Professional Documents
Culture Documents
SB Ghi
STT Vai diễn Họ và tên
D Chú
5 Đại diện Viện kiểm sát: Bà VKS Nguyễn Bảo Ngọc 152
Người có QLNVLQ
1
12 Cháu Nguyễn Thị Nhi Lê Linh Thuỳ 196
2
CHUẨN BỊ PHIÊN TÒA
Thư Yêu cầu tất cả những người có mặt trong phòng xử án giữ trật tự để tôi kiểm
tra những người có mặt, vằng mặt và phổ biến nội quy của tòa.
ký
Để làm thủ tục phiên tòa, khi tôi gọi tên những người được triệu tập, đề nghị
(ngồi) người được gọi nói “CÓ” và mang theo giấy báo, giấy triệu tập, giấy tờ tùy
thân lên bàn Thư ký để kiểm tra.
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hảo có mặt không?
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt có mặt không?
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan UBND TP Hải Dương - Đại diện
theo ủy quyền: bà Vũ Thị Giang – Chánh Văn phòng UBND:
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bà Nguyễn Thị Thoa và ông
Nguyễn Văn Cang - người đại diện theo ủy quyền là bà Vũ Thảo Huyền có
mặt không?
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cháu Nguyễn Đức Anh có mặt
không?
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cháu Nguyễn Thị Nhi có mặt
không?
- Người làm chứng: Ông Phạm Văn Thái có mặt không?
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Phùng Quốc Tuấn có mặt không?
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Lê Mạnh
Quyền có mặt không?
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: LS Vũ Quang Đức có
mặt không?
Phần kiểm tra Căn cước đã xong, yêu cầu mọi người trật tự, tôi phổ
biến nội quy phiên tòa (đứng)
Nội quy phiên toà được quy định tại Điều 234 Bộ Luật Tố tụng Dân sự
2015
1. Khi vào phòng xử án, mọi người đều phải chấp hành việc kiểm tra an
ninh của lực lượng có trách nhiệm bảo vệ phiên tòa.
2. Nghiêm cấm mang vào phòng xử án vũ khí, hung khí, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu và
tài liệu, đồ vật khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa, trừ vật chứng
của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người
có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.
3. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải xuất trình giấy
triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa tại bàn
thư ký chậm nhất là 15 phút trước giờ khai mạc phiên tòa và ngồi đúng vị trí
trong phòng xử án theo hướng dẫn của Thư ký phiên tòa; trường hợp đến
muộn thì phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác
cho Thư ký phiên tòa thông qua lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.
3
4. Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp
hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi
âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa
phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố
tụng khác phải được sự đồng ý của họ.
5. Mọi người tham dự phiên tòa phải có trang phục nghiêm chỉnh; có thái
độ tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ trật tự và tuân theo sự điều khiển của chủ tọa
phiên tòa.
6. Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có
lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện
thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có
hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa.
7. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên
tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được chủ tọa phiên tòa
đồng ý cho rời khỏi phòng xử án khi có lý do chính đáng. Người dưới mười
sáu tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập
tham gia phiên tòa.
8. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào
phòng xử án và khi tuyên án, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của chủ
tọa phiên tòa.
9. Chỉ những người được Hội đồng xét xử đồng ý mới được hỏi, trả lời
hoặc phát biểu. Người hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường hợp
vì lý do sức khỏe được chủ tọa phiên tòa đồng ý cho ngồi để hỏi, trả lời, phát
biểu.
Mọi người đã nghe rõ nội quy phiên toà chưa?
Yêu cầu mọi người trong phòng xét xử đứng dậy.
Mời HĐXX vào phòng xử án
4
THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TÒA
Chủ tọa Nhân danh nước CXHCNVN, Hôm nay, ngày 10/04/2019, TAND
(đứng) Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương tiến hành xét xử công khai vụ án dân
sự sơ thẩm về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản” giữa nguyên đơn
là chị Hoàng Thị Hảo và bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt.
TAND TP HẢI DƯƠNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH HẢI DƯƠNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
5
- Chị Hoàng Thị Hảo - sinh năm 1978.
Địa chỉ: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
Bị đơn:
- Anh Nguyễn Văn Nguyệt.
Địa chỉ: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Thoa - sinh năm 1944.
- Ông Nguyễn Văn Cang - sinh năm 1930.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn
Văn Cang là bà Vũ Thảo Huyền .
Cùng cư trú tại: Khu dân cư số 2, Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt,
thành phố Hải Dương.
- UBND TP Hải Dương - Đại diện theo ủy quyền là bà Vũ Trà Giang –
Phó Chánh văn phòng UBND TP Hải Dương.
Người làm chứng:
- Ông Phạm Văn Thái - cán bộ Địa chính xã Thượng Đạt;
- Ông Đỗ Văn Tư - cán bộ Tư pháp xã Thượng Đạt;
- Ông Nguyễn Phùng Quốc Tuấn, sinh năm 1974;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Lê Mạnh
Quyền thuộc VPLS A - Đoàn LS TP Hà Nội;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: LS Vũ Quang Đức -
thuộc VPLS B - Đoàn LS TP Hà Nội.
VŨ NGỌC LINH
6
Nguyễn Văn Cang - người Đại diện theo ủy quyền bà Vũ Thảo Huyền có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan UBND TP Hải Dương - Đại diện
theo ủy quyền là bà Vũ Trà Giang – Phó Chánh văn phòng UBND TP Hải
Dương: có mặt
- Người làm chứng ông Phạm Văn Thái: có mặt.
- Người làm chứng ông Đỗ Văn Tư: đã có đơn xin vắng mặt.
- Người làm chứng ông Nguyễn Phùng Quốc Tuấn: có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Lê Mạnh
Quyền có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: LS Vũ Quang Đức có
mặt.
Thưa HĐXX tôi đã báo cáo xong đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.
Mời thư ký ngồi.
Sau đây, tôi thay mặt Hội đồng xét xử, kiểm tra căn cước của những người
Chủ tọa được Tòa triệu tập. Khi tôi gọi đến tên ai, đề nghị người đó đứng dậy.
Mời nguyên đơn đứng dậy
Đề nghị chị cho HĐXX biết họ tên, tên gọi khác, năm sinh, nơi cư trú?
Thưa HĐXX, tôi là Hoàng Thị Hảo sinh 1978 hiện đang trú tại thôn Nam
Nguyên đơn Giàng, xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, Tỉnh Hải Dương. Ngoài tên Hoàng Thị
Hảo, tôi không có tên gọi nào khác.
Mời chị ngồi
Chủ tọa Mời bị đơn đứng dậy. Đề nghị anh cho HĐXX biết họ tên, tên gọi khác,
năm sinh, nơi cư trú?
Thưa HĐXX, tôi tên là Nguyễn Văn Nguyệt, tên gọi khác không có, sinh năm
Bị đơn 1976 trú tại thôn Thượng Triệt I, Xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, Tỉnh Hải
Dương.
Mời anh ngồi.
Chủ tọa Mời người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan, cho HĐXX biết họ tên, tên gọi khác, năm sinh, nơi cư trú?
Vũ Thảo Thưa HĐXX, tôi là Vũ Thảo Huyền, tên gọi khác không có, sinh năm 1974,
Huyền – đại trú tại Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt, Xã Thượng Đạt, TP Hải Dương,
diện đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang.
- Mời người đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố Hải Dương là bà
Chủ tọa
Vũ Trà Giang đứng dậy. Bà hãy cho HĐXX biết họ tên, chức vụ?
Vũ Trà Thưa HĐXX, tôi là Vũ Trà Giang, chức vụ: Phó Chánh văn phòng UBND, TP
Ginag – đại Hải Dương, đại diện cho UBND Thành phố Hải Dương tham gia phiên tòa.
diện
Mời bà ngồi xuống, mời cháu Nguyễn Đức Anh đứng dậy, cháu cho HĐXX
Chủ toạ
được biết đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh và nơi thường trú.
7
Cháu tên Nguyễn Đức Anh, sinh ngày 13/6/2007, hiện cháu đang sống với bố
Đức Anh
Nguyệt ở Thôn Thượng Triệt 1, xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương.
Mời cháu Nguyễn Đức Anh ngồi xuống, mời cháu Nguyễn Thị Nhi đứng
Chủ toạ dậy, cháu cho HĐXX được biết đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh và nơi
thường trú.
Cháu tên Nguyễn Thị Nhi, sinh ngày 4/1/2000, hiện nay cháu đang ở với mẹ
Cháu Nhi
Hảo tại Thôn Nam Giàng, Xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương.
Mời Cháu ngồi xuống.
Chủ tọa - Mời người làm chứng ông Phạm Văn Thái đứng dậy. Ông hãy cho
HĐXX biết họ tên, chức vụ?
