Professional Documents
Culture Documents
1,Từ đồng âm
1.1. Khái niệm
Từ đồng âm là từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về
ý nghĩa.
Ví dụ: Trong tiếng Việt có ba từ “lồng” đồng âm khác nghĩa với nhau:
Lồng (1): đồ vật được đan bằng tre nứa để nhốt chim, gà vịt (lồng chim).
Lồng (2): hành động đưa bộ phận ruột vào trong bộ phận vỏ (lồng chăn).
Lồng (3): hành động vọt chạy đột ngột khi bị tác động của trâu, ngựa (trâu
lồng).
Khác với từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa có tính rông khắp và có tính
hệ thống, từ đồng âm chỉ là những trường hợp riêng lẽ, biệt lập, có tính chất
ngẫu nhiên không bị chi phối bởi quy luật ngữ nghĩa trong hệ thống ngôn
ngữ.
Do đặc điểm loại hình đơn lập của tiếng Việt (âm tiết trùng với hình
vị và trùng với âm tiết) nên từ đồng âm ở tiếng Việt chủ yếu là các từ đơn
âm tiết, trường hợp từ đa tiết đồng âm với nhau rất hiếm.
Từ đồng âm do những nguyên nhân khác nhau: do sự tiết kiệm của
ngôn ngữ (dùng lại vỏ âm thanh của từ để biểu thị một nghĩa khác không có
quan hệ gì với nghĩa đã gán trước đó cho từ); do vay mượn từ nước ngoài
theo lối phiên âm làm thành vỏ âm thanh trùng ngẫu nhiên với âm thanh của
từ thuần Việt đã có sẵn.
Ví dụ: từ phiên âm tiếng Pháp madamme “ đầm” đồng âm với từ
“đầm” (một vùng nước rộng tự nhiên trên đất liền) và từ “đầm” (dùng vật
nặng nện để đất đá nén xuống cho chắc và phẳng khi làm đường hoặc làm
nền nhà).
Cần chú ý các trường hợp sau đây không phải là từ đồng âm, từ vựng:
Thứ nhất các biến thể: phát âm của cùng một từ (trong ngôn ngữ toàn
dân) ở các phương ngữ. Ví dụ: bức tranh phát âm ở Bắc bộ thành “chanh”
hoặc con “trăn” phát âm thành “chăn”, thì “tranh” và “chanh”; “trăn” và
“chăn” không phải là từ đồng âm.
Thứ hai, các trường hợp chuyển tư cách từ loại của một từ cũng không
tạo thành các từ đồng âm. Ví dụ: “muối” (danh từ chỉ hạt tinh thể mặn kết
tinh từ nước biển) chuyển loại thành muối, muối (hành động dùng muối ăn
để cất giữ rau dưa bằng cách làm lên men trong chum vại) không phải là từ
đồng âm, vì giữa chúng có quan ngữ nghĩa: tên gọi chất liệu và tên gọi hoạt
động làm chất liệu để xúc tác cho một việc gì đó.
Tuy nhiên, khi một từ có thêm nghĩa mới để thành từ nhiều nghĩa thì số
lượng nghĩa của từ có giới hạn nhất định (còn có liên hệ giữa nghĩa mới với
các nghĩa trước đó). Khi không còn xác định được liên hệ ngữ nghĩa giữa
một nghĩa nào đó với các nghĩa trước đó nữa, thì phải xem cái nghĩa cuối
này là nghĩa của một từ đồng âm (khác nghĩa) với từ kia.
Ví dụ: hàng (trong hàng hoá) và hàng (trong xếp hang dọc) là hai từ
đồng âm theo kiểu này. Hoặc thang (trong thang thuốc bắc) và thang (trong
cái thang) cũng tương tự như vậy.
b. Phân loại từ đồng âm
Có thể dựa vào tính chất giữa các từ đồng âm hoàn toàn không có, hay
có chút căn cứ, cơ sở để phân biệt 2 loại từ đồng âm sau đây:
Thứ nhất là các từ đồng âm hoàn toàn ngẫu nhiên, tức là giữa chúng
không hề có mối quan hệ ngữ nghĩa nào mà hình thức ngữ âm lại giống
nhau.
