Professional Documents
Culture Documents
I. Dụng cụ:
Bình Kjeldahl 50ml 1 Pipette vạch 10ml 1 Cốc 250ml 1
B, Thực hành
I. Nguyên tắc
Qua 2 giai đoạn Giai đoạn vô cơ hóa: Nitơ tổng số là tất cả các dạng nitơ có trong
mẫu. Khi đốt nóng mẫu cần phân tích với H2SO4 đậm đặc có mặt của chất xúc tác,
nitơ tất cả các dạng đạm có trong mẫu đều biến thành dạng vô cơ (NH4)2SO4 tan
trong dung dịch.
N (NH4)2SO4
Giai đoạn cất đạm: Sau khi vô cơ hóa. Ta đuổi NH3 ra khỏi dung dịch bằng NaOH.
Lượng NH3 được lôi cuốn bằng máy Parnas và được dẫn đến một erlen có chứa
một lượng thừa H2SO4 đã biết chính xác nồng độ.
Định lượng H2SO4 còn lại bằng NaOH, qua đó tính được lượng nitơ có trong mẫu
1. Vô cơ hóa
1ml nước mắm hoặc nước tương 10ml H2SO4 0,5g xúc tác ( 1 trong các hỗn hợp sau)
Đem đi
vô cơ
hóa
CH2SO4.VH2SO4=CNaOH.VNaOH
Trong đó:
V : số ml mẫu đem vô cơ hóa 0,0014: lượng gam nitơ ứng với 1 ml H2SO4 0,1N
V=10ml
Tính hàm lượng protein thô thông qua hàm lượng nitơ tổng
Nitơ trong vật liệu sinh học chủ yếu là nitơ protein ngoài ra còn có một lượng nhỏ
nitơ trong các thành phần khác gọi là nitơ phi protein.
Hàm lượng protein trong các vật liệu sinh học được tính bằng cách nhân hàm
lượng nitơ protein với một hệ số chuyển đổi xác định do hàm lượng nitơ có tỉ lệ ổn
định từ 15 đến 18 % protein, đại đa số protein là 16%.
Trong các nguyên vật liệu sinh học do hàm lượng nitơ phi protein nhỏ và việc tách
riêng rất phức tạp nên theo quy ước người ta tính hàm lượng protein theo nitơ tổng
và gọi là protein thô hay protein tổng. Công thứ tính hàm lượng phần trăm protein
thô có trong đại đa số các nguyên liệu là:
IV Bàn luận
Ngày nay phương pháp Kjedahl được coi là phương pháp tiêu chuẩn để xác
định hàm lượng protein. Tuy nhiên nó cũng có một số ưu, nhược điểm sau:
Ưu điểm. Phương pháp Kjeldahl được sử dụng rộng rãi trên phạm vi quốc tế và
vẫn là phương pháp chuẩn để so sánh với tất cả các phương pháp khác. Tính tổng
quát, độ chính xác cao và khả năng tái lập tốt của nó đã làm cho nó trở thành
phương pháp chính để ước lượng protein trong thực phẩm.
Nhược điểm. Nó không đưa ra một thước đo của protein thực sự, vì tất cả nitơ
trong thực phẩm không ở dạng protein. Các protein khác nhau cần các yếu tố hiệu
chỉnh khác nhau vì chúng có các trình tự axit amin khác nhau. Việc sử dụng axít
sulfuric đậm đặc ở nhiệt độ cao gây ra một mối nguy hiểm đáng kể, cũng như việc
sử dụng một số chất xúc tác có thể có kỹ thuật tốn thời gian để thực hiện.
Ngoài ra, phương pháp này cũng có sai số từ các nguyên nhân sau: