Professional Documents
Culture Documents
NGÔN NGỮ
Âm thanh BÀN
Quy ước
(1) Ngôn ngữ có tính võ đoán
NGÔN NGỮ
Âm thanh Điện thoại
Ý nghĩa
Quy ước
(1) Ngôn ngữ có tính võ đoán
- Hai mặt trong tín hiệu ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với nhau,
đã có mặt này là phải có mặt kia
- Việc dùng âm này hay âm kia để biểu thị ý nghĩa này hay ý
nghĩa khác là do quy ước, do thói quen của cộng đồng xã
hội quyết định
Võ đoán
(1) Ngôn ngữ có tính võ đoán
“Danh vô cố nghi, ước chi dĩ mệnh, ước định tục thành vị chi
nghi, dị ư ước tắc vị chi bất nghi" (Tuân Tử)
Tên vốn không có sự thích hợp cố định, người ta quy ước với
nhau mà đặt tên, quy ước định ra mà thành lệ là thích hợp, trái
với quy ước là không thích hợp.
(2) Ngôn ngữ có tính hình tuyến
- Khi đi vào hoạt động, các tín hiệu ngôn ngữ xuất hiện kế tiếp nhau,
tạo thành chuỗi có tính hình tuyến.
- Không thể nói ra hai tín hiệu ngôn ngữ cùng một lúc mà phải phát
âm kế tiếp nhau, xong tín hiệu này mới đến tín hiệu kia.
- sự kết hợp liên tục, tạo thành một chuỗi, theo thời gian (âm này
trước, âm này sau)
(3) Ngôn ngữ có tính phân đoạn đôi
(2) Những đơn vị mang nghĩa (do các đơn vị không mang
nghĩa kết hợp với nhau)
(3) Ngôn ngữ có tính phân đoạn đôi
Đơn vị
Ba con mèo mang nghĩa
Đơn vị
ba + con + mèo mang nghĩa
Đơn vị
b a c o n m e o không
mang nghĩa
(4) Ngôn ngữ có tính sản sinh
Tính sản sinh của ngôn ngữ biểu hiện ở chỗ: từ một số lượng
hữu hạn những đơn vị, yếu tố đã có, dựa vào những nguyên
tắc đã được xác định, người sử dụng có thể tạo ra và hiểu
được rất nhiều đơn vị, yếu tố mới (từ ngữ mới), tạo ra và hiểu
được vô số những câu mới mà trước đó có thể họ chưa từng
nói hoặc chưa từng nghe thấy.
(4) Ngôn ngữ có tính sản sinh
Vơ
Vờ
Vở
V, ơ Vỡ
Vợ
Vớ
Ví dụ
Người hai vợ
Người vợ hai
người, hai, vợ
Vợ hai người
Hai người vợ
Ví dụ
Sao /anh / bảo/ nó/ không/ đến?
Một vỏ âm thanh ứng với hai hoặc hơn hai nội dung sự vật,
hoặc một sự vật ứng với hai hoặc hơn hai vỏ âm thanh.
(5) Ngôn ngữ có tính đa trị
Ý nghĩa Ý nghĩa
(5) Ngôn ngữ có tính đa trị
Ý nghĩa
(5) Ngôn ngữ có tính đa trị
Ý nghĩa
Ví dụ (5) Ngôn ngữ có tính đa trị
NGHĨA CỦA TỪ “BỤNG”
Thông thường, khi nói đến ăn uống hoặc những cảm giác về việc ăn uống, ta
nghĩ đến bụng. Ta vẫn thường nói: đói bụng, no bụng, ăn cho chắc bụng, con
mắt to hơn cái bụng,... Bụng được dùng với nghĩa "bộ phận cơ thể người hoặc
động vật chứa ruột, dạ dày". Nhưng các cụm từ nghĩ bụng, trong bụng mừng
thầm, bụng bảo dạ, định bụng,... thì sao? Và hàng loạt cụm từ như thế nữa:
suy bụng ta ra bụng người, đi guốc trong bụng, sống để bụng chết mang đi,...
Trong những trường hợp này, từ bụng được hiểu theo cách khác: bụng là
"biểu tượng của ý nghĩ sâu kín, không bộc lộ ra, đối với người, với việc nói
chung".