Ví dụ 1: đường (danh từ sự vật: đường đi)
đường (danh từ chất liệu: đường phổi)
Ví dụ 2: đậu (động từ: ruồi đậu)
đậu (danh từ: cây đậu, quả đậu đũa)
Ví dụ 3: lợi (danh từ chỉ bộ phận trong miệng)
lợi (tính từ chỉ ích lợi)
Từ đồng âm ngẫu nhiên chiếm đa số và là loại từ đồng âm tiêu biểu,
điển hình nhất trong tiếng Việt.
Thứ hai, loại các từ đồng âm ít nhiều có căn cứ, có cơ sở liên hệ với
nhau. Đây là những từ đồng âm do tách rời khỏi hệ thống ngữ nghĩa của một
từ nhiều nghĩa ra một nghĩa nào đó của từ nhiều nghĩa, nếu như ta không còn
xác định được mối liên hệ giữa nó với các nghĩa khác thì phải coi đó là từ
đồng âm với từ có các nghĩa kia.
Một số ví dụ:
+ quà : món ăn (quà ăn sáng)
quà : vật tặng cho người khác (tặng quà sinh nhật)
+ đài : chỗ đắp (dựng) cao để làm việc gì đó (lễ đài, khán đài, võ
đài…)
đài : cơ sở phát song (đài phát thanh, đài truyền thanh)
+ ăn : hoạt động đưa thức ăn vào miệng (ăn cơm)
ăn : trùng khít (phanh ăn, mộng rất ăn)
c. Tác dụng của từ đồng âm
Mặc dù các từ đồng âm được người Việt dùng nhiều khi chơi chữ,
nhưng người Việt có thể nhận ra chúng trong ngữ cảnh (câu) cụ thể khá dễ
dàng.
Các từ đồng âm được người Việt dụng nhiều nhất khi chơi chữ, tạo ra
những bất ngờ lý thú, nhất là trong thơ, câu đối. Một số ví dụ:
+ Trong bài thơ “Khóc tổng Cóc”, Hồ Xuân Hương đã chơi chữ bằng
một loạt từ đồng âm: Chàng (chẫu chàng), Cóc (con cóc), bén (nhái bén),
chuộc (chẫu chuộc):
“ Chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi ”
+ Chơi chữ đồng âm trong các câu đối:
- Ruồi đậu mâm xôi đậu
- Kiến bò đĩa thịt bò.
- Vôi tôi tôi tôi, trứng bác bác bác.
Hàng loạt từ cực này, (đồng nghĩa với nhau: thật, ngay, thật thà, ngay
thật; giả, gian, giả dối, gian trá) trái nghĩa với hàng loạt ở với cực kia (giả,
gian, giả dối, gian trá). Như vậy, hiện tượng trái nghĩa mang tính đồng loạt,
chứ không phải chỉ xảy ra với hai từ.
Mặt khác do bản thân của mỗi từ có thể có nhiều nghĩa nên có thể tham
gia vào nhiều cặp từ trái nghĩa khác nhau, mỗi cặp từ trái nghĩa này với từ
kia chỉ ở một nghĩa nào đó. Ví dụ:
mở (cửa) > < đóng (cửa) mở (vung) > < đậy (vung)
mở (cửa) > < khoá (cửa) mở (màn) > < hạ (màn)
mở (cửa) > < chốt (cửa) mở (mắt) > < nhắm (mắt)
(quả) già > < (quả) non (canh) nhạt > < (canh) mặn
(người) già > < (người) trẻ (tình cảm) nhạt > < (tình cảm)
đằm thắm
(cân) già > < (cân) non (màu áo) nhạt > < (màu áo) đậm
3.2. Phân loại từ trái nghĩa
Hiện nay trong tiếng Việt, có nhiều cách phân loại từ trái nghĩa.
