Professional Documents
Culture Documents
Ngôn ngữ ra đời do con người bắt chước âm thanh của thế giới xung quanh
Ngôn ngữ loài người bắt nguồn từ những âm thanh của mừng, giận, buồn,
vui, đau đớn,… phát ra vào lúc tình cảm bị xúc động
Ngôn ngữ là do con người thoả thuận với nhau mà quy định ra
Con người giao tiếp với nhau với nhau qua ngôn ngữ cơ thể và cử chỉ đôi
bàn tay
Ngôn ngữ xuất hiện trong tiếng kêu trong lao động tập thể như thông báo về
thức ăn, muốn được giúp đỡ,…
_ Con người
_ Tư duy
_ Xã hội
⇒ Ngôn ngữ
Vỏ âm thanh và nội dung nó biểu thị là do quy ước. Cùng 1 sự vật, mỗi ngôn
ngữ có cách gọi khác nhau
⇒ Tính võ đoán của tín hiệu chỉ mang tính chất tương đối
Các tín hiệu ngôn ngữ xuất hiện kế tiếp và có tính hình tuyến
Mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ là âm thanh. Chúng xuất hiện lần lượt,
nối tiếp trước sau làm thành 1 chuỗi
Tính hình tuyến là 1 nguyên lí căn bản, có giá trị chi phối cơ chế hoạt động
của ngôn ngữ
Phân tích, nhận diện các đơn vị ngôn ngữ và quy tắc kết hợp của chúng
Số lượng hữu hạn đơn vị, yếu tố đã có, nguyên tắc đã được xác định để tạo
ra/hiểu được đơn vị, yếu tố mới
Tính đa trị
Một ý nghĩa có thể biểu hiện bằng nhiều hình thức ngữ âm
Mặt biểu hiện > đối xứng < mặt được biểu hiện
⇒ Làm phong phú thêm năng lực biểu hiện của ngôn ngữ
Sự biểu hiện của ngôn ngữ không bị chế định về không gian và thời gian
Dù có bản tính vật chất hay phi vật chất, hiện thực hay phi hiện thực đều
không quan trọng: “Chỉ cần người ta bảo nó có, cho rằng nó tồn tại là được”
Ngôn ngữ được dùng để chỉ ra, thay thế cho những sự vật, hiện tượng,
thuộc tính, quá trình… ở gần hay xa của người nói, người nghe, chúng đã,
đang và sẽ tồn tại
Mỗi người trong loài người chúng ta nếu tách ra khỏi xã hội thì sẽ không có
được ngôn ngữ
Tín hiệu: 1 thực thể vật chất tác động vào giác quan của con người (làm cho
người ta tri giác được) và có giá trị biểu đạt cái gì đó ngoài thực thể ấy
→ Là vật chất
→ Đại diện cho 1 cái gì đó ngoài bản thân
→ Có liên hệ quy ước giữa “tín hiệu” với cái nó đại diện
→ Nằm trong 1 hệ thống tín hiệu nhất định
Vì:
→ Ngôn ngữ là 1 hệ thống ( âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu )
→ Ngôn ngữ có bản chất là tín hiệu ( mặt biểu hiện và được biểu hiện )
→ Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ phức tạp gồm nhiều yếu tố, cấp bậc, quan hệ
→ Ngôn ngữ bao gồm các yếu tố không đồng loại cho nên nó tạo ra nhiều
hệ thống con khác nhau
→ Tính đa trị trong khi các tín hiệu khác là đơn trị
→ Tính độc lập tương đối
→ Giá trị đồng đại (xem xét trong 1 giai đoạn, thời kỳ trong trạng thái tĩnh)
và giá trị lịch đại (xem xét trong quá trình, lịch sử phát triển trong trạng thái
động)
Định nghĩa: Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này tới người khác
với 1 mục đích nhất định
Ngôn ngữ là công cụ đủ năng lực hơn cả để thực hiện hoạt động giao tiếp
Ngôn ngữ phản ánh hoạt động và kết quả hoạt động tư tưởng phức tạp
thuộc phạm trù nhận thức, tư duy
Ngôn ngữ thực hiện chức năng phản ánh - làm công cụ cho con người tư
duy bằng khái niệm và tri nhận bằng các khái niệm để hình thành, phát triển
tư duy
Ngôn ngữ là phương tiện, hình thức tồn tại, “nơi tàng trữ” kết quả của hoạt
động tư duy
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là thống nhất nhưng không đồng
nhất
Chức năng: Công cụ giao tiếp và Chức năng: Phản ánh thế giới
công cụ của tư duy khách quan
Chức năng làm nhân tố cấu thành văn hoá và lưu giữ, truyền tải văn hoá
Ngôn ngữ là nhân tố quan trọng bậc nhất trong số các nhân tố cấu thành
nền văn hoá tộc người
Việc hiểu và sử dụng chính xác nghĩa của từ luôn gắn liền với việc hiểu văn
