You are on page 1of 9

Nội dung 1. Triết học là gì? Triết học Mác – Lênin là gì?

Vị trí của triết học Mác – Lênin


trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nội dung 2. Chức năng của triết học Mác – Lênin (chức năng thế giới quan và phương pháp luận)
Nội dung 3. Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở VN.
Nội dung 4. Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng của Việt Nam giai đoạn hiện
nay.

1. Triết học là gì:


1.1. Khái niệm Triết học
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và
vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức,
giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.
- Phương Đông: Triết học có gốc từ chữ “Triết” của người Trung Quốc, với hàm nghĩa truy tìm nội
dung, bản chất của đối tượng nhận thức. Chữ “Triết” được tạo thành từ ba chữ “tay”, “búa”,
“miệng”, nghĩa là khi tiếp cận 1 đối tượng, con người truy tìm nội dung, bản chất của đối tượng đó
bằng cách dùng tay cầm búa đục khoét sâu vào vấn đề, miệng nói lên nội dung của vấn đề. Với một
sự vật, hiện tượng, con người chỉ có thể nghe thấy, trông thấy và sờ thấy từ bên ngoài chứ không thể
nghe thấy, trông thấy và sờ thấy bên trong, vì vậy triết học có nghĩa là con người với truy sâu vào
thâm căn cố đế cùng kỳ lý của vấn đề đó để đạt được khả năng, cấp độ nhận thấy nội dung, bản chất
của vấn đề từ những tư liệu sẵn có. Triết học phương Đông thiên về chiêm nghiệm và khai phá vũ
trụ bên trong mỗi con người nhất là về mặt tinh thần, tu dưỡng và phát triển tâm linh. Triết học
phương Đông đi từ ngọn đến gốc (nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống…đến vũ trụ quan, bản
thể luận). Các nhà triết học là các nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức,..Đa số trường phái thiên về
duy tâm.
- Phương Tây: Triết học phương Tây có cội nguồn từ Triết học Hy Lạp cổ đại. Trong tiếng
Hy Lạp, thuật ngữ “Triết học” bắt nguồn từ chữ “Philosophia”. Từ “Philosophia” được hình thành
từ sự ghép nối của 2 từ “Philos” là yêu mến và “sophia” là sự thông thái. Vì thế, lý giải theo hướng
này thì “Triết học” có nghĩa là quý trọng kiến thức uyên thâm. Triết học phương Tây mang tính duy
lý, hướng ngoại; quá trình phát triển gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên. Ví dụ: Ở thời cổ đại,
nhà triết gia Thales coi nước là nguyên tử cơ bản của mọi thứ, một quan điểm có tính khoa học đầu
tiên; hay trong thời Trung cổ, triết học và khoa học tự nhiên được hiểu là một phần của sự tôn thờ
Thiên Chúa và việc nghiên cứu tự nhiên được coi là một các để hiểu sâu hơn về ý nghĩa của tạo hóa.
Triết học phương Tây thiên về logic và khai phá vũ trụ bên ngoài bản thể, bên trong bản thể thì
hướng tìm hiểu về cấu trúc và nguyên lí hoạt động để tìm ra quy luật. Triết học phương Tây đi từ
gốc đến ngọn (thế giới quan, vũ trụ quan,...từ đó xây dựng nhân sinh quan con người). các nhà triết
học chủ yếu là các nhà khoa học gắn liền với các thành tựu khoa học đặc biệt là khoa học tự nhiên.
Xu hướng nổi trội là duy vật.
- Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng định nghĩa nào cũng bao hàm những nội
dung cơ bản sau: Triết học nghiên cứu toàn bộ vũ trụ và con người (hay thế giới, con người, xã hội
và tư duy) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó, giải thích tất cả các quan hệ trong và
ngoài các chỉnh thế đó, chỉ ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định sự vận động của các
chỉnh thể, tức là của vũ trụ, của xã hội loài người, của con người và của tư duy, tư tưởng và thể hiện
toàn bộ sự hiểu biết đó dưới dạng các tri thức hệ thống và thế giới nhân sinh quan.