Chẳng hạn, có thể dựa vào tính chất của sự tương phản giữa các khái niệm
do các cặp từ trái nghĩa biểu thị để chia từ trái nghĩa thành 5 loại (Đỗ Hữu
Châu, Giáo trình Việt ngữ, tập II NXBG, 1962), trong đó chú ý đến các cặp
danh từ, cặp động từ, cặp tính từ trái nghĩa. Hiện nay, cách phân loại từ trái
nghĩa có tính chất phổ biến hơn là dựa vào việc giữa hai cực tương phản
vắng mặt hay có mặt điểm trung gian hay không. Theo cách này, có thể thấy
hai loại từ trái nghĩa sau:
a. Trái nghĩa loại trừ nhau: Loại này bao gồm các loại từ trái nghĩa biểu thị
các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất không thể cùng tồn tại.
Ví dụ: chính nghĩa > < phi nghĩa; tự do > < nô lệ; do dự > < dứt khoát…
b.Từ trái nghĩa biểu thị trạng trái, hiện tượng, hoạt động, tính chất đối lập
nhau nhưng có điểm trung gian ở giữa.
Ví dụ: vui > < buồn; xa > < gần; no > < đói ;
xanh > < chin; già > < trẻ…
Trong đó có một số trường hợp có từ trung gian ở giữa:
no > lưng lửng < đói
chín > ương ương < xanh
già > đứng tuổi < trẻ
3.3. Tác dụng của từ trái nghĩa
Quan hệ từ trái nghĩa giúp ta hiểu sâu thêm nghĩa của từ. Do cặp từ
trái nghĩa biểu thị các mặt đối lập của tính chất, hiện tượng và do từ trái
nghĩa được sử dụng theo từng cặp nên qua từ trái nghĩa, bản chất của sự vật,
hiện tượng được hiện ra rõ nét, ở những mặt đối lập của nó. Áp dụng tính
tương phản của cặp từ trái nghĩa, có thể dùng từ này để giải nghĩa cho từ còn
lại ở trong cặp. Ví dụ: để hiểu nghĩa của từ tự do có thể đối lập với nghĩa
của nó với từ nô lệ; lạc quan > < bi quan …
Trong ngôn ngữ văn chương, các cặp từ trái nghĩa được sử dụng khá
nhiều do sức biểu hiện và biểu cảm rất lớn của chúng. Các cặp từ trái nghĩa
cũng là cơ sở để tạo ra biện pháp tu từ đối trong ngôn ngữ văn chương. Phép
đối được sử dụng nhiều trong các thể loại văn thơ truyền thống như phú, câu
đối, thơ Đường luật…và cả trong thơ văn hiện đại. Đối với thành ngữ, tục
ngữ, việc sử dụng phép đối được coi là đặc trưng nổi bật nhất về cấu trúc.
Ví dụ: - Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.
- Vào sinh ra tử.
- Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời.
Phân loại
Các nhà khoa học nghiên cứu đã chia từ, âm Hán Việt thành 3 loại như sau
đó là: từ Hán Việt cổ, từ Hán Việt và từ Hán Việt Việt hoá.
– Từ Hán Việt cổ: các từ tiếng Hán được sử dụng trong tiếng Việt trước thời
Nhà Đường.
Ví dụ như Tươi: âm Hán Việt là “tiên”. Bố với âm Hán Việt là “phụ”.
Xưa: âm Hán Việt cổ là “sơ”. Búa với âm Hán Việt là “phủ”. Buồn
với âm Hán Việt là “phiền”. Kén trong âm Hán Việt là “giản”. Chè
trong âm Hán Việt là “trà”.
– Từ Hán Việt: các từ tiếng Hán được sử dụng trong tiếng Việt giai đoạn
thời nhà Đường cho đến đất nước Việt Nam trong thời gian đầu thế kỷ 10.
– Từ Hán Việt Việt hoá: các từ Hán Việt không nằm trong 2 trường hợp trên
khi có quy luật biến đổi ngữ âm rất khác và các nhà khoa học vẫn đang
nghiên cứu sâu hơn về trường hợp này.
