Professional Documents
Culture Documents
ruồi ruồi đầu ruồi :bộ phận của súng (đầu ruồi ở nòng súng)
Vì phương thức chuyển nghĩa không tạo ra từ mới mà sử dụng các từ sẵn có, được tạo ra từ ba phương
thức trên nên không được nói đến ở đây. Nên phương thức chuyển nghĩa không phải là phương thức cơ
bản cấu tạo từ tiếng Việt.
Câu 2: Đặc điểm ngữ nghĩa của ngữ cố định.
* Khái niệm: Ngữ cố định là những đơn vị cú pháp (cụm từ, câu) đã quen dùng, lặp đi lặp lại với một
nghĩa là hình thức nhất định. Ngữ cố định là những đơn vị tương đương với từ.
* Ví dụ:
- Mẹ tròn con vuông - Chim sa cá lặn - Cha truyền con nối
- Chó ngáp phải ruồi - Bạn nối khố - Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
* Các loại ngữ cố định: Quán ngữ, Thành ngữ, Tục ngữ.
* Đặc điểm của ngữ cố định:
1. Tính biểu trưng:
- Hầu hết tất cả các ngữ cố định dù có tính thành ngữ cao (như Đi guốc trong bụng) hay thấp (như
Thẳng như kẻ chỉ, Ăn đói mặc rét, Ngay cán tàn...) đều là những bức tranh nho nhỏ về những vật thực,
việc thực cụ thể, riêng lẻ, được nâng lên để nói về cái phổ biến, khái quát, trừu tượng. Chúng là các ẩn
dụ (Múa rìu qua mắt thợ ...), so sánh (Thẳng như: kẻ chỉ...) hay các hoán dụ (Áo chiếc quần manh, Một
nắng hai sương...).
Ngữ cố định lấy những vật thực, việc thực để biểu trưng cho những đặc điểm, tính chất, hoạt động, tình
thế... phổ biến khái quát. Đặc biệt là các ngữ cố định biểu thị các tình thế có tính chất biểu trưng rất
cao. Tình thế đã là cái gì hết sức phức tạp khó nói, lại còn phải bộc lộ thái độ, cách đánh giá của người
nói đối với tình thế hay đối với người bị lâm vào tình thế đó nữa. Ví như tình thế được diễn đạt bàng
ngữ "Chuột chạy cùng sào". Đó là tình thế của những kể hèn kém bị dồn vào bước đường cùng, không
lối thoát mặc dù đã xoay xở hết cách. Rõ ràng là, bằng phương tiện cụm từ tự do như lời giải nghĩa dẫn
trên, chúng ta chẳng những không thể nói lên đầy đủ những cái đáng nói của tình thế đó mà còn phải
nhược điểm là dài dòng, rườm rà, nhạt nhẽo.
Cho nên đưa ra một sự kiện có thật "Chuột bị đuổi chạy trên cái sào dựng đứng” rồi để cho người nghe,
người đọc tự suy ra những điều có thể suy ra được, đó là con đường tốt nhất để vừa đảm bảo được đủ ý,
vừa đạt được tính hàm súc mà lại gây được ấn tượng sâu sắc. Biểu trưng là cơ chế tất yếu mà ngữ cố
định, mà từ vựng phải sử dụng để ghi nhận, diễn đạt những nội dung phức tạp hơn một khái niệm đơn.
*Ví dụ:
- Thành ngữ so sánh: A như B: Câm như hến
(A) như B: như hủi
như B: như tiên
AB: bé hạt tiêu (nhỏ mà có võ), thẳng ruột ngựa, ngang cày bứa
- Thành ngữ đối: AxAy: đi đông đi tây, chân ướt chân ráo
AxBy: Ăn Bắc mặc Nam, vào luồn ra cúi, cao chạy xa bay,
- Thành ngữ thường: thành ngữ không đối, không so sánh, được rút ra từ những truyện cổ tích của ông
cha ta: ướt như chuột lụt, vắt cổ chày ra nước, chạy long tóc gáy, vênh như bố vợ cậu ấm (phải đấm).
2. Tính dân tộc : Đành rằng tính dân tộc là đặc điểm nói chung của một ngôn ngữ cụ thể, song nó thể
hiện đậm nét hơn ở các ngữ cố định.