(Theo Hoàng Dĩ Đình)
(6) Sự biểu hiện của ngôn ngữ không bị chế định
về không gian, thời gian
Ngôn ngữ đại diện, thay thế cho những cái được nó biểu hiện, gọi tên.
Cái được biểu hiện của ngôn ngữ, dù bản tính vật chất hay phi vật
chất, hiện thực hay phi hiện thực, … đều không quan trọng. Ở đây
chỉ cần sự tồn tại của chúng về mặt văn hoá – xã hội.
Bởi thế, ngôn ngữ và người sử dụng ngôn ngữ không bị hạn chế về
mặt thời gian và không gian trong giao tiếp khi nói về bất kì sự vật,
hiện tượng, … nào.
III. HỆ THỐNG VÀ CẤU TRÚC
CỦA NGÔN NGỮ
Hệ thống là gì? Cấu trúc là gì?
Cấu trúc là tổ chức bên
Hệ thống là một tổng
trong của hệ thống, là mô
thể các yếu tố có
hình bao gồm các mối
quan hệ qua lại và
quan hệ liên kết giữa các
quy định lẫn nhau,
bộ phận, các yếu tố của
tạo thành một thể
hệ thống với nhau.
thống nhất có tính
Cấu trúc là một thuộc
phức hợp hơn.
tính cấu tạo nên hệ thống
3.1. Hệ thống ngôn ngữ
- Các yếu tố tập hợp thành một tổng thể phức tạp hơn
3.1. Hệ thống ngôn ngữ
- Từ hệ thống phức hợp có thể phân tích thành các bộ phận, yếu tố
- Các bộ phận, yếu tố này có thể được giá trị khác nhau là nhờ các
mối quan hệ của chúng với nhau và chức năng khác nhau do chúng
thực hiện.
3.1. Hệ thống ngôn ngữ
Để nhận diện và phân biệt các đơn vị ngôn ngữ, người ta phải dùng
các kĩ thuật phân tích ngôn ngữ học.
Thể hiện mối quan hệ cao thấp giữa các đơn vị thuộc các cấp
độ khác nhau trong hệ thống ngôn ngữ, đó là: đơn vị thuộc
cấp độ cao hơn bao giờ cũng bao hàm đơn vị thuộc cấp độ
thấp hơn; ngược lại, đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn bao giờ
cũng nằm trong đơn vị thuộc câp độ cao hơn, và nó là thành
tố để cấu tạo nên đơn vị thuộc cấp độ cao hơn.
(1) Quan hệ tôn ty (cấp bậc)
TỪ SINH VIÊN
HÌNH VỊ SINH
ÂM VỊ S
(2) Quan hệ kết hợp
Là quan hệ nối kết các đơn vị ngôn ngữ thành chuỗi khi
ngôn ngữ đi vào hoạt động.
Quan hệ kết hợp là quan hệ giữa các yếu tố nối tiếp nhau
theo tuyến tính (trục ngang/ trục thời gian).
Nguyên tắc: chỉ những đơn vị đồng hạng (thuộc cùng một
bậc, có chức năng ngôn ngữ như nhau) thì mới trực tiếp kết
hợp với nhau.
Ví dụ (2) Quan hệ kết hợp
Hắn
Nó
3.1. Hệ thống ngôn ngữ
- Hệ thống ngôn ngữ là loại hệ thống được tổ chức theo kiểu có tính
phân đoạn đôi, và chính nhờ cách tổ chức như vậy mà ngôn ngữ có
tính tạo sinh (dựa trên những cái có sẵn có thể tạo ra rất nhiều từ
mới, ngữ đoạn mới, câu mới….)
- Ngôn ngữ học gồm nhiều đơn vị, yếu tố tạo thành nhiều tiểu hệ
thống, nhiều bộ phận khác nhau, vì thế trong ngôn ngữ học đã xây
dựng những bộ môn nghiên cứu khác nhau: âm vị học, ngữ âm
3.1. Hệ thống ngôn ngữ
- Khi xét một yếu tố, một đơn vị, một sự kiện ngôn ngữ thì luôn phải
đặt nó trong hệ thống. Tại đây, cấu trúc của hệ thống sẽ “thẩm
định” phẩm chất ngôn ngữ học của yếu tố, đơn vị, sự kiện đó trong
mối quan hệ với hàng loạt các yếu tố, đơn vị, sự kiện khác.