– Sắc thái ý nghĩa: từ Hán Việt sắc thái ý nghĩa trừu tượng, khái quát;
Ví dụ: thảo mộc = cây cỏ, viêm = loét, thổ huyết = hộc máu…
– Sắc thái biểu cảm: từ Hán Việt thể hiện cảm xúc.
– Sắc thái phong cách: từ Hán Việt riêng biệt được dùng trong các lĩnh vực
khoa học, chính luận, hành chính. Còn từ tiếng Việt có sắc thái đơn giản và
đời thường hơn.
Ví dụ: bằng hữu = bạn bè, huynh đệ = anh em, thiên thu = ngàn năm,..
8,Tiếng lóng
Theo Từ điển tiếng Việt (1986) của Viện ngôn ngữ Việt Nam: “tiếng lóng là
cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào
đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu được với nhau mà thôi”.
Tiếng lóng là một ngôn ngữ biến thể và sáng tạo dựa vào một loại ngôn ngữ
có sẵn nào đó. Hầu hết các quốc gia đều có tiếng lóng. Ở Việt Nam, tiếng
lóng còn đa dạng hơn bởi ngoài các tiếng lóng tiếng Việt, tiếng Hán còn xuất
hiện thêm tiếng lóng tiếng Anh – Mỹ.
Tiếng lóng hay từ lóng là một ngôn ngữ không chính thức, thường được sử
dụng trong giao tiếp hàng ngày. Chúng không được công nhận mà chỉ là
những người nói ngầm hiểu với nhau. Đối với loại ngôn ngữ này, chỉ những
người trong một nhóm nhất định mới hiểu. Tiếng lóng thường không mang
nghĩa đen (nghĩa trực tiếp) mà mang nghĩa bóng (nghĩa tượng trưng).
Vậy Ý nghĩa của tiếng lóng trong tiếng việt là gì? Mục đích sử dụng của
ngôn ngữ này. Ban đầu nó xuất hiện nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn
đạt. Hiện nay, nó không chỉ được sử dụng với ý nghĩa che dấu thông tin mà
còn được dùng để ám chỉ những điều thô tục, khiếm nhã.
Tiếng lóng cũng có quá trình ra đời và phát triển. Có những xuất hiện từ lâu
đời, một số từ xuất hiện cách đây chục năm, cũng có những từ chỉ mới vừa
xuất hiện vài năm. Ban đầu, tiếng lóng ra đời để thay thế những từ ngữ miêu
tả bộ phận trên cơ thể, biểu hiện hàng tháng của phụ nữ.
Tiếng lóng có nguồn gốc từ 3 loại ngôn ngữ khác nhau bao gồm Tiếng lóng
thuần Việt, tiếng lóng gốc Hán, tiếng lóng vay mượn Ấn – Âu. Chính vì thế,
hiện nay số lượng từ lóng ngày càng phong phú, đa dạng.
Ví dụ về từ lóng địa phương cũng chỉ người trong địa phương mới hiểu:
“trốc tru”. Đây là một từ tiếng lóng của Nghệ An. “Trốc” có nghĩa là đầu,
“tru” có nghĩa là trâu, dịch ra là đầu trâu.
Tuy nhiên từ này chủ yếu dùng để nói những người nói mãi không chịu hiểu,
không chịu tiếp thu. Dù có ý nghĩa như vậy nhưng đây là một từ có sắc thái
nhẹ nhàng, không hè gay gắt, thô thiển.
Kể cả những tiếng lóng trên mạng cũng thế. Nó chỉ được dùng trên mạng xã
hội, phù hợp với ngôn ngữ tuổi teen. Nếu đưa ra ngoài cuộc sống sẽ ít người
hiểu được những từ ngữ đó.
Các từ như “Thị Nở”, “Chí Phèo” trong tác phẩm của Nam Cao ngày nay
cũng được sử dụng để miêu tả những người có đặc điểm ngoại hình, tính
cách giống như thế. Tuy nhiên, khác với các từ lóng thông thường, nó không
bị đào thải bởi lẽ đây là từ do cá nhân sáng tạo ra, nghĩa gốc ban đầu không
phải tiếng lóng. Từ ngữ này vẫn sẽ luôn tồn tại trong tác phẩm văn học.
