Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
- Biến tố là phụ tố chỉ xuất hiện ở những từ có biến đổi hình thái. Chức năng của nó
là biểu thị mối quan hệ cú pháp của các từ ở trong câu:
Ví dụ: trong tiếng Anh
Love “ tình yêu “
Love ( số ít )
Loves ( số nhiều )
Love’s ( sở hữu cách, số ít )
Loves’ ( sở hữu cách, số nhiều )
- Ngoài chính tố và phụ tố, còn có những hiện tượng được gọi là bán phụ tố. Bán
phụ tố là những yếu tố không mất hoàn toàn ý nghĩa sự vật của mình nhưng lại
được lặp lại trong nhiều từ, có tính chất của những phụ tố cấu tạo từ. Tiêu chí cơ
bản của bán phụ tố là tính chất phụ trợ của nó, thể hiện trong những đặc điểm về ý
nghĩa, phân bố và chức năng. Trong khi hoàn thành chức năng cấu tạo từ, chúng
vẫn giữ mối liên hệ về ý nghĩa và hình thức với những từ gốc hoạt động độc lập
cho nên chúng không chuyển hoàn toàn thành các phụ tố.
Trong tiếng Việt, những yếu tố như viên, giả, sĩ, hóa,… cũng có tính chất của các
bán phụ tố:
+ Ủy viên, thành viên, nhân viên, giáo viên, đoàn viên,…
+ Kí giả, độc giả, thính giả, tác giả,…
+ văn sĩ, thi sĩ, bác sĩ, nhạc sĩ,…
+ công nghiệp hóa, lão hóa, quân sự hóa,…
2. Cấu tạo từ
a) Từ đơn
- Khái niệm: Là từ chỉ có một hình vị chính tố
- Ví dụ: horse “ con ngựa “, man “ người đàn ông “, make “ làm “, work “ lao động
“,…
b) Từ phái sinh
- Khái niệm: Là từ gồm chính tố kết hợp với phụ tố cấu tạo từ.
- Ví dụ: maker “ người làm “, kindness “ lòng tốt “ ( kind “ tốt “ ),…
c) Từ phức
- Khái niệm: Là sự kết hợp của hai hoặc hơn hai chính tố
- Ví dụ: vui vẻ, chăm nuôi,…
d) Từ ghép
- Khái niệm: Là những từ cấu tạo bằng cách ghép hai hoặc hơn hai từ độc lập.
- Căn cứ vào quan hệ giữa các thành tố, có thể chia ra từ ghép đẳng lập và từ ghép
chính phụ
- Ví dụ: Từ ghép đẳng lập: suy nghĩ, cây cỏ, bàn ghế, sách vở, xinh đẹp
Từ ghép chính phụ: xanh ngắt, bà nội, tàu thủy,…
e) Từ láy
- Khái niệm: Là những từ cấu tạo bằng cách lặp lại thành phần âm thanh của một
hình vị hoặc một từ. Từ láy phổ biến ở các ngôn ngữ Đông và Đông Nam Châu Á.
Có thể phân ra từ láy hoàn toàn và từ láy bộ phận
- Ví dụ: Từ láy hoàn toàn: chuồn chuồn, ào ào, rầm rầm,…
Từ láy bộ phận: hổn hển, lưa thưa, mũm mĩm,…
Hiện tượng trái nghĩa tiếng Việt chủ yếu là sự đối lập của những từ gốc khác nhau.
Tuy nhiên, cũng có thể cấu tạo những cặp trái nghĩa mới trên cơ sở các từ gốc vốn đã trái
nghĩa. Thí dụ :
ăn mặn – ăn nhạt
khéo nói – vụng nói
xấu mặt – đẹp mặt
xấu bụng – tốt bụng
ăn mặn – ăn chay
siêng làm – nhác làm
Các đơn vị trên được cấu tạo bằng cách ghép một từ vào hai vế của cặp trái nghĩa
đã có. Những cặp trái nghĩa mới cũng có thể cấu tạo từ các từ vốn đều trái nghĩa. Thí dụ :
sâu sắc – nông cạn to nhỏ – lớn bé
Một trong những tiêu chí ngôn ngữ học của từ trái nghĩa là khả năng kết hợp giống
nhau của các vế. Trong cặp trái nghĩa, nếu vế này có thể kết hợp với những từ nào đó thì
vế kia cũng có thể kết hợp được với những từ ấy. Thí dụ :
người cao – người thấp
cao cờ – thấp cờ
cao tay – thấp tay
rộng lòng – hẹp lòng
rộng bụng – hẹp bụng
Khả năng kết hợp khác nhau chứng tỏ chúng không trái nghĩa. Thí dụ : giá cao –
giá hạ thì được, nhưng trình độ cao phải đi với trình độ thấp, chứ không phải trình độ hạ.
Điều đó chứng tỏ cao và hạ trong trường hợp thứ hai không trái nghĩa.
Tiêu chí ngôn ngữ học thứ ba của từ trái nghĩa là tính quy luật của những liên
tưởng đối lập, tức là nhắc đến vế thứ nhất, người ta nghĩ ngay đến vế thứ hai. Trường hợp
có sự tranh chấp thế đối lập thì thế đối lập nào liên tưởng thường xuyên nhất, trước nhất
sẽ là thế đối lập cơ bản. Về nghĩa, to cũng đối lập với bé, với tí hon, ... Tương tự, những
đối lập sau đây là thường xuyên và cơ bản: tiểu- đại, tí hon- khổng lồ, trường- đoản,
trọng- khinh, nặng- nhẹ, v.v…
V. TRƯỜNG NGHĨA
Khái niệm trường nghĩa: “Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa.
Đó là tập hợp những từ đồng nhất về ngữ nghĩa”, và đối với quan hệ ngữ nghĩa trong
trường nghĩa thì “chúng ta có thể phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa
trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường nghĩa và những quan hệ
ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường”
Phân loại: Đỗ Hữu Châu đã phân loại trường nghĩa thành 2 loại:
Trường nghĩa ngang ( trường nghĩa tuyến tính)
Trường nghĩa dọc ( trường nghĩa trực tuyến )
Trong trường nghĩa dọc, căn cứ vào kiểu loại ý nghĩa của từ để phân ra trường
nghĩa biểu niệm và trường nghĩa biểu vật trong trường nghĩa trực tuyến. Ngoài ra
còn căn cứ vào đặc trưng liên tưởng để xác lập trường liên tưởng
- Trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) là “trường nghĩa có xuất phát từ
tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ, các tín hiệu phải lần lượt kế tiếp thành một
chuỗi mà không thể đồng thời xuất hiện. Muốn có quan hệ ngữ đoạn với nhau, các
yếu tố phải cùng thực hiện một chức năng về ngôn ngữ hoặc về nội dung giao tiếp.
Các từ trong một trường tuyến tính thường xuất hiện với từ trung tâm trong các
loại ngôn bản. Phân tích ý nghĩa của chúng, chúng ta có thể phát hiện được những
nội dung ngữ nghĩa của các quan hệ cú pháp và tính chất của các quan hệ đó”
- Trường nghĩa dọc (Trường nghĩa trực tuyến) gồm:
+ Trường nghĩa biểu vật: là một tập hợp các từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật.
Ví dụ: trường nghĩa "cây”: hoa, lá, quả, nụ, thân, rễ,...
+ Trường nghĩa biểu niệm: là tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu niệm
Hoạt động di chuyển bằng tay: cầm, nắm, mang, bê,...
Hoạt động di chuyển bằng vai: gánh, vác, khiêng,...
Hoạt động di chuyển bằng lưng: cõng, địu....
Hoạt động di chuyển bằng đầu: đội
Trường nghĩa liên tưởng là” tập hợp các từ biểu thị các sự vật, hiện tượng, hoạt
động, tính chất,… có quan hệ liên tưởng
Ví dụ: trường liên tưởng do từ “thuyền” gợi ra, như sau.
Nước
Mênh
Biển
mông
Sông Xa
Thuyền
Bến Bất
đậu tận
Trôi Lênh
nổi đênh
Vô Ra
định khơi