hoá của dân tộc sản sinh ra ngôn ngữ có từ ấy
Là 1 tổng thể những yếu tố có quan hệ qua lại và quy định lẫn nhau, tạo
thành 1 thể thống nhất có tính phức hợp hơn ⇒HỆ THỐNG
Là thực thể có thể phân tích ra được thành những bộ phận, những yếu tố,
trong đó, mỗi bộ phận, mỗi yếu tố có được (và chỉ có được) cương vị, giá trị
của mình nhờ mối quan hệ của chúng với các bộ phận, các yêu tố khác và
với toàn thể cấu trúc⇒ CẤU TRÚC
Cấu trúc là 1 thuộc tính cấu tạo hệ thống và nó có được trong hệ thống
Hiểu được tổ chức bên trong của hệ thống là hiểu được cấu trúc của nó
Ngôn ngữ là một hệ thống vì nó được tổ chức theo những điều kiện, tiêu chí
của hệ thống nói chung
Các đơn vị như: “từ”, “hình vị”, “âm vị”, là các đơn vị ngôn ngữ
Mỗi loại đơn vị ngôn ngữ làm thành một tiểu hệ thống gọi là 1 cấp độ, đóng
vai trò làm 1 bộ phận trong hệ thống lớn là hệ thống ngôn ngữ
Quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ là mạng lưới quan hệ phức tạp và đa
dạng
Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, ngôn ngữ là cái chung, lời nói là
cái riêng
Nghiên cứ sự biến đổi ngôn ngữ và quan hệ giữa các ngôn ngữ về một
cội nguồn để xác lập phổ hệ của các ngôn ngữ, quy chúng vào các
nhóm, các tiểu chi và các chi, các ngành khác nhau thuộc các ngữ hệ
khác nhau
Nghiễn cứu, phát hiện các phổ niệm ngôn ngữ, phát hiện những đặc
trưng về mặt loại hình của các ngôn ngữ, để phân loại và quy các ngôn
ngữ cụ thể vào những loại hình khác nhau dẫn tới sự phân loại loại hình
các ngôn ngữ, trong đó có các ngôn ngữ cùng có những đặc điểm về
cấu trúc hình thái hoặc cấu trúc ngữ pháp, hoặc có hay không có thanh
điệu,…
Trong lịch sử, có những ngôn ngữ vì 1 lí do nào đó đã bị chia tách thành
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ đã bị chia tách thường được gọi
là ngôn ngữ mẹ
Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ và các tiểu hệ thống của nó
biến đổi không đồng đều
_ Nếu 2 ngôn ngữ liên quan với nhau về cội nguồn thì tên gọi của cùng 1 sự
vật là khác nhau
_ Nếu những từ gần gũi nhau về âm thanh, có liên quan hoặc gắn bó với
nhau về ý nghĩa thường bắt nguồn từ 1 ngôn ngữ gốc nào đó
Nghiên cứu cội nguồn ngôn ngữ phải chú ý trước hết đến những vốn từ
cơ bản
Các sự kiện, hiện tượng ngôn ngữ đưa ra làm cứ liệu so sánh không
đòi hỏi phải giống nhau hoàn toàn về mọi mặt
Khi xác lập được những dãy sự kiện trong 2 ngôn ngữ và chứng minh
những dãy sự kiện có nguồn gốc với nhau thì vẫn chưa đủ để nói 2
ngôn ngữ có quan hệ họ hàng
_ Ngữ hệ Ấn - Âu
_ Ngữ hệ Thổ
_ Ngữ hệ Nam Á
Phân loại các loại hình ngôn ngữ theo đặc trưng hình thái
Hoà kết
Chắp dính
Đơn lập
Đa tổng hợp
Loại hình ngôn ngữ hoà kết / khuất chiết / biến hình
_ Một ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu hiện bằng nhiều phụ tố và
ngược lại
Là các ngôn ngữ có hiện tượng nối tiếp thêm 1 cách máy móc, cơ
giới vào căn tố nào đó 1 hay nhiều phụ tố, mà mỗi phụ tố lại chỉ luôn
mang 1 ý nghĩa nhất định
Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ được biểu diễn
trong bản thân từ bằng phụ tố
Căn tố hầu như không biến đổi hình thái, chúng có thể tồn tại độc
lập
Mỗi phụ tố chắp dính luôn chỉ “chứa” 1 ý nghĩa ngữ pháp và ngược
lại, mỗi ý nghĩa ngữ pháp bao giờ cũng được biểu thị bằng 1 phụ tố
riêng
Trong hoạt động ngôn ngữ, từ không biến đổi hình thái
Quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng
hư từ và trật tự từ
Hiện tượng cấu tạo từ bằng phụ tố rất ít. Vì thế quan hệ dạng thức
giữa các từ yếu đến mức dường như chúng tồn tại rất “rời rạc”, rất
“tự do” trong câu
Dựa vào các tiêu chí và những nét điển hình về mặt cú pháp, chủ yếu là
những đặc trưng về mặt trật tự từ