Tại sao nói tiếng lóng không có tính hệ thống? Ngôn ngữ Tiếng Việt hiện
nay là ngôn ngữ toàn dân ai nghe cũng hiểu, được đưa vào sử dụng trong tất
cả các trường hợp. Trong khi, tiếng lóng chỉ được sử dụng cho một nhóm
người nhất định, nhóm nào sử dụng ngôn ngữ văn hóa của nhóm đó.
9,Từ việt cổ
Khái niệm từ Việt cổ
Từ khái niệm rộng về từ cổ trong tiếng Việtnhư trên, chúng ta dễ dàng đi đến
xác định khái niệm hẹp về từ Việt cổnhư sau, đó là những từ được dân tộc ta
sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm
ngôn ngữ cùng hệ (Mon-Khmer, Tày – Thái, Mường) và hiện nay không còn
được sử dụng trong tiếng Việt.
Hai khái niệm từ cổ trong tiếng Việtvà từ Việt cổkhông hoàn toàn trùng khớp
với nhau. Chúng không phải là hai vòng tròn giao nhau mà là hai vòng tròn
đồng tâm có đường kính khác nhau. Trong quyển sách của mình, Nguyễn
Ngọc San đã đánh đồng hai khái niệm trên nên đưa ra danh sách các từ Việt
cổ trong văn thơ Nôm nhầm với rất nhiều từ gốc Hán. Chúng tôi xin trình
bày cụ thể như sau:
1. Mượn từ Hán Việt
Từ Hán Việt là bộ phận rất quan trọng trong từ vựng tiếng Việt. Theo
nguyên tắc, mỗi chữ Hán đều có một hoặc vài âm Hán Việt, nhưng không
phải âm Hán Việt nào cũng du nhập vào tiếng Việt trở thành từ Hán Việt.
Tuy nhiên, trong các văn bản Nôm, đôi khi cũng sử dụng cả một số âm / từ
Hán Việt không thông dụng trong tiếng Việt hiện đại. Các từ Việt cổ trong
văn thơ Nômcó cả hai trường hợp như thế.
- Từ Hán Việt thông dụng:
Gián (can gián, khuyên can): Tính cương ai gián chẳng nghe mọi điều(tr.391
– 392);
Kham (cam chịu, chịu đựng): Kham cười anh vũ mắc chưng lồng(tr.398);
Loạn thường (là rối loại cương thường): Xây trồng ra thói trăng hoa loạn
thường(tr.408);
Nghiệt (yêu nghiệt, tội ác): Chút còn dư nghiệt ngoài thành khoe
khoang(tr.429);..
- Âm / từ Hán Việt không thông dụng:
Chủ quỹ (người vợ cả): Hiềm trong chủ quỹ chưa hoà có ai(tr.370);
Mâu (con người, tròng mắt): Mâu tử là đôi con mâu(tr.371);
Na (ôn dịch): Đốt trúc khuơ na dắng lỗ tai(tr.420);
Tẫn mẫu (cái và đực): Tẫn mẫu sấp ngửa bày úp che(tr.452);…
Ngoài ra, còn có thể kể ra nhiều từ khác như đàn hặc, tiên sàm, gia nương…
đều là từ Hán Việt. Nhưng mỗi trường hợp chúng tôi chỉ nêu ra vài ví dụ
minh hoạ. Những từ ngữ trên tuy xuất hiện trong văn bản Nôm nhưng không
phải ghi từ Việt cổ mà là những đơn vị từ vựng được ghi bằng chữ Nôm vay
mượn cả âm và nghĩa chữ Hán (từ gốc Hán). Những chữ này khi xuất hiện
trong văn bản chữ Hán thì chúng hoàn toàn là chữ Hán. Chỉ khi nào chúng
xuất hiện trong văn bản Nôm mới được gọi là chữ Nôm. Nếu liệt kê những
từ ngữ trên vào danh sách từ Việt cổ thì có lẽ tất cả từ Hán Việt mà hiện nay
tiếng Việt sử dụng đều là từ Việt cổ.