Phạm văn Thưa HĐXX, tôi là Phạm Văn Thái, chức vụ: cán bộ địa chính xã Thượng Đạt,
Thái – Địa TP Hải Dương.
chính
- Mời ông ngồi
Chủ tọa - Mời người làm chứng Nguyễn Phùng Quốc Tuấn đứng dậy. Đề nghị ông
cho HĐXX biết họ tên, năm sinh, nơi cư trú?
Nguyễn Thưa HĐXX, tôi là Nguyễn Phùng Quốc Tuấn, sinh năm 1974 trú tại Thôn
Phùng Quốc Thượng Triệt I, Xã Thượng Đạt, TP Hải Dương.
Tuấn
Chủ tọa Mời ông ngồi
Sau đây tôi phổ biến quyền và nghĩa vụ của các đương sự tham gia phiên Tòa
ngày hôm nay, mời các đương sự đứng dậy.
Căn cứ theo quy định tại Điều 70 BLTTDS 2015 đương sự có các quyền và
nghĩa vụ chung như sau:
1. Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa.
2. Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình;
3. Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật
này.
4. Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
5. Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
6. Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy
định của Bộ luật này.
7. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa
án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc.
8. Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất
với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với
người làm chứng.
9. Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật
8
áp dụng.
10. Được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Tòa án.
11. Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ
luật này.
12. Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
13. Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật.
14. Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện chí, không được lạm dụng để
gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không
thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định.
15. Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Nguyên đơn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 71
BLTTDS 2015 bao gồm:
- Thay đổi yêu cầu khởi kiện; Được rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi
kiện.
- Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Bị đơn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 72 BLTTDS
2015 bao gồm:
- Chấp nhận một phần hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có các quyền và nghĩa vụ riêng
được quy định tại Điều 73 BLTTDS 2015 bao gồm:
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập
này có liên quan đến việc giải quyết của vụ án thì có các quyền, nghĩa vụ như
quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn. Trường hợp yêu cầu độc lập không được
Tòa án chấp thuận để giải quyết trong cùng vụ án thì người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có quyền khởi kiện vụ án khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn
hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn.
Các đương sự đã nghe rõ quyền và nghĩa vụ của mình chưa?
Có cần HĐXX giải thích thêm gì không ?
Chủ tọa
Mời nguyên đơn đứng dậy, ông đã nghe rõ quyền và nghĩa vụ của mình
chưa?
Nguyên đơn Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ và không yêu cầu giải thích gì thêm
Chủ tọa Mời chị ngồi, mời bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt
9
Nguyễn Văn Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ, tôi không yêu cầu giải thích gì thêm
Nguyệt
Mời anh ngồi
Mời người đại diện theo ủy quyền của quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - bà
Chủ tọa Vũ Thảo Huyền
Mời người đại diện theo ủy quyền của UBND Thành phố Hải Dương - bà
Vũ Trà Giang
Thảo Huyền Thưa HĐXX tôi đã nghe rõ, tôi không cần giải thích gì thêm
Trà Giang Thưa HĐXX tôi đã nghe rõ, tôi không cần giải thích gì thêm
Chủ tọa Mời các bà ngồi
Mời nguyên đơn đứng dậy.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Lê Mạnh Quyền thuộc
Chủ tọa VPLS A - Đoàn LS TP Hà Nội.
Tại phiên tòa hôm nay bà có đồng ý để Luật sư tiếp tục bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình không?
Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu thay đổi và tiếp tục nhờ Luật sư Lê Mạnh
Nguyên đơn
Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi.
Mời chị ngồi
Mời Bị đơn đứng dậy
Chủ tọa Tại phiên tòa ngày hôm nay có LS Vũ Quang Đức - Văn phòng LS B - Đoàn
LS TP Hà Nội là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn.
Phía bị đơn có đồng ý để luật sư Vũ Quang Đức tiếp tục bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho mình không?
Nguyễn Văn Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu thay đổi và tiếp tục nhờ Luật sư Vũ Quang
Nguyệt Đức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi.
Chủ tọa Mời anh ngồi.
- Mời những người làm chứng đứng dậy
Sau đây tôi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người làm chứng tham gia
phiên Tòa ngày hôm nay
- Theo Điều 78 BLTTDS 2015, tại phiên Tòa ngày hôm nay, người làm
chứng có các quyền và nghĩa vụ như sau:
1. Cung cấp toàn bộ thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan
đến việc giải quyết vụ việc.
2. Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc
giải quyết vụ việc.
3. Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước,
bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc
việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ
thân thích với mình.
10
4. Được nghỉ việc trong thời gian Tòa án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm
việc trong cơ quan, tổ chức.
5. Được thanh toán các khoản chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật.
6. Yêu cầu Tòa án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến
hành tố tụng.
7. Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do khai báo sai sự
thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.
8. Phải có mặt tại Tòa án, phiên tòa, phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án
nếu việc lấy lời khai của người làm chứng phải thực hiện công khai tại Tòa án,
phiên tòa, phiên họp; trường hợp người làm chứng không đến phiên tòa, phiên
họp mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ cản trở việc xét xử,
giải quyết thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự có
thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên tòa, phiên họp, trừ
trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên.
9. Phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ
trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên.
Những người làm chứng đã nghe rõ quyền, nghĩa vụ của mình chưa?
Phạm Văn
Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ ạ.
Thái
Nguyễn
Phùng Quốc Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ ạ.
Tuấn
Chủ tọa Mời những người làm chứng ngồi
*Giới thiệu thành phần những người tiến hành tố tụng:
Sau đây tôi xin giới thiệu thành phần những người tiến hành tố tụng. Gồm có:
1. Tôi: Vũ Ngọc Linh - Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa.
2. HTND 1 là bà Lê Xuân Hoa.
3. HTND 2 là bà Nguyễn Quỳnh Anh.
Chủ tọa 4. Đại diện VKS bà Nguyễn Bảo Ngọc - Kiểm sát viên - VKSND TP Hải
Dương.
5. Thư ký phiên tòa bà Mai Thị Trinh - Cán bộ TAND TP Hải Dương.
Các bên đương sự có yêu cầu thay đổi ai trong những người tiến hành tố tụng
không?
Mời nguyên đơn
Ng.đơn Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Mời chị ngồi,
Chủ tọa
Mời bị đơn có ý kiến
11
Bị đơn Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Mời anh ngồi
Chủ tọa Mời người đại diện của người có QLNVLQ bà Vũ Thảo Huyền, bà Vũ Trà
Giang
Thảo Huyền Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Trà Giang Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Mời những người làm chứng đứng dậy. Đề nghị người làm chứng phát biểu lời
Chủ tọa cam đoan, trung thực, không khai báo gian dối.
Chủ tọa mời lần lượt: NLC Phạm Văn Thái; NLC Nguyễn Phùng Quốc Tuấn.
Thưa HĐXX, tôi xin cam đoan những lời khai trước tòa của tôi hôm nay là
Phạm Văn
trung thực về những tình tiết mà tôi biết về vụ án, nếu có điều gì gian dối tôi sẽ
Thái
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Nguyễn Thưa HĐXX, tôi xin cam đoan những lời khai trước tòa của tôi hôm nay là
Phùng Quốc trung thực về những tình tiết mà tôi biết về vụ án, nếu có điều gì gian dối tôi sẽ
Tuấn chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Mời những người làm chứng ngồi
Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự có ai có yêu cầu cung cấp thêm chứng cứ
Chủ tọa
hay triệu tập thêm người làm chứng không?
Mời nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo
Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm
Ng.đơn
tài liệu, chứng cứ nào khác.
Mời chị ngồi;
Chủ tọa
Mời bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt
Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm
Bị đơn
tài liệu, chứng cứ nào khác.
Mời anh ngồi
Chủ tọa Mời người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan bà Vũ Thảo Huyền, và bà Vũ Trà Giang
Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm
Thảo Huyền
tài liệu, chứng cứ nào khác.
Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm
Trà Giang
tài liệu, chứng cứ nào khác.
Mời nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo đứng dậy
Chủ tọa Tại phiên tòa ngày hôm nay chị có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu khởi kiện không ?
Thưa HĐXX, tôi vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không có thay đổi hay bổ
Ng.đơn
sung gì
Chủ tọa Mời chị ngồi
12
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn có thống nhất với nhau về việc
Chủ tọa giải quyết vụ án hay không?
Mời nguyên đơn đứng dậy
Thưa HĐXX chúng tôi thống nhất lý hôn, còn vấn đề nuôi con và chia tài sản
Ng.đơn
thì nhờ Tòa giải quyết
Mời chị ngồi
Chủ tọa
Mời bị đơn đứng dậy
Thưa HĐXX chúng tôi thông nhất lý hôn, còn vấn đề nuôi con và chia tài sản
BĐ
thì nhờ Tòa giải quyết
Các đương sự có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa không?