- Ngày nay có thể hiểu Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới (vũ trụ), về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
→ Phân tích 2 vế của khái niệm Triết học:
 Vế thứ nhất (Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người) cho thấy tri
thức Triết học là tri thức phải có:
 Tính hệ thống (tri thức bổ trợ cho nhau): giải thích bên dưới
 Tính lý luận:
 Tính khái quát
 Vế thứ 2 cho thấy nội dung của Triết học phản ánh:
 Những vấn đề về thế giới
 Những vấn đề về con người, xã hội loài người
 Vị trí, và vai trò của con người trong thế giới

+ Về thế giới (vũ trụ): cho thấy đặc trưng của tri thức triết học – một tri thức là tri thức
triết học nói riêng và tri thức khoa học nói chung khi nó có tính hệ thống.
+ 3 đặc trưng cơ bản của tri thức triết học:
· Tính hệ thống: tri thức trước làm nền cho tri thức sau, tri thức sau quay
lại bổ sung cho tri thức trước
· Tính lý luận: học Triết là học lý luận, trình bày Triết là mức độ lý luận →
trình bày vấn đề sâu sắc, khúc chiết hơn
· Tính khái quát: trình bày cụ thể, từ cụ thể đi đến cái chung
+ Về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó: cho thấy triết học
phản ánh những vấn đề về thế giới, về con người, xã hội loài người và vị trí, vai trò của con người
trong thế giới
→ Không riêng Triết học mà các ngành khoa học khác cũng đề cập đến những vấn
đề này, nhưng Triết học đề cập ở góc độ lý luận một cách khái quát và có hệ thống (vd: Thế giới là
gì? Con người có tự quyết định được vận mệnh của mình hay không?), giải quyết những cái chung,
còn các ngành khoa học sẽ dùng cái cụ thể để nâng vấn đề lên tầm cao hơn, khái quát hơn.
1.2. Đối tượng nghiên cứu của triết học:
 Thời cổ đại: Triết học nghiên cứu mọi lĩnh vực của thế giới, song Triết học phương Đông
thiên về hướng nội còn Triết học phương Tây thiên về hướng ngoại
 Thời Trung cổ: Triết học Tây Âu là triết học kinh viện có nhiệm vụ chủ yếu là lý giải và
chứng minh cho sự đúng đắn của Kinh Thánh. Nhà thờ là nơi kiểm định tư tưởng, ban phát tư
tưởng
 Thời Phục hưng đến TK XVIII: Khoa học phát triển, triết học, văn học, nghệ thuật từng bước
thoát khỏi ách thống trị của thần học, đề cao chủ nghĩa nhân văn, ca ngợi vẻ đẹp, sức mạnh
của con người và gắn với thành tựu của khoa học tự nhiên
 Từ TK XIX đến nay: Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy.
1.3. Vấn đề cơ bản của Triết học:
 Vấn đề cơ bản của triết học có 2 mặt, trả lời hai câu hỏi lớn:
 Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện
tượng, sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay
nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định
 Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách
khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận
thức được sự vật và hiện tượng hay không
2. Triết học Mác - Lênin
Khái niệm: Triết học Mác-Lenin ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX, nghiên cứu các quy luật
chung nhất của tự nhiên của xã hội và tư duy của con người. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan
điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong
nhận thức và cải tạo hiệu quả thế giới
Triết học Mác-Lênin là một hệ thống triết học và chính trị được phát triển dựa trên cơ sở triết học
Mác và các bổ sung, phát triển của Lênin - người đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa triết
học Mác vào thực tế và thúc đẩy Cuộc cách mạng Nga và sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô.
Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác – Lênin là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.1 Sự ra đời của Triết học Mác
 Điều kiện kinh tế - xã hội: Triết học Mác xuất hiện trong bối cảnh lịch sử của thế kỷ XIX,
một thời kỳ đầy biến động về xã hội và kinh tế. Cuộc cách mạng công nghiệp không những
đánh dấu bước chuyển biến từ nên sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự
hình thành và phát triển của giai cấp vô sản. Trong cuộc cách mạng công nghiệp, giai cấp tư
sản trở thành một lực lượng mạnh, đặc biệt là trong việc tài trợ cho sự phát triển của công
nghiệp nhằm tạo ra lợi nhuận. Những người giàu có sở hữu và điều hành các nhà máy, xưởng
sản xuất trong khi công nhân thường làm việc dưới sự quản lý của họ trong điều kiện lao
động khắc nghiệt, nghèo đói và đầy bất công. Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất
mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua
cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và trong giai đoạn lịch sử này, phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ và rộng lớn: Năm 1831-1834, công nhân dệt
tơ ở thành phố Li-ông (Pháp) khởi nghĩa đòi tăng lương, giảm giờ làm và thiết lập chế độ
cộng hòa; năm 1844, công nhân dệt cùng Sơ-lê-din (Đức) khởi nghĩa chống lại sự hà khắc
của chủ xưởng và điều kiện lao động tồi tệ; từ năm 1836-1847, “Phong trào hiến chương” ở
Anh là một phong trào đấu tranh chống lại sự áp bức của giai cấp tư sản giành lại quyền lợi
từ tầng lớp công nhân,... Mặt khác, thế kỷ XIX cũng là thời kỳ của cuộc cách mạng tri thức.
Những tư duy mới về tự do, công bằng, và quyền con người bắt đầu trỗi dậy và Mác được
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những ý tưởng này. C.Mác và Ăngghen lập luận rằng cơ cấu xã hội
và phân phối tài sản xã hội quyết định mọi khía cạnh của cuộc sống và lịch sử con người. Do
đó, họ kêu gọi cách mạng xã hội với mục tiêu loại bỏ bất công xã hội và cải thiện điều kiện
của giai cấp công nhân. Từ đó, triết học Mác ra đời với vai trò là lý luận khoa học dẫn đường
cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản.

 Tiền đề lý luận
Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ điển Đức. Mác và
Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà triết
học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen và Phoiơbắc.
Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ bản của phương pháp siêu
hình, đã xây dựng phép biện chứng thanh hệ thống và xem nó là phương pháp luận đúng đắn của
mọi nhận thức khoa học. Nhưng Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn
chế lớn, đó là sự giải thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời,
cho tôn giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết
học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học Hệ-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân
hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường
duy vật.
Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các tác phẩm của ông mà họ
đã cưỡng quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt
chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê phán Hêghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn
của các nguyên lý duy vật, là việc giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất
tôn giáo và đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là phương
pháp tư duy siêu hình, (khi phê phán Hêghen, ông đã không thấy được phép biện chứng là hạt nhân
hợp lý nên đã bác bỏ và chuyển sang quan điểm siêu hình); quan điểm trực quan, trừu tượng, phi
lịch sử về bản chất con người, duy tâm trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sang lập ra triết học của
mình, Mác và Ăngghen cũng không kế thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ
bản đúng đắn đó là nguyên lý duy vật, đồng thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy vật dựa trên
quan điểm biện chứng.
- Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc. Mác
và Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã rút ra những tài liệu
thực tiễn phong phu cho những kết luận duy vật-biện chứng của mình. Ngoài ra, việc hai ông đi sâu
nghiên cứu kinh tế-chính trị học cổ điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán, đã góp phần
không nhỏ cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan triết học của mình.
 Tiền đề khoa học tự nhiên
Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa học tự nhiên. Những thành
quả của khoa học tự nhiên tử cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX làm bộc lộ những hạn chế của
phương pháp tư duy siêu hình, ngày càng chứng minh tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật và
biện chứng.
Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) về sự bảo toàn vật chất và vận
động, lý luận của Cantơ về sự hình thành thái dương hệ đã góp phần khẳng định quan điểm biện
chứng về lịch sử vũ trụ và giới tự nhiên: mặt khác đa phá quan niệm duy tâm, tôn giáo siêu hình về
thế giới.
Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những thành tựu to lớn. Thời kỳ
này có ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống quan điểm siêu hình
và chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Quy
luật này chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện, tử các quá trình hóa học, nghĩa là các
hình thức khác nhau của vận động vật chất không tách rời nhau, mà liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau
nên không hề mất đi. Nó chứng minh rằng không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng, mà chỉ có
sự chuyển hóa năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy quy luật này là cơ sở khoa học tự
nhiên cho quan điểm biện chứng về thế giới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học thuyết cấu tạo tế bào của
cơ thể sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình về sự khác biệt tuyệt đối giữa thực vật và
động vật. Ngược lại, nó khẳng định sự thống nhất về nguồn gốc và hình thái giữa thực vật và động
vật, giải thích quá trình phát triển của chúng, đặt cơ sở cho quan điểm duy vật biện chứng về sự phát
triển của toàn hệ sinh học.
Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XIX.
Học thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải là bất biến mà thường xuyên biến đổi,
nằm trong quá trình tiến hóa không ngừng của giới tự nhiên. Nó khẳng định sự tiến hóa của sinh
giới diễn ra theo con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin đánh giá rằng thuyết tiến
hóa đánh dấu sự cáo chung của quan niệm siêu hình về tính bất biến của các loại và quan niệm về
nguồn gốc thần thánh của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa học cho sinh học. Mác và Ăngghen
xác nhận rằng thuyết tiến hóa đem lại cái cơ sở lịch sử tự nhiên cho học thuyết của hai ông, đã đập
tan thần học trong học thuyết về sự phát triển của thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hề có
một sự chứng minh não thành công to lớn như thế về sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng là tiền đề cho các quan
điểm duy vật và biện chứng về thế giới của Mác và Ăngghen.
 Mac đã học học ở Hêghen
Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của
triết học Hêghen. khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền
của Hêghen, Mác đã rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực tiễn chính
trị xã hội đặt ra. Lúc này, chính Mác đã cảm thấy rằng những lợi ích vật chất của con người trong
đời sống xã hội đã đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Mác đã đi tới kết luận rằng, phải nghiên
cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những
quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen.
Ông đã biết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Tháng
10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế – chính trị học và lịch sử các phong
trào cách mạng. Tại đây, ông đã tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các
nhà lãnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những năm 1843-1844 là thời kỳ ông
chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài
của Mác đã thể hiện rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ này Mác, Ăngghen nghiên cứu tình cảnh
giai cấp công nhân, sống gần gũi với họ, giải thích vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với
tính cách là giai cấp cách mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới và phương thức sản
xuất mới trong tương lai, vượt chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, qua nghiên cứu và thực tiễn, các
ông đã khắc phục được phép biện chứng duy tâm, và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình,
hình thành những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị – xã hội. Đó là một quá trình thống nhất hai mặt,
cải biến theo chủ nghĩa duy vật cái nội dung hợp lý của phép biện chứng duy tâm của Hêghen và
giải thích theo phép biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục phép
siêu hình. Đó là một quá trình đồng thời khắc phục phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật
siêu hình, đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới phỏng đoán phép biện
chứng của sự vật trong phép biện chứng của ý niệm. Đối lập với Hêghen, Mác và Ăngghen cho rằng
phép biện chứng của khái niệm chỉ là sự phản ánh phép biện chứng của thế giới khách quan trọng ý
thức của con người. Mác từng viết: tác phẩm đầu tiên mà ông dành để giải quyết những nghi ngờ đã
có trong ông là sự phân tích có phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Mác còn viết: nghiên
cứu của ông đã dẫn ông đến kết luận rằng, những quan hệ pháp quyền, cũng như các hình thức nhà
nước, không thể hiểu từ bản thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tình thần con người,
mà ngược lại, chúng ta có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời sống.
Mác đã giải thích trên cơ sở chủ nghĩa duy vật vấn đề nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo.
