũng chỉ quanh quẩn
một vài tin tức mà “biết rồi, khổ lắm nói mãi”.
2. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự thông minh của công chúng
Dựa vào 2 thống kê dưới đây:
Việt Nam được đánh giá là 1 trong 20 nước có tỷ lệ sử dụng Internet nhiều
nhất thế giới với 68,17 triệu người dùng (chiếm 70% dân số). Khoảng 94%
người dùng Việt Nam sử dụng Internet một cách thường xuyên với thời gian sử
dụng trung bình lên tới 6 tiếng mỗi ngày. (Theo bài viết Bảo vệ dữ liệu cá nhân
người dùng trong chuyển đổi số/ ngày 17/12/2020 được in trên Báo Công an
nhân dân online).
  Theo một khảo sát của tác phẩm “Thế hệ công chúng thông minh và áp
lực thích nghi của truyền thông chính thống” (trong Tạp chí Khoa học – Đại
học Huế/ISSN 2588–1213/Tập 126, Số 6A, của tác giả Đinh Khắc Quỳnh
Giang/Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế) cho hay : “Khảo sát sơ bộ trên
nhóm sinh viên - công chức trong độ tuổi từ 18 - 40, cho thấy số người thường
xuyên đọc báo, xem đài và cho rằng nội dung thông điệp của truyền thông chính
thống đáng tin cậy”.
Như vậy, có thể thấy công chúng Việt ngày càng công nghệ hóa, bên cạnh
đó  tỉ lệ tiếp cận các thông tin báo chí, truyền thông khá trẻ, trong độ tuổi đã
phát triển khá đầy đủ và toàn diện về các khía cạnh trong cuộc sống, họ thông
minh trong cách lựa chọn tiếp thu thông tin ở các phương tiện chính thống.
Ngoài sự nhanh nhạy và óc phân tích toàn diện, họ còn là người tiếp công nghệ
thông tin trực tiếp nhất, họ biết cách để truyền tải và tự tay sáng tạo ra tác phẩm
báo chí, truyền thông từ chính đầu óc và đôi bàn tay “báo chí không chuyên”
chính vì vậy, việc đẩy mạnh hợp tác để sáng tạo ra tác phẩm với nhóm người
này sẽ nâng cao chất lượng của các tác phẩm báo chí, truyền thông. 
3. Khát vọng cống hiến và muốn thể hiện bản thân
Tháp nhu cầu Maslow
 Nhu cầu sinh lý (Thức ăn, nước uống, ngủ nghỉ,..)
 Nhu cầu an toàn (Nhà cửa, tài sản,...)
 Nhu cầu xã hội (Giao lưu, chia sẻ, học hỏi,...)
 Được tôn trọng
 Tự thể hiện 

III. Mục đích và ý nghĩa của việc để công chúng báo chí là đối tác, đồng tác
giả với các cơ quan
1. Mục đích và ý nghĩa
 Tiếp nhận một sự việc từ những góc nhìn đa chiều hơn trong cuộc sống.
Mỗi công chúng sẽ có cách nhìn riêng về sự việc.
 Để hiểu được những vấn đề nào trong cuộc sống mà được công chúng
quan tâm nhất từ đó cũng có thể xây dựng thêm nhiều tác phẩm liên quan
và việc thể hiện các chủ đề mà công chúng quan tâm suy ra nâng cao số
lượng người theo dõi
 Công chúng cũng là 1 nguồn tư liệu của báo chí truyền thông, nguồn tư
liệu ấy đôi khi còn chân thực hơn.
 Trở thành một nơi công đáng tin cậy của công chúng, và là nơi công
chúng gửi gắm suy nghĩ và cách nhìn của họ.
 Thể hiện sự phát triển của công nghệ
 Chứng minh rõ quá trình truyền thông là quá trình tác động qua lại 2
chiều
 Thông qua hợp tác, cơ quan báo chí và đối tác thắt chặt thêm mối quan hệ
hữu nghị, tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, vì sự phát triển của mỗi bên, vì lợi
ích chung của cộng đồng. Cụ thể, nhờ mối quan hệ hợp tác, cơ quan báo
chí có thêm nguồn thông tin chính thống từ các đối tác, góp phần làm cho
nội dung thông tin, tuyên truyền về nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động của bên
đối tác trên các ấn phẩm của mình bảo đảm đúng định hướng.
 Mặt khác, thông qua hợp tác với đối tác, cơ quan báo chí có thêm người
bạn đồng hành trong công tác tuyên truyền, từ đó kết nối thêm được
nhiều đối tượng công chúng ở nhiều địa bàn, nhiều lĩnh vực, phạm vi
khác nhau. Không những vậy, bằng việc ký kết hợp tác tuyên truyền với
các đối tác, cơ quan báo chí cũng được hỗ trợ một nguồn kinh phí nhất
định để góp phần đầu tư, đổi mới, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết
bị kỹ thuật làm báo và có thêm nguồn bổ sung vào quỹ phúc lợi chung
của cơ quan.
 Đối với đối tác, lợi ích lớn nhất mà họ thụ hưởng từ việc hợp tác với các
cơ quan báo chí là được bảo trợ, hỗ trợ thông tin về các hoạt động của
đơn vị; được giới thiệu, quảng bá về những thành tựu, kết quả và sản
phẩm của mình trên các ấn phẩm của cơ quan báo chí, qua đó bắc thêm
nhịp cầu thông tin với đông đảo công chúng, làm cho công chúng ngày
càng biết đến vị thế, vai trò, hoạt động và thương hiệu của họ.
2. Mặt tiêu cực và cách khắc phục
Mặt tiêu cực 