Chủ tọa
Mời nguyên đơn; Mời bị đơn; Mời người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Ng.đơn, Bị Lần lượt trả lời:
đơn, Thảo Thưa HĐXX, tôi không có ý kiến gì,
Huyền, Trà
Giang đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Mời ông (bà) ngồi
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn có ý kiến gì
Chủ tọa
về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa không?
Mời LS bên phía Nguyên đơn; Mời LS bên phía bị đơn
LS Quyền Lần lượt trả lời:
& Thưa HĐXX, chúng tôi không có ý kiến gì,
LS Đức đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Vị đại diện Viện kiểm sát có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên Tòa hay
Chủ tọa
không?
Thưa HĐXX, phần thủ tục bắt đầu phiên tòa đã được diễn ra theo đúng quy
KSV
định, tôi không có ý kiến gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.
Không ai có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, thay mặt Hội đồng
Chủ tọa xét xử, tôi tuyên bố kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chuyển sang
phần tranh tụng.
23
Thưa HĐXX, tôi đã hết câu hỏi với ông Quyết, đề nghị được hỏi người làm
LS Đức
chứng Nguyễn Văn Bích
Mời ông Quyết ngồi
Chủ tọa
Mời người làm chứng Nguyễn Văn Bích đứng dậy
Ông xác nhận bà Thoa là người nộp tiền mua thửa đất số 496 có đúng
LS Đức
không?
Phạm Văn Thưa HĐXX, đúng như vậy
Thái
Trong quá trình cấp GCN QSDĐ tại thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã
LS Đức
Thượng Đạt thì các ông có xác minh nguồn gốc đất không?
Phạm Văn Trên thực tế, chúng tôi không tiến hành việc xác minh nguồn gốc các thửa
Thái đất của 30 hộ gia đình mà chỉ cấp theo hiện trạng sử dụng đất.
Khi các ông cấp GCN QSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo thì có văn bản nào
LS Đức thể hiện việc anh Nguyệt, chị Hảo được nhận chuyển nhượng hay được tặng
cho QSDĐ không?
Vì trong quá trình chuyển đổi địa giới hành chính, hồ sơ cấp GCN QSDĐ tại
thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt từ huyện Nam sách sang
Phạm Văn
thành phố Hải Dương, hồ sơ cấp GCN QSDĐ đang bị thất lạc chưa tìm thấy
Thái
nên tôi không biết là có văn bản chuyển nhượng tặng cho QSDĐ nào không.
Tuy nhiên theo tôi nhớ là không có.
Tôi đề nghị được hỏi cháu Nguyễn Thị Nhi
LS Đức
Khi ở với mẹ thì mẹ có tạo điều kiện cho cháu đi học không?
Cháu Nhi Có ạ
LS Đức Vậy tại sao cháu lại quyết định nghỉ học?
Cháu thấy việc đi học đối với cháu rất khó và áp lực, cháu không theo kịp
Cháu Nhi
nữa nên quyết định nghỉ ạ.
LS Đức Trường hợp bố mẹ ly hôn cháu muốn sống cùng với ai?
Cháu Nhi Cháu muốn sống cùng với mẹ ạ!
Tôi đề nghị được hỏi cháu Nguyễn Đức Anh
LS Đức
Bố có thường xuyên dành thời gian chăm lo cho cháu không?
Đức Anh Có ạ
Thưa HĐXX, tôi không còn câu hỏi gì thêm.
LS Đức
Đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Mời ông Bích ngồi
Chủ tọa Mời người đại diện của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Ngọc Mai tham gia phần hỏi
Thảo Thưa HĐXX tôi không có câu hỏi gì, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Huyền
24
Các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự,
Chủ tọa những người tham gia tố tụng khác, có ai có yêu cầu hỏi thêm không?
{…….} im lặng một chút… nói tiếp….
PHẦN HỎI CỦA HĐXX
Xét thấy 1 số nội dung chưa rõ, sau đây HDXX sẽ tiến hành làm rõ thêm một
Chủ tọa
số nội dung;
Mời nguyên đơn đứng dậy
Chủ tọa Chị cho HĐXX biết kể từ khi ly thân đến nay tình trạng chị với anh Nguyệt
như thế nào, có còn qua lại hay hỏi thăm nhau gì không?
Nguyên Thưa HĐXX Chúng tôi không còn qua lại với nhau nữa, tôi có sang gặp thì
đơn thăm cháu Đức Anh thôi
Hàng tháng chi phí học tập, sinh hoạt của cháu Nhi và cháu Đức Anh là
Chủ tọa
khoảng bao nhiêu?
Thưa HĐXX, chi phí tùy tháng, có tháng nhiều tháng ít, nhưng vì ở nông
thôn nên cũng không tốn kém lắm. Tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu,
Nguyên đơn
nhưng tôi chắc chắn với điều kiện của mình hoàn toàn đủ để lo cho cả hai
cháu.
Nếu được quyền nuôi dưỡng con chung, chị có tạo điều kiện cho anh Nguyệt
Chủ tọa
gặp con không?
Nguyên đơn Thưa HĐXX, khi nào anh ấy muốn thăm con, anh ấy đều có thể đến gặp con
Chủ tọa Hiện tại, bà có phải chu cấp cho ai trong gia đình của bà không?
Thưa HĐXX, bố mẹ tôi vẫn khỏe mạnh và có lương hưu, ngoài ra các an
Nguyên đơn
hem của tôi đều đã có công việc ổn định, nên tôi không phải chu cấp cho ai.
Mời nguyên đơn ngồi
Chủ tọa Mời bị đơn đứng dậy
Trong thời gian cháu Đức Anh ở với anh, anh có cho cháu gặp mẹ không?
Bị đơn Có, tôi vẫn tạo điều kiện cho cô Hảo gặp cháu
Vào thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh có làm đơn gửi
Chủ tọa
đến xã Thượng Đạt đề nghị được cấp Giấy chứng nhận không?
Tôi không làm đơn gửi đến xã Thượng Đạt đề nghị được cấp GCN QSDĐ.
Bị đơn Năm 2005, UBND xã và huyện tự làm GCN QSDĐ đứng tên 2 vợ chồng tôi
và gọi tôi lên nhận
Chủ tọa Mời hội thẩm nhân dân Nguyễn Quỳnh Anh tham gia phần hỏi
HTND Quỳnh Tôi đề nghị được hỏi bị đơn
Anh Mời bị đơn đứng dậy.
Chủ tọa Mời bị đơn đứng dậy.
25
Anh Nguyệt cho Hội thẩm biết anh đăng ký kết hôn với chị Hảo vào ngày
HTND QA tháng năm nào? Ở đâu? Anh có tự nguyện khi kết hôn với chị Hảo không?
Tôi kết hôn với cô Hảo vào ngày 26/03/1999 tại UBND xã Thượng Đạt. Tôi
Bị đơn tự nguyện kết hôn với cô Hảo.
HTND QA Anh có đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị Nguyệt không?
27
30 hộ gia đình trong đó có cả anh Nguyệt và chị Hảo đều có làm đơn đề nghị
cấp GCNQSDĐ vào ngày 25/10/2001.
Câu 2:
Các hộ gia đình trên có làm đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ không?
Ksv Thưa HĐXX, tôi hết câu hỏi, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Vị đại diện VKS, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đương sự, những người tham gia tố tụng khác, có ai có yêu cầu hỏi thêm
không?
Chủ tọa
(Dừng một chút rồi nói tiếp)
Không ai còn yêu cầu hỏi thêm, thay mặt Hội đồng xét xử tôi tuyên bố kết
thúc phần hỏi và chuyển sang phần tranh luận.
28
khi cưới, hai bên chung sống được khoảng thời gian là 02 năm thì phát sinh
mâu thuẫn, anh Nguyệt có hành vi đánh đập, chửi bới vợ con. Mặc dù đã được
sự động viên từ phía gia đình, hòa giải từ địa phương nhưng đều không thành.
Hiện nay, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau.
Do đó, dựa trên yêu cầu và sự tự nguyện của hai bên, đây là yêu cầu hoàn toàn
hợp lý và có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56
Luật Hôn nhân gia đình 2014, kính mong HĐXX xem xét và cho chị Hảo và
anh Nguyệt được ly hôn.
*Thứ hai, về yêu cầu nuôi chung và cấp dưỡng
Anh Nguyệt, chị Hảo có 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi, sinh ngày
04/01/2001 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007. Nguyên đơn có
mong muốn được nuôi cả 02 con và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng. Tôi đề
nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn với các lý do sau đây:
Thời điểm ly hôn, xét về tuổi của cả hai cháu đều trên 07 tuổi, căn cứ theo
quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật HNGĐ 2014 nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên
thì phải xem xét nguyện vọng của các con. Cháu Nhi đã có đơn đề nghị được
sống với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn, hiện nay cháu cũng đang sống cùng mẹ;
biên bản lấy lời khai ngày 05/07/2016 của cháu Đức Anh cũng có nguyện
vọng được ở cùng mẹ Hảo sau khi ly hôn (được thể hiện tại bút lục số 30 , 31
và bút lục 166).