Khác với những nhà triết học trước Mác, ông đã hiểu một cách hoàn toàn mới những nhiệm vụ của
triết học do ông đề ra, ông đã coi triết học là thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó có nhiệm vụ phục vụ
cho thực tiễn đấu tranh chính trị – xã hội. Cùng với việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen,
Mác đã phê phán trên quan điểm chính trị thực tiễn cái mà nhà nước đương thời, cái hiện thực “tồn
tại là hợp lý” của Hêghen, Mác đã kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn tại của ý thức pháp
quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó. Đồng thời, Mác nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của
tư tưởng tiên tiến trong cải tạo xã hội và nhà nước. Ông chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những tư
tưởng tiên tiến trong quần chúng nhân dân, để nó trở thành một động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen là ở chỗ, lần đầu tiên, Mác đã phát biểu
với tư cách là nhà các mạng, trực tiếp hướng tới giai cấp vô sản, với tính cách là lãnh tụ của quần
chúng nhân dân, và coi triết học của ông là triết học của giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng của cuộc
đấu tranh giai cấp vô sản để cải biến cách mạng đối với xã hội. Mác viết: “Giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần
của mình”
Lần đầu tiên trong lịch sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật, là phương
pháp tạo ra khả năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho phép giải quyết
một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức không thể giải quyết được nếu đứng trên lập trường của
phép biện chứng duy tâm, hay đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
 Triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của TH Mác
Xuất phát từ giới tự nhiên vật chất, Phoiơbắc tìm hiểu các vấn đề về con người và xây dựng nên chủ
nghĩa duy vật nhân bản. Do chưa vượt qua được hạn chế của thời đại mình và chịu ảnh hưởng bởi
phương pháp tư duy siêu hình mà Phoiơbắc không chỉ phê phán thế giới quan duy tâm mà còn phủ
định hạt nhân hợp lý và phép biện chứng trong triết học Hêghen. Ph.Ăngghen viết: “Lời khẳng định
của Phoiơbắc cho rằng “các thời đại của loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về phương
diện tôn giáo” là hoàn toàn sai. Chỉ có thể nói đến những bước ngoặt lịch sử lớn có kèm theo những
sự thay đổi về tôn giáo”. Khi phê phán cách hiểu trừu tượng về con người của Phoiơbắc,
Ph.Ăngghen viết: “Về hình thức, ông là một người hiện thực chủ nghĩa, ông lấy con người làm xuất
phát điểm, song ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống, vì vậy, con
người mà ông nói, luôn luôn là con người trừu tượng”. Về đạo đức con người, Phoiơbắc đồng nhất
quan hệ đạo đức trong mọi giai đoạn lịch sử, mọi thời đại khác nhau. Ph.Ăngghen cho rằng: “những
vết tích cuối cùng của tính chất cách mạng trong triết học của ông đều biến mất hết và chỉ còn lại cái
điệp khúc cũ kỹ: Hãy yêu nhau đi, hãy ôm nhau đi, không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp. Thật
là giấc mơ thiên hạ thuận hòa... Học thuyết của Phoiơbắc về đạo đức thì cũng giống như tất cả
những học thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn
cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả”. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã
đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng đồng thời cũng phê phán tư duy siêu hình, duy
tâm về lịch sử của ông. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đã nhận thức một cách chính
xác những thành tựu và hạn chế của triết học Phoiơbắc, và dựa trên hệ thống triết học này để xây
dựng thế giới quan duy vật biện chứng của mình.
Thực chất cuộc cách mạng trong Triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
. Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử triết học nhân loại. Nó
thể hiện giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn của học thuyết Mác.
. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
vi Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
+ Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
+ Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
+ Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Kết luận
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát triển của tư tưởng
triết học của nhân loại. Trong đó cần phải khẳng định rằng cội nguồn tư tưởng và tiền đề lý luận
trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết học Phoiơbắc
với tính duy vật khả tri và nhân bản.
2.2. Giai đoạn hình thành và phát triển của triết học Mác - Lênin
3 thời kì phát triển của triết học Mác – Lênin
1.Giai đoạn 1848 – 1895: là giai đoạn hình thành và phát triển do Mác – Ăngghen thực hiện
- Năm 1844, Mác và Ăngghen gặp nhau, sớm thống nhất
tư tưởng chính trị. Sau đó chuyển từ chủ nghĩa duy tâm ->
chủ nghĩa duy vật, từ tinh thần dân chủ -> lập trường cách
mạng.
- Tháng 2 – 1848, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do hai
ông dự thảo được thông qua và công bố ở Luân Đôn,
trong đó 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học,
kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Năm 1889, Ăngghen thành lập Quốc tế II, đưa phong
trào công nhân thành tự giác và phát triển mạnh mẽ. Sau
khi người mất, phong trào dần bị phá sản vào năm 1914.
2. Giai đoạn 1895 – 1924: là giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác do Lênin thực hiện
- Thời kỳ 1893 - 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác nhằm thành lập đảng Mác -
xít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất: Lênin đã đấu tranh kịch
liệt với kẻ thù và khẳng định chủ nghĩa cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở vài nước, thậm chí ở
nước tư bản kém phát triển. Muốn thắng lợi phải xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và
đảng đó phải tổ chức theo chủ nghĩa Mác.
(NGƯỜI TRÌNH BÀY ĐỌC THAM KHẢO ĐƯA RA DẪN CHỨNG CHỨ KHÔNG BỎ
VÀO PPT Ạ: Từ những năm 80 của thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác đã bắt đầu được truyền bá vào nước
Nga. V.I.Lênin đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga đồng thời
tiến hành đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm, phương pháp siêu hình, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
Trong thời kỳ này, V.I.Lênin đã viết các tác phẩm chủ yếu như: Những "người bạn dân" là thế nào
và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao? (1894); Nội dung kinh tế của chủ
nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó (1894); Chúng ta từ
bỏ di sản nào? (1897); Làm gì? (1902),v.v.. V.I.Lênin đã đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm,
phương pháp siêu hình của phái Dân Túy, bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật, quan tâm
nghiên cứu các hiện tượng, quy luật phát triển của xã hội, phát triển nhiều quan điểm về chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đặc biệt là làm phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin đã phát
triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp trước khi có chính quyền, đấu
tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của
đấu tranh chính trị. Trong tác phẩm "Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng
dân chủ", Lênin đã phát triển học thuyết của Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã nêu ra được
những đặc điểm, động lực và triển vọng của cách mạng dân chủ tư sản trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa.)
- Từ 1907 - 1917 là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào
công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa: Qua lãnh đạo thắng lợi Tháng Mười
Nga (1917), Lênin đã phát triển nhưng lý luận mới như lý luận nhà nước và cách mạng, xây dựng
chính quyền Xô Viết, phát triển kinh tế, khoa học – kỹ thuật, sản xuất, công nghiệp hóa, thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa,..
- Từ 1917 - 1924 là thời kỳ Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn
thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội
(NGƯỜI TRÌNH BÀY ĐỌC THAM KHẢO ĐƯA RA DẪN CHỨNG CHỨ KHÔNG BỎ
VÀO PPT Ạ: Sau Cách mạng Tháng mười năm 1917, nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh chống lại sự can thiệp của 14 nước đế quốc,
bọn phản động trong nội chiến bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng đất nước. V.I.Lênin kiên
quyết đấu tranh chống mọi loại kẻ thù của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
V.I.Lênin đặc biệt chú ý tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, dựa vào những thành tựu mới
nhất của khoa học, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, nhất là sự phát triển phép biện chứng mác
xít... Tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết", V.I.Lênin đã vạch ra đường
lối chung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga, phân tích nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười, đặt ra nhiệm vụ phải tiến hành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế nước Nga,
trong đó nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu là nâng cao năng suất lao động.)