Nghiên cứu ngôn ngữ
Nghiên cứu
Nghiên cứu
Lịch đại
đồng đại
Nghiên cứu ngôn ngữ đã
Nghiên cứu ngôn ngữ ở
có những biến đổi gì, biến
một trạng tái cụ thể, vào
đổi như thế nao trong các
một giai đoạn cụ thể,
trạng thái xét theo tiến
được giả định là đứng
trình lịch sử
im không có thay đổi, hệ
thống ngôn ngữ được coi
như hoàn toàn ổn định.
3.2. Ngôn ngữ và lời nói
“Tất nhiên, hai đối tượng này gắn bó khăng khít với nhau và
giả định lẫn nhau: ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thể
hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó, nhưng
lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập; về phương
diện lịch sử, sự kiện của lời nói bao giờ cũng đi trước …. Cuối
cùng, chính lời nói làm cho ngôn ngữ biến hoá.”
V. NGUỒN GỐC VÀ DIỄN TIẾN
CỦA NGÔN NGỮ
Nguồn gốc của ngôn ngữ
gắn liền với nguồn gốc của con người
(1) Về mặt sinh học (2) Về mặt xã hội
- Bộ não phát triển Lao động là động lực có tính xã hội
- Bộ máy cấu âm phát triển để phát triển ngôn ngữ.
con người có thể phát ra Con người sử dụng ngôn ngữ để:
được nhiều âm khác nhau. - Giao tiếp
- Chia sẻ kinh nghiệm
Sự phát triển của ngôn ngữ gắn liền với
sự phát triển của xã hội loài người
(1) (2) (3)
Thời kỳ Thời kỳ Thời kỳ
cộng đồng thị tộc xã hội có phân chia hình thành dân tộc
và bộ lạc giai cấp
(1) Thời kỳ cộng đồng thị tộc và bộ lạc
(a) (b)
- Liên minh bộ lạc là điều kiện thuận lợi để các ngôn ngữ tiếp
xúc chặt chẽ với nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
(b) Xu hướng hợp nhất ngôn ngữ
(1) (2)
Ngôn ngữ của bộ lạc chiến Tiếp xúc ngôn ngữ, dẫn đến
thắng trở thành ngôn ngữ pha trộn ngôn ngữ, thậm chí,
chung trong cộng đồng liên có thể làm nảy sinh một ngôn
minh ngữ mới
Chịu ảnh hưởng của các ngôn ngữ Ngôn ngữ mới vẫn giữ được
Thay đổi ít nhiều (ngữ âm và từ vựng) cơ cấu hình thái
của một trong những ngôn ngữ
thuộc thành phần pha trộn
(b) Xu hướng hợp nhất ngôn ngữ
- Tiếng Việt trong quá trình tiếp xúc lâu đời với các ngôn
ngữ Thái và tiếng Hán đã vay mượn một khối lượng lớn các
từ vựng và yếu tố tạo từ cùng với một số ảnh hưởng khác về
ngữ pháp. Tuy nhiên, không vì thế mà tiếng Việt thuộc về
hoặc gần gũi về mặt cội nguồn với các ngôn ngữ đó.
(2) Thời kỳ xã hội phân chia giai cấp
- Xã hội phân chia giai cấp gắp liền với sự thiết lập nhà
nước. Sự ra đời của nhà nước đòi hỏi cộng đồng phải
có một ngôn ngữ thống nhất.(ngôn ngữ bản địa của
người chiến thắng/ ngôn ngữ của bộ lạc làm trung
tâm cho nhà nước).
(2) Ba mặt: Từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp biến đổi không đồng đều
với nhau. Từ vựng biến đổi nhanh nhất, tiếp đến là ngữ âm.
Ngữ pháp biến đổi rất chậm và mang tính bảo thủ.
VI. PHÂN LOẠI NGÔN NGỮ
(a) (b)
2) Ba mặt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ và các tiểu hệ thống của nó biến đổi
không đồng đều.