Thêm vào đó, xét về hoàn cảnh và điều kiện sống của chị Hảo, chị Hảo
hoàn toàn có khả năng về thời gian, tình cảm và kinh tế để nuôi dưỡng hai con.
Chị Hảo là người chịu thương chịu khó, thu vén cho gia đình chồng, tư cách
đạo đức tốt được gia đình chồng và xóm giềng ghi nhận (được thể hiện tại bút
lục 89). Chị Hảo hiện nay đang là công nhân tại công ty Trấn Anh, thu nhập
ổn định hàng tháng từ 5-6 triệu đồng, thời gian làm việc 8 tiếng một ngày giờ
hành chính – với thời gian làm việc này chị Hảo hoàn toàn có thời gian chăm
sóc, giáo dục con cái đặc biệt khi hai con đang trong giai đoạn phát triển tâm
sinh lý rất cần sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của một người mẹ.
Bên cạnh đó, việc giao cháu Đức Anh cho anh Nguyệt nuôi sẽ gây ảnh
hưởng lớn đến tâm sinh lý, sự phát triển của cháu Đức Anh, do anh Nguyệt có
hành vi đánh đập và ngăn cản cháu Đức Anh gặp mẹ, UBND xã cũng nắm
được sự việc này (được thể hiện tại Bút lục 73-74). Ngoài ra, công việc anh
Nguyệt chủ yếu dựa khu trồng trọt chăn nuôi ở khu đất thuê của xã (cuối năm
2016 hết hạn HĐ thuê), thu nhập và thời gian làm việc không ổn định. Thử hỏi
việc giao cháu Đức Anh cho một người như vậy liệu có phải là điều tốt nhất
cho cháu Đức Anh hay không? Ngoài ra, người lớn chia tay không để con trẻ
bị chia rẽ. Bố mẹ có thể không hài lòng về nhau hay không cùng quan điểm
trong nhiều mặt của cuộc sống, phải ly hôn, nhưng hãy tạo điều kiện tốt nhất
cho con mình kể cả vật chất, lẫn tinh thần. Chị Hảo chăm sóc nuôi dưỡng 2
con, tạo điều kiện cho bản thân và các con quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hai
chị em Nhi -Anh không bị hụt hẫng khi cha mẹ ly hôn. Tôi kính mong HĐXX
chấp nhận yêu cầu được nuôi 2 cháu của chị Hảo, tất cả vì lợi ích và nguyện
vọng của 02 cháu.
* Ngoài ra, chị Hảo có điều kiện nuôi dưỡng các cháu hơn, cụ thể:
Hiện nay, chị Hảo có công việc ổn định tại Công ty Trấn An, mức thu
29
nhập hàng tháng từ 4-6 triệu đồng và chị đang sống chung tại nhà của mẹ đẻ,
việc chăm sóc các cháu vừa có thể tự mình làm, vừa có thể nhờ mẹ đỡ đần
chăm sóc. Bên cạnh đó, các cháu cũng đã lớn, có thể phụ giúp mẹ và bà và đều
ngoan ngoãn, vâng lời. Với mức thu nhập nói trên nguyên đơn xác định có đủ
điều kiện về thời gian, về chỗ ở và về kinh tế để nuôi 02 con lớn khôn, nên
người.
Nguyên đơn không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng, nuôi con vì nguyên
đơn đảm bảo lo liệu được.
Tôi kính mong HĐXX chấp nhận yêu cầu được nuôi 2 cháu của chị Hảo,
tất cả vì lợi ích và nguyện vọng của 02 cháu.
* Thứ 3, Về yêu cầu chia tài sản chung được hình thành trong thời kỳ
hôn nhân của bà Hảo và ông Nguyệt, tôi xin khẳng định việc yều câu chia tài
sản chung đối với thửa đất số 496 thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại
xã Thượng Đạt, TP Hải Dương là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy
định của pháp luật. Bởi lẽ:
(1)Chị Hảo và anh Nguyệt kết hôn vào năm 1999, thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 496 thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích
216m2 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương ngày 31/12/2005 là đang trong thời
kì hôn nhân. Nhà đất này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn Nguyệt và Hoàng Thị
Hảo (bút lục 8-11). Như vậy, việc xác định thửa đất thuộc quyền sử dụng hợp
pháp, là tài sản chung của cả hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn
có căn cứ.
(2)Trong suốt thời gian từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay chưa có bất
kỳ tranh chấp nào phát sinh (thể hiện tại Bút lục 76). Cụ thể: Công văn của
Phòng Tài nguyên và Môi trường UBND TP Hải Dương ngày 10/06/2016
( bút lục 133 – 134) đã khẳng định với Toà án về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên là trong khuôn khổ cấp đồng loạt cho cả 30 hộ dân
trong xã Thượng Đạt, việc cấp giấy bảo đảm đúng quy trình và không chấp
nhận yêu cầu huỷ GCNQSDĐ của anh Nguyệt. Công văn này cũng nêu rõ bà
Thoa, ông Cang biết việc này nhưng không ai có kiến phản đối gì; trong buổi
hòa giải ngày 19/05/2016 tại Tòa án, bà Thoa khai rằng bà và những người
trong gia đình đã biết việc anh Nguyệt, chị Hảo được cấp GCNQSDĐ và
không ai phản đối. Tại bút lục số 86 lời khai của ông Nguyễn Văn Chuyển, em
trai ông Nguyệt cũng thể hiện việc gia đình đã biết được cấp GCN và mang
tên 2 vợ chồng anh Nguyệt- chị Hảo. Hai anh chị đã thế chấp ngân hàng lấy
tiền cho anh Chuyển vay. Gia đình đều biết và không có ý kiến gì. Việc cấp
GCNQSDĐ của cơ quan nhà nước là dựa trên yêu cầu của từng hộ gia đình và
anh Nguyệt đã “lên Ủy ban nhân dân xã Thượng Đạt” để nhận Giấy chứng
nhận QSĐ này là chứng thực cho việc anh không phản đối việc được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho riêng anh và chị Hảo tại thời điểm đó.
Trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ được tiến hành theo đúng quy định của pháp
Luật về đất đai (Bút lục134). Từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đến
nay, anh Nguyệt và chị Hảo đã tạo dựng nhà và các công trình phụ trợ, sinh
sống ổn định, lâu dài trên diện tích này, bà Thoa, ông Cang cùng các anh em
trong gia đình đã biết nhưng không ai có ý kiến phản đối, khiếu nại, không có
30
bất kỳ tranh chấp nào đối với diện tích đất nói trên.Trong quá trình chung
sống, do cần tiền để làm ăn cũng như cho anh Chuyển vay làm nhà, Anh
Nguyệt và chị Hảo đã đứng ra thế chấp nhà đất nói trên để vay hộ tiền và cũng
không gặp ý kiến phản đối nào từ phía gia đình a Nguyệt.
(3)Chị Hảo có công sức cải tạo, bồi đắp, tôn tạo thửa đất số 496 cùng với
anh Nguyệt trong suốt quãng thời gian chung sống vợ chồng. Trước đây thửa
đất này bị trũng sâu (Bút lục 75- theo xác minh ngày 09/03/2016 của cán bộ
địa chính xã Thượng Đạt – ông Phạm Văn Thái xác nhận vấn đề này), hai vợ
chồng đã cùng nhau san lấp, cải tạo cho thửa đất bằng phẳng, xây nhà cùng
các công trình phụ trên đất như ngày nay. Cả hai cùng chuyển mục đích đất
thùng vũng, trũng không canh tác được sang thành đất ở, đưa đất trở lên có giá
trị hơn.
(4) Mặt khác, căn cứ nội dung Án lệ số 03/2-16/A1 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/04/2016 (đọc Công bố theo
quyết định 220 QĐ-CA ngày 06/04/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao) nêu rõ: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất
và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm
nơi, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác
không có ý kiến phản đối gì, vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục,
công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chống người con đã được tặng cho
quyền sử dụng đất”.
Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy quyền sử dụng thửa đất số 496
thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương
ngày 31/12/2005 là do cha mẹ anh Nguyệt tặng cho vợ chồng anh Nguyệt chị
Hảo và là tài sản chung của cả anh Nguyệt, chị Hảo hoàn toàn hợp pháp và
được mọi người trong gia đình bà Thoa chấp nhận
Vì các lẽ trên, tôi kính mong HĐXX chấp nhận yều cầu chia đôi tài sản
chung (tương ứng với diện tích 108m2 = rộng 4 m x dài 27m ) và Chị Hảo
nhận phần đất không có tài sản đối với thửa đất 496 thuộc tờ bản đồ số 01,
diện tich 216m2 tại xã Thượng Đạt. TP Hải Dương. Đây cũng là thiện chí của
chị Hảo để anh Nguyệt không phải bỏ kinh phí xây dựng nhà khi ly hôn.