Tính dân tộc ở các ngữ cố định hiện ra thứ nhất ở chính nội dung của chúng. Như đã nói, các ngữ cố
định phản ánh các biểu hiện, các sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng... đã có tên gọi hoặc chưa có
tên gọi. Thấy được biểu hiện nào, sắc thái nào đáng chú ý để ghi giữ chúng lại. Điều này tùy thuộc vào
đời sống, kinh nghiệm và cách nhìn của từng dân tộc. Thứ hai ở các tài liệu, tức là các vật thực, việc
thực... mà ngữ cố định dã dùng làm biểu trưng cho nội dung của chúng.
Con mèo, con chuột, con chó, con ong, con kiến, con ruồi...ngôi chùa, pho tượng, ông bụt... con voi,
con ngựa, con rồng... cái khố, tấm áo, manh quần... cảnh hai gái lấy một chồng, cảnh ông từ vào đền,
sự bám dai của con dia... tình trạng con rắn mất đầu, con đỉa phải vôi...tất cả là những tài liệu mang
đậm màu sắc của quê hương, xứ sở Việt Nam trong xã hội nông nghiệp xưa được quan sát một cách tài
tình, liên hệ một cách độc đáo mà đúng đắn, tinh tế... với những hiện tượng nhân sinh. Những tài liệu
này của ngữ cố định Việt Nam khiến cho chúng không thể lẫn được với bất cứ ngữ cố định nào của các
dân tộc khác.
*Ví dụ: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng: văn hóa tứ đại đồng đường của người Việt
Cá nhảy bàn thờ, xắn váy quai cồng, xỏ chân lỗ mũi, cắn nhau như chó với mèo, mật ít ruồi nhiều, vắng
như chùa Bà Đanh, hiền như bụt, lên voi xuống chó, nói như rồng leo, đầu voi đuôi chuột,...
3. Tính hình tượng và tính cụ thể: Tính hình tượng của thành ngữ là kết quả tất yếu của tính biểu
trưng. Do chỗ tài liệu của các ngữ cố định là sự vật, sự kiện cảm giác được quan sát được, cho nên nhắc
đến một ngữ cố định trước hết là tái hiện lại chính những hình ảnh về các sự vật, hiện tượng - tài liệu
đó. Nhờ tính hình tượng mà các ngữ cố định thường gây ra những ấn tượng mạnh mẽ, đột ngột, tác
động của chúng đậm đà và sắc, càng "ngầm" càng thú vị. Ở tính chất này, ngữ cố định mang tính chất
của các sáng tác văn học, đó là những phác thảo văn học đã cố định hóa thành phương tiện giao tiếp.
Cần nói rõ hơn về tính cụ thể của ngữ cố định. Do có tính hình tượng, nên ngữ cố định là cụ thể. Do ý
nghĩa của ngữ cố định thường vượt khỏi ý nghĩa trực tiếp của các sự vật, hiện tượng, nên chúng lại có
giá trị phổ biến, khái quát. Như vậy, dường như trong ngữ cố định có sự trái ngược giữa tính cụ thể và
tính khái quát phổ biến.
Thực ra, tính phổ biến khái quát của ý nghĩa các ngừ vẫn bị chi phối bởi tính cụ thể và tính cụ thể vốn
gắn liền với tình hình tượng. Tính cụ thể ở đây thể hiện ở tính bị quy định về phạm vi sử dụng. Thứ
nhất tuy có ý nghĩa phổ biến khái quát, song các ngữ cố định không phải có thể dùng cho bất cứ sự vật,
hiện tượng nào miễn là nó có tính chất hay đặc điểm mà ngữ biểu thị.
Thí dụ : Chúng ta đã miêu tả ý nghĩa của ngữ "Chuột chạy cùng sào". Ngữ này có thể dùng cho rất
nhiều tình thế cá nhân và xã hội khác nhau : quân sự, chính trị, kinh tế, sự làm ăn... nhưng vì nó nhắc
đến chuột, một con vật bị "khinh bỉ", cho nên ngữ này không phải dùng cho bất cứ người nào cũng
được, nó chỉ dùng cho những nhân vật mà chúng ta coi thường, khinh bỉ, thù ghét. Thứ hai, mỗi ngữ cố
định thường chỉ nêu bật một khía cạnh nào đó của tính chất, đặc điểm... được nói tới mà thôi : tính cụ
thể của nó thể hiện ở tính bị quy định về sắc thái ngữ nghĩa. Cũng là tính chất lúng túng nhưng "lúng
túng như gà mắc tóc" nói đến tình trạng lúng túng do sa vào nhiều sự việc dồn dập mà không tìm được
cách giải quyết. "Lúng túng như thợ vụng mất kim" là nói đến sự lúng túng không phải vì gặp nhiều sự
việc rắc rối mà là do chỗ chưa có kinh nghiệm, lại mất phương hướng. "Lúng túng như ếch vào xiếc" là
nói đến sự lúng túng do bị giam hãm trong những tình thế cực kì khó khăn không thi thố được tài năng.