 Đôi khi nguồn tin có thể loãng, nếu quá nhiều mục gửi về nhưng thông tin
lại khác nhau thì sẽ bị loãng nguồn tin. 
 Hơn nữa không ít những người lợi dụng việc đưa thông tin để nổi tiếng
mà không quan tâm đến việc xác thực hay độ chính xác của thông tin.
 Đối với cơ quan báo chí, việc hợp tác với nhiều đối tác, nhất là doanh
nghiệp, có thể thu được lợi ích không nhỏ về nguồn kinh phí hỗ trợ.
Nhưng, cũng vì điều đó mà việc thông tin tuyên truyền về đối tác dễ sa
vào xu hướng thiên vị, phiến diện, một chiều, chỉ khuếch trương, tô hồng
kết quả, thành tích của đối tác, mà ngại hay không dám đề cập, phản ánh
những khó khăn, bất cập và cả những vấn đề mờ ám, khuất tất (nếu có)
của họ. 
 Một vấn đề được đặt ra là việc một cơ quan báo chí mở rộng hợp tác với
quá nhiều đối tác, nhất là đối tác doanh nghiệp, có nên không? Và việc
một đối tác cũng “hào phóng” ký kết hợp tác với quá nhiều cơ quan báo
chí, có điều gì đáng bàn không? Đối với một đối tác mà tham gia ký kết
quá nhiều với cơ quan báo chí, đặc biệt đối tác đó là doanh nghiệp, họ
gần như đã được chủ động toàn quyền thông tin về đơn vị mình trên báo
chí. Trong “cuộc chiến thương trường” đầy khốc liệt như hiện nay, việc
doanh nghiệp nào đó chiếm lĩnh, thâu tóm được thông tin coi như họ đã
làm chủ được phần lớn thị phần. Nếu làm ăn đàng hoàng, minh bạch,
những thông tin đó của doanh nghiệp đăng tải trên báo chí sẽ góp phần
mang lại lợi ích chân chính cho công chúng và cộng đồng.
Ngược lại, nếu lợi dụng kẽ hở của pháp luật và sa vào “lợi ích nhóm”, mà
thông tin của doanh nghiệp lại đồng loạt xuất hiện rộng rãi, dày đặc trên nhiều
ấn phẩm báo chí, ở nhiều loại hình truyền thông trong cùng một thời điểm sẽ
gây hệ lụy không nhỏ đến sự lành mạnh của môi trường sản xuất kinh doanh và
thị trường tiêu dùng. Đấy là chưa kể có doanh nghiệp sử dụng các cơ quan báo
chí đã ký kết hợp tác như là một “vũ khí lợi hại” để “bảo kê thông tin” cho mình
trong mọi trường hợp, mọi tình huống, bất kể tốt hay xấu. Điều này sẽ làm ảnh
hưởng đến niềm tin của công chúng vào các cơ quan báo chí.
Cách khắc phục
=>  Giữ cái tâm với nghề và thái độ đúng đắn đối với công chúng dù ở vị trí
nào
=>  Đối với 1 số thông tin, người làm báo cần tỉnh táo và phải kiểm chứng cụ
thể độ xác thực của thông tin đó, tránh xung đột và phải có giải thích cụ thể hợp
lý cho người cung cấp thông tin.
=>  Cần làm rõ quan điểm làm việc của 2 bên đối tác
Chọn đối tác, “thà ít mà tốt”
Phương châm “thà ít mà tốt” hay “quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong việc lựa
chọn đối tác hợp tác, có lẽ rất cần được nhắc lại và cũng rất mong cơ quan báo
chí thấm nhuần sâu sắc điều này. Không nên và đừng để lợi ích kinh tế chi phối
mà dễ dàng thỏa thuận, bắt tay ký kết với quá nhiều đối tác, nhất là những đối
tác chưa thoát khỏi sự hoài nghi của dư luận.
Thêm nữa, công chúng đặt niềm tin và đòi hỏi cơ quan báo chí và nhà báo
phải luôn có ý thức công tâm, phẩm chất công bằng và nghĩa vụ bảo vệ lợi ích
cộng đồng cao nhất, tránh thông tin theo kiểu “nhất bên trọng, nhất bên khinh”
chỉ vì lợi ích đơn thuần của đối tác nào đó. Nhận thức thấu đáo như vậy, cơ quan
báo chí mới tránh khỏi “cạm bẫy lợi ích”, tự phòng ngừa những hệ lụy có thể
xảy ra ngoài ý muốn và giữ được sứ mệnh cao cả của mình để góp phần thúc
đẩy xã hội phát triển nhân văn, dân chủ, tiến bộ.
./.

You might also like