Do đó, kính đề nghị HĐXX chia tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và
anh Nguyệt theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo
quy định tại điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và án lệ số 03/2016/AL.
Căn cứ tình hình thực tế, qua các luận cứ trên, với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn Hoàng Thị Hảo, chúng tôi kính đề
xuất HĐXX xem xét áp dụng các điều khoản sau đây:
+) Về yêu cầu ly hôn: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ
năm 2014 và các văn bản hướng dẫn, kính đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu
ly hôn của chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt.
+) Về con chung: Hiện nay, cháu Nguyễn Thị Nhi 16 tuổi, cháu Nguyễn
Đức Anh 12 tuổi, kính đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 81, căn cứ
nguyện vọng cuối cùng của các con để quyết định cho nguyên đơn được nuôi
dưỡng các cháu, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng.
31
+) Về tài sản chung: đề nghị được chia bằng hiện vật; Căn cứ Điều 135
Nghị định 108/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về thi hành Luật
Đất đai 2003,Căn cứ án lệ số 03/2016/AL, xác định QSDĐ đối với 216m 2 đất
thửa số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương là tài sản
chung của vợ chồng hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Chị Nguyệt được 1/2
tài sản chung (tương ứng với diện tích 108m2 = rộng 4 m x dài 27m) và Chị
Hảo nhận phần đất không có tài sản.
+ Về yêu cầu hủy GCN QSDĐ: theo quy định tại khoản 2, Điều 106 Luật
Đất đai năm 2013, Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp
trong các trường hợp sau:– Trường hợp 1. Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích
đất trên GCNQSDĐ đã cấp;– Trường hợp 2. Cấp đổi GCNQSDĐ đã cấp;–
Trường hợp 3. Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký
biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới GCNQSDĐ;–
Trường hợp 4. GCNQSDĐ đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất
đai. Các tài liệu ông Nguyệt đưa ra không có cơ sở pháp luật. UBND thành
phố và UBND xã đều công nhận việc cấp GCN QSD Đ cho anh Nguyệt chi
Hảo đúng theo quy định. Đề nghị HĐXX bác bỏ yêu cầu hủy GCN QSDĐ trên
của ông Nguyệt và các đương sự khác.
Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho chị Hoàng Thị Hảo. Kính mong HĐXX xem xét một cách công tâm
và chấp thuận toàn bộ yều câu.
Trân trọng cảm ơn sự lắng nghe của Hội đồng xét xử và toàn thể mọi
người có mặt trong phiên tòa hôm nay!
Mời luật sư ngồi, mời chị Hảo đứng dậy. Chị có ý kiến bổ sung gì về lời trình
Chủ tọa
bày của luật sư không?
Hoàng Thị Thưa Hội đồng xét xử, tôi hoàn toàn đồng ý với phần trình bày của luật sư và
Hảo không có ý kiến gì thêm.
Mời chị ngồi.
Chủ tọa Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn phát biểu phát
biểu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn
LS BĐ Trình bày bản luận cứ:
Đức Kính thưa Hội đồng xét xử! Thưa Vị đại diện Viện kiểm sát!
Các vị luật sư đồng nghiệp cùng toàn thể quý vị có mặt trong phiên tòa
ngày hôm nay!
Quá qua trình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ có liên quan, cũng như thông qua
theo dõi diễn biến phần xét hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, tôi là LS Vũ
Quang Đức - thuộc VP LS B- đoàn LS TP HN xin trình bày quan điểm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn - anh Nguyễn Văn Nguyệt như sau:
Thứ nhất, về yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Hoàng Thị Hảo:
Thưa Hội đồng xét xử, chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt
đăng ký kết hôn hợp pháp với nhau trên cơ sở tự nguyện theo Giấy chứng
32
nhận đăng ký kết hôn ngày 26/03/1999. Tuy nhiên, chỉ sau 02 năm, đời sống
hôn nhân của anh Nguyệt và chị Hảo đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Theo như lời trình bày của cả hai bên thì quan hệ hôn nhân của vợ chồng
anh Nguyệt và chị Hảo đã mâu thuẫn đến mức đỉnh điểm, không thể hòa giải
được. Hai anh chị đã ly thân từ ngày 14/12/2014. Từ đó đến nay, chị Hảo xác
định tình cảm vợ chồng không còn, hai vợ chồng không còn quan tâm đến
nhau nữa . Vì vậy, chị Hảo xin ly hôn với anh Nguyệt. Anh Nguyệt cũng xác
nhận không còn tình cảm vợ chồng và đồng ý yêu cầsu ly hôn của chị Hảo.
Do vậy, có thể khẳng định rằng cả hai bên không thể tiếp tục sống chung,
hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt
được. Do vậy, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 56
Luật hôn nhân gia đình 2014 và các chứng cứ tại hồ sơ cũng như tại phiên tòa
hôm nay, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyệt và chị Hảo.
Thứ hai, anh Nguyệt là người có quyền nuôi cháu Nguyễn Đức Anh là
đáp ứng đúng với nguyện vọng thỏa đáng của cháu, cũng như bảo đảm
được lợi ích cho sự phát triển của cháu.
Cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007, là con chung của anh
Nguyệt và chị Hảo trong thời kì hôn nhân, tính đến thời điểm hiện tại cháu
Đức Anh đã trên 07 tuổi.
Theo như Đơn đề nghị của cháu Đức Anh (Bút lục số 32) thì cháu có
nguyện vọng ở với bố vì chị của cháu là cháu Nhi không được đi học cấp 3,
một suy nghĩ còn hết sức non nớt của đứa trẻ, tuy nhiên cũng cho thấy thực tế
lo sợ về tương lai của bản thân đối với cuộc sống áp lực khi phải ở với mẹ,
như chị gái đang phải chịu. Như vậy việc anh Nguyệt có quyền nuôi dưỡng
cháu Đức Anh sau khi ly hôn là hợp lý và hợp pháp.
Mặt khác, anh Nguyệt hiện đang nuôi cháu Đức Anh, nhà anh Nguyệt ở
khu vực gần trường học sẽ thuận tiện hơn trong việc đi lại cũng như học tập
của cháu. Mức thu nhập ổn định hiện tại của anh Nguyệt một tháng là khoảng
08 triệu đồng, so với mức sinh hoạt phí tại địa phương thì anh Nguyệt có đầy
đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đức Anh, đảm bảo
được sự phát triển của cháu, hơn hẳn mức thu nhập của mẹ cháu chỉ 5-6 triệu
đồng/tháng nhưng lại chi trả việc nuôi dạy học hành của cả 2 đứa con.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Tòa án áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 81
Luật hôn nhân gia đình 2014 “Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét
nguyện vọng của con.” khi xem xét việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con để anh Nguyệt là người nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Đức Anh sau
khi ly hôn.
Thứ ba, về tài sản chung để phân chia sau khi ly hôn của anh Nguyệt và
chị Hảo chỉ có ngôi nhà và các công trình phụ nằm trên đất.
Chị Hảo cho rằng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa
chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là tài sản chung của
vợ chồng là không chính xác, bởi các lẽ sau:
- Nguồn gốc thửa đất trên là của Bố mẹ và anh em của anh Nguyệt góp
33
tiền mua của UBND xã Thượng Đạt vào năm 1994, không hề có sự đóng góp
của anh Nguyệt (có xác nhận của cán bộ địa chính);
Cuối năm 1994, đầu năm 1995, ông Nguyễn Văn Cang và bà Nguyễn Thị
Thoa cùng các con là Nguyễn Phùng Quốc Tuấn, Nguyễn Văn Chuyển có góp
tiền mua thửa đất hiện tại anh Nguyệt đang sử dụng từ UBND xã Thượng Đạt
với giá 1.550.000 đồng. Số tiền này do anh Nguyễn Phùng Quốc Tuấn đóng
góp 1.000.000 đồng, anh Nguyễn Văn Chuyển đóng góp 550.000 đồng. Tại
thời điểm đó, bà Nguyễn Thị Thoa là người trực tiếp đi nộp tiền mua thửa đất
cho UBND xã Thượng Đạt, điều này đã được xác minh bởi ông Phạm Văn
Thái - cán bộ địa chính xã (bút lục 75). Hơn nữa, anh Nguyệt không hề đóng
góp bất cứ khoản tiền nào đối với thửa đất trên nên thửa đất trên là tài sản của
bố mẹ anh Nguyệt và của anh Nguyễn Phùng Quốc Tuấn, anh Nguyễn Văn
Chuyển.