3) Sự biến đổi ngữ âm không phải là hỗn loạn mà thường có lí do, có quy luật và biến đổi theo
hệ thống.
4) Cơ sở quan trọng nhất để phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn chính là tính võ đoán
trong quan hệ giữa ngữ âm với ý nghĩa.
Những từ gần gũi về mặt âm thanh, có liên quan hoặc gắn bó với nhau về ý nghĩa, thường
bắt nguồn từ một gốc nào đó.
Ví dụ về sự gần gũi giữa các ngôn ngữ
ba Pa pa Pi bây
(b) Những từ cảm thán, từ tượng thanh, từ trùng âm ngẫu nhiên, từ vay
mượn đều phải gạt ra ngoài khi khảo sát.
(c) Nghiên cứu cội nguồn ngôn ngữ phải chú ý trước hết đến vốn từ cơ
bản.
(d) Các hiện tượng ngôn ngữ đưa ra so sánh phải có những tương ứng
với nhau trong hàng loạt trường hợp.
Các
NGÔN NGỮ
NGỮ
HỆ
TIẾNG VIỆT:
Kết quả phân loại DÒNG
Nhóm: Việt – Mường
các ngôn ngữ Nhánh: Việt – Mường
NGÀNH
theo cội nguồn Ngành: Môn – Khmer
NHÁNH
Ngữ hệ: Nam Á
NHÓM
Các ngữ hệ tiêu biểu
Ngữ hệ Ấn – Âu Ngữ hệ Thổ (Nhĩ Kỳ)
Ngữ hệ Nam – Á
NGỮ Ngữ hệ Sê-mít
HỆ
- Mục đích: Xác định các loại hình ngôn ngữ dựa trên những
đặc điểm cấu trúc cơ bản như hình thức, cú pháp,... Sau đó,
phân loại các ngôn ngữ theo loại hình.
Phân loại ngôn ngữ Phân loại ngôn ngữ
theo theo
đặc trưng hình thái đặc trưng cú pháp
(2.1) (2.2)
Căn tố chỉ tồn tại và hoạt động khi đi kèm với phụ tố mang ý
nghĩa ngữ pháp nhất định. Ngược lại, phụ tố cũng chỉ thể
hiện được ý nghĩa ngữ pháp khi kết hợp với căn tố
(a) Loại hình ngôn ngữ hoà kết
(inflecting language)
Một ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu hiện bằng nhiều phụ
tố, và ngược lại, nhiều ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu diễn
đồng thời bằng một phụ tố.
Books, watches
Phụ tố: s, es
(Ý nghĩa ngữ pháp: số nhiều)
Books, looks
(Ý nghĩa ngữ pháp: Phụ tố: s
số nhiều, thời của động từ)
(b) Loại hình ngôn ngữ chắp dính
(agglutinating language)
- Nối tiếp máy móc vào căn tố một hay nhiều phụ tố, mà mỗi phụ tố chỉ có một ý nghĩa ngữ
pháp nhất định.
• adam (người đàn ông) adamlar (những người đàn ông)
• kadin (người đàn bà) kadinlar (những người đàn bà)
- Trong hoạt động ngôn ngữ, một từ có thể rất dài vì các phụ tố được nối tiếp nhau một
cách tự động để biểu thị các ý nghĩa ngữ pháp.
• ev (ngôi nhà) → ev-ler (những ngôi nhà)
• ev-i (ngôi nhà của tôi) → ev-ler-i (những ngôi nhà của tôi)
1) Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ được biểu diễn
ngay trong bản thân từ bằng phụ tố.
2) Căn tố hầu như không biến đổi hình thái và chúng có thể tồn tại,
hoạt động độc lập khi không có phụ tố đi kèm.
3) Mỗi phụ tố chắp dính chỉ chứa một ý nghĩa ngữ pháp, và ngược
lại, mỗi ý nghĩa ngữ pháp chỉ được biểu thị bằng một phụ tố.
(c) Loại hình ngôn ngữ đơn lập
(isolating language)
• Loại hình ngôn ngữ phi hình thái (không biến hình).