Còn "Lúng túng như chó ăn vụng bột" là nói đến sự lúng túng của những người phạm sai lầm muốn che
giấu lỗi lầm của mình song tang chúng vẫn "sờ sờ" ra đấy...
Tính bị quy định về sắc thái làm cho nghĩa của các ngữ cố định hẹp lại, do đó tính cụ thể tàng lên. Mà
cái sắc thái mà ngữ cố định có được lại được suy ra từ các tài liệu - tức là các sự vật, các sự việc được
dùng làm biểu trung. Cho nên, muốn hiểu được thật chắc, dúng dán, tinh tế các ngữ cố định, cần phải
hiểu thật thấu đáo chính những tài liệu thực tế được đưa vào ngữ cố định. Thông thường không quan
sát "con gà mắc tóc", "người thợ may vụng dang may vội mà lại để rơi mất kim", "con chó ăn vụng bột
trắng cả mõm bị chủ bắt gặp"... thì sẽ không thấy những cái tài tình trong các ngữ vừa dẫn.
4.Tính biểu thái : Nói các ngữ cố định không thể dùng cho bất cứ hạng người nào cũng được thì cũng
tức là nói đến tính biểu thái của chúng. Các ngữ cố định thường kèm theo thái độ, cảm xúc, sự đánh
giá, có thể nói lên hoặc lòng kính trọng, hoặc sự ái ngại, hoặc sự xót thương, hoặc sự không tán thành,
lòng khinh bỉ, thái độ chê bai, sự phủ định... của chúng ta đối với người, vật hay việc được nói tới.
Không chú ý đến các sắc thái biểu cảm khác nhau thì việc dùng các ngữ cố định có khi sẽ làm hỏng các
nội dung "trí tuệ" của câu văn, của câu nói.
Tất cả những đặc điểm về ngữ nghĩa nói trên tạo nên giá trị của các ngữ cố định. Ngữ cố định có
hình thức ngắn gọn song lại nói được nhiều : tính cô đọng, hàm súc của chúng là do tác dụng tổng hợp
của những đặc điểm đó mà có.
Những điều nói trên cũng là những phương hướng nghiên cứu bản chất của ngữ cố định và là
những tiêu chuẩn đánh giá tài năng sử dụng ngữ cố định của người nói, của nhà văn. Trong giao tiếp
nếu biết sử dụng đúng nghĩa, đúng chỗ các quán ngữ, thành ngữ sẽ tăng cường thêm tính hình tượng,
tính truyền cảm, tính cá thể và nâng cao hiệu lực biểu đạt. Đặc biệt trong các văn bản nghệ thuật, sử
dụng đúng sẽ tăng thêm tính nghệ thuật cho văn bản.
Câu 3: Anh chị hiểu như thế nào về tam giác nghĩa và hình tháp nghĩa? Phân tích các thành
phần nghĩa của từ tiếng Việt.
- Nghĩa của từ là nội dung tinh thần - chức năng mà từ biểu hiện, nó được hình thành do sự kết hợp và
tác động của nhiều nhân tố. Trong số đó có những nhân tổ nằm ngoài ngôn ngữ và những nhân tố nằm
trong ngôn ngữ Nhân tố nằm ngoài ngôn ngữ như: sự vật, hiện tượng trong Thực tế khách quan, tư duy
và người sử dụng. Nhân tố trong ngôn ngữ như: chức năng tín hiệu học, hệ thống (cấu trúc) của ngôn
ngữ.
- Ngữ nghĩa học hiện đại cho rằng cái gọi là ý nghĩa của từ không phải là khối không phân hóa mà là
một tập hợp của một số thành phần nhất định. Ý nghĩa của từ bao gồm Nghĩa từ vựng, nghĩa ngữ pháp.
=> Đó là hai mặt không thể thiểu của một từ.
- Trong tam giác ngữ nghĩa, một đỉnh là từ - ngữ âm, một đỉnh là sự vật trong thực tế, một đỉnh là hiểu
biết về sự vật.
1. Từ - ngữ âm: là thuật ngữ trong ngôn ngữ học để mô tả các với vị âm thanh nhỏ nhất trong ngôn
ngữ, được sử dụng để tạo thành các từ và trong một số ngôn ngữ, từ ngữ âm có thể tương đương với
các âm tiết. Trong một số ngôn ngữ khác, một từ có thể bao gồm nhiều hơn một từ ngữ âm. Trong tiếng
Việt, từ ngữ âm thường được hiểu như một âm tiết gồm các phụ âm (nếu có) và nguyên âm, tạo nên
tiếng và từng phần nhỏ trong câu. Cách xác định và định nghĩa từ - ngữ âm có thể thay đổi theo từng
ngôn ngữ cụ thể và thoa ngữ cảnh nghiên cứu ngôn ngữ học.
2. Hiểu biết về sự vật: Không chỉ hiểu về mặt hình thức, vẻ bề ngoài của sự vật mà còn là các quá trình,
tính chất hoặc hiện tượng thực tế nào đó gắn với sự vật
3. Sự vật trong thực tế: sự phản ánh của đối tượng trong nhận thức của con người.
- Hạn chế của tam giác ngữ nghĩa.
+ Cấu tạo ngữ pháp, ngữ nghĩa:
Tiếng Việt có một hệ thống ngữ pháp linh hoạt và phong phú. Mặc dù ngữ pháp tiếng Việt có
thể được mô tả bằng mô hình tam giác ngữ nghĩa, nhưng việc diễn tả sâu rộng và chi tiết các quy
tắc ngữ pháp có thể trở nên khó khăn.
Ngữ nghĩa trong tiếng Việt cũng có sự phong phú, đa dạng và có thể phụ thuộc nhiều vào ngữ
cảnh. Ngoài ra, từ vựng của tiếng Việt có thể có nhiều ý nghĩa phụ và cấu trúc từ vựng linh hoạt,
điều này cũng khiến việc áp dụng mô hình tam giác ngữ nghĩa gặp khó khăn.
+ Mối quan hệ giữa từ ngữ âm và sự vật trong thực tế chưa thương thích với thực tế:
Trong tiếng Việt, có nhiều từ có cùng âm đọc nhưng có ý nghĩa khác nhau. Ví dụ:
o "Máy": Có thể là máy móc, máy tính, máy ảnh, mỗi từ này có ý nghĩa khác nhau.
o "Lòng": Có thể là trái tim, lòng nhân hậu, hoặc lòng nghĩa khác nhau tùy theo ngữ cảnh và ngữ
lực.
Ngữ âm không phản ánh trực tiếp ý nghĩa: Từ "bàn" có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau mà ngữ
âm không thể phản ánh rõ ràng:
o "Bàn" có thể là một cái bàn để làm việc.
o "Bàn" cũng có thể là hành động bàn bạc, thảo luận.
+ Chưa minh bạch rõ là nghĩa hay khái niệm
+ Không biết nghĩa của từ nằm ở đâu: nghĩa của từ là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân
nó. Vì từ (cũng như các đơn vị ngôn ngữ khác) có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho
nên, nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn.Cần phân biệt
nghĩa của từ với sự hiểu biết về nghĩa đó. Trong nhận thức của con người không xuất hiện và tồn tại
bản thân nghĩa của các từ và các đơn vị ngôn ngữ khác, mà trong nhận thức chỉ có sự hiểu biết về các
nghĩa của chúng mà thôi. Khi nghe một câu nói bằng thứ tiếng mà ta không biết, ta trực tiếp lĩnh hội
mặt âm thanh của nó, rồi cố lục tìm trong nhận thức xem âm thanh đó có nghĩa gì (nhưng không thành
công). Hiện tượng này dễ gây ấn tượng là nghĩa của đơn vị ngôn ngữ tồn tại trong nhận thức của
chúng ta. Sự thật không phải như vậy. Nghĩa của từ cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác tồn tại
thực sự khách quan trong lời nói, còn trong nhận thức chỉ có sự phản ánh của những nghĩa đó mà thôi.
Không nên lẫn lộn nghĩa của từ với nhận thức (sự hiểu biết) của chúng ta về cái nghĩa đó. Nếu ta
không hiểu một câu nói bằng tiếng nước ngoài có quan hệ với cái gì thì những người biết thứ tiếng ấy
vẫn hiểu câu nói đó có quan hệ với cái gì trong thực tế.