- Chị Hảo đã trình bày rằng đã được bố mẹ cho vợ chồng chị thửa đất nói
trên. Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bày ở trên thì Thửa đất này là tài sản
của bố mẹ và các anh em của anh Nguyệt. Theo lời khai của bà Nguyễn Thị
Thoa, anh Nguyễn Phùng Quốc Tuấn, anh Nguyễn Văn Chuyển (các bút lục
93, 82, 85). Sau khi mua thửa đất này, gia đình bà Thoa đã họp thống nhất cho
phép vợ chồng anh Nguyệt ra ở trên thửa đất 496, được xây dựng nhà và các
công trình phụ trên đất, tuy nhiên chỉ cho vợ chồng anh Nguyệt ở nhờ trên đất;
không hề có bất cứ tuyên bố bằng miệng hay có bất cứ văn bản nào xác nhận
việc tặng cho thửa đất này cho cá nhân anh Nguyệt hay vợ chồng anh Nguyệt.
- Về Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSD đất đối với thửa đất số
496, tờ bản đồ 01 có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương mang tên Chị Hảo và Anh Nguyệt không đúng quy định của pháp luật,
do:
- Không hề có Đơn xin cấp GCNQSD đất đối với thửa đất số 496.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật đất đai 2003 quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại xã, thị
trấn thì trong hồ sơ nộp cho UBND xã nơi có đất phải có Đơn xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên thông qua lời khai của anh Nguyệt tại bút lục 18,19, lời khai của
ông Phạm Văn Thái - cán bộ địa chính xã Thượng Đạt (bút lục 76) và phần xét
hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, đã khẳng định rằng anh Nguyệt đã không làm
Đơn xin Cấp GCNQSD đất hay bất cứ một giấy tờ gì đối với thửa đất số 496,
tờ bản đồ 01, diện tích 216 m2 có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách,
Tỉnh Hải Dương. UBND xã Thượng Đạt tự làm GCNQSD đất mang tên 2 vợ
chồng anh chị. Anh Nguyệt chỉ biết là mình và chị Hảo được cấp CNQSD đất
khi UBND xã gọi anh lên ký và nhận GCNQSD đất.
- Bà Thoa, anh Tuấn, anh Chuyển không hề được UBND xã Thượng Đạt
thông báo về Quyết định số 563/2002/QĐ-UB của UBND huyện Nam Sách về
việc xử lý giao đất trái thẩm quyền cho 30 hộ dân.
Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
34
hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003:
“Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai
đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất
đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng
tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã
được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và
không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Uỷ ban
nhân dân xã, thị trấn..”
Trong giai đoạn 1991 - 1996, UBND xã Thượng Đạt có bán khu đất ở có
thu tiền trái thẩm quyền cho 30 hộ gia đình, trong đó có hộ gia đình anh
Nguyệt, chị Hảo. Căn cứ vào hồ sơ được lập, UBND huyện Nam Sách đã ra
Quyết định số 563/2002/QĐ-UB ngày 22/07/2002 về việc xử lý giao đất trái
thẩm quyền cho 30 hộ gia đình trong đó có hộ gia đình anh Nguyệt, chị Hảo.
UBND xã Thượng Đạt lập danh sách của 30 hộ và được UBND huyện Nam
Sách cấp giấy CNQSD đất đồng loạt trong đó có hộ anh Nguyệt, chị Hảo.
UBND xã Thượng Đạt đã biết được việc hộ gia đình nào được cấp
GCNQSD đất, sau đó chủ động tự lập danh sách căn cứ theo Quyết định
563/2002/QĐ-UB. Tuy nhiên bà Thoa cùng anh Quyết, anh Chuyển không hề
biết đến Quyết định số 563/2002/QĐ-UB của UBND huyện Nam Sách cũng
như không được UBND xã Thượng Đạt thông báo về Quyết định này.
Bản thân bà Thoa, anh Tuấn và anh Chuyển là người đóng góp tiền mua
thửa đất 496 nói trên, trong đó bà Thoa là người trực tiếp đi nộp tiền cho
UBND xã Thượng Đạt. Việc UBND xã tự ý lập danh sách và đã không thông
báo cho gia đình bà Thoa cho nên việc gia đình bà Thoa không biết đến Quyết
định 563/2002/QĐ-UB là lẽ đương nhiên.
Căn cứ theo lời khai của chị Hảo (bút lục 62), chị Hảo cũng không biết tới
Quyết định này mà chỉ biết là UBND xã Thượng Đạt cấp GCNQSD đất mang
tên vợ chồng chị sau khi anh Nguyệt lên xã nhận GCNQSD đất.
Với những căn cứ và lập luận ở trên, hoàn toàn có đủ căn cứ để chứng
minh rằng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa chỉ tại
xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là tài sản do bố mẹ và
các anh em của anh Nguyệt đóng góp; Giấy CNQSDĐ mang tên Chị Hảo
và Anh Nguyệt không có giá trị pháp lý, không khẳng định chủ quyền sử
dụng đất, không là căn cứ chứng minh lô đất là tài sản chung của vợ chồng
anh Nguyệt, chị Hảo.
Thực tế anh Nguyệt và chị Hảo có một số tài sản chung giống như chị Hảo
đã trình bày bao gồm:
01 căn nhà ở cấp 4 diện tích là 21,8 m2 lợp ngói, 1gian bếp 13,2 m2 và
nhà vệ sinh khoảng 10 m2, 1 giếng khơi,1 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6
m3 xây dựng trên thửa số 496 tờ bản đồ số 01, chuồng lợn, tường bao phía
Nam, tường bao phía Đông, tường bao phía Tây, ngoài ra trên đất còn 3 bụi
chuối.
35
Căn cứ theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ được xem xét dựa trên công sức
đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản và nhu cầu và
điều kiện trực tiếp sử dụng tài sản đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải
quyết chia đôi tài sản chung cho cả hai bên.
Từ những quan điểm đã nêu như trên:
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56, Điều 59 của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014. Chúng tôi kính mong HĐXX chấp nhận yêu cầu sau đây
của bị đơn:
1 -Về quan hệ hôn nhân: Chấp thuận cho ly hôn.
2 - Về con chung: Yêu cầu Tòa án giải quyết chấp thuận cho Anh Nguyễn
Văn Nguyệt được quyền chăm sóc và nuôi dưỡng con trai là Nguyễn Đức Anh
và không yêu cầu chị Hảo cấp dưỡng nuôi con.
3 -Về tài sản chung: Yêu cầu tòa án tiến hành hủy bỏ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo. Yêu cầu tòa án tiến hành
việc chia tài sản chung của hai bên bao gồm 01 ngôi nhà 18m2 lợp ngói, 01
gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10m2, 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng
khoảng 1,6m3.
Trên đây là phần trình bày quan điểm của tôi đối với vụ án, kính mong Hội
đồng xét xử xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị
đơn.
Xin cảm ơn sự lắng nghe của Hội đồng xét xử và mọi người tham dự phiên
tòa!
Mời luật sư ngồi, mời anh Nguyệt đứng dậy. Anh có ý kiến bổ sung gì về lời
Chủ tọa
trình bày của luật sư không?
Bị đơn Thưa HĐXX, tôi không bổ sung gì thêm
Mời Bị đơn ngồi
Chủ tọa Mời người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan bà Vũ Thảo Huyền trình bày quan điểm
Thảo Trình bày luận cứ bảo vệ
Huyền Kính thưa Hội đồng xét xử;
Đại diện bố Thưa vị đại diện VKS;
mẹ
Thưa các vị luật sư và toàn thể quý vị có mặt tại phiên toà ngày hôm nay!
Tôi là Vũ Thảo Huyền - Người đại diện theo ủy quyền cho bà Nguyễn Thị
Thoa và ông Nguyễn Văn Cang - là người có quyền và nghĩa vụ liên quan
trong vụ án “Yêu cầu ly hôn, Tranh chấp quyền nuôi con và chia tài sản”
với bị đơn - anh Nguyễn Văn Nguyệt được TAND thành phố Hải Dương thụ
lý theo thông báo số 02/TB-TLVA ngày 10/01/2016.
Tôi xin trình bày quan điểm của mình về quyền sử dụng thửa đất số 496,
tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị
36
Thoa và ông Nguyễn Văn Cang như sau:
Như theo lời khai của bà Thoa và các con trong gia đình bản chất nguồn
gốc của thửa đất này là tài sản của gia đình bà Thoa, do các con bà gom góp
tiền lại để mua và bà là người đóng tiền cho UBND xã Thượng Đạt năm 1994.
Khi anh Nguyệt lấy vợ, bà và chồng bà là ông Cang chỉ nghĩ là nhà đông con
nên cho các cháu mượn mảnh đất ở vườn để xây cất tạm ngôi nhà để ở và ông
bà cũng không có lập văn bản hay giấy tờ gì về việc tặng cho mảnh đất này.
Nên đây vẫn là đất của gia đình vợ chồng ông bà chứ ông bà chưa cho vợ
chồng anh Nguyệt.
Trên thực tế, anh Nguyệt và chị Hảo khi chung sống có một số tài sản xây
dựng trên đất bao gồm: 01 căn nhà ở cấp 4 diện tích là 21,8m 2 lợp ngói, 01
gian bếp 13,2m2 và nhà vệ sinh khoảng 10m2, 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi
măng khoảng 1,6m3 xây dựng trên thửa số 496 tờ bản đồ số 01, chuồng lợn,
tường bao phía Nam, tường bao phía Đông, tường bao phía Tây, và 03 bụi
chuối trên đất. Đây là những tài sản của vợ chồng anh Nguyệt, ông bà không
có ý kiến gì để anh chị ấy tự giải quyết.
Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Nguyệt:
bà Thoa và ông Cang không được biết đến việc vợ chồng anh Nguyệt bằng
cách nào làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSDD trong khi đất là do bà đi
mua và ông bà cũng không cho vợ chồng anh chị ấy mảnh đất này. Do đi lấy
chồng sớm, nhà lại nhiều con trình độ văn hóa của bà Thoa thấp kém bà không
hiểu hết các quy định của pháp luật. Bà biết việc vợ chồng anh Nguyệt được
cấp giấy CN QSDD khi anh Nguyệt thế chấp vay ngân hàng nhưng bà đã xác
định với anh Nguyệt là thế chấp này không liên quan gì tớ mảnh đất nhà ông
bà, bà nghĩ đó là giấy chứng nhận cấp cho tài sản của vợ chồng anh chị trên
đất và không liên quan gì tới mảnh đất của bà nên không có ý kiến gì đến nay.
Bên cạnh đó, việc UBND cấp xã cấp Giấy CNSQDĐ cho các hộ dân theo diện
cấp sai đất vào thời điểm bà mua thì UBND xã phải cấp đất cho vợ chồng ông
bà là người đăng ký và mua đất sao lại cấp đất cho vợ chồng anh Nguyệt. Vì
vậy, tôi thấy việc cấp đất của UBND cho vợ chồng anh Nguyệt là sai. Tôi
mong Hội đồng xét xử hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC382972
đã cấp cho vợ chồng anh Nguyệt để bảo vệ quyền và ích hợp pháp cho gia
đình bà Thoa.
Xin cảm ơn Hội đồng xét xử đã chú ý lắng nghe.
Trân trọng cảm ơn!
- Đề nghị vị Luật sư của nguyên đơn có ý kiến tranh luận, đối đáp với quan
Chủ tọa
điểm của vị Luật sư bên phía bị đơn
LSNĐ Thưa HĐXX!
Quyền - Đối với yêu cầu nuôi cháu Đức Anh được luật sư bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của bị đơn đưa ra, tôi có ý kiến tranh luận như sau: Khi hai vợ chồng
chị Hảo sống ly thân, anh Nguyệt thường ngăn cản không cho thân chủ tôi gặp
cháu Đức Anh. Nếu chị Hảo gặp cháu, anh Nguyệt sẽ đánh đập cháu Đức
Anh. Điều này được thể hiện ở bút lục 73-74. Nếu bé Đức Anh tiếp tục sống
với bố thì chuyện này có thể còn xảy ra. Một đứa trẻ bị đánh chỉ vì mong
37
muốn được gặp mẹ mình, đây là hành động cực kì đáng lên án, xâm phạm trực
tiếp tới quyền cơ bản của con người. Chia cắt tình mẫu tử thiêng liêng. Mọi
người hãy tưởng tượng xem, nếu rơi vào hoàn cảnh của cháu bé, bị câm cản
gặp mẹ của mình thì mọi người sẽ cảm thấy như thế nào. Thêm vào đó, cha
của Đức Anh lại là 1 người ham chơi, bạo lực ko chú ý vun vén cho gia đình.
Trẻ em như búp trên cành, nếu để bé Đức Anh sống với một người cha như
thế, liệu rằng em có thể ko bị ảnh hưởng hay không. Tương lai của 1 đứa trẻ
đang cần sự cứu giúp ngay bây giờ của chúng ta, liệu chúng ta có thể nào làm
ngơ không?
- Đối với ý kiến của vị luật sư đưa ra đối với nguồn gốc đất, tôi xin khẳng
định lại như sau: Bố mẹ đẻ của anh Nguyệt đã cho phép vợ chồng anh Nguyệt
và chị Hảo dọn ra ở riêng, xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất thửa số 496,
tờ bản đồ số 1 tại xã Thượng Đạt từ năm 1999, sau khi anh Nguyệt và chị Hảo
kết hôn. Điều này cũng đã được Ông Đỗ Văn Tỏ là anh em trong họ với anh
Nguyệt, ông Nguyễn Văn Giới và một số thợ khác đã xây nhà và công trình
phụ cho hai vợ chồng năm 1999 xác nhận tại các Biên bản lấy lời khai.
- Căn cứ theo lời khai của ông Phạm Văn Thái - cán bộ địa chính xã
Thượng Đạt tại Biên bản xác minh ngày 09/03/2016, vại thời điểm bà Thoa
mua thửa đất từ UBND xã Thượng Đạt, thửa đất đó là thùng vũng sâu, chưa
được san lấp bằng phẳng như hiện tại. Căn cứ theo lời khai của ông Đỗ Văn
Tạo, hàng xóm của anh Nguyệt chị Hảo, tại Biên bản lấy lời khai ngày
09/03/2016, tại thời điểm năm 2002, chị Nguyệt và anh Hảo đã ở trên thửa đất
được một thời gian. Khi đó diện tích thùng vũng chiếm khoảng ¾ thửa đất,
ông Tạo đã giúp phun bùn bồi đắp và đến năm 2004 có thấy hai vợ chồng tiếp
tục đắp thêm cho thửa đất thùng vũng này. Như vậy, chị Hảo cũng có đóng
góp trong sự tôn tạo, cải thiện giá trị sử dụng của thửa đất.
Do đó, cần phải xác định, quyền sử dụng đối với thửa đất này là tài sản
chung của hai vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo, chứ không phải tài sản của bố
mẹ anh Nguyệt.
- Mời Luật sư ngồi
Chủ tọa - Vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có ý kiến đối đáp
tranh luận gì với quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn không?
LS BĐ Đức Thưa HĐXX, tôi xin được đưa ra các ý kiến đối đáp đối với luật sư
bên nguyên đơn như sau:
Thứ nhất, luật sư bên nguyên đơn cho rằng: Khi hai vợ chồng anh
Nguyệt chị Hảo ly thân, anh Nguyệt thường ngăn cản không cho chị Hảo gặp
cháu Đức Anh, nếu chị Hảo gặp cháu, anh Nguyệt sẽ đánh đập cháu. Đây là
thông tin không chính xác, thông tin từ ông Tư - cán bộ tư pháp không có căn
cứ. Tôi xin nhấn mạnh 1 điều là Ông Tư không ở gần nhà của thân chủ tôi
cũng như không tận mắt chứng kiến sự việc mà chỉ nghe đồn thổi. Tôi đề nghị
luật sư nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh tính chính xác của biên
bản lấy lời khai tại bút lục số 73, 74 mà luật sư bên nguyên đơn dẫn chứng ra
để cáo buộc thân chủ tôi. Nếu không tôi đề nghị Quý Tòa xem xét những lời
38
cáo buộc của Luật sư bên nguyên đơn đối với thân chủ tôi. Đây là sự vu khống
trắng trợn, ảnh hưởng tới uy tín, danh dự và nhân phẩm của thân chủ tôi.
Không có luật pháp nào cho phép được đánh giá, quy tội 1 người qua lời đồn
thổi mà không có chứng cứ xác thực. Hơn nữa, cháu Đức Anh dù mới 7 tuổi
nhưng đã tự tay viết đơn đề nghị có nguyện vọng ở với bố (bút lục số 32). Thử
hỏi nếu ở với 1 người bố thường xuyên đánh đập, rượu chè và nếu cháu Đức
Anh thực sự yêu mẹ, mong muốn được về ở với mẹ như lời luật sư nguyên
đơn nói thì cháu có làm đơn ở với Bố được không?.
Thứ hai, đối với nguồn gốc đất, tôi cũng xin khẳng định lại rằng nguồn
gốc đất trước đây là do bố mẹ anh Nguyệt và các anh em của anh Nguyệt góp
tiền mua đất năm 1994 khi anh Nguyệt và chị Hảo chưa cưới. Điều này các
nhân chứng cũng đã khẳng định lại và chị Hảo cũng xác nhận đất trước đây là
của gia đình anh Nguyệt và chị Hảo không đóng góp một khoản tiền nào để
mua mảnh đất nói trên (theo bút lục số 62, 109, 116) và không có văn bản nào
thể hiện việc bố mẹ anh Nguyệt tặng cho thửa đất đó.
Do đó, Đối với ý kiến của Luật sư về việc áp dụng án lệ 03, chúng tôi xin
khẳng định rằng không thể áp dụng án lệ 03 trong trường hợp này bởi:
- Án lệ 03 áp dụng đối với trường hợp đất thuộc quyền sử dụng của riêng
bố mẹ.