• Đặc trưng:
1) Trong hoạt động ngôn ngữ, từ không biến đổi hình thái.
• Họ thích cô ấy.
• Cô ấy thích họ.
2) Các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thì bằng hư từ
(từ công cụ) và trật tự từ. Ví dụ:
Ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Hán
• Tôi đang học. / và các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á
• Tôi đã học. / Tôi đã học xong rồi.
(c) Loại hình ngôn ngữ đơn lập
(isolating language)
3) Trong nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập có loại đơn vị đặc
biệt gọi là hình tiết (đơn vi có nghĩa mà vỏ âm thanh trùng khít với
một âm tiết). Vì thế, nó có khả năng là một từ hoặc một yếu tố cấu
tạo từ (hình vị)
Ví dụ:
Tre – tre pheo
Cá – vàng – cá vàng
Khoẻ - mạnh – khoẻ mạnh
Việc xác định ranh giới từ trong ngữ lưu rất phức tạp
(c) Loại hình ngôn ngữ đơn lập
(isolating language)
4) Hiện tượng cấu tạo từ bằng phụ tố rất ít hoặc hầu như không xuất
hiện trong các ngôn ngữ đơn lập. Vì thế, quan hệ dạng thức giữa các
từ yếu đến mức dường như là chúng tồn tại rất rời rạc và tự do trong
câu.
Ví dụ:
Người / vợ hai/ năm sau đó đã kết hôn với người khác.
Người vợ/ hai năm sau đó đã kết hôn với người khác.
(d) Loại hình ngôn ngữ đa tổng hợp
(Polysynthetic language)
Ngôn ngữ hỗn nhập/ ngôn ngữ lập khuôn
Đặc điểm:
1) Trong ngôn ngữ có một loại đơn vị đặc biệt, vừa là từ vừa là câu, được cấu
tạo trên cơ sở động từ. Trong đơn vị đó có thể bao gồm bổ ngữ, trạng ngữ, chủ
ngữ. Đơn vị đó được gọi là đơn vị lập khuôn.
Ví dụ:
• nitampenda (Tôi sẽ yêu nó.)
• atakupenda (Nó sẽ yêu anh/em.)
• nitakupenda (Tôi sẽ yêu anh/em.)
2) Nối tiếp các hình vị vào với nhau, khi kết hợp các hình vị có thể có biến đổi vỏ
ngữ âm
2.2. Phân loại các ngôn ngữ
theo đặc trưng cú pháp
• Thuộc loại hình này gồm các ngôn ngữ: Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, Miến Điện,
Hindi, một số ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ.
Loại hình ngôn ngữ VOS
- Đây là loại hình mà các ngôn ngữ thuộc loại này có cấu trúc của câu
căn bản được sắp xếp theo trật tự:
- Điển hình là tiếng Tonga (thuộc họ Nam Đảo, phía Nam Thái Bình
Dương).
2.2. Phân loại các ngôn ngữ
theo đặc trưng cú pháp
Ngoài 3 loại hình ngôn ngữ SVO, SOV, VSO còn có các khả năng kết hợp:
VOS, OVS, OSV. Tuy nhiên, trên thế giới rất ít ngôn ngữ có các khả năng
trên.
Theo tư liệu hiện nay, chỉ có vài ngôn ngữ có mô hình trật tự VOS là tiếng
Malagasy (Ngôn ngữ ở Madagascar, thuộc họ Nam đảo) và tiếng Fiji (ngôn
ngữ trên các đảo Fiji thuộc họ Nam đảo).
Tiếng Hixkaryana có trật tự OVS và tiếng Nadeb có trật tự OSV (đều thuộc
lưu vực song Amadon – Nam Mỹ)
CHÚ Ý KHI PHÂN LOẠI
NGÔN NGỮ THEO LOẠI HÌNH
(a) Không phải một ngôn ngữ đã thuộc một loại hình thì mọi yếu tố
trong hệ thống và cấu trúc của nó đều phải mang đặc điểm của
loại hình đó.
(b) Kết quả phân loại theo nguồn gốc và kết quả phân loại theo loại
hình không ảnh hưởng lẫn nhau. (Có những ngôn ngữ không
cùng nguồn gốc nhưng vẫn cùng loại hình, … )