3. Giai đoạn 1924 đến nay: Là giai đoạn đảng cộng sản tiếp tục nghiên cứu, bảo vệ và hoàn thiện
chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với ứng dụng thực tiễn ở từng quốc gia, từng thời kỳ
- Chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn không ngừng đổi mới, phát triển, là nền tảng tư tưởng và định hướng
của Đảng và sự nghiệp cách mạng. Là chìa khóa cho những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
trên toàn thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc
- Mỗi Đảng cộng sản cần vận dụng, bổ sung, phát triển để xây dựng đường lối cách mạng phù hợp
với thực tiễn và thời đại mới
- Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
(NGƯỜI TRÌNH BÀY ĐỌC THAM KHẢO ĐƯA RA DẪN CHỨNG CHỨ KHÔNG BỎ
VÀO PPT Ạ:Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có biến động nhanh chóng
và phức tạp. Đặc biệt, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
việc đấu tranh bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử mới là vấn đề
cấp bách, nhất là việc vận dụng, biến lý luận đó thành hiện thực thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, không thể đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nếu xa rời lập trường
chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa chủ quan, xét lại. Những thành công và thất bại trong “cải
tổ”, đổi mới đã chứng tỏ điều đó. Việc bổ sung, phát triển triết học Mác - Lênin hiện nay chỉ có thể
thực hiện được thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo phương pháp biện chứng khoa học,
tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời kiên quyết đấu
tranh chống các tư tưởng cơ hội, xét lại, khắc phục bệnh giáo điều, duy ý chí, bảo vệ và phát triển
triết học Mácxít; trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học tiếp tục đi
sâu khám phá tự nhiên và xã hội, không ngừng làm phong phú tri thức của con người về thế giới.)
3. Vị trí của triết học Mác – Lênin trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp
giải phóng con người; học thuyết này được sáng lập bởi C. Mác, Ph. Ăngghen và được V.I. Lênin
vận dụng và phát triển trong thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác – Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản, đó là: Triết học Mác – Lênin,
Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Ba bộ phận này có mối quan hệ biện
chứng, không tách rời nhau, mà thống nhất thành một hệ thống.
 Triết học là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất (duy vật
biện chứng) của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng (để nhận thức và cải tạo thế
giới).
 Kinh tế chính trị nghiên cứu (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất tức là
nghiên cứu quan hệ sản xuất và trong trao đổi tiêu dùng) những quy luật kinh tế của xã hội,
đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
 Chủ nghĩa xã hội khoa học (nghiên cứu những quy luật chuyển biến xã hội tư bản chủ nghĩa
lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội mới; chứng minh rằng chủ
nghĩa tư bản càng phát triển càng tạo ra những tiền đề vật chất đầy đủ cho sự ra đời xã hội
mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó chính là giai
cấp vô sản và nhân dân lao động, chỉ ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
là lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - không còn người bị áp
bức) là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế
chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau
nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất - đó là khoa học về sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải
phóng con người (tức là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản)
Triết học Mác – Lênin là hạt nhân lý luận của thế giới quan, trên cơ sở lập trường của triết học duy
vật biện chứng - triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, lịch sử xã hội loài
người và tư duy. Do đó, triết học Mác-Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận về thế giới quan duy vật
biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác - Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, là "hạt nhân" của thế giới quan. Gọi là "hạt
nhân" của thế giới quan, bởi vì ngoài triết học Mác - Lênin, thế giới quan Mác - Lênin còn có các
quan điểm về chính trị, kinh tế, đạo đức, luật pháp, thẩm mỹ... Song, tất cả các quan điểm trên đều
được xây dựng trên nền tảng khoa học của triết học Mác - Lênin. Quan điểm và niềm tin khoa học
của triết học Mác - Lênin đã tạo dựng cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống thế giới quan Mác -
Lênin.
Thuyết trình có thể đọc thêm xem như kết luận lại . Triết học Mác-Lênin ra đời và hoàn chỉnh đã
góp phần quan trọng trong nhận thức và đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp vô sản. Các
Mác đã phát biểu rằng: Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp
vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình Tinh thần cách mạng của triết học Mác-
[6]

Lênin được Các Mác phát biểu rằng: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới. Thực tiễn đã và đang nhiều đổi thay, khoa học, công nghệ có
nhiều đột phá, phong trào cách mạng có nhiều biến động nhưng bản chất khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị. Có thể có những luận điểm riêng biệt nào đó do thực
tiễn đổi thay phải được bổ sung, phát triển nhưng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng bền vững. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin
vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho chúng ta nhận thức và giải quyết những vấn đề
thực tiễn của thế giới đương đại; xây dựng CNXH và thực hiện sự nghiệp đổi mới vì CNXH.

You might also like