- Trong vụ án này, như đã nói ở trên mảnh đất thuộc quyền sử dụng chung
của ông Cang, bà Thoa, ông Quyết và ông Chuyển vì nguồn gốc đất là do bố
mẹ và các anh em của anh Nguyệt cùng góp tiền mua theo lời khai hôm nay
cũng như trong các Bút lục số 81, 82, 84, 93, 100 cũng như tại bút lục số 62,
109, 116, Nguyên đơn đã thừa nhận rằng: Nguồn gốc của thửa đất này trước
đây là do gia đình chồng mua.
Vì vậy, không thể xác định đây là tài sản chung của bố mẹ để lại cho con
để xây nhà theo án lệ 03. Việc UBND huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải
Dương) cấp GCN QSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo là không đúng quy định
pháp luật.
- Mời Luật sư ngồi
Chủ tọa - Vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có ý kiến
đối đáp tranh luận gì với quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn không?
LSNĐ Đối với ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn liên
Quyền quan đến việc cháu Đức Anh viết đơn muốn được ở với bố và phân chia tài
sản chung trong việc không áp dụng án lệ 03, tôi hoàn toàn không đồng ý với
quan điểm này, bởi lẽ,
Thứ nhất: Việc cháu Đức Anh viết lại Đơn đề nghị mong muốn được ở
với bố vì cháu sợ ở với mẹ sẽ không được đi học không phải là căn cứ chứng
minh cho việc anh Nguyệt không có hành vi bạo lực. Thêm vào đó, tại Đơn đề
nghị ở bút lục số 31 và tại biên bản lấy lời khai của Quý tòa ngày 5/7/2016 có
sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị Thoa là bà nội của cháu, Cháu Đức Anh đều
xin được ở với mẹ là chị Hoàng Thị Hảo. Do vậy cần áp dụng quy định tại
Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 “Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên
39
thì phải xem xét nguyện vọng của con.” khi xem xét việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con để chị Hảo là người nuôi dưỡng, chăm sóc
cháu Đức Anh sau khi ly hôn.
Thứ hai: Việc áp dụng Án lệ trong trường hợp này là hoàn toàn phù hợp
với quy định pháp luật và thực tế sự việc.
Tôi xin tóm lược nội dung án lệ 03 như sau: “Trường hợp cha mẹ đã cho
vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà
kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng
nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối
gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã
tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.”
Trong trường hợp này, thửa đất 496 được UBND huyện Nam Sách xét
duyệt và cấp đất cho thu tiền cho các hộ gia đình mà có từ ba cặp vợ chồng
cùng ở trong một hộ gia đình. Tại thời điểm đó, hộ gia đình bà Thoa ông Cang
có ba cặp vợ chồng đang cùng sinh sống và bà Thoa ông Cang vẫn đang là chủ
hộ. Dọ vậy được cấp đất theo chính sách, Tại thời điểm cấp đất, số tiên mặc dù
là do anh Quyết và anh Chuyển và ông Cang bà Thoa đóng góp, tuy nhiên, bà
Thoa lại là chủ hộ, là người đi nộp, và trước khi thống nhất cho vợ chồng anh
Nguyệt, chị Hảo ra ở riêng trên đất, ông Cang bà Thoa đã cho vợ chồng anh
Quyết và anh Chuyển ở lại trên thửa đất của ông bà. Cả gia đình cùng thống
nhất như vậy coi như mỗi người đều được một phần của bố mẹ cho tránh tình
trạng anh em tranh chấp nhau. Điều này được thể hiện tại biên bản lấy lời khai
của anh Quyết và anh Chuyển ngày 21/3/2016 và ngày 18/3/2016 tại bút lục số
81,82,83.
Bên cạnh đó bản chất của sự việc này liên quan đến việc xác định cha mẹ
có biết và phản đối với việc kê khai, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ
chồng người con hay không, chứ không nhằm vào việc xác định vào thời điểm
nào cha mẹ được biết.
Trong việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng anh Nguyệt chị
Hảo, cần phải khẳng định, UBND thành phố Hải Dương đã thực hiện đầy đủ
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến việc cấp
GCNQSDĐ cho 30 hộ dân, trong đó có gia đình chị Hảo. Trong đó, việc thông
báo công khai, niêm yết tại trụ sở UBND là bắt buộc theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004:
“2. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a) Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai
đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh
chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được
xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không
đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Uỷ ban nhân
dân xã, thị trấn trong thời gian mười lăm (15) ngày; xem xét các ý kiến đóng
40
góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”
Do đó, phải khẳng định lại việc bà Thoa và gia đình đã biết về việc cấp
GCNQSDĐ cho vợ chồng chị Hảo trong quá trình thực hiện, cũng như sau khi
anh Nguyệt nhận được GCNQSDĐ, tuy nhiên hoàn toàn không có ý kiến phản
đối, khiếu nại, khiếu kiện liên quan. Từ đó, việc áp dụng án lệ 03 là hoàn toàn
phù hợp đối với việc giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản chung của chị
Hảo và anh Nguyệt trong vụ án này.
Mời Luật sư ngồi
Chủ tọa Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà
Vũ Thảo Huyền có ý kiến đối đáp tranh luận gì với quan điểm của các vị luật
sư không?
Thảo Thưa HĐXX, tôi bảo lưu quan điểm của mình, không có ý kiến tranh luận gì
Huyền thêm
Các vị Luật sư của nguyên đơn, bị đơn còn ý kiến đối đáp tranh luận gì thêm
Chủ tọa
không?
LS Quyền Lần lượt trả Lời
LS Đức Thưa HĐXX, Tôi không có ý kiến tranh luận gì thêm.
Chủ tọa Các đương sự có ý kiến bổ sung gì không?
Nguyên đơn, Bị đơn, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lần lượt
Các đương trả lời
sự (đứng dậy và trả lời lần lượt)
Thưa HĐXX tôi không có ý kiến gì thêm
Không ai có ý kiến đối đáp gì thêm, mời vị đại diện VKS phát biểu ý kiến về
Chủ tọa việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát Thưa HĐXX
viên – Ngọc Thưa các vị có mặt tại phiên tòa
Sau đây đại diện cho VKS tôi xin phát biểu như sau
42
220 BLTTDS 2015.
Việc gửi hồ sơ vụ án, các văn bản tố tụng cho VKS cũng như tống đạt cho
các đương sự được thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật.
1.2. Việc tuân thủ pháp luật của HĐXX:
Tại phiên tòa hôm nay, thành phần HĐXX đúng như Quyết định đưa vụ án
ra xét xử, được các đương sự chấp nhận và không có yêu cầu thay đổi nào.
Quá trình xét xử tại phiên tòa hôm nay được tiến hành theo đúng trình tự,
thủ tục được quy định tại BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn.
1.3. Việc tuân thủ pháp luật của Thư ký phiên tòa:
Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ theo quy định tại Điều 51
BLTTDS 2015
1.4. Việc tuân thủ pháp luật của những người tham gia tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, những người tham gia tố tụng khác đều
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo các điều 70, 71, 72, 73, 76, 78
BLTTDS 2015.
Việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng là hợp pháp.
2. Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân:
VKS đề nghị HĐXX căn cứ vào các quy định tại Luật HNGĐ năm 2014
và các văn bản hướng dẫn để chấp thuận yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị
Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt.
Về con chung:
Hiện nay, cháu Nguyễn Thị Nhi 17 tuổi, cháu Nguyễn Đức Anh 10 tuổi.
Do đó, căn cứ theo Điều 81 LHNGĐ năm 2014, VKS đề nghị HĐXX căn cứ
vào nguyện vọng của các cháu và tình hình thực tế của các bên để quyết định
người nuôi dưỡng các cháu.
Về tài sản chung:
Thứ nhất, đối với diện tích đất do nguyên đơn, bị đơn sử dung chung trong
quá trình hôn nhân: Thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ cho hai vợ chồng
vào năm 2005, từ đó đến nay vợ chồng sử dụng ổn định, không có bất kỳ tranh
chấp nào. Do đó,căn cứ theo án lệ số 03/2016/AL, có thể xác định QSDĐ đối
với 216m2 đất thửa số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương
là tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt.
Thứ hai, đối với các tài sản trên đất: Các bên đã xác định đây là tài sản
chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt.
Do đó, VKS đề nghị HĐXX chia tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và
anh Nguyệt theo nguyên tắc tại điều 59 Luật HNGĐ 2014 và án lệ số
03/2016/AL.
Trên đây, là ý kiến của VKS về việc kiểm sát và giải quyết vụ án của
TAND thành phố Hải Dương tại phiên tòa hôm nay.
43
T.L VIỆN TRƯỞNG
KIỂM SÁT VIÊN
Nguyễn Bảo